A . PHẦN MỞ ĐẦU<br />
I.1. Lí do chọn đề tài:<br />
Trong thời đại ngày nay, khi mà khoa học công nghệ ngày càng phát triển <br />
kéo rất nhiều thứ thay đổi trong đó có giáo dục.Giáo dục là bước then chốt tác <br />
động đến mọi mặt xã hội. việc thay đổi hình thức giáo dục để tạo ra một lớp <br />
người mới năng động, tự tin, làm chủ chính mình, biết hợp tác là một xu thế tất <br />
yếu.<br />
Trên thế giới việc thay đổi phương thức giáo dục đã diễn ra từ lâu đã mang <br />
lại nhiều thành công. Hình thức giáo dục mới này chuyển từ cách dạy học truyền <br />
thống thầy dạy trò nghe, ghi chép thụ động sang hình thức giáo dục hiện đại trò <br />
làm việc trải nghiệm chiếm lĩnh kiến thức, thầy quan sát giúp đỡ. Nổi bật ở hình <br />
thức dạy học này còn là cách tồ chức chỗ ngồi, học sinh được ngồi theo nhóm, <br />
được tự do thảo luận đưa ra ý kiến của mình.<br />
Về tới Việt Nam mô hình dạy học mới này có tên gọi VNEN hay mô hình <br />
trường tiểu học mới Việt Nam. Mô hình này coi quá trình tự học của học sinh là <br />
trung tâm hoạt động giáo dục, giáo viên là người hướng dẫn, đồng hành với học <br />
sinh, giúp học sinh tự tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức.Trải qua gần 2 năm dạy thực <br />
nghiệm tôi nhận thấy không những phụ huynh mà còn nhiều giáo viên vẫn bỡ ngỡ <br />
chưa hiểu rõ bản chất của việc dạy học này.Và đặc biệt rất khó khăn trong quá <br />
trình tổ chức dạy học môn toán. Môn toán là môn học đặc trưng chiếm thời lượng <br />
nhiều trong tất cả các giờ học. Môn toán đòi hỏi tư duy logic và sự tập trung cao <br />
độ.Học sinh gặp nhiều khó khăn trong quá trình trải nghiệm, thực hành, chiếm lĩnh <br />
kiến thức. Xuất phát từ thực tế này và với mong muốn nâng cao chất lượng dạy <br />
học môn toán cho học sinh tiểu học tôi chọn sáng kiến: “Kinh nghiệm dạy học <br />
môn toán theo mô hình trường học mới VNEN cho lớp 5”<br />
I.2. Điểm mới của đề tài.<br />
Dạy học theo mô hình VNEN thực ra bản chất chính là cách thức dạy học <br />
theo nhóm. Đây là mô hình giáo dục tiên tiến, hiện đại đã được áp dụng thành công <br />
ở nhiều quốc gia trên thế giới và phù hợp với mục tiêu phát triển giáo dục nước <br />
ta.Các phòng học được trang trí sinh động.Có các góc cho môn học với đồ dùng sẵn <br />
có hoặc tự làm để học sinh hoạt động. Dạy học môn toán theo mô hình VNEN là <br />
việc dạy lấy học sinh làm trung tâm, trong quá trình hoạt động học sinh được <br />
tương tác, được đề xuất phương án, được phỏng vấn, được hỗ trợ từ các thành <br />
viên, từ giáo viên. Chuyển từ việc truyền thụ giảng giải của giáo viên thành hoạt <br />
động tổ chức học sinh tự học của học sinh. Mọi hoạt động trong giờ học do hội <br />
đồng tự quản điều hành các hoạt động được tổ chức theo các hình thức: làm việc <br />
cá nhân, làm việc theo cặp, làm việc nhóm, làm việc cả lớp trong đó ở hoạt động <br />
cơ bản hoạt động nhóm là chủ yếu, còn ở hoạt động thực hành học sinh thực hiện <br />
cá nhân để phát huy tính độc lập. Học sinh được học trong môi trường học tập thân <br />
thiện, thoải mái, không bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn bè, với thầy cô, được <br />
