CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

PHỤ LỤC 2 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG THPTC TNH An Giang, ngày 20 tháng 12 năm 2018

BÁO CÁO Kết quả thực hiện sáng kiến I. Sơ lược lý lịch tác giả: Họ và tên: BÙI THỊ QUYÊN Nam, nữ: Nữ Ngày tháng năm sinh: 30/06/1989 Nơi thường trú: Xã Mỹ Hòa Hưng, tp. Long Xuyên, An Giang. Đơn vị công tác: Trường THPT chuyên Thoại Ngọc Hầu. Chức vụ hiện nay: Giáo viên. Lĩnh vực công tác: giảng dạy môn GDQP-AN. II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị:

- Trường THPT chuyên Thoại Ngọc Hầu dưới sự lãnh đạo của Hiệu Trưởng là cô Đặng Thị Kim Phượng. Trường có tổng số 36 lớp trong đó có 6 lớp cơ bản. Giáo viên có chuyên môn cao, học sinh chăm ngoan học giỏi và có nề nếp học tập rất tốt.

- Thuận lợi: + Được sự quan tâm giúp đỡ từ Ban Giám hiệu nhà trường, đã tạo điều kiện thuận lợi về

mọi mặt cho tổ bộ môn nên việc triển khai cho công tác giảng dạy môn QPAN rất tốt.

+ Học sinh đa số đều có học lực giỏi. + Cơ sở vật chất đáp ứng đầy đủ tạo điều kiện rất thuận lợi cho cả thầy và trò. + Đa số học sinh điều có ý thức tự học cao, năng động và tích cực trong học tập. + Học sinh trong trường được đảm bảo kỷ cương, nề nếp, chăm ngoan học tập. - Khó khăn + Bản thân là giáo viên còn ít kinh nghiệm trong giảng dạy nên cần học hỏi rất nhiều từ

đồng nghiệp.

+ Một số học sinh nghĩ đây là môn học phụ nên còn lơ là trong việc học. + Trang thiết bị chủ yếu là súng mô hình nên dễ bị hư hỏng và luyện tập có phần không như

những thiết bị thật (súng tiểu liên AK). Từ những thuận lợi và khắc phục được những khó khăn trên tôi mạnh dạn thực hiện sáng kiến: “Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống vào giảng dạy môn Giáo Dục Quốc Phòng An Ninh cho học sinh THPT” Lĩnh vực: sáng kiến kinh nghiệm bộ môn GD QPAN. Tên sáng kiến: “Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống vào giảng dạy môn Giáo Dục Quốc Phòng An Ninh cho học sinh THPT” III. Mục đích yêu cầu của sáng kiến

1

1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến

Giáo dục quốc phòng và an ninh (GDQPAN) cho học sinh, mục tiêu là chuẩn bị cho học sinh, sinh viên hoàn thiện về tinh thần và thể chất, tự giác tham gia và thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh, đất nước ổn định phát triển kinh tế, xã hội. Là quá trình truyền thụ lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc và lĩnh hội đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quốc phòng và an ninh; những hiểu biết, kiến thức, kỹ năng về quân sự, an ninh cho học sinh, sinh viên đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình mới.

Thực hành đội ngũ đơn vị

Môn học GDQPAN có lý luận cơ bản, nhưng đòi hỏi có kỹ năng quân sự an ninh cần thiết. Trong quá trình học tập, người học vừa được trang bị kiến thức lý thuyết, vừa được rèn luyện kỹ năng thực hành. Phương pháp dạy học môn GDQPAN sử dụng phương pháp tích hợp, kết hợp cả giảng dạy lý thuyết thực hành có vũ khí trang bị, sơ đồ, bản đồ, mô hình học cụ, la bàn…; trang bị cho người học tiếp thu những kiến thức, kỹ năng và các sản phẩm cần thiết cho hoạt động quân sự. Giáo dục quốc phòng và an ninh là môn học đặc thù bởi trong quá trình học, đặc biệt trong nội dung thực hành mọi hành động của giáo viên và học sinh phải tuyệt đối thực hiện quy tắc an toàn, nếu không nguy hiểm đến tính mạng của của thầy và trò. Do đó phương pháp giảng dạy môn học GDQPAN cũng đặc thù. Ngoài phương pháp giảng giải, giảng thuật, giảng diễn, phương pháp đàm thoại, phương pháp sử dụng sách và tài liệu còn yêu cầu có thao trường, bài tập,có binh khí kèm theo do Bộ Quốc phòng và Bộ Công an quản lý.

Các phương pháp đặc thù của môn học:

2

* Phương pháp trực quan: là phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan ở các dạng khác để minh họa, cụ thể hóa nội dung dạy học. Tính đặc thù:+ Các phương tiện trực quan tạo ra “điểm tựa” thị giác cho người học làm cho nội dung học trở nên “gần gũi hơn”.+ Kết hợp tốt với “thị giác” trực tiếp qua lời giảng.

* Phương pháp làm mẫu: là phương pháp dùng động tác mẫu để tạo hình ảnh trực quan và biểu tượng cụ thể với đối tượng học tập. Tính đặc thù:

+ Giáo viên có thể tự làm động tác mẫu hoặc sử dụng các đội mẫu.

+ Người làm mẫu phải thuần thục động tác.

*Phương pháp quan sát: là phương pháp dùng các giác quan kết hợp với phương tiện, tri giác với hiện tượng. Tính đặc thù của phương pháp này là quan sát học sinh luyện tập để biết điểm học sinh tập sai và kịp thời sửa tập.

* Các phương pháp dạy học thực hành:

+ Phương pháp luyện tập: là quá trình lặp đi lặp lại nhiều lần các thao tác, hành động theo một quy trình kỹ năng, một cách có ý thức, nhằm thuần thục động tác. Tính đặc thù:

- Luyện tập có 3 mức độ: tái hiện, vận dụng, sáng tạo.

- Chia 3 giai đoạn: bắt đầu, cơ bản, hoàn thiện.

- Theo 3 bước:

+ Bước 1: làm nhanh khái quát động tác

+ Bước 2: làm chậm, vừa phân tích động tác

+ Bước 3: làm tổng hợp, có phân chia cử động

+ Phương pháp thực hành có sử dụng vũ khí: là phương pháp trực tiếp tiến hành các thao tác động tác có sử dụng các loại vũ khí và phương tiện chiến đấu.

- Tính đặc thù: người học phải nắm vững quy trình, quy tắc tiến hành các quy định bảo đảm an toàn cho người tập và vũ khí trang bị.

* Các phương pháp kích thích hoạt động nhận thức:

+ Phương pháp khởi động trí tuệ: là phương pháp sử dụng các cách thức kích thích, tư duy người học ở thời điểm đầu buổi học, nhằm tạo ra tâm thế sẵn sàng học tập tốt. Tính đặc thù:

- Nêu lên tính cấp thiết, tầm quan trọng của vấn đề học tập trong lí luận, đời sống, hoạt động quân sự, quốc phòng và an ninh.

3

- Khích lệ người học, lôi cuốn chú ý, khơi dậy hứng thú, kích thích tính linh hoạt.

+ Thảo luận nhóm tranh luận các vấn đề học tập: là phương pháp tạo ra tình huống học tập với những kiến thức khác nhau trong giải quyết vấn đề kỹ thuật và chiến thuật, tranh luận vấn đề đi tới giải pháp hoàn thiện nhất một cách tích cực, sáng tạo. Tính đặc thù phương pháp này:

- Khích lệ ý tưởng mới, cách giải quyết tình huống kỹ thuật, chiến thuật học tập một cách độc lập sáng tạo, hướng tranh luận vào vấn đề trọng tâm và kết luận theo mục tiêu bài học.

+ Phương pháp đóng vai: phương pháp này mang tính tích cực, trong đó người dạy tái tạo, mô hình hóa các hành động đặc trưng của hoạt động của đối phương, tổ chức cho người học sắm vai hành động của địch để thực hiện những thao tác phù hợp đối phó, tạo thành kỹ năng hoạt động học cho học sinh…Đặc thù phương pháp này:

- Giáo viên điều khiển các tình huống đóng vai, người sắm vai thể hiện các thao tác, hành vi…

- Giáo viên và học sinh xử lý các giải pháp hóa giải để chiến thắng địch.

* Các phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập:

Là cách thức, biện pháp xem xét thực trạng kết quả nhận thức của người học. trong đó có các loại kiểm tra:

- Kiểm tra vấn đáp.

- Kiểm tra viết (đặc biệt chú trọng)

- Kiểm tra thực hành: là cách thức xem xét và đánh giá các kỹ năng, kỹ xảo đạt được của người học thông qua việc giao cho họ thực hiện thao tác, hành động theo bài tập được giáo viên chuẩn bị trước để đánh giá trình độ đạt được.

- Ngoài các dạng trên còn một số các phương pháp kiểm tra khác:

+ Trắc nghiệm khách quan

+ Dạng câu điền khuyết

+ Dạng câu lựa chọn đúng, sai

+ Dạng câu lựa chọn cặp đôi

Tóm lại, trên đây là một số phương pháp đặc thù của bộ môn, nhằm kích thích hoạt động nhận thức của học sinh trong các buổi học. Trong thực tế, các phương pháp đẩy mạnh hoạt động nhận thức của học sinh rất đa dạng, cần tiếp tục có sự khái quát, vận dụng chúng phù hợp mục tiêu, nội dung và đặc điểm dạy học GDQPAN.

4

2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến - Việc vận dụng phương pháp tình huống trong quá trình dạy học là rất cần thiết, Tình huống xuất phát từ nội dung bài học là hoạt động góp phần làm cho học sinh hứng thú, ham thích học tập tạo không khí phấn khởi tạo tâm thế thoải mái trước giờ học hay củng cố nắm chắc kiến thức đã được học, kích thích tư duy sáng tạo và rèn kĩ năng. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: “Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội.,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,…. - Mục tiêu của nền giáo dục nước ta hiện nay là hướng đến đối tượng người học, để cung cấp cho người học những tri thức, kỹ năng, phương pháp và kinh nghiệm học tập có hiệu quả nhất. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhất là trong giáo dục Cao đẳng, Đại học, vấn đề rèn luyện kỹ năng nhận thức cho học sinh, sinh viên phương pháp học tập mang tính chủ động, có tính tích cực dần được trú trọng. Giáo dục quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là một nội dung quan trọng của việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Giáo dục quốc phòng - an ninh cho HS thuộc nội dung của nền giáo dục quốc gia, có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược đào tạo con người mới XHCN. Ngày 03/05/2007, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 12/CT-TW “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác GDQP-AN trong tình hình mới” . Ngày 10/07/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 116/2007 ND-CP về “Giáo dục quốc phòng - an ninh”. Theo đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động thương binh và xã hội, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an ban hành chương trình GDQP-AN cho HS và bồi dưỡng kiến thức QP-AN cho các đối tượng và các văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện nhiệm vụ GDQP-AN. - Những năm gần đây, công tác GDQP-AN cho HS đã dần đi vào nề nếp ổn định. Tuy nhiên, chất lượng GDQP-AN còn rất hạn chế. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến chất lượng GDQP-AN còn thấp như đội ngũ giáo viên GDQP-AN còn thiếu, chưa được đào tạo dài hạn, chính quy, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học GDQP-AN chưa đồng bộ sử dụng kém hiệu quả; hình thức tổ chức, phương pháp dạy học chưa phù hợp…Nâng cao chất lượng GDQP-AN cho HSSV cần phải chỉ đạo tổ chức thực hiện chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương tới các cơ sở bằng các hình thức phù hợp với từng đối tượng. Đồng bộ hóa các yếu tố cho GDQP-AN là nhiệm vụ, yêu cầu cấp thiết hiện nay, không những để thực hiện đầy đủ chương trình đào tạo mà còn để nâng cao chất lượng, hiệu quả môn học. Yếu tố quan trọng hàng đầu có tính quyết định tới chất lượng môn học GDQP-AN là đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng tích cực. Dạy học tích cực bao gồm phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp trực quan, phương pháp giảng dạy bằng tình huống, phương pháp làm mẫu - tái tạo. Phương pháp tìm tòi, phương pháp nghiên cứu… Phương pháp dạy học là tổng hợp các cách thức hoạt động của người dạy và người học; nói cách khác, đó là sự thống nhất giữa cách dạy, cách học của giáo viên và HS, SV. Đổi mới phương pháp dạy học GDQP-AN theo hướng tích cực là đổi mới cách thức giảng dạy phù hợp với quá trình nhận thức của của người học, phát huy yếu tố chủ động, tích cực của người học. - Đổi mới phương pháp dạy học GDQP-AN không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn PPDH cũ, thay vì PPDH hoàn toàn mới, mà là sự chọn lọc, kế thừa, vận dụng linh hoạt những ưu điểm, kết quả tích cực vốn có của PPDH truyền thống. Muốn thực hiện được PPDH theo hướng tích cực giáo viên phải có công tác chuẩn bị nội dung bài giảng cũng như mọi điều kiện bảo đảm cho dạy và học đầy đủ, khoa học, có nhiều vấn đề, nhiều tình huống được đặt ra. Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi giáo viên phải có trình độ chuyên môn chuyên sâu, có tay nghề vững vàng, có kinh nghiệm trong giáo dục đào tạo. Mục đích của PPDH bằng tình huống giúp cho HS tránh được tình

5

trạng học tập thụ động, hạn chế được cách học chỉ vội vàng, đắm chìm vào những dòng chữ ghi chép. Tính tích cực của PPDH bằng tình huống là cả người dạy và người học luôn phát huy khả năng vốn có của bản thân để giải quyết vấn đề được đặt ra trong bài học. Phương pháp dạy học bằng tình huống còn giúp cho người học luôn có sự suy nghĩ, tư duy độc lập, sáng tạo, có cả chiều rộng và độ sâu khi muốn hiểu biết và giải quyết vấn đề nào đó. Trong các PPDH tích cực thì PPDH bằng tình huống là phương pháp có nhiều ưu điểm, lợi thế hơn các PPDH khác. Dạy học bằng phương pháp tình huống đòi hỏi cả người dạy và người học phải có thái độ hoạt động nghiêm túc, có khả năng nhận biết được mâu thuẫn và giải quyết được từng vấn đề mà tình huống đặt ra. Hiện nay, PPDH bằng tình huống đang được sử dụng hết sức có hiệu quả và rất phổ biến ở các trường đào tạo hàng đầu trên thế giới…………………………..……………………………………………………. - Phương pháp dạy học bằng tình huống có tác dụng và ý nghĩa rất lớn, không những phát huy được khả năng nhận thức, tư duy, sáng tạo mà còn khuyến khích năng lực tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi của người học. Xuất phát từ vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của môn học GDQP-AN; từ thực tế về PPDH ở các trường THPT đến kết quả môn học; từ việc đổi mới PPDH, đặc biệt là vận dụng PPDH bằng tình huống là vấn đề cấp thiết hiện nay để có chất lượng GDQP-AN cao hơn. Do vậy, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống vào giảng dạy môn Giáo Dục Quốc Phòng An Ninh cho học sinh THPT” 3. Nội dung sáng kiến 3.1. Tiến trình thực hiện 3.1.1. Đặc điểm nội dung chương trình môn GD-QPAN.

Giáo dục Quốc phòng – an ninh (GDQP-AN) là một nhiệm vụ được quan tâm không riêng ở Việt Nam mà ở nhiều nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, quy mô quốc gia, trình độ kinh tế, khoa học và công nghệ. Đặc biệt, ở nhiều nước, GDQP được đưa vào chương trình học chính khóa trong các trường trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, nội dung GDQP, huấn luyện quân sự (HLQS) đã được đưa vào môn học chính khóa trong trường học từ năm 1961. Đến năm 1989, chương trình quân sự phổ thông trong các trường THPT đã được cải tiến. Đội ngũ giáo viên giảng dạy môn học này cho các trường THPT cũng đã được quan tâm đào tạo thông qua chương trình đào tạo ngắn hạn giáo viên GDQP và đào tạo cử nhân sư phạm GDCT-GDQP ghép môn.

Để thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng và nhà nước ta rất coi trọng việc xây dựng nền Quốc phòng toàn dân (QPTD), An ninh nhân dân (ANND) vững mạnh trong thời kì mới. Trong đó học sinh Trung học phổ thông (THPT), những chủ nhân tương lai của đất nước có vai trò quan trọng. Tích cực học tập hiểu nội dung cơ bản về xây dựng nền quốc phòng, an ninh (QPAN) góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân của đất nước trong thời kì mới là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của học sinh trong giai đoạn hiện nay. GDQP là một môn học nằm trong hệ thống giáo dục quốc gia nhằm giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện. Giáo dục quốc phòng cho học sinh là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục quốc phòng toàn dân, góp

6

phần nâng cao ý thức Quốc phòng – An ninh, củng cố nền quốc phòng toàn dân an ninh nhân dân, xây dựng nền QPTD, ANND vững mạnh. Nhận rõ vị trí, vai trò của nhiệm vụ trên, trong những năm qua dưới sự chỉ đạo của Sở GD&ĐT An Giang trường THPT chuyên Thoại Ngọc Hầu đã tổ chức triển khai thực hiện tốt hoạt động Giáo Dục Quốc Phòng An ninh cho học sinh. Trong những năm qua Ban giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo, xây dựng kế hoạch hướng dẫn giáo viên chọn các hình thức tổ chức dạy - học môn học GDQP - AN. Các giáo viên bộ môn GDQP – AN được đào tạo cơ bản và tập huấn về đổi mới phương pháp dạy - học, đã mạnh dạn thay đổi hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp với chương trình của Bộ giáo dục đề ra. Môn GDQP – AN đã được đưa vào chương trình dạy học chính khóa. Chương trình gồm 105 tiết được thực hiện từ năm học 2009 - 2010 đến nay. Thông qua hoạt động GDQP-AN, học sinh được nâng cao hiểu biết về truyền thống vẻ vang của dân tộc của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam và một số nội dung cơ bản về phòng thủ dân sự, kĩ thuật quân sự và những nội dung khác, rèn luyện tác phong nếp sống tập thể có kỷ luật của quân đội. Các giáo viên bộ môn GDQP-AN đều tích cực tham gia công tác giảng dạy, huấn luyện. Học sinh tích cực, hăng say luyện tập nghiên cứu tài liệu. Bước đầu đã cải thiện được đáng kể chất lượng Dạy và Học. Chương trình GDQP-AN ở trường THPT gồm hai phần: Phần giảng dạy lý thuyết và phần giảng dạy thực hành về những động tác kỹ thuật cơ bản của động tác đội ngũ từng người không có súng, đội ngũ đơn vị, kỹ thuật băng bó vết thương của khối 10; kỹ thuật bắn súng, ném lựu đạn, kỹ thuật cứu chuyển thương của khối 11; Các tư thế động tác cơ bản vận động trong chiến đấu, lợi dụng địa hình địa vật của khối 12. Nếu chỉ đơn thuần là dạy thuyết trình các nội dung lý thuyết thì khi thực hiện những nội dung trên cả người dạy và người học đều cảm thấy khô khan, nhàm chán. Vì vậy trong quá trình giảng dạy, việc đổi mới phương pháp giảng dạy để làm cho giờ học có sức lôi cuốn và phát huy được tính tích cực của học sinh là rất cần thiết, tôi đã luôn cố gắng suy nghĩ tìm tòi và không ngừng sáng tạo. Tôi mạnh dạn lồng ghép nội dung “Phương pháp tình huống” vào trong các tiết học, nhờ vậy buổi học tạo hưng phấn cho người học cũng như người dạy. Qua thực tiễn áp dụng ở một số lớp và tiến hành thử nghiệm ở nhiều tiết dạy, tôi nhận thấy học sinh tham gia học tập tích cực hơn, hăng say hơn, thích học môn GDQP hơn ở những tiết học không áp dụng nội dung “Phương pháp tình huống”. Để đạt được mục tiêu giáo dục nói chung cũng như môn GDQP nói riêng để tạo sự chuyển biến lớn trong quá trình dạy học, phát huy tính tích cực của học sinh. Từ những lý do trên tôi nhận thấy: “Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống vào giảng dạy môn Giáo Dục Quốc Phòng An Ninh cho học sinh THPT” làm đề tài nghiên cứu của mình.

7

Xử lý tình huống vai trò của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân 3.1.2. Phương pháp dạy học bằng tình huống: - Hiện nay, với tính ưu việt phương pháp dạy học tình huống tại các hệ thống giáo dục quốc tế, đặc biệt một số trường đại học hàng đầu như: HaBớt,Ofot… và các nhà trường thuộc hệ thống giáo dục Liên hiệp quốc (Unesco) rất trú trọng phổ biến giảng dạy phương pháp này để nâng cao và phát huy nặng lực của người học tại mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, việc áp dụng phương pháp dạy học tình huống trong hệ thống GDQD đang được quan tâm. Trong những phương pháp dạy học tích cực thì phương pháp dạy học bằng tình huống đã trở thành phương pháp được sử dụng rất phổ biến trong các trường đại học hàng đầu thế giới. Một số trường THPT ở Việt Nam cũng đã bắt đầu nghiên cứu, sử dụng phương pháp dạy học này. - Phương pháp dạy học bằng tình huống không những đem lại chất lượng, hiệu quả giảng dạy rất cao cho người thầy mà còn đem lại chất lượng học tập rất tốt cho người học. Phương pháp dạy học bằng tình huống còn phát huy được óc tư duy, khả năng tư duy, óc phê phán, óc sáng tạo của người dạy và người học. Đặc biệt, phương pháp dạy học bằng tình huống có tác dụng khuyến khích học sinh phát triển cách tự học, tự nghiên cứu, có khả năng độc lập giải quyết vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Giảng dạy theo phương pháp tình huống đòi hỏi người thầy giáo phải giỏi cả lý thuyết và thực hành, phải công phu sưu tầm những tình huống có thật và cụ thể có liên quan đến môn giảng dạy, phải tâm huyết dành toàn bộ tâm trí và thời gian cho công tác giáo dục và đào tạo, cho giảng dạy. - Đối với học sinh nhận thức rõ giá trị người thầy trong việc truyền thụ tri thức và hướng dẫn cách giải quyết vấn đề, giá trị quyết định của mình trong việc tự học hỏi, hiểu, suy hành, giá trị tiềm ẩn của mình về trí tuệ, tư duy sáng tạo, nhận rõ giá trị của việc học là để giải quyết vấn đề do cuộc 8

sống đặt ra. Khi nói đến tình huống thường ta thấy tình huống được diễn ra cũng có thể trong thời gian ngắn, phạm vi hẹp; cũng có thể xảy ra trong thời gian khá dài với quy mô rộng lớn, tùy theo tính chất, đặc điểm, diễn biến và vận động của sự vật. Khi nói đến tình huống là nói đến sự việc xảy ra, mà xung quanh sự việc đó có nhiều mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, nhưng lại hết sức mâu thuẫn với nhau cần được giải quyết. Trong hoạt động, nhất là hoạt động quốc phòng, an ninh thường có tình huống xảy ra, thậm chí có nhiều tình huống xẩy ra ngay cùng một lúc rất phức tạp. Xử lý như thế nào, xử lý ngay mới giải quyết được tình thế, mới đem lại hiệu quả là cả vấn đề không dễ đối với một cá nhân hay một tập thể. Thông thường, một tình huống đơn giản thì vai trò cá nhân được thể hiện ngay, nhưng tình huống phức tạp thì đòi hỏi trí tuệ cả một tập thể mới giải quyết được, và lúc ấy vai trò cá nhân là người định hướng, hướng dẫn cách giải quyết vấn đề. Tình huống xảy ra thường khác nhau lúc nhanh, lúc chậm; tính chất của tình huống có lúc đơn giản, lúc phức tạp. Dù tình huống đơn giản hay phức tạp cũng cần có sự suy nghĩ, tư duy nghiêm túc, bài bản, khoa học mới giải quyết được. Giải quyết tình huống phải được dựa trên nhiều yếu tố, nhiều bằng chứng khoa học. Giải quyết tình huống trong quốc phòng, an ninh phải căn cứ vào nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo, mục đích, yêu cầu đạt được; căn cứ vào những yếu tố tác động, quan hệ trực tiếp với tình huống như tình hình địa hình, tình hình địch, đơn vị xung quanh, vũ khí trang bị kỹ thuật, dân chúng…Như vậy, “Tình huống là sự việc có mâu thuẫn, có tính vấn đề cần giải quyết”.Tình huống “đơn giản” là tình huống có “mâu thuẫn” có “một vấn đề” cần giải quyết.Tình huống “phức tạp” là tình huống có” mâu thuẫn” có “nhiều vấn đề” cần giải quyết.Vậy, thế nào là phương pháp dạy học bằng tình huống?... . - Phương pháp dạy học ta đã đề cập trong nhiều lĩnh vực ở đời sống xã hội, nhất là trong giáo dục đào tạo. Nhưng chúng ta cần hiểu “phương pháp” dạy học là “cách” dạy học, nghĩa là cách dạy và cách học, là hoạt động của người dạy và người học.Trong dạy học bằng phương pháp tình huống cũng đòi hỏi hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của người học, nhưng cả hai hoạt động của thầy và trò có những vấn đề khác nhau. Phương pháp dạy học bằng tình huống lúc này người dạy không phải đóng vai trò diễn thuyết, diễn giải, thuyết trình mà phải xây dựng được các tình huống trong bài học. Trên cơ sở các tình huống đó mà hướng dẫn cho người học biết thứ tự các bước xử trí, giải quyết được mâu thuẫn, giải quyết được từng vấn đề trong tình huống đó. - Trong hoạt động quốc phòng, an ninh, tình huống trở thành phổ biến vì quốc phòng, an ninh là hoạt động rất đặc thù. Trong GDQP-AN, tình huống cũng thường xẩy ra trong quá trình dạy học, ta gọi là tình huống sư phạm. Nhưng ngay trong nội dung GDQP-AN cũng đã chứa đựng nhiều tình huống cần giải quyết như trong dạy học kỹ thuật, khoa mục chung, công tác quốc phòng an ninh, đường lối quân sự, đặc biệt là trong chiến thuật……………………………………………………… 3.1.3. Vai trò phương pháp giảng dạy bằng tình huống với bộ môn QPAN - Muốn có phương pháp dạy học bằng tình huống thì phải xây dựng được tình huống thực tế, phù hợp cho từng trình độ, khả năng dạy học. Một điều kiện mang tính tiên quyết để đạt được hiệu quả của phương pháp tình huống là phải có tính thực tế. Trong GDQP-AN có thể có rất nhiều tình huống để phân tích nhưng để có được phương án tối ưu nhất không phải dễ. Xây dựng được tìn huống sẽ cần nhiều thời gian đòi hỏi giáo viên phải có kỹ năng nhất định trong chuyên môn quốc phòng, an ninh. Khi xây dựng tình huống về chiến thuật, giáo viên cần nắm chắc tư tưởng chỉ đạo, yêu cầu đạt được của chiến thuật, nắm chắc tình hình địch, ta, quan hệ với đơn vị xung quanh, thực tế trang bị vũ khí bảo đảm cho trận đánh có hiệu quả. Ví dụ: Tình huống chiến thuật: Từng người tiến công địch trong ụ súng, lô cốt, chiến hào, giao thông hào, căn nhà. Trong khi đó địch có hệ thống hàng rào dây thép gai, có xe tăng, xe bọc thép án ngữ. Tình huống được xây dựng để mọi người phải thấy được đâu là mâu thuẫn, đâu là vấn đề khó khăn cần giải quyết, khó khăn khi đánh chiếm mục tiêu. Trong ụ súng, lô cốt địch có mấy tên, chúng đang dùng hỏa lực gì bắn trực tiếp vào hướng tiến công. Bên trái, bên phải địch trong lô cốt, ụ súng có lực lượng nào chi viện cho chúng không. Người chiến sĩ phải làm như thế nào để vận động tới gần địch, vận động theo hướng nào, 9

lợi dụng địa hình, địa vật ra sao, có cần người khác chi viện hay không, một loạt vấn đề của tình huống đặt ra cần giải quyết. Muốn giải quyết được tình huống chiến thuật, người dạy và người học phải căn cứ vào các yêu cầu chiến thuật như: Bí mật, bất ngờ, tinh khôn, mưu mẹo; dũng cảm, linh hoạt, kịp thời; biết phát hiện và lợi dụng nơi sơ hở, hiểm yếu của địch, tiếp cận đến gần tiêu diệt địch; độc lập chiến đấu, chủ động hiệp đồng, liên tục chiến đấu; phát huy cao độ hiệu quả của vũ khí, trang bị để tiêu diệt địch, tiết kiệm đạn dược; đánh nhanh, sục sạo kỹ, vừa đánh vừa địch vận. - Khi xây dựng tình huống về kỹ thuật giáo viên cần nắm chắc từ hiện tượng đến bản chất của từng nội dung về kỹ thuật. Nếu ta xây dựng tình huống “Hiện tượng bắn”, “Sức giật và sự hình thành góc nảy” thì vấn đề (tình huống) đặt ra là tại sao đầu đạn lại vận động được trong nòng súng và trong không gian, mối quan hệ giữa đầu đạn và áp lực khí thuốc ra sao, cần bao nhiêu áp lực khí thuốc để đầu đạn tách khỏi vở đạn bắt đầu vận động, cần bao nhiêu áp lực khí thuốc để đầu đạn vận động trong nòng súng có độ xoáy lớn khi ra khỏi mặt cắt phía trước của nòng súng có vận tốc lớn nhất . Tại sao khi bắn súng có hiện tượng súng giật về sau, bị vai ta chặn lại, người bắn có cảm giác ê vai hoặc bị đau vai. Tại sao súng giật về sau, súng giật gây ra góc nảy như thế nào, có mấy nguyên nhân gây ra góc nảy, góc nảy có ảnh hưởng tới bắn trúng mục tiêu như thế nào, biện pháp hạn chế góc nảy ra sao? Muốn giải quyết được tình huống kỹ thuật, người dạy và học phải nắm rất chắc nguyên lý bắn súng bộ binh, đồng thời phải có những kinh nghiệm nhất định trong cuộc sống, trong thực tế sử dụng các loại vũ khí……………………………………………………………………….. - Khi xây dựng tình huống thuộc phần lý thuyết, đây là vấn đề khó, đòi hỏi giáo viên phải có trình độ lý luận, khả năng khái quát cao, có nhiều thông tin, nhưng thông tin đó phải được cập nhật, mang tính thời sự. Giáo viên cần có thời gian, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, những dẫn chứng minh họa sát thực, tính khoa học cao. Ví dụ “Xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững chắc, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, vấn đề tình huống được đặt ra: Thế nào là khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố); tại sao ta lại phải xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố); khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) có vị trí tác dụng, vị trí chiến lược quan trọng như thế nào trong từng giai đoạn lịch sử -trong thời bình và trong thời chiến; nhiệm vụ, nội dung, biện pháp chủ yếu xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) - Tình huống được đặt ra trên đây được giải quyết như thế nào là cả một quá trình học hỏi, tích lũy kinh nghiệm của giáo viên. Không thể nói là “Có”,“Không”, “Rất quan trọng”, nhưng có như thế nào, tại sao không, quan trọng đến mức nào, là sự thể hiện trình độ lý luận, thực tiễn của giáo viên. Xử lý tình huống (giải quyết vấn đề trong tình huống).Muốn xử lý đúng đắn một tình huống phải qua 4 bước: + Điều tra, nghiên cứu tình hình trên quan điểm hệ thống, toàn diện để thấy được bản chất của sự mâu thuẫn trong tình huống.… … + Phân tích các tình huống, mâu thuẫn trên cơ sở lý luận và thực tiễn. … + Tổng hợp, đề ra những chủ trương, biện pháp, phương pháp, cách làm cụ thể để xử lý, giải quyết tình huống.… … + Hành động trả lời câu hỏi làm gì, làm thế nào, ai làm, bao giờ làm, những điều kiện cần có để làm ra sao.… - Xử lý một tình huống giỏi hay không còn tùy thuộc vào trình độ kiến thức cả về lý luận và thực tế của người hữu trách. Vì vậy, ra sức học tập cho giỏi là nhằm mục đích ứng xử giải quyết vấn đề giỏi, xử lý tình huống giỏi. Dành thời gian quan trọng cho việc thu thập phân loại, phân tích những tình huống có thật và cụ thể liên quan đến bài giảng. Trường hợp thật cần thiết có thể hư cấu nhưng phải hư cấu như thật, cốt lõi của tình huống vẫn phải là có thật. Như vậy thì việc nghiên cứu và thảo luận tìm ra phương án xử lý tối ưu mới mang tính hấp dẫn đối với người học. Giáo viên làm công tác giảng dạy giỏi theo phương pháp tình huống ngoài khả năng chuyên môn, còn có một : “Ngân qũy” tình huống có liên quan đến GDQP-AN. Cập nhật thông tin mới, tìm những tình huống mới có vấn đề trong GDQP-AN là việc làm thường xuyên của cán bộ giảng dạy.Soạn bài giảng theo 10

phương pháp tình huống……………………………………………………………………………... + Xác định rõ mục đích, yêu cầu của bài, mục tiêu của bài giảng..…………………………………… + Giới thiệu lý thuyết hoặc những nguyên tắc cơ bản. Giới thiệu tài liệu, sách mà người học có thể cần đọc, nghiên cứu, tham khảo……………………………………………………………………… + Giới thiệu tình huống - nghiên cứu cá nhân hoặc nghiên cứu thảo luận theo nhóm, hoặc thảo luận ở lớp tùy thuộc vào không gian, thời gian, tính chất của tình huống………………………………… + Tổng kết thời gian tranh luận của học sinh củng cố nâng cao phần lý thuyết và khả năng thực hành + Kết quả bài giảng theo phương pháp tình huống được đánh giá bởi sức thu hút, hấp dẫn của buổi học, ai cũng động não, phát huy óc phê phán, óc tư duy sáng tạo, tích cực tham gia thảo luận để tìm ra phương án xử lý tối ưu.… * Tổ chức lớp (đơn vị) khi thực hiện phương pháp dạy học bằng tình huống GDQP-AN. Trong phương pháp dạy học bằng tình huống, giáo viên thực hiện những công việc sau đây: + Phân chia thành các nhóm học sinh trong lớp, với số lượng từ 8 đến 10 học sinh………………….. + Phân tình huống cho các nhóm học sinh giải quyết………………………………………………… + Hướng dẫn các nhóm thảo luận, phân tích tình huống bằng cách đặt ra những câu hỏi quan trọng hoặc những vấn đề then chốt của tình huống…………………………………………………………. * Quy trình giải quyết một bài tập tình huống…………………………………………………….. Giải quyết bài tập tình huống trên lớp tiến hành theo trình tự các bước:Nghiên cứu cá nhân, thảo luận theo nhóm, viết báo cáo phân tích tình huống, thảo luận chung cả lớp.… * Nghiên cứu cá nhân………………………………………………………………………………. Trong bước nghiên cứu cá nhân, học sinh phải đọc kỹ toàn bộ bài tập tình huống để nắm bắt tình hình thực tế đang diễn ra, xác định vấn đề trung tâm đang phải đối phó, cần phải giải quyết để có cơ sở đánh giá, phân tích định ra phương án tối ưu nhất.… *Thảo luận nhóm…………………………………………………………………………………… Sau khi học sinh hoàn thành bước nghiên cứu cá nhân, giáo viên yêu cầu lớp tiến hành thảo luận theo nhóm đã chia. Mỗi nhóm sẽ tập trung vào thảo luận các thông tin và các đề xuất của các thành viên trong nhóm. Trong trường hợp bài tập có nhiều vấn đề cần giải quyết, mỗi nhóm có thể tập trung vào một hoặc vài yêu cầu cụ thể. Ví dụ: Hình thức phục kích đánh địch, tình huống thường xảy ra như::… + Chọn khu vực địch tập trung, xác định khu vực quyết chiến điểm………………………………… + Xác định vị trí chặn đầu, khóa đuôi,………………………………………………………………... +Tập trung bao nhiêu binh lực, hỏa lực cho khu vực đánh địch tập trung, cho chặn đầu, khóa đuôi, lực lượng đối diện cần bao nhiêu, sử dụng lực lượng nào……………………………………………. Mục đích thảo luận nhóm không nhằm đạt đến một sự thống nhất trong nhóm mà là giúp cho từng cá nhân có thể chắt lọc, điều chỉnh và phát triển ý kiến riêng của mình. Bước thảo luận này cũng là cơ hội để học sinh làm quen và tập luyện phương pháp làm việc nhóm, một phương pháp thể hiện được nhiều ý kiến, trình bày được nhiều quan điểm cho riêng mình. Qua giai đoạn này, giáo viên có thể trực tiếp hoặc thông qua các nhóm trưởng (tiểu đội trưởng) đánh giá tính chủ động, tự giác của các thành viên trong nhóm, đặc biệt là khả năng tổ chức làm việc trong mỗi nhóm. * Viết báo cáo phân tích tình huống……………………………………………………………….. Sau khi thảo luận xong, sinh viên sẽ phải viết một báo cáo cá nhân hoặc chung cả nhóm. Nội dung của một báo cáo bao gồm phần giới thiệu tình huống, phần phân tích tình huống, các biện pháp đề xuất.Việc viết một báo cáo phân tích tình huống sau khi thực hiện xong các bước nghiên cứu cá nhân, thảo luận nhóm là yêu cầu bắt buộc đối với từng Học sinh, Sinh viên hoặc nhóm học sinh, sinh viên. Để đáp ứng những yêu cầu đối với một bài biết phân tích tình huống, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh, sinh viên cách viết, cách trình bày. Thông thường một bài viết phân tích tình huống có ba phần: phần giới thiệu, phần phân tích và phần đề xuất. + Phần giới thiệu tình huống là phần trình bày vắn tắt những gì đang thực hiện trong GDQP-AN, 11

quá trình phát triển của công tác GDQP-AN, những vấn đề gì mà GDQP-AN đang gặp phải và cách thức tiếp cận các vấn đề mà người viết sẽ phải trình bày trong bài. + Phần phân tích tình huống là phần trình bày toàn bộ nội dung của tình huống ứng với từng bài học cụ thể trong GDQP-AN. Từng tình huống cụ thể sẽ được phân tích kỹ từ tính chất, đặc điểm đến quy mô của diễn biến, mức độ ảnh hưởng và khả năng thực hiện. Khi phân tích hiện tượng súng giật mạnh về sau đối với người sử dụng súng, thì cần phân tích nguyên nhân gì làm cho súng giật; súng giật về sau bị vai người sử dụng súng chặn lại sinh ra mô men quay quanh điểm tỳ vai, làm cho súng xoay đi một góc so với vị trí ban đầu, qua đó sinh ra góc nảy. Cần phân tích góc nảy càng lớn, mức độ bắn chính xác vào mục tiêu càng nhỏ. Hay nói cách khác, người sử dụng súng bắn vào mục tiêu trúng nhiều hay ít phụ thuộc vào góc nảy lớn hay nhỏ. Tình huống được đặt ra góc nảy sinh ra đối với từng loại súng như tiểu liên AK, súng trường CKC có gì khác nhau, ảnh hưởng góc nảy của từng loại súng với bắn trúng mục tiêu ra sao.… + Phần thứ ba của bài viết là trình bày những phương pháp, biện pháp và những kiến nghị, đề xuất. Cần chú ý các biện pháp, đề xuất đưa ra phải phù hợp với những phân tích trước đó để những đề xuất, biện pháp thống nhất với nhau, lôgic với nhau hơn. Chất lượng của những biện pháp, đề xuất là yếu tố hết sức quan trọng để đánh giá sự hiểu biết, sáng tạo, đầu tư công sức cho giải quyết một tình huống về GDQP-AN. Chẳng hạn, để bắn được trúng, chụm mục tiêu khi sử dụng vũ khí thì cần có cách gì, biện pháp hạn chế góc nảy khi chế tạo vũ khí và trong quá trình sử dụng vũ khí ra sao, đưa ra đề xuất cho người chế tạo vũ khí phải cấu tạo, chế tạo các bộ phận giảm giật cho từng loại vũ khí nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sinh ra sức giật và góc nảy. Đưa ra những biện pháp khắc phục cho người sử dụng vũ khí từ tư thế, động tác, yếu lĩnh bắn mục đích để hạn chế góc nảy, bảo đảm cho mỗi phát bắn được trúng đích. Thông qua báo cáo phân tích tình huống, giáo viên có thể đánh giá được khả năng lập luận, phân tích thông tin và diễn đạt ý tưởng của học sinh. *Thảo luận chung cả lớp…………………………………………………………………………… Trong bước thảo luận chung của cả lớp, các nhóm phải cử ra một hoặc hai đại diện của nhóm trình bày báo cáo phân tích tình huống và cách giải quyết trước lớp (trung đội) và bảo vệ những đề xuất do nhóm đưa ra. Do đặc trưng của phương pháp tình huống là mang tính mở, tức là có thể có nhiều phương án để giải quyết các vấn đề đặt ra, nên đòi hỏi người thuyết trình phải có lập luận chặt chẽ khi đưa ra phương án của nhóm và phải trả lời rất nhiều câu hỏi phản biện liên quan đến những phương án do nhóm đưa ra. Như vậy, kết quả đánh giá trong giai đoạn này sẽ phụ thuộc khá nhiều vào khả năng của người đại diện nhóm, nhưng nó cũng phản ánh nỗ lực làm việc của nhóm. * Những điều kiện áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống…………………………… Dạy học bằng phương pháp tình huống trong GDQP-AN sẽ đem lại nhiều kết quả tốt. Tuy nhiên, áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống để bảo đảm chất lượng cần có các điều kiện sau: * Về quy mô lớp học………………………………………………………………………………… Do điều kiện giáo viên và cơ sở vật chất còn thiếu nên vẫn bố trí một lớphọc đông, đây là cản trở rất lớn đối với việc áp dụng phương pháp tình huống. Một lớp học đông sẽ có nhiều nhóm học tập (nhiều tiểu đội), do đó giáo viên không thể đánh giá được hết sự chuẩn bị cũng như năng lực của học sinh. Mặt khác, quy mô một lớp học lớn cũng dẫn đến việc quản lý trong thời gian nhóm thảo luận gặp khó khăn đối với giáo viên và đồng thời tác động trực tiếp đối với học sinh có thái độ không tích cực trong học tập. Biện pháp hữu hiệu nhất cho sử dụng phương pháp tình huống có kết quả cao là nên tổ chức một lớp học có từ 35 đến 40 học sinh. Khi triển khai làm bài tập tình huống và thảo luận (thường chiếm khoảng 30% thời gian của môn học), lớp lớn sẽ được phân chia thành các lớp nhỏ, lớp nhỏ sẽ được phân chia thành các nhóm học tập, như vậy sẽ bảo đảm chất lượng, hiệu quả cho việc áp dụng phương pháp tình huống………………………………………… * Xây dựng được các tình huống thực tế trong GDQP-AN……………………………………….. - Một điều kiện mang tính tiên quyết để đạt được hiệu quả của phương pháp tình huống là phải 12

có tính thực tế. Trong chương trình, nội dung GDQP-AN có rất nhiều tình huống có thể xây dựng được như điều lệnh, tâm lý học và giáo dục học quân sự, quân binh chủng và quân đội nước ngoài, vũ khí hủy diệt lớn, công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đường lối quân sự và lịch sử Nghệ thuật quân sự, công tác quốc phòng địa phương, binh khí kỹ thuật chiến đấu bộ binh, kỹ thuật bắn súng bộ binh, chiến thuật cá nhân, tổ, tiểu đội, trung đội bộ binh… Tuy nhiên, để xây dựng được tình huống mang tính khoa học, có cơ sở lý luận và thực tiễn không phải là việc dễ làm. … - Xây dựng được tình huống, giáo viên sẽ mất rất nhiều thời gian, rất nhiều công sức, phải có năng lực tư duy, có kỹ năng khái quát, tổng hợp và đặc biệt phải có khả năng phân tích, đánh giá, chứng minh các mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng. Khó khăn lớn nhất hiện nay của đội ngũ giáo viên trong các trường THPT là việc xây dựng tình huống trong dạy và học GDQP-AN. Thời gian qua, chúng ta chưa tiếp cận với phương pháp này - phương pháp dạy học bằng tình huống. Thói quen của phương pháp dạy học truyền thống, phương pháp cũ, phương pháp thuyết trình độc thoại, một chiều vẫn khó được thay đổi bởi những phương pháp tiên tiến, phương pháp mới, có chất lượng hơn. Nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế trong nhận thức, tư duy cũ, cách dạy học cũ, đội ngũ lãnh đạo quản lý trước hết phải gương mẫu, tiên phong trong quá trình dạy học GDQP-AN bằng phương pháp tình huống.… * Đầy đủ thiết bị, cơ sở vật chất chuyên dùng, học liệu GDQP-AN…………………………… Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học GDQP-AN là yếu tố rất quan trọng nhằm nâng cao chất lượng môn học. Thiết bị, cơ sở vật chất chuyên dùng phải đáp ứng được những yêu cầu để giảng dạy và học tập tình huống, chẳng hạn như máy chiếu Auvơhec, projector, video, đây cũng là yếu tố không nhỏ ảnh hưởng đến hiệu quả của phương pháp dạy học bằng tình huống. Nếu sử dụng máy chiếu trong buổi thảo luận thì lượng thông tin mà các nhóm thuyết trình sẽ nhiều hơn và đầy đủ hơn. Mặt khác, các nhóm có thể thay nhau được nhiều lần, nhiều nhóm thuyết trình trong thời gian quy định. Hơn thế nữa, trong thời gian thảo luận trên lớp học sinh, sinh viên cũng dễ dàng tập trung nắm bắt được nội dung báo cáo của nhóm khác để có thể đặt câu hỏi phản biện, qua đó giúp cho buổi thảo luận trở nên sôi nổi, hấp dẫn hơn, hiệu quả cao hơn. Môn học GDQP-AN khi áp dụng phương pháp tình huống phải có đủ giáo trình riêng và các tài liệu tham khảo cần thiết để bảo đảm cho học sinh có thể tự nghiên cứu và tích lũy những kiến thức cần thiết trước khi bắt tay vào phân tích tình huống, cũng có thể xây dựng tình huống. Nếu thiếu hoặc không có giáo trình theo thiết kế môn học sẽ ảnh hưởng ngay đến chất lượng bài học, vì giáo viên phải dành nhiều thời gian làm việc trên lớp, thời gian dành cho người học phân tích và thảo luận bài tập tình huống sẽ ít đi, như thế sẽ không có cơ hội thực hiện tốt phương pháp dạy học này…………………………………………………………... 3.1.4. Sử dụng phương pháp giảng dạy tình huống trong dạy học và huấn luyện ở bộ môn QPAN 3.1.4.1. Một số tình huống áp dụng ở bộ môn QPAN - Tầm quan trọng của công tác quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN Quốc phòng là công việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể các hoạt động đối nội, đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, ngoại giao… của nhà nước và nhân dân để tạo nên sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng, nhằm giữ gìn hòa bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, quy mô tác chiến nào của đối phương. Nền quốc phòng của ta mang tính chất của dân, do dân và vì dân, phát triển theo hướng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, ngày càng hiện đại cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN. An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ XHCN và nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc………………………………………………………………………………………

13

- An ninh nhân dân là sự nghiệp của toàn dân, do dân tiến hành, các lực lượng an ninh nhân dân làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Kết hợp phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các biện pháp nghiệp vụ của lực lượng chuyên trách, nhằm đập tan mọi âm mưu và hành động xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự an tiàn xã hội, cùng với quốc phòng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân là nội dung chủ yếu để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền dân tộc, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững an ninh, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội của đất nước. Vì vậy, cần phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân thực sự vững mạnh trong bất cứ điều kiện hoàn cảnh nào cho sự nghiệp bảo vệ đất nước. Cần phải nắm vững và quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới. Cần phải thấy được đặc điểm, mục đích, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp chủ yếu xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh hiện nay……………………………………………………... *Một số nội dung dạy học bằng phương pháp tình huống giảng dạy môn học GDQP - AN. - Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế. Gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh; phối hợp chặt chẽ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại. - Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là niệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân.… - Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, ANND. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, Công an, đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh. - Nền quốc phòng, an ninh nhân dân là nền quốc phòng, an ninh của dân, do dân, vì dân, nhằm mục đích duy nhất là tự vệ chính đáng; nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân. - Mục đích, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Nâng cao trách nhiệm của học sinh, Sinh viên trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Như trên đã trình bày, phương pháp dạy học bằng tình huống là cách dạy học tiến bộ, cách dạy học mới theo hướng tích cực, cách dạy học có nhiều ưu điểm vừa phát huy khả năng độc lập suy nghĩ, tư duy, sáng tạo của giáo viên và học sinh. Phương pháp dạy học bằng tình huống không những đem lại chất lượng, hiệu quả giảng dạy rất cao cho người thầy mà còn đem lại chất lượng học tập rất tốt cho người học. Tuy nhiên, nhận thức của nhiều cán bộ, giáo viên, học sinh chưa thật đầy đủ với phương pháp dạy học bằng tình huống có tác dụng rất lớn cho chất lượng, hiệu quả môn học. Thậm chí, nhiều cán bộ, giáo viên chưa hiểu thế nào là tình huống trong dạy học, dạy học theo phương pháp tình huống như thế nào. Hầu hết, dạy học GDQP-AN hiện nay ở các nhà trường từ cấp trung học đến cao đẳng, đại học chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp dạy học truyền thống bằng phương pháp thuyết trình, độc thoại, một chiều. Phương pháp dạy học thuyết trình truyền thống ảnh hưởng rất lớn đến từng khả năng mọi mặt của người học trong quá trình nhận thức, vì họ luôn ở trạng thái thụ động để theo đuổi mục đích, yêu cầu của người dạy. Cần phải có cách nhìn nhận đúng đắn giữa cách dạy học cũ với cách dạy học mới, cách dạy học mới bao giờ cũng có sự tiến bộ, hiệu quả hơn cách dạy học cũ. Cần phải nhận thức sâu sắc rằng, phương pháp dạy học bằng tình huống phát huy khả năng tư duy, sáng tạo, khả năng độc lập suy nghĩ, óc phê phán; xây dựng và rèn luyện các kỹ năng phán đoán, trình bày, làm việc nhóm, tập thể… cho người dạy và người học. Những hạn chế từ nhận thức của phương pháp dạy học bằng tình huống, dẫn đến rất ít giáo viên xây dựng được các tình huống ở quá trình dạy học GDQP - AN. Rất nhiều tình huống khi xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân của chúng ta trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực hiện nay có nhiều diễn biến phức tạp, mau lẹ. Có nhất thiết phải gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh và phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại hay không là những vấn đề đặt ra cần được phân tích, luận giải, 14

đánh giá mang đầy đủ tính khoa học và thực tiễn đối với mỗi chúng ta. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện, hiện đại là biểu hiện sức mạnh tập trung, thống nhất, nhằm mục đích bảo vệ độc lập dân tộc và CNXH… Những nội dung nêu trên cần được xây dựng theo các tình huống vừa với khả năng của học sinh trong quá trình dạy học. Nhìn chung, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, nhất là theo phương pháp dạy học bằng tình huống đối với đội ngũ giáo viên GDQP-AN hiện nay còn rất hạn chế, yếu kém. Vẫn chỉ là cách dạy học cũ theo phương phương pháp thuyết trình, cổ điển, theo lối mòn sẵn có, giáo viên ít chịu tìm tòi, suy nghĩ tìm ra phương pháp dạy học mới để có chất lượng tốt hơn. Có chăng, giáo viên chỉ nêu được một số câu hỏi để HS trả lời trực tiếp, nhưng chỉ tập trung vào nội dung kỹ năng thực hành. Để đánh giá thực trạng việc vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống vào trong giảng dạy môn học GDQP - AN, tôi tiến hành khảo sát dưới hình thức phát phiếu phỏng vấn với 20 giáo viên giảng dạy môn GDQP AN trong các trường học thuộc tỉnh An Giang. Qua phỏng vấn giáo viên chúng tôi thu được kết quả sau: Kết quả dạy học theo hướng đổi mới (phương pháp dạy học bằng tình huống) trong môn học GDQP – AN. Tổng số Kết quả + 4/20 chiếm 10% giáo viên cho rằng thường xuyên sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong quá trình giảng dạy…………………………………………………………………………….. + 10/20 chiếm 50% giáo viên cho rằng mình ít sử dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong quá trình giảng dạy…………………………………………………………………………………... + 6/20 chiếm 40% giáo viên cho rằng mình không vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống trong quá trình giảng dạy…………………………………………………………………………….. Dạy học bằng phương pháp tình huống có tác dụng rất lớn để nâng cao chất lượng, hiệu quả môn học GDQP-AN. Nhưng thực tế thấy hầu như Giáo viên GDQP-AN ở các trường trong tỉnh rất ít vận dụng phương pháp dạy học tình huống vào trong bài giảng dẫn đến chất lượng bài học không cao, chưa hiệu quả, người học không nắm chắc được kiến thức, chưa gắn liền với thực tiễn và khai thác hiệu quả khả năng của người học.

Xử lý tình huống vai trò của QĐNDVN đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay.

15

*Một số tình huống trong giảng dạy môn học giáo dục quốc phòng, an ninh: ( Mỗi tình huống cho học sinh một tuần chuẩn bị và giải quyết tình huống trong 45 phút của tiết học ). Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh trong tình hình mới của đất nước chứa đựng nhiều nhiều mâu thuẫn, nhiều vấn đề đặt ra cần được giải quyết. Mâu thuẫn từ bản chất âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn chính trị, bạo loạn lật đổ, hoặc bằng vũ khí công nghệ cao với việc phát huy sức mạnh tổng hợp tiềm tàng của cả dân tộc để đánh bại bất cứ âm mưu, hành động nào của kẻ thù khi chúng liều lĩnh gây chiến. Mâu thuẫn từ nền kinh tế của đất nước phát triển chưa mạnh, chưa bền vững đến yêu cầu phát triển lực lượng vũ trang theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, đến xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh. Nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng Việt Nam ngày nay là phải giữ vững ổn định chính trị, trật tự an ninh, an toàn xã hội, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ công cuộc đổi mới của đất nước. Tình huống 1: Bài 2 Một số hiểu biết về nền PQTD và ANND ( Lớp 12 ). Bản chất của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch là cực kỳ phản động, âm mưu của chúng không hề thay đổi, mục tiêu là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và trên toàn thế giới. Trong tình hình mới hiện nay, kẻ thù chống phá ta trên khắp các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa khoa học kỹ thuật, ngoại giao, quân sự, dân tộc, tôn giáo... bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn chính trị, lật đổ, sẵn sàng sử dụng vũ khí công nghệ cao. Nhằm đánh bại những âm mưu thủ đoạn của địch, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI đã xác định: phát huy sức mạnh toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh, đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng, chủ yếu, trực tiếp, đồng thời Đảng ta đã đề ra tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cho sự gắn kết nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, hoàn thiện thể chế chính trị và sự lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới của đất nước. Xác định mâu thuẫn trong tình huống…………………………………………………………… Mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu là giữa âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam trên khắp các mặt trận bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn chính trị, lật đổ, sẵn sàng sử dụng vũ khí công nghệ cao của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch với việc phát huy sức mạnh tiềm tàng của đất nước để đánh thắng địch với bất cứ hình thức, quy mô tác chiến nào, nhằm bảo vệ nền độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân…………………………………………. Xác định những vấn đề cần giải quyết trong tình huống………………………………………… Vấn đề thứ nhất: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc của chiến tranh nhân dân, xây dựng và phát huy mạnh mẽ các lực lượng để đánh bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch……………………… Vấn đề thứ hai: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh trong thời kỳ mới của đất nư Giải quyết vấn đề trong tình huống……………………………………………………………….. - Phát huy sức mạnh toàn dân tộc của chiến tranh nhân dân Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Ăng-ghen khẳng định: “Một dân tộc muốn giành độc lập cho mình thì không được giới hạn trong những phương thức thông thường để tiến hành chiến tranh. Khởi nghĩa quần chúng, chiến tranh cách mạng, các đội du kích ở khắp nơi đó là những phương thức duy nhất nhờ đó mà một dân tộc nhỏ có thể chiến thắng một dân tộc lớn. Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là cuộc chiến tranh do nhân dân Việt Nam tiến hành một cách toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội, duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội giữ vững sự ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động bất ngờ……………………………………………. -Vũ trang toàn dân, tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa 16

là một trong những quan điểm, tư tưởng cơ bản trong đường lối quân sự của Đảng; là nghệ thuật, đồng thời là quy luật giành thắng lợi của dân tộc ta trong bảo vệ thành quả cách mạng, chống cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch…………………………………. - Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh. Nội dung cơ bản xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là:………………………………………………………. + Xây dựng tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân…………………………… + Xây dựng và phát huy mạnh mẽ tiềm lực chính trị tinh thần, tiềm lực chính trị tinh thần là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh của quốc phòng, an ninh, có tác động to lớn đến hiệu quả xây dựng và sử dụng các tiềm lực khác. Tiềm lực chính trị tinh thần phản ánh thái độ chính trị của nhân dân đối với quốc gia, đối với chế độ chính trị - xã hội; là nhân tố cơ bản tạo nên tiềm lực quốc phòng, là cơ sở nền tảng chính trị tinh thần của tiềm lực (sức mạnh) quân sự. Tiềm lực chính trị - tinh thần là sức mạnh tiềm tàng về mặt chính trị tinh thần của nhân dân cả nước; thể hiện ý chí, quyết tâm củan nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần là củng cố sự đoàn kết, nhất trí cao và lòng tin của nhân dân, của cả nước vào công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cần tập trung xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần ở tình yêu quê hương, đất nước, tin Đảng, Nhà nước, chế độ; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh thần đoàn kết dân tộc, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; thực hiện thắng lợi phát triển kinh tế - xã hội, làm tốt công tác GDQP-AN…………………………………… + Xây dựng và phát huy mạnh mẽ tiềm lực kinh tế. Sức mạnh quốc phòng, an ninh của mỗi nước phụ thuộc trước hết vào nền kinh tế nước đó. Vì vậy, kinh tế không chỉ là một trong những nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh của quốc gia mà còn là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh quốc phòng, an ninh. Cho nên, xây dựng và phát triển kinh tế là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay.Tiềm lực kinh tế phải có nội lực mạnh. Nội lực đó thể hiện ở đảm bảo cơ sở vật chất ở quốc phòng, an ninh. Nội lực của tiềm lực kinh tế biểu hiện ở tính cơ động của nền kinh tế có khả năng chuyển từ thời bình sang thời chiến. Nội lực của tiềm lực kinh tế còn biểu hiện ở sức sống của nền kinh tế, ngăn ngừa hạn chế tối đa sự phá hoại của kẻ thù làm ngừng trệ, tê liệt kinh tế của ta. Xây dựng và phát huy mạnh mẽ tiềm lực kinh tế cần tập trung vào các nội dung: Nhận thức về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế; tạo thế bố trí chiến lược thống nhất về kinh tế với quốc phòng, an ninh; bảo đảm vật chất cho quốc phòng, an ninh trong thời bình, thời chiến; cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho các lực lượng vũ trang. + Xây dựng và phát huy mạnh mẽ tiềm lực khoa học, công nghệ Nền quốc phòng, an ninh của ta đòi hỏi rất cao về tiềm lực khoa học côngnghệ. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta có điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển tiềm lực khoa học công nghệ. Nhưng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân cũng đặt ra nhiệm vụ mới, yêu cầu mới mà tiềm lực khoa học công nghệ phải đáp ứng. Phải huy động tổng hợp các khoa học và công nghệ của quốc gia mà khoa học công nghệ quân sự làm nòng cốt. Nghiên cứu những vấn đề chiến lược quốc phòng - an ninh về bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo đảm an ninh, trật tự và an toàn xã hội; các cách đánh chiến lược, chiến dịch và chiến thuật; ứng dụng các cộng nghệ tiên tiến trong sửa chữa, cải tiến, chế tạo các loại vũ khí phương tiện kỹ thuật, quân trang, quân dụng phù hợp với điều kiện tác chiến mới, trong các tình huống đấu tranh vũ trang và phi vũ trang………………………………………… + Xây dựng và phát huy mạnh mẽ tiềm lực quân sự, an ninh. Tiềm lực quân sự, an ninh là nhân tố cơ bản, là nòng cốt của tiềm lực quốc phòng, an ninh, là biểu hiện tập trung, trực tiếp sức mạnh quân sự, an ninh của Nhà nước; giữ vai trò nòng cốt để bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Tiềm lực quân sự, an ninh dựa trên thành tựu của các tiềm lực chính trị - tinh thần, kinh tế, khoa học - công nghệ. Tiềm lực quân sự, an ninh là sức mạnh quân sự, an ninh có thể huy động để thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu. Tiềm lực quân sự, an ninh biểu hiện trước hết ở khả năng tối đa duy trì, hoàn thiện các lực lượng chiến đấu và không ngừng tăng cường sức chiến đấu và trình độ sẵn sàng 17

chiến đấu của các lực lượng. Tiềm lực quân sự, an ninh còn biểu hiện ở nguồn dự trữ về sức người, sức của và khả năng động viên sức người, sức của đó cho các lực lượng chiến đấu. Phải xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vững mạnh toàn diện, phù hợp với thực tế đất nước trong thời bình, đáp ứng yêu cầu của thời chiến. Xây dựng đội ngũ cán bộ cho các lực lượng vũ trang nhân dân. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang hoạt động. Bố trí lực lượng, xây dựng kế hoạch phương án, đề phòng các tình huống có thể xảy ra, kể cả chiến tranh xâm lược sử dụng vũ khí công nghệ cao ở mọi quy mô………………………………………… + Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Tiềm lực quốc phòng, an ninh gắn với thế trận quốc phòng, an ninh, đó chính là gắn “Thế” và “Lực”. Thế trận quốc phòng, an ninh là thế trận toàn dân giữ nước, toàn dân bảo vệ an ninh đất nước. Tập trung xây dựng thế trận quốc phòng, an ninh vào những nội dung sau đây:………………………………………………………… Kết hợp chặt chẽ thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân trong tổng thể bố trí chiến lược về kinh tế - xã hội………………………………………………………………………… Phân vùng chiến lược quốc phòng, an ninh kết hợp với phân vùng kinh tế, bảo đảm nguyên tắc bảo vệ và xây dựng……………………………………………………………………………………….. Xây dựng phương án, bố trí hậu phương và hậu phương vùng chiến lược, hướng chiến lược để làm chỗ dựa cho thế trận quốc phòng, an ninh Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững mạnh. + Xây dựng kế hoạch phòng thủ dân sự, phương án, triển khai lực lượng sẵn sàng chiến đấu; xây dựng cơ sở hạ tầng nền kinh tế, cải tạo, xây dựng côntrình quốc phòng, an ninh.… Tình huống 2: Bài 2 Một số hiểu biết về nền PQTD và ANND ( Lớp 12 ). .Xây dựng Quân đội và Công an nhân dân của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân theo hướng“Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại” trong điều kiện quan hệ quốc tế có nhiều thay đổi, tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Mối quan hệ quốc tế của ta đối với các nước thay đổi căn bản, trực tiếp tác động đến sự nghiệp xây dựng kinh tế củng cố quốc phòng - an ninh, đến xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Nguồn viện trợ từ bên ngoài như trước không còn nữa, mọi quan hệ trao đổi đều theo cơ chế thị trường, trong khi nền kinh tế của đất nước phát triển chưa mạnh, chưa bền vững, chưa đủ khả năng đáp ứng các yêu cầu trang bị vũ khí kỹ thuật cho lực lượng vũ trang. Phải giải quyết vấn đề trên ra sao để cho quân đội, công an nhân dân ta thực sự vững mạnh, đáp ứng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong mọi tình huống. Xác định mâu thuẫn trong tình huống…………………………………………………………….. Xây dựng Quân đội và Công an nhân dân của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động chống phá ta quyết liệt. Mâu thuẫn giữa nhu cầu củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh với khả năng đảm bảo của nền kinh tế diễn ra ngày càng gay gắt, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải kiên định sự nghiệp đổi mới, có phương sách đúng đắn xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh đáp ứng yêu cầu tình hình mới. Xác định những vấn đề cần giải quyết trong tình huống………………………………………… Vấn đề 1: Xây dựng lực lượng vũ trang trong bối cảnh đổi mới toàn diện đất nước. Vấn đề 2: Những quan điểm, nguyên tắc cơ bản xây dựng quân đội, công an nhân dân của nền quốc phòng, an ninh nhân dân trong thời kỳ mới.… Vấn đề 3: Phương hướng nội dung và biện pháp chủ yếu xây dựng quân đội, công an nhân dân của nền quốc phòng, an ninh nhân dân trong thời kỳ mới. Giải quyết vấn đề trong tình huống………………………………………………………………... * Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Đất nước ta đang bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong những năm đổi mới, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu “Thành tựu cơ bản, bao trùm là giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ 18

nghĩa; đẩy mạnh phát triển kinh tế; giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội; tạo lập được môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng quan hệ đối ngoại; tăng cường thế và lực của đất nước” (Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, BCH TW Đảng khóa IX, NXB Chính trị Quốc Gia, HN.2003). Những thành tựu trong sự nghiệp đổi mới đã tăng cường tiềm lực của đất nước, tạo thế và lực mới để ta tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự đổi mới của đất nước, lực lượng vũ trang quân đội và công an nhân dân có sự đổi mới toàn diện cả nhận thức và hoạt động thực tiễn; tích cực tham gia xây dựng và đấu tranh trên mọi lĩnh vực, góp phần bảo vệ sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN.………………………………………………………………………………………….. * Những quan điểm, nguyên tắc cơ bản xây dựng quân đội, công an nhân dân của nền quốc phòng, an ninh nhân dân trong thời kỳ mới…………………………………………………………………... - Tự lực, tự cường xây dựng lực lượng vũ trang……………………………………………………… + Độc lập tự chủ, tự lực, tự cường là truyền thống quý báu của nhân dân Việt Nam, là nét văn hoá, tính cách đặc trưng của các dân tộc trên đất nước ta………………………………………………….. + Quán triệt, thực hiện tốt quan điểm tự lực tự cường xây dựng lực lượng vũ trang trên cơ sở nền kinh tế nước ta. Giải quyết vũ khí trang bị cho lực lượng vũ trang theo định hướng “từng bước hiện đại” là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải phát huy cao độ nội lực + Đối với lực lượng vũ trang phải làm tốt công tác quản lý, bảo quản, sử dụng có hiệu quả trang thiết bị kỹ thuật hiện có, thực hiện tốt phương châm “tiết kiệm, giữ tốt, dùng bền”. - Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân lấy chất lượng là chính, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở + Thường xuyên chăm lo đến đời sống vật chất của lực lượng vũ trang, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có đức, có tài………………………………………………………………………………….. + Làm cho cán bộ, chiến sĩ tin tưởng tuyệt đối và chấp hành đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. Nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, với tinh thần “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”………………………... + Xây dựng các tổ chức quần chúng trong lực lượng vũ trang. Nâng cao sức mạnh chiến đấu của tổ chức đảng, chuyên môn nghiệp vụ của chỉ huy, cơ quan. Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ………………………………………………………….. - Bảo đảm lực lượng vũ trang luôn luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu……………………………... + Chức năng, nhiệm vụ cơ bản thường xuyên của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi……………………………………………………………………. + Nắm vững tình hình địch, những âm mưu thủ đoạn và cách thức hoạt động của chúng, thường xuyên nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng………………………………………………………. + Chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ quy định về sẵn sàng chiến đấu……………………………… + Xây dựng các phương án, xử lý các tình huống, tổ chức luyện tập và bổ sung thường xuyên cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ cụ thể………………………………………………………………. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân……………………………. + V.I Lênin cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất quyết định sức mạnh, sự tồn tại, phát triển, khả năng chiến đấu và chiến thắng của lực lượng vũ trang + Đảng lãnh đạo các lực lượng vũ trang theo nguyên tắc “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”. + Phải xây dựng các tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang trong sạch vững mạnh, coi trọng và nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị. Chăm lo kiện toàn đổi mới các hoạt động của các tổ chức quần chúng……………………………………………………………………………………... * Phương hướng nội dung và biện pháp chủ yếu xây dựng quân đội, công an nhân dân của nền quốc phòng, an ninh nhân dân trong thời kỳ mới…………………………………………………………... - Phương hướng nội dung chủ yếu:…………………………………………………………………. + Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh toàn diện, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện 19

đại; bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch và mọi ý đồ, hành động xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; không để bị động, bất ngờ”……………………… + Xây dựng LLVT chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại gồm: Bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và với nhân dân; trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao; phẩm chất, lối sống, đạo đức lành mạnh giản dị; có năng lực chỉ huy trong mọi tình huống, ngăn chặn, đẩy lùi các tội phạm, tệ nạn xã hội.… + Xây dựng dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên rộng khắp, lấy chất lượng là chính. + Đầu tư cho công nghiệp quốc phòng, trang bị kỹ thuật hiện đại cho Quân đội nhân dân và cho Công an nhân dân…… + Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân… - Biện pháp chủ yếu:…………………………………………………………………………………. + Tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân, phù hợp với chức năng nhiệm vụ thời bình và thời chiến + Xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng, dân quân tự vệ + Nâng cao chất lượng huấn luyện, giáo dục, xây dựng và phát triển khoa học quân sự Việt Nam + Từng bước giải quyết yêu cầu về vũ khí trang bị kỹ thuật của lực lượng vũ trang để chống lại cuộc chiến tranh hiện đại do kẻ thù gây ra, trên cơ sở tiến hành chiến tranh nhân dân. + Xây dựng đội ngũ cán bộ lực lượng vũ trang có phẩm chất năng lực tốt. + Thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các chính sách của Đảng, luật pháp của Nhà nước trong xây dựng lực lượng vũ trang.… Tình huống 3: Bài 2 Một số hiểu biết về nền PQTD và ANND ( Lớp 12 ). : Những chủ nhân tương lai của đất nước, học sinh có vị trí quan trọng, trách nhiệm lớn lao trước xã hội đó là: Vừa phải có nhận thức đúng, đầy đủ về công tác quốc phòng, an ninh cũng như GDQP - AN trong tình hình hiện nay khi mà trong đời sống xã hội có nhiều tác động tiêu cực đến môi trường sống, môi trường học tập; vừa phải học tập, rèn luyện thật tốt, vừa phải xây dựng niềm tin với đất nước, đồng thời có trách nhiệm đóng góp sức mình vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân. Xác định mâu thuẫn trong tình huống……………………………………………………………. Mâu thuẫn cơ bản, bao trùm của sự tác động nhiều mặt trái của xã hội vào môi trường sống, môi trường học tập của học sinh với việc nhận thức đầy đủ vị trí, tầm quan trọng công tác GDQP-AN trong nhà trường. Trên cơ sở đó, học sinh xác định rõ trách nhiệm, ra sức học tập, rèn luyện tốt, đóng góp sức mình vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.… Xác định những vấn đề cần giải quyết trong tình huống………………………………………… Vấn đề 1: Nhận thức của Sinh viên về vấn đề xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong tình hình mới khi mà đất nước đang có hòa bình. Vấn đề 2: Nâng cao trách nhiệm của Sinh viên trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.… Giải quyết vấn đề trong tình huống………………………………………………………………... - Nhận rõ âm mưu thủ đoạn nham hiểm của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn chính trị, lật đổ. - Nhận thức về tính tất yếu khách quan xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững mạnh trong thời kỳ mới Từ thời Cổ đại đến Trung cổ đến Cận đại rồi thời đại ngày nay, chúng ta thấy rõ bất cứ quốc gia độc lập nào chỉ chăm lo dựng nước mà đặt nhẹ, xao nhãng vấn đề giữ nước thì đều bị động về chiến lược, hoặc bị thất bại ngay từ đầu hoặc bị kẻ thù thôn tính. Dựng nước phải đi đôi với giữ nước đó là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta qua mấy ngàn năm lịch sử. Nghị quyết Đại hội VII xác định “Quyết tâm tập trung sức lực vào mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, vượt khỏi nước nghèo và kém phát triển, tạo điều kiện phát triển hơn nữa vào đầu thế kỷ. Đồng thời, không ngừng chăm lo củng cố quốc phòng, 20

chuẩn bị đất nước sẵn sàng, phát triển từng bước thích hợp, tiến hành có kế hoạch trong nhiều năm để ngày càng hoàn chỉnh. Đây là nhiệm vụ chiến lược vừa thường xuyên, lâu dài, vừa khẩn trương cấp bách trong cục diện đất nước ngày nay, đó là nhiệm vụ quốc phòng của toàn dân, của toàn quân, của cả hệ thống chính trị”. - Nhận rõ quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong thời kỳ mới. - Nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. - Nhận thức và thấy rõ những giải pháp xây dựng tổ chức thực hiện nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân trong thời kỳ mới. - Nâng cao trách nhiệm của học sinh trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân + Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là trách nhiệm của toàn dân, trong đó học sinh, những chủ nhân tương lai của đất nước có vị trí, vai trò quan trọng.… + Học sinh phải luôn tích cực học tập tốt, rèn luyện tốt, luôn tin tưởng vào sự thắng lợi của công cuộc đổi mới, vững tin vào con đường CHXH.,,, + Không ngừng học tập, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu CNXH, góp sức cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. + Tích cực học tập nâng cao hiểu biết về mọi mặt, nắm vững kiến thức GDQP - AN; ra sức luyện tập thành thạo các kỹ năng quân sự, an ninh. Thực hành dạy học theo những tình huống,,,, - Tổ chức lớp học, phân chia thành các nhóm học sinh trong lớp, với số lượng từ 8 đến 10 em. - Phân tình huống cho các nhóm học sinh giải quyết.. - Hướng dẫn các nhóm thảo luận, phân tích tình huống bằng cách đặt ra những câu hỏi quan trọng hoặc những vấn đề then chốt của tình huống.,, -Khi dạy học, giải quyết tình huống phải theo quy trình các bước sau đây: + Cá nhân tự nghiên cứu về mục đích, yêu cầu, những vấn đề trong tình huống cần giải quyết và đề ra cách giải quyết tình huống. + Thảo luận theo nhóm để tìm ra phương pháp giải quyết tình huống trên cơ sở mục đích, yêu cầu đặt ra.,,,, + Viết báo cáo phân tích tình huống. + Thảo luận chung cả lớp.,, ,- Giáo viên tổng kết thời gian tranh luận của học sinh, tiến hành giảng giải, phân tích những vấn đề trọng tâm, cốt lõi trong giải quyết tình huống và kết luận cách xử lý tình huống..,,,,,..., ,Kết quả bài học theo phương pháp tình huống được đánh giá bởi sức thu hút, hấp dẫn của buổi học, ai cũng động não, phát huy óc phê phán, óc tư duy sáng tạo, tích cực tham gia thảo luận để tìm ra phương án xử lý tối. 3.1.4.2 Đánh giá kết quả dạy học bằng phương pháp tình huống Đánh giá trong kết quả dạy học bằng phương pháp tình huống được tiến hành theo một số nội dung cơ bản sau đây:… - Đánh giá về tinh thần, thái độ của sinh viên trong việc nghiên cứu cá nhân, thảo luận nhóm, viết báo cáo phân tích tình huống (nếu có) và thảo luận chung của cả lớp. - Đánh giá kết quả về nhận thức, hiểu biết chung của tập thể lớp học sinh trong xác định mâu thuẫn của tình huống, những vấn đề cần giải quyết trong tình huống xây dựng. - Đánh giá kết quả phân loại cho Học sinh trong lớp theo các mức xuất sắc, giỏi, khá, trung bình, kém. - Đánh giá kết quả về rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo của học sinh trong thảo luận, trình bày chính kiến, viết báo cáo phân tích tình huống và xử lý tình huống. - Đánh giá trình độ khả năng xây dựng tình huống trong một số hiểu biết về nền quốc phòng toàn 21

dân, an ninh nhân dân.… - Đánh giá công tác tổ chức, điều khiển lớp học cho học sinh của giáo viên khi thực hiện dạy học bằng phương pháp tình huống.

Xử lý tình huống vai trò của quân đội nhân dân Việt Nam và công an nhân dân Việt Nam. 3.1.4.3. Quy trình xây dựng, xử lý và soạn bài giảng tính huống về giáo dục quốc phòng - an ninh. a) Xây dựng được tình huống thực tế Muốn có phương pháp dạy học bằng tình huống thì phải xây dựng được tình huống thực tế, phù hợp cho từng trình độ, khả năng dạy học. Một điều kiện mang tính tiên quyết để đạt được hiệu quả của phương pháp tình huống là phải có tính thực tế. Trong GDQP-AN có thể có rất nhiều tình huống để phân tích nhưng để có được phương án tối ưu nhất không phải dễ. Xây dựng được tình huống sẽ

cần nhiều thời gian đòi hỏi giáo viên phải có kỹ năng nhất định trong chuyên môn quốc phòng, an ninh, trong hoạt động thực tiễn GDQP-AN, nhất là kinh qua các cuộc chiến tranh. Khi xây dựng tình huống về chiến thuật, giáo viên cần nắm chắc tư tưởng chỉ đạo, yêu cầu đạt

được của chiến thuật, nắm chắc tình hình địch, ta, quan hệ với đơn vị xung quanh, thực tế trang bị

vũ khí bảo đảm cho trận đánh có hiệu quả. Ví dụ: Tình huống chiến thuật: Từng người tiến công 22

địch trong ụ súng, lô cốt, chiến hào, giao thông hào, căn nhà. Trong khi đó địch có hệ thống hàng rào dây thép gai, có xe tăng, xe bọc thép án ngữ.

Tình huống được xây dựng để mọi người phải thấy được đâu là mâu thuẫn, đâu là vấn đề khó khăn cần giải quyết, khó khăn khi đánh chiếm mục tiêu. Trong ụ súng, lô cốt địch có mấy tên, chúng

đang dùng hỏa lực gì bắn trực tiếp vào hướng tiến công. Bên trái, bên phải địch trong lô cốt, ụ súng

có lực lượng nào chi viện cho chúng không. Người chiến sĩ phải làm như thế nào để vận động tới

gần địch, vận động theo hướng nào, lợi dụng địa hình, địa vật ra sao, có cần người khác chi viện hay không, một loạt vấn đề của tình huống đặt ra cần giải quyết. Muốn giải quyết được tình huống

chiến thuật, người dạy và người học phải căn cứ vào các yêu cầu chiến thuật như: Bí mật, bất ngờ,

tinh khôn, mưu mẹo; dũng cảm, linh hoạt, kịp thời; biết phát hiện và lợi dụng nơi sơ hở, hiểm yếu

của địch, tiếp cận đến gần tiêu diệt địch; độc lập chiến đấu, chủ động hiệp đồng, liên tục chiến đấu;

phát huy cao độ hiệu quả của vũ khí, trang bị để tiêu diệt địch, tiết kiệm đạn dược; đánh nhanh, sục sạo kỹ, vừa đánh vừa địch vận.

Khi xây dựng tình huống về kỹ thuật giáo viên cần nắm chắc từ hiện tượng đến bản chất của

từng nội dung về kỹ thuật. Nếu ta xây dựng tình huống “Hiện tượng bắn”, “Sức giật và sự hình

thành góc nảy” thì vấn đề (tình huống) đặt ra là tại sao đầu đạn lại vận động được trong nòng súng

và trong không gian, mối quan hệ giữa đầu đạn và áp lực khí thuốc ra sao, cần bao nhiêu áp lực khí

thuốc để đầu đạn tách khỏi vở đạn bắt đầu vận động, cần bao nhiêu áp lực khí thuốc (P mắc) để đầu

đạn vận động trong nòng súng có độ xoáy lớn khi ra khỏi mặt cắt phía trước của nòng súng có vận tốc lớn nhất (V mắc). Tại sao khi bắn súng có hiện tượng súng giật về sau, bị vai ta chặn lại, người

bắn có cảm giác ê vai hoặc bị đau vai. Tại sao súng giật về sau, súng giật gây ra góc nảy như thế

nào, có mấy nguyên nhân gây ra góc nảy, góc nảy có ảnh hưởng tới bắn trúng mục tiêu như thế nào,

biện pháp hạn chế góc nảy ra sao? Muốn giải quyết được tình huống kỹ thuật, người dạy và học

phải nắm rất chắc nguyên lý bắn súng bộ binh, đồng thời phải có những kinh nghiệm nhất định

trong cuộc sống, trong thực tế sử dụng các loại vũ khí.

Khi xây dựng tình huống thuộc phần lý luận, đây là vấn đề khó, đòi hỏi giáo viên phải có

trình độ lý luận, khả năng khái quát cao, có nhiều thông tin, nhưng thông tin đó phải được cập nhật, mang tính thời sự. Giáo viên cần có thời gian, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, những dẫn chứng minh họa sát thực, tính khoa học cao. Ví dụ “Xây dựng tỉnh (thành phố) thành khu vực phòng thủ vững chắc, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, vấn đề tình huống được đặt ra: Thế nào là khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố); tại sao ta lại phải xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố); khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) có vị trí tác dụng, vị trí chiến lược quan trọng như thế nào trong

từng giai đoạn lịch sử - trong thời bình và trong thời chiến; nhiệm vụ, nội dung, biện pháp chủ yếu xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố). Tình huống được đặt ra trên đây được giải quyết như thế nào là cả một quá trình học hỏi, tích lũy kinh nghiệm của giáo viên. Không thể nói là “Có”, “Không”, “Rất quan trọng”, nhưng có như thế nào, tại sao không, quan trọng đến mức nào, là sự thể hiện trình độ lý luận, thực tiễn của

23

giáo viên.

b) Xử lý tình huống (giải quyết vấn đề trong tình huống) Muốn xử lý đúng đắn một tình huống phải qua 4 bước: - Điều tra, nghiên cứu tình hình trên quan điểm hệ thống, toàn diện để thấy được bản chất

của sự mâu thuẫn trong tình huống.

- Phân tích các tình huống, mâu thuẫn trên cơ sở lý luận và thực tiễn.

- Tổng hợp, đề ra những chủ trương, biện pháp, phương pháp, cách làm cụ thể để xử lý, giải

quyết tình huống.

- Hành động trả lời câu hỏi làm gì, làm thế nào, ai làm, bao giờ làm, những điều kiện cần có

để làm ra sao.

Xử lý một tình huống giỏi hay không còn tùy thuộc vào trình độ kiến thức cả về lý luận và

thực tế của người hữu trách. Vì vậy, ra sức học tập cho giỏi là nhằm mục đích ứng xử giải quyết vấn đề giỏi, xử lý tình huống giỏi.

Dành thời gian quan trọng cho việc thu thập phân loại, phân tích những tình huống có thật

và cụ thể liên quan đến bài giảng. Trường hợp thật cần thiết có thể hư cấu nhưng phải hư cấu như

thật, cốt lõi của tình huống vẫn phải là có thật. Như vậy thì việc nghiên cứu và thảo luận tìm ra

phương án xử lý tối ưu mới mang tính hấp dẫn đối với người học.

Giảng viên, giáo viên làm công tác giảng dạy giỏi theo phương pháp tình huống ngoài khả

năng chuyên môn, còn có một : “Ngân qũy” tình huống có liên quan đến GDQP-AN. Cập nhật thông tin mới, tìm những tình huống mới có vấn đề trong GDQP-AN là việc làm thường xuyên của

cán bộ giảng dạy.

c) Soạn bài giảng theo phương pháp tình huống - Xác định rõ mục đích, yêu cầu của bài mục

- Giới thiệu lý thuyết hoặc những nguyên tắc cơ bản. Giới thiệu tài liệu, sách mà người học

có thể cần đọc, nghiên cứu, tham khảo.

- Giới thiệu tình huống - nghiên cứu cá nhân hoặc nghiên cứu thảo luận theo nhóm, hoặc

- Tổng kết thời gian tranh luận của học sinh, sinh viên, củng cố nâng cao phần lý thuyết và

thảo luận ở lớp tùy thuộc vào không gian, thời gian, tính chất của tình huống. khả năng thực hành. Kết quả bài giảng theo phương pháp tình huống được đánh giá bởi sức thu hút, hấp dẫn của buổi học, ai cũng động não, phát huy óc phê phán, óc tư duy sáng tạo, tích cực tham gia thảo luận để tìm ra phương án xử lý tối ưu.

+ Tình huống phải gây được hứng thú đối với học sinh. d) Một số nội dung dạy học bằng phương pháp tình huống trong bài “Một số hiểu biết về

nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân” cho học sinh lớp 12

- Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng CNXH và

bảo vệ Tổ quốc XHCN. Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế.

24

Gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh; phối hợp chặt chẽ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại.

- Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là niệm vụ trọng yếu thường xuyên của

Đảng, Nhà nước và của toàn dân.

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, thể chế hóa các chủ trương, chính sách

của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, ANND. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

Quân đội, Công an, đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh.

- Nền quốc phòng, an ninh nhân dân là nền quốc phòng, an ninh của dân, do dân, vì dân,

nhằm mục đích duy nhất là tự vệ chính đáng; nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân

dân.

- Mục đích, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân

dân trong giai đoạn hiện nay. Nâng cao trách nhiệm của học sinh, sinh viên trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.

e) Thực hành dạy học theo những tình huống - Tổ chức lớp học, phân chia thành các nhóm học sinh trong lớp, với số lượng từ 8 đến 10

em.

- Phân tình huống cho các nhóm học sinh giải quyết.

- Hướng dẫn các nhóm thảo luận, phân tích tình huống bằng cách đặt ra những câu hỏi quan

trọng hoặc những vấn đề then chốt của tình huống. - Khi dạy học, giải quyết tình huống phải theo quy trình các bước sau đây:

+ Cá nhân tự nghiên cứu về mục đích, yêu cầu, những vấn đề trong tình huống cần giải

quyết và đề ra cách giải quyết tình huống.

+ Thảo luận theo nhóm để tìm ra phương pháp giải quyết tình huống trên cơ sở mục đích,

yêu cầu đặt ra.

+ Viết báo cáo phân tích tình huống.

+ Thảo luận chung cả lớp.

- Giáo viên tổng kết thời gian tranh luận của học sinh, tiến hành giảng giải, phân tích những

vấn đề trọng tâm, cốt lõi trong giải quyết tình huống và kết luận cách xử lý tình huống. Kết quả bài học theo phương pháp tình huống được đánh giá bởi sức thu hút, hấp dẫn của buổi học, ai cũng động não, phát huy óc phê phán, óc tư duy sáng tạo, tích cực tham gia thảo luận để tìm ra phương án xử lý tối ưu.

f) Đánh giá kết quả dạy học bằng phương pháp tình huống Đánh giá trong kết quả dạy học bằng phương pháp tình huống được tiến hành theo một số

nội dung cơ bản sau đây:

- Đánh giá về tinh thần, thái độ của sinh viên trong việc nghiên cứu cá nhân, thảo luận nhóm,

viết báo cáo phân tích tình huống (nếu có) và thảo luận chung của cả lớp.

- Đánh giá kết quả về nhận thức, hiểu biết chung của tập thể lớp học sinh trong xác định

25

mâu thuẫn của tình huống, những vấn đề cần giải quyết trong tình huống xây dựng.

- Đánh giá kết quả phân loại cho học sinh trong lớp theo các mức xuất sắc, giỏi, khá, trung

bình, kém

- Đánh giá kết quả về rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo của học sinh trong thảo luận, trình bày chính

kiến, viết báo cáo phân tích tình huống và xử lý tình huống.

- Đánh giá trình độ khả năng xây dựng tình huống trong một số hiểu biết về nền quốc phòng

toàn dân, an ninh nhân dân

- Đánh giá công tác tổ chức, điều khiển lớp học cho học sinh của giáo viên khi thực hiện dạy

học bằng phương pháp tình huống.

3.1.5. Thực nghiệm sư phạm dạy học các phương pháp truyền thống các khối lớp của

trường THPT Chuyên ‘Thoại Ngọc Hầu” bài “Một số hiểu biết về nền quốc phòng toàn dân,

an ninh nhân dân”

3.1.5.1 Dạy học theo phương pháp truyền thống

Nội dung “Xây dựng Quân đội và Công an nhân dân theo hướng“Cách mạng, chính quy,

tinh nhuệ và từng bước hiện đại” trong xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh khi thế giới có nhiều

diễn biến phức tạp, quan hệ quốc tế thay đổi trực tiếp tác động đến xây dựng kinh tế củng cố quốc

phòng, an ninh, đến xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Nguồn viện trợ từ bên ngoài như trước

không còn, quan hệ trao đổi theo cơ chế thị trường, nền kinh tế đất nước phát triển chưa mạnh,

chưa bền vững, chưa đáp ứng các yêu cầu trang bị vũ khí kỹ thuật cho lực lượng vũ trang”

Phương pháp dạy học giáo viên chủ yếu dùng phương pháp thuyết trình, và đọc cho học sinh

ghi chép. Kết quả dạy học theo phương pháp thuyết trình

- Học sinh chủ yếu ghi chép, luôn thụ động trong khi giáo viên giảng bài

- Học sinh không hiểu được những vấn đề quan trọng đặt ra trong nền quốc phòng toàn dân,

an ninh nhân dân hiện nay

Bảng kết quả cụ thể dạy học theo phương pháp truyền thống (thuyết trình) “Một số hiểu

biết về nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân”

Kết quả

Trường THPT Chuyên

Số

Ghi

Số

”Thoại Ngọc Hầu”

HS

chú

TT

X sắc Giỏi Khá

Kém

TB

Lớp 12T1

34

0

6

10

0

18

1

Lớp 12T2

35

0

6

7

0

22

2

Lớp 12H

34

0

5

10

0

19

3

Lớp 12S

35

0

5

12

0

18

4

Tổng

4 Lớp thực nghiệm

138 0

22

39

0

77

3.1.5..2. Dạy học theo phương pháp tình huống

Nội dung “Xây dựng Quân đội và Công an nhân dân theo hướng“Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại” trong xây dựng tiềm lực quân sự, an ninh khi thế giới có nhiều

26

diễn biến phức tạp, quan hệ quốc tế thay đổi trực tiếp tác động đến xây dựng kinh tế củng cố quốc phòng, an ninh, đến xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Nguồn viện trợ từ bên ngoài như trước

không còn, quan hệ trao đổi theo cơ chế thị trường, nền kinh tế đất nước phát triển chưa mạnh, chưa bền vững, chưa đáp ứng các yêu cầu trang bị vũ khí kỹ thuật cho lực lượng vũ trang”

- Giáo viên nêu tình huống, yêu cầu lớp học xác định mâu thuẫn và những vấn đề cần giải

quyết trong tình huống.

- Căn cứ vào thời gian, khối lượng dạy học theo phương pháp tình huống đối với học sinh

thảo luận,tìm cách xử lý tình huống trong thời gian nhất định.

Kết quả dạy học theo phương pháp tình huống

- Quá trình thảo luận, học sinh thấy được xây dựng Quân đội và Công an nhân dân khi các

thế lực phản động chống phá ta quyết liệt. Thấy được mâu thuẫn giữa nhu cầu củng cố quốc phòng

- an ninh, xây dựng LLVT nhân dân vững mạnh với khả năng đảm bảo của nền kinh tế diễn ra ngày càng gay gắt, đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải kiên định sự nghiệp đổi mới, có phương sách đúng

đắn xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh đáp ứng yêu cầu tình hình mới.

- Học sinh nhận thức được xây dựng lực lượng vũ trang trong bối cảnh đổi mới toàn diện đất

nước. Thấy được những quan điểm, nguyên tắc cơ bản xây dựng quân đội, công an nhân dân và

phương hướng nội dung và biện pháp chủ yếu xây dựng quân đội, công an nhân dân của nền quốc

phòng, an ninh nhân dân trong thời kỳ mới.

Bảng kết quả cụ thể dạy học bằng tình huống “Một số hiểu biết về nền quốc phòng toàn

dân, an ninh nhân dân”

Kết quả

Trường THPT Chuyên ”Thoại Ngọc Hầu”

Số HS

Ghi chú

Số TT

X sắc Giỏi Khá

TB

Kém

Lớp 12L

33

5

18

10

0

0

1

Lớp 12T_Tin

32

7

17

8

0

0

2

Tổng

2 Lớp thực nghiệm

65

12

35

18

0

0

3.1.5.3 Dạy học theo phương pháp truyền thống Nội dung “Học sinh vừa phải có nhận thức đúng, đầy đủ về quốc phòng, an ninh cũng như GDQP - AN hiện nay khi mà trong đời sống xã hội có nhiều tác động tiêu cực đến môi trường sống, học tập; vừa học tập, rèn luyện thật tốt, vừa phải xây dựng niềm tin với đất nước, đồng thời có trách nhiệm đóng góp sức mình vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân”

Kết quả dạy học theo phương pháp thuyết trình

- Học sinh chủ yếu ghi chép, luôn thụ động trong khi giáo viên giảng bài - Học sinh chưa thấy được trách nhiệm của bản thân phải học tập, rèn luyện thật tốt, chưa thấy được phải xây dựng niềm tin với đất nước để đóng góp sức mình vào xây dựng nền QPTD, ANND

27

Bảng kết quả cụ thể dạy học theo phương pháp truyền thống (thuyết trình) “Học sinh vừa phải có nhận thức đúng, đầy đủ về quốc phòng, an ninh cũng như GDQP -

AN hiện nay khi mà trong đời sống xã hội có nhiều tác động tiêu cực đến môi trường sống, học tập; vừa học tập, rèn luyện thật tốt, vừa phải xây dựng niềm tin với đất nước, đồng thời có trách nhiệm

đóng góp sức mình vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân”

Kết quả

Trường THPT Chuyên

Số

Ghi

Số

”Thoại Ngọc Hầu”

HS

chú

TT

X sắc Giỏi Khá

TB

Kém

1

Lớp 12L

35

0

6

18

11

0

2

Lớp 12T1

35

0

7

16

12

0

3

Lớp 12B1

36

0

6

6

24

0

Tổng

3 Lớp thực nghiệm

106

0

19

40

47

0

3.1.5.4 Dạy học theo phương pháp tình huống Nội dung “Học sinh vừa phải có nhận thức đúng, đầy đủ về quốc phòng, an ninh cũng như

GDQP - AN hiện nay khi mà trong đời sống xã hội có nhiều tác động tiêu cực đến môi trường sống, học tập; vừa học tập, rèn luyện thật tốt, vừa phải xây dựng niềm tin với đất nước, đồng thời có

trách nhiệm đóng góp sức mình vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân”

Phương pháp dạy học: Giáo viên nêu tình huống, yêu cầu lớp học xác định mâu thuẫn và

những vấn đề cần giải quyết trong tình huống.

Kết quả dạy học theo phương pháp tình huống.

- Quá trình thảo luận, học sinh thấy được tầm quan trọng của công tác quốc phòng, an ninh

cũng như GDQP - AN trong giai đoạn hiện nay.

- Học sinh xác định được tinh thần, thái độ và quyết tâm học tập tốt, rèn luyện tốt, nhất là

trong GDQP-AN để đóng góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng nền QPTD, ANND vững mạnh

trong thời kỳ mới.

Bảng kết quả cụ thể dạy học bằng tình huống “Về nhận thức công tác QP, AN và GDQP -

AN, đồng thời phải học tập,rèn luyện tốt cho sự nghiệp xây dựng nền QPTD, ANND”.

Kết quả

Trường THPT Chuyên

Số

Ghi

Số

”Thoại Ngọc Hầu”

HS

chú

TT

X sắc Giỏi Khá

TB

Kém

Lớp 12S

35

14

18

3

0

1

Lớp 12T2

35

10

14

11

0

2

Lớp 12H

34

11

18

5

0

3

3 Lớp thực nghiệm

104

35

50

19

0

Tổng Nhận xét

Từ kết quả thực nghiệm khẳng định: Dạy học bằng phương pháp tình huống, được chuẩn bị

28

đầy đủ các điều kiện về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất phương tiện dạy học... vào trong nội dung hiểu biết về nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân sẽ đem lại hiệu quả cao hơn với bất cứ cách dạy học, hình thức dạy học nào.

Phương pháp dạy học bằng tình huống trong GDQP - AN để nâng cao chất lượng, hiệu quả môn học nguyên tắc, yêu cầu cao đối với các tổ chức, đơn vị và đội ngũ giáo viên. Kết quả thực nghiệm vào nội dung những hiểu biết về nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân là những kinh nghiệm, bài học có giá trị sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn, cần vận dụng vào hoạt động quốc phòng, an ninh và GDQP - AN.

3.1.6. Đánh giá kết quả trong quá trình áp dụng phương pháp tình huống. 3.1.6.1. Kết quả ở các năm giảng dạy Qua 4 năm thực hiện phương pháp tình huống để giảng dạy và huấn luyện cho thấy:

Năm học 2015-2016 Giỏi ( 8-10) Số HS Khối TB ( 5.0-6.4) Kém (< 3.5 )

SL % Khá ( 6.5- 7.9) SL % SL % Yếu ( 3.5- 4.9) SL % %

412 400 406

0 0 0 0 0 0 0 0 100% 0 412 10 100% 0 382 11 100% 0 406 12 Tổng 1.218 1.218 100% 0 0% 0% 0% 0% 0 0 0 0 0 0 0 0 0 SL 0 0 0 0 0 0 0

Năm học 2016-2017

Số HS

Khối Giỏi ( 8-10) TB ( 5.0-6.4) Khá ( 6.5-7.9) Kém(< 3.5)

SL % SL % SL % Yếu ( 3.5- 4.9) SL % SL %

408 403 396 408 403 396

0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 14 0% 0% 0% 0% 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

Kém(< 3.5)

100% 10 100% 11 100% 12 Tổng 1.207 1.207 100% Năm học 2017-2018 Giỏi ( 8-10) Số HS Khối TB ( 5.0-6.4) Khá ( 6.5-7.9)

SL % 408 403 396 431 404 396

SL % 0 0 0 0 0 0 0 0 SL % 0% 0 0% 0 0% 0 0% 14 Yếu ( 3.5- 4.9) SL % 0 0 0 0 0 0 0 0 SL % 0 0 0 0 0 0 0 0

100% 10 100% 11 100% 12 Tổng 1.207 1.207 100% Năm học 2018-2019

29

Khối Số HS Giỏi ( 8-10) TB ( 5.0-6.4) Khá ( 6.5-7.9) Yếu ( 3.5- 4.9) Kém (< 3.5)

426 10 404 12 Tổng 830 SL % 426 404 830 SL % 0 0 0 0 0 0 SL % 0% 0 0% 0 0% 0 SL % 0 0 0 0 0 0 100% 100% 100%

SL % 0 0 0 0 0 0 Qua số liệu từ các năm học cho thấy, việc áp dụng tình huống vào giảng dạy đã nâng cao chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh. Hầu hết các năm học tỉ lệ học sinh đạt loại Giỏi chiếm tỉ lệ 100%.

3.1.6.2. Thời gian thực hiện Bắt đầu thực hiện từ năm học 2015-2016 đến nay. 3.1.6.3. Biện pháp tổ chức - Thực hiện giảng dạy theo mô hình lớp học hoặc giảng dạy tập trung (nếu có điều kiện

về cơ sở vật chất).

- Thiết kế nội dung tình huống và lồng ghép vào nội dung bài giảng có thể áp dụng cho

nôi dung giảng dạy môn Giáo dục quốc phòng an ninh.

- Quá trình sử dụng tình huống có thể thực hiện ngay phần mở đầu của tiết học. - Tùy vào nội dung tình huống mà phân bổ số lượng học sinh tham gia, có thể phân thành tiểu đội.

IV. Hiệu quả đạt được: Những điểm khác biệt trước và sau khi áp dụng sáng kiến; Lợi ích thu được khi sáng kiến áp dụng: - Trước khi thực hiện sáng kiến, học sinh luôn bị nhàm chán với môn học, lơ là với hình thức giảng dạy theo các phương pháp truyền thống. Giáo viê giữ vai trò chủ đạo chưa phát huy được tính tích cực của học sinh. Kết quả học tập cho thấy: tỉ lệ loại khá chiếm cao hơn so với năm học áp dụng sáng kiến. - Sau khi thực hiện sáng kiến, học sinh hứng thú tham gia xây dựng bài học, hình thành cho các em năng lực học tập, kĩ năng trong học tập...cách đưa ra các tình huống cho từng nội dung bài học của giáo viên đem lại giúp cho học sinh nhớ sâu về kiến thức. Kết quả đạt được ở học kì I năm học 2015- 2016 khi thực hiện sáng kiến cho thấy tỉ lệ học sinh loại khá giảm, giỏi tăng và không có học sinh nào đạt mức trung bình.

- Môn GDQP-AN là môn học còn khá mới mẻ với các em trong chương trình phổ thông, một số bài lý thuyết trong mộn học còn khô khan, tài liệu tham khảo và mở rộng kiến thức cho giáo viên và học sinh còn hạn chế. Vì vậy, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư, tìm tòi, học hỏi để có thể mang đến cho các em một luồng sinh khí mới trong mỗi tiết học, giúp các em có thể chủ động nắm bắt những kiến thức cơ bản nhất (được thể hiện rõ nhất qua bảng kết quả từng năm học).

- Để đánh giá mức độ học tập cũng như yêu thích các tình huống giáo viên đưa ra cho từng nội dung được lồng ghép vào giảng dạy và huấn luyện, tôi tiến hành phát phiếu điều tra khảo sát ở một số lớp học, ở 2 khối 10, 12. Qua kết quả khảo sát từ phiếu điều tra về mức độ tham gia sôi

30

nổi trong các tiết học Quốc phòng an ninh khi có áp dụng phương pháp tình huống vào giảng dạy và hứng thú của các em đối với việc lồng ghép phương pháp tình huống vào tiết dạy ở các khối lớp: 10T1, 10S, 10A1, 10B1, 12H, 12S, 12 L.

Kết quả đạt được như sau: Trước khi vận dụng phương pháp tình huống

21%

25%

Cần thiết

Không cần thiết

Khó hiểu

Nhàm chán

29%

25%

Biểu đồ 1 Trước khi vận dụng phương pháp tình huống

Tiết học QPAN trở nên Cần thiết Không cần thiết Khó hiểu Nhàm chán Tỉ lệ 21% 29% 25% 25%

STT 1 2 3 4 Kết quả sau khi vận dụng phương pháp tình huống

5%

15%

Cần thiết

10%

Không cần thiết

Khó hiểu

Nhàm chán

70%

Biểu đồ 2: Sau khi vận dụng phương pháp tình huống

31

STT 1 2 3 4 Tiết học QPAN trở nên Cần thiết Không cần thiết Khó hiểu Nhàm chán Tỉ lệ 70% 10% 15% 5%

30%

25%

20%

15%

25%

24%

10%

19%

18%

5%

0%

Tiết học sinh động

Tình huống sinh động qua các tiết học

Học sinh nhiệt tình tham gia

Mang tính tích cực tự học và tìm hiểu cao

Trước khi vận dụng phương pháp tình huống

Biểu đồ 3: Trước khi vận dụng phương pháp tình huống

STT 1 2 3 4 Tỉ lệ Tiết học QPAN trở nên Tiết học sinh động 25% Tình huống sinh động qua các nội dung 18% 24% Học sinh nhiệt tình tham gia Mang tính tích cực tự học và tìm hiểu cao 19%

Sau khi vận dụng phương pháp tình huống

32

100%

90%

80%

70%

60%

50%

90%

40%

80%

75%

30%

60%

20%

10%

0%

Tiết học sinh động

Tình huống sinh động qua từng tiết học

Học sinh nhiệt tình tham gia

Mang tính tích cực tự học và tìm hiểu cao

Biểu đồ 4: Sau khi vận dụng phương pháp tình huống

STT 1 2 3 4 Tỉ lệ Tiết học QPAN trở nên Tiết học sinh động 75% Tình huống sinh động qua các nội dung 60% Học sinh nhiệt tình tham gia 90% Mang tính tích cực tự học và tìm hiểu cao 80%

Từ kết quả khảo sát thực tế cho thấy, có đến 85% các em thích thú với những tình huống của giáo viên khi đưa vào nội dung giảng dạy và kết quả học tập của các em cũng cải thiện rõ rệt. Tỉ lệ học sinh giỏi được năng cao. V. Mức độ ảnh hưởng: Khả năng áp dụng giải pháp: (nêu lĩnh vực, địa chỉ mà giải pháp có thể áp dụng, những điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp đó) 1. Đối với giáo viên

- Để thực hiện được phương pháp tình huống vào giảng dạy, đòi hỏi người giáo viên phải chủ động về thời gian lên lớp, đặc biệt là các tiết lý thuyết hay thời gian đầu giờ lên lớp (thay vì kiểm tra bài cũ) hoặc thời gian cuối giờ (thay vì củng cố bài học), kết hợp mới kiến thức và kinh nghiệm giảng dạy. Giáo viên cần bỏ nhiều thời gian để soạn giảng, thực hiện thao giảng và rút kinh nghiệm.

- Qua thời gian thực hiện giảng dạy theo hình thức lồng ghép phương pháp xử lý tình huống vào bài học, bản thân tôi thấy học sinh không những thích bộ môn QPAN mà còn có tâm lí thoải mái khi đến tiết học. Không chỉ vậy, khi đến những tiết của môn học tiết theo, các em đều phấn khởi để tham gia vào nội dung học mới. - Đây cũng là một trong những nội dung đổi mới về phương pháp giảng dạy, đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu kĩ vấn đề dạy học và vận dụng cho phù hợp từng tình huống cho từng nội

33

dung bài học. Khi áp dụng phải nắm bao quát tình hình hưởng ứng của học sinh để giáo viên điều chỉnh các tình huống sao cho phù hợp và thu hút học sinh tích cực tham gia trong quá trình học tập. - Mặt khác, giáo viên cần quan sát những em học sinh hay bị rục rè, nhút nhác... cho các em tham gia vào nội dung thuyết trình xử lý tình huống nhiều hơn để các em hình thành các kĩ năng giao tiếp trước đám đông, chủ động hòa nhập vào lớp học ở các giờ tiếp theo. 2. Đối với học sinh

- Mức độ hứng thú khi tham gia buổi học chiếm tỉ lệ 100%. Các em không còn nhàn

chán đối với tiết học, kể cả nội dung lý thuyết hay cả về thực hành.

- Tổ chức tốt phương pháp tình huống vào nội dung giảng dạy không chỉ làm cho các em hứng thú hơn trong học tập mà còn giúp các em tự tin hơn, có được cơ hội tự khẳng định mình và tự đánh giá nhau trong học tập. 3. Mặt hạn chế - Khi thực hiện phương pháp tình huống sẽ có sự tranh luận của các tiểu đội khác nên quá trình diễn ra quy trình xử lý tình huống cho nội dung tiết học, lớp học dễ xảy ra mất trật tự. Vì thế giáo viên cần phải quy định chặt chẽ nội quy khi tham gia xử lý các tình huống cho từng lớp học.

- Việc tổ chức thực hiện phương pháp tình huống trong các giờ học GD.QPAN là vô cùng cần thiết. Song không nên quá lạm dụng phương pháp này, ở mỗi giờ học giáo viên cần lựa chọn đang xen nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau để học sinh không nhàm chán với một phương pháp giảng dạy. Do vậy người giáo viên cần có kỹ năng tổ chức, hướng dẫn các em thực hiện các phương pháp tình huống thật hợp lý và đồng bộ, phát huy được tối đa vai trò của học sinh. VI. Kết luận

Tóm lại, để nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập bộ môn GD.QPAN đặt biệt là lồng ghép phương pháp tình huống vào giảng dạy cần phải thực hiện đồng bộ nhiều vấn đề, trong đó xây dựng, kiện toàn đội ngũ giáo viên giáo dục quốc phòng đủ về số lượng, đảm bảo về trình độ, chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ, đầu tư trang thiết bị, dụng cụ cho môn học được coi là trọng tâm, cơ bản. Có làm được như vậy thì mới cơ bản giải quyết phần nào những khó khăn mà thầy và trò ở các trường THPT đã và đang gặp phải.

Qua thời gian nghiên cứu và sử dụng một số tình huống trong quá trình giảng dạy và huấn

luyện môn Giáo dục QPAN tôi nhận thấy:

Học sinh không cảm thấy nhàm chán hay căng thẳng trong mỗi tiết học Giáo dục QPAN nữa mà ngược lại các em lại yêu thích môn học hơn, tiết học lại trở nên sôi động, hứng thú hơn. Đồng thời tạo cho các em tính tự giác trong học tập, có thể thuộc bài ngay trên lớp và đặc biệt hơn là các em có thể vừa thảo luận vừa học mà vẫn tiếp thu được bài học. Từ đó học sinh học tập hăng say, sôi nổi và tiết học đạt được kết quả cao.

Qua những thông tin nêu trên cho thấy, với bộ môn khô khan, thiếu sự quan tâm học tập của học sinh sẽ làm cho tiết học, giờ học trở nên thụ dộng, càng học các em càng nhàn chán và nhiều lúc làm việc riêng khi đến tiết học QPAN. Thế nhưng khi vận dụng phương pháp tình huống vào giảng dạy tôi thấy tiết học sinh động, tâm lí thoải mái dần dần được thể hiện rõ trên 34

từng khuôn mặt các em học sinh. Mặt khác, giáo viên khi đứng lớp cũng cảm thấy tự tin khi truyền đạt kiến thức và đầu tư tìm tòi những kiến thức chuyên môn để vận dụng cho từng giờ lên lớp.

ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ - Qua công tác giảng dạy, tình hình thực tế khi áp dụng phương pháp này, cũng như kết quả học tập của các em khá khả quan so với phương pháp truyền đạt cũ. Vì vậy, tôi mạnh dạn đề xuất một số vấn đề có liên quan đến môn học như sau: - Cần đầu tư trang thiết bị hơn nữa để công tác giảng dạy đạt kết quả cao hơn, vì đây là môn học được xem là môn đặc thù nên tài liệu tham khảo, dụng cụ giảng dạy còn rất thiếu thốn. - Công tác tập huấn hàng năm cần thực hiện bài bản hơn, chặt chẽ hơn. Có thể lồng ghép một số nội dung tình huống quân sự dễ áp dụng và áp dụng đối với từng nội dung bài học cố định.

- Tôi cam đoan những nội dung báo cáo là đúng sự thật. Xác nhận của đơn vị áp dụng sáng kiến Người viết sáng kiến

Bùi Thị Quyên

35

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO (2013), Sách giáo khoa Giáo dục quốc phòng - an ninh lớp10, Nhà Xuất Bản Giáo Dục . 2. BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO (2008), Sách giáo viên Giáo dục quốc phòng - an ninh lớp10, Nhà Xuất Bản Giáo Dục . 3. BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VỤ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG (2005), Giáo trình giáo dục quốc phòng đại học – cao đẳng dùng cho cho giáo viên giáo dục quốc phòng, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân.

36

MỤC LỤC I. Sơ lược lý lịch tác giả ................................................................................................................ 1 II. Sơ lược đặc điểm tình hình đơn vị .......................................................................................... 1 IV. Mục đích yêu cầu của sáng kiến ........................................................................................... 1 1. Thực trạng ban đầu trước khi áp dụng sáng kiến ................................................................. 1 2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến ........................................................................................ 2 3. Nội dung sáng kiến .................................................................................................................. 3 3.1. Tiến trình thực hiện ............................................................................................................. 3 3.1.1. Đặc điểm nội dung chương trình môn GD-QPAN ......................................................... 3 3.1.2. Phương pháp dạy học bằng tình huống:………………………………………………….5 3.1.3. Vai trò phương pháp giảng dạy bằng tình huống với bộ môn QPAN…………………9 3.1.4. Sử dụng phương pháp giảng dạy tình huống trong dạy học và huấn luyện ở bộ môn QPAN…………………………………………………………………………………………….14 3.1.4.1. Một số tình huống áp dụng ở bộ môn QPAN………………………………………….14 3.1.4.2 Đánh giá kết quả dạy học bằng phương pháp tình huống…...……………………...…181 3.1.4.3. Quy trình xây dựng, xử lý và soạn bài giảng tính huống về giáo dục quốc phòng - an ninh……………………………………………………………………………………………….25 3.1.4.3.1 Xây dựng được tình huống thực tế...............................................................................25

3.1.4.3.2 Xử lý tình huống (giải quyết vấn đề trong tình huống)...............................................26 3.1.4.3.3 Soạn bài giảng theo phương pháp tình huống……………………………………….27 3.1.4.3.4 Một số nội dung dạy học bằng phương pháp tình huống trong bài “Một số hiểu biết

về nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân” cho học sinh lớp 12………………………..27

3.1.4.3.5 Thực hành dạy học theo những tình huống..................................................................27

3.1.4.3.6 Đánh giá kết quả dạy học bằng phương pháp tình huống..........................................27

3.1.5. Thực nghiệm sư phạm dạy học các phương pháp truyền thống các khối lớp của trường

THPT Chuyên ‘Thoại Ngọc Hầu” bài “Một số hiểu biết về nền quốc phòng toàn dân, an ninh

nhân dân”

3.1.5.1 Dạy học theo phương pháp truyền thống........................................................................28

3.1.5..2. Dạy học theo phương pháp tình huống .........................................................................29 3.1.5.3 Dạy học theo phương pháp truyền thống.........................................................................30 3.1.5.4 Dạy học theo phương pháp tình huống ............................................................................30

3.1.6. Đánh giá kết quả trong quá trình áp dụng phương pháp tình huống. 3.1.6.1. Kết quả ở các năm giảng dạy…………………………………………………………...31 3.1.6.2. Thời gian thực hiện……………………………………………………………………..32 3.1.6.3. Biện pháp tổ chức………………………………………………………………………..32 IV. Hiệu quả đạt được:…………………………………………………………………………………..33 V. Mức độ ảnh hưởng:…………………………………………………………………………..34 VI. Kết luận………………………………………………………………………………...…….35 ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG………………………………………...36 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………………………..37

37

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Số thứ tự 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 Chữ viết tắt THPT HSSV XHCN HS GDQPAN PPDH GD&ĐT HLQS ANND QĐNDVN CAND Ý nghĩa Trung học phổ thông Học sinh sinh viên Xã hội chủ nghĩa Học sinh Giáo dục quốc phòng an ninh Phương pháp dạy học Giáo dục và Đào tạo Huấn luyện quân sự An ninh nhân dân Quân đội nhân dân Việt Nam Công an nhân dân

38