1
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC TÍCH HỢP
TRONG DẠY LÀM VĂN DẠNG BÀI NGHỊ LUẬN VỀ MỘT BÀI THƠ,
ĐOẠN THƠ VÀ NGHỊ LUẬN VỀ MỘT Ý KIẾN BÀN VỀ VĂN HỌC
I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lí do chọn đề tài
Trước hết bản thân ý thức tích cực với công cuộc đổi mới phương pháp
dạy học - một vấn đề đang được quan tâm hàng đầu của ngành giáo dục hiện nay.
Nguyên tắc tích hợp một trong ba nguyên tắc dạy học được áp dụng rộng rãi
trong giáo dục, thể hiện nhất trong môn Ngữ văn trung học phổ thông. Nguyên
tắc tích hợp phù hợp với tinh thần triển khai tích cực việc giảm tải chương trình
dạy học THPT, theo đó GV truyền dạy hình thành phương pháp học tích cực
cho HS.
Tiếp theo là nỗi niềm trăn trở của người giáo viên đứng lớp giảng dạy bộ môn
Ngữ văn, đặc biệt phân môn Tập m văn sao cho tốt hơn. Nguyên tắc này đáp
ứng được những đòi hỏi của thời đại công nghệ thông tin, toàn cầu hóa, phát huy
được phẩm chất, năng lực của người học.
Cuối cùng xu thế học sinh ngày càng không mấy hứng thú với việc học văn
chương. Việc vận dụng nguyên tắc tích hợp vào dạy hai dạng bài làm văn nghị
luận Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ và Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
sẽ giúp HS hứng thú tiếp nhận được kiến thức toàn diện, hệ thống góp phần
khắc phục những hạn chế của phương pháp học truyền thống (pp thụ động) chuyển
sang xu hướng vận dụng pp học tích cực (hiện đại). Đó ba do đchúng tôi
chọn đề tài Vận dụng nguyên tắc ch hợp trong dạy làm văn dạng bài Nghị
luận về một bài thơ, đoạn thơ; Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học”.
I.2. Lịch sử nghiên cứu
Một số công trình bàn về PPDH của A, Nguyễn Thanh Hùng, Phương
Nga, Nguyễn Quang Ninh, Phan Trọng Luận, Bùi Minh Toán đã đề cập đến
2
nguyên tắc dạy học tích hợp. dụ như Nxb GD. Đỗ Ngọc Thống (2006), m
hiểu chương trình SGK Ngữ văn THPT, Nguyễn Thanh Hùng (2007), PPDH
Ngữ văn THPT, những vấn đề cập nhật, Nxb GD. Nhiều tác giả (2007), Dạy học
Ngữ văn ở trường THPT theo chương trình và SGK mới, Nxb Nghệ An…
Như vậy, đến nay theo tìm hiểu thiên về mặt chủ quan thì chưa một công
trình nào nghiên cứu tích hợp, hoặc chưa điều kiện đề cập tới khi dạy hai dạng
bài văn nghị luận trên. Đây đề tài mới theo chúng tôi cần thử nghiệm càng
sớm càng tốt.
I.3. Phạm vi, đối tượng của đề tài
Đề tài Vận dụng nguyên tắc tích hợp trong dạy làm văn dạng bài Nghị
luận về một bài thơ, đoạn thơ; Nghị luận về một ý kiến bàn về n họcnày
được triển khai ở phạm vi tiết dạy làm văn trong nhà trường THPT.
Đối tượng áp dụng là học sinh THPT, đặc biệt HS lớp 12 - lớp cuối cấp rất
cần bồi dưỡng thêm những kỹ năng kỹ xảo, nhằm nâng cao cách làm tốt bài văn
trong kỳ thi tốt nghiệp tuyển sinh…
I.4. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Viết đề tài này, chúng tôi mong muốn góp chút kinh nghiệm của bản thân vào
việc dạy phần Làm văn ở trường THPT. Những kinh nghiệm của chúng tôi có được
bước đầu góp phần nâng cao chất lượng dạy học làm văn ở trường THPT. Việc vận
dụng nguyên tắc tích hợp ý nghĩa biện chứng dùng Văn để phục vụ cho việc
học tiếng Việt, dùng tiếng Việt đmở rộng các kiến thức văn học. Cuối cùng
dùng tri thức văn học, tiếng Việt đdạy làm văn dùng làm văn đcủng cố kiến
thức văn học tiếng Việt. thế nguyên tắc tích hợp được vận dụng trong bài
làm văn sẽ đem lại không chỉ nhiều niềm say cho HS học tập văn chương
còn khai tâm khai trí cho HS về thế giới chữ nghĩa trong văn học nghệ thuật.
Nhiệm vụ chính của đề tài chỉ ra được cách thức, hình thức, các biện pháp
và phương pháp vận dụng nguyên tắc tích hợp trong dạy làm văn dạng bài:
3
+ Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
+ Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
I.5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đọc và thu thập tài liệu
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp thực nghiệm
I.6. Đóng góp mới của đề tài
- Qua việc vận dụng nguyên tắc tích hợp trong việc dạy làm văn lớp 12, chúng
tôi rút tỉa được một phần về dạy thuyết phương pháp làm bài văn hai kiểu bài
nghị luận nói trên.
- Đề tài tính thiết thực hơn chỗ đúc rút được những kinh nghiệm thực
hành sâu sắc gắn với việc viết bài văn cụ thể, giúp HS hứng thú với hai kiểu bài
nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ nghị luận về một ý kiến bàn vvăn học vốn
rất khô khan, tầm chương trích theo suy ngẫm của HS. Thông qua việc dạy học
và kiểm tra đánh giá HS theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất.
- Đề tài đã bản thiết kế gidạy cụ thể dạng làm văn nghị luận về một bài
thơ, đoạn thơ và nghị luận về một ý kiến bàn về văn học.
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lí luận
Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ngữ văn THPT cần chú ý đến
phương pháp dạy học tích hợp dẫn tới sự ra đời của môn Ngữ văn với ba phần:
Văn học, Tiếng Việt Làm văn dựa trên sự thống nhất về mục tiêu hình thành kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết bằng Tiếng Việt cho học sinh.
Trong chương trình CCGD Làm văn được tách thành một môn được soạn
thành SGK riêng. Năng lực (đọc - hiểu tiếp nhận văn bản) phần văn học,
(năng lực giao tiếp) từ môn Tiếng Việt tạo điều kiện trực tiếp đbài làm của học
sinh đạt đến mục tiêu quan trọng nhất của Làm văn.
4
Dạy m văn theo hướng tích hợp tức trong một tiết dạy sẽ phối hợp linh
hoạt giữa các phần Văn học, Làm văn Tiếng Việt khả năng phát huy tính tích
cực chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình tạo lập văn bản mới.
II.2. Cơ sở thực tiễn
Đổi mới phương pháp dạy học văn trường THPT yêu cầu vận dụng
nguyên tắc tích hợp vào từng bài cụ thể. Kết quả của quá trình dạy - học văn học là
tạo ra kiến thức cơ bản và kỹ năng tổng hợp làm văn nghị luận ở học sinh.
Theo phân phối chương trình Ngữ văn 12 tổng số tiết cả ba phần Văn học,
Làm văn, Tiếng Việt cả năm là 105 tiết, trong đó số tiết dành cho phần Làm văn chỉ
13 tiết /cả năm. Với số tiết Làm văn hạn chế so với các phần văn học tiếng Việt.
Như thế, giáo viên gặp rất nhiều khó khăn trong việc lựa chọn kiến thức để giảng
dạy đạt hiệu quả cao. Từ thực tiễn đó, yêu cầu giáo viên phải nổ lực, phải học hỏi
vận dụng phương pháp dạy học tích cực để nâng cao chất lượng dạy - học phần
Làm văn.
Trên đây những lí do để chúng tôi chọn đề tài “Bước đầu vận dụng nguyên
tắc tích hợp vào dạy làm văn dạng bài: Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ; Nghị
luận về một ý kiến bàn về văn học” để nghiên cứu.
II.3. Thực trạng
II.3.1. Thuận lợi - khó khăn
- Về phía giáo viên: Đây 2 bài dạy làm văn tính chất thực hành năng
toàn diện, tổng hợp sáng tạo, trọng tâm của chương trình làm văn 12. Phần lớn
GV còn chưa đổỉ mới phương pháp dạy học dẫn đến việc HS tiếp thu bài thụ động,
nắm lý thuyết sơ sài, không biết viết văn. GV chủ yếu dạy phần lý thuyết, xem nh
tính chất thực hành, thậm chí khi chấm bài cốt để điểm chứ chưa chữa lỗi tỉ m
cho học sinh.
Hiện nay, hầu như giáo viên dạy 2 bài này còn tỏ ra lúng túng về phương
pháp. SGV, chuẩn KTKN chưa định hướng cụ thể chi tiết các bước dạy cho từng
5
bài. thế, GV chưa biết chọn lượng kiến thức đưa vào bài học hợp lý, chưa biết
ứng dụng nguyên tắc tích hợp giữa Làm văn, Văn học, tiếng Việt để giúp học sinh
tiếp thu bài học một cách hứng thú.
- Về phía học sinh: Từ thực tế các bài kiểm tra 15 phút, một tiết, luyện thi học
sinh giỏi, chúng tôi thu được một số kết quả như sau:
Trong hai bài kiểm tra 15’đầu năm của lớp chúng tôi trực tiếp giảng dạy tỉ lệ
bị điểm trung bình trở xuống chiếm khoảng 40% đến 45%.
Trong hai bài viết số 1, số 2 của Kỳ I khối 12 cho thấy tỉ lệ học sinh đạt điểm
trung bình trở lên chiếm khoảng 55%.
Từ thực tế trên cho thấy thực trạng học văn hiện nay ở HS là rất đáng lo ngại.
Chấm bài làm văn nghị luận của HS chúng tôi nhận thấy những vấn đề sau đây:
- Về kỹ năng nhận thức, phân tích yêu cầu của đề bài: Đa số HS không xác
định yêu cầu của đề bài, thậm chí không đọc đề bài, đặt bút viết, không biết
nguồn kiến thức huy động vào bài làm là những gì.
- Về năng làm bài: Học sinh chưa biết tìm hiểu đề, lập dàn ý, dùng từ đặt
câu trước khi viết bài văn. Học sinh chưa biết trình bày bài viết theo các luận điểm,
luận cứ, dùng các thao tác lập luận, phối hợp các phương thức biểu cảm, tsự
miêu tả… Chưa biết dùng từ, đặt câu, liên kết ý trong văn bản.
II. 3.2. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
- Về phía giáo viên: Đây là hai bài làm văn có tính chất trọng tâm của chương
trình ngữ văn 12 chứa đựng lượng kiến thức lớn nhưng theo phân phối chương
trình mỗi bài chỉ dạy một tiết. Với thời lượng hạn chế đó, giáo viên khó thể
định hướng truyền tải hết những kiến thức để học sinh hiểu làm bài chưa nói
đến việc vận dụng PPDH tích cực
Do GV n coi nhẹ phần dạy làm văn nên chưa thực sự đầu vào giờ dạy.
Phần lớn tiết dạy làm văn GV chủ yếu mới dạy lý thuyết chưa c trọng hướng dẫn
HS thực hành.