sự giúp đỡ của bạn học trong lớp, trong nhóm và thầy cô, phù hợp với tâm sinh lý <br />
<br />
1<br />
lứa tuổi các em. học sinh khá giỏi được phát huy, học sinh còn hạn chế, yếu kém <br />
được học sinh của nhóm và giáo viên giúp đỡ kịp thời ngay tại lớp. <br />
Trong quá trình dạy học môn toán học sinh sẽ được tương tác nhiều với <br />
nhau, được hỏi bạn, được giúp bạn.trong quá trình đó học sinh rút ra được bài học, <br />
khắc sâu củng cố, ghi nhớ lâu hơn, không bị áp lực. Học sinh được mạnh dạn đưa <br />
ra ý kiến của mình và bảo vệ ý kiến của mình.Mỗi thành viên luôn có ý thức làm <br />
việc không ỷ lại vào bạn, bởi mỗi thành viên trong nhóm đều có nhiệm vụ riêng <br />
góp phần vào tiến độ làm việc của nhóm.Khác với hình thức hoạt động nhóm trong <br />
phương pháp truyền thống là học sinh được làm việc trong thời gian nhất định và <br />
công việc hầu như học sinh khá giỏi trong nhóm làm hết, còn học sinh trung bình, <br />
yếu không tham gia vào hoạt động hoặc tham gia ít.<br />
II. PHẦN NỘI DUNG <br />
2. 1. Thực trạng.<br />
Về phía giáo viên: Trước khi chuẩn bị thay sách, giáo viên chúng tôi đều được nhà <br />
trường tổ chức tập huấn phương pháp dạy học theo mô hình trường học kiểu mới <br />
(mô hình VNEN) để vận dụng trong quá trình giảng dạy. Thời gian đầu, mặc dù đã <br />
có sách hướng dẫn học tập cụ thể tuy nhiên trong thời gian đầu, việc vận dụng <br />
còn rất bất cập, lúng túng đặc biệt là đối với những giáo viên đang dạy theo sách <br />
giáo khoa chương trình hiện hành lớp 5. Khi sử dụng mô hình này còn bị hạn chế <br />
bởi không gian chật hẹp của lớp học, bởi thời gian hạn định cho một tiết học, giáo <br />
viên phải mất nhiều thời gian chuẩn bị đồ dùng và thiết kế nhiệm vụ cho nhóm. <br />
Do vậy giao viên ngai đôi m<br />
́ ̣ ̉ ơi, ngai day hoc theo mô hình. Đôi khi giao viên còn tô<br />
́ ̣ ̣ ̣ ́ ̉ <br />
chưc hoat đông nhom mang tinh hinh th<br />
́ ̣ ̣ ́ ́ ̀ ưc, ch<br />
́ ưa quan tâm sâu sát đến từng đối <br />
tượng học sinh trong khi các em học nhóm, nhất là học sinh yếu. Chưa tổ chức các <br />
hoạt động phù hợp với từng nhóm, từng học sinh một cách cụ thể dẫn đến kết quả <br />
chưa cao. Bên cạnh đó một số giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học còn mang <br />
tính rập khuôn chưa có tính chủ động sáng tạo. <br />
Về phía học sinh: Trong hai năm học này học sinh khối 5 được học theo mô hình <br />
trường tiểu học mới. Các em luôn thực hiện theo 10 bước học tập, học theo nhóm <br />
là chính nên học sinh tự giác, mạnh dạn, biết chia sẽ, phát huy được tính năng động <br />
sáng tạo. Nhờ đó mà trong những giờ ngoại khóa, tiết học thực hành…chúng tôi <br />
hướng dẫn các em quan sát mô hình học tập ở các khối chọn làm thí điểm này <br />
<br />
2<br />
nhiều học sinh đã có ý thức tự giác, mạnh dạn hơn trước, biết chia sẽ, biết cách tổ <br />
chức trong học nhóm và bước đầu thực hiện được các bước học tập theo mô hình <br />
mới. Thế nhưng trong quá trình giảng dạy tôi thấy nhiều học sinh từ trước không <br />
được làm quen với cách học này nên có phần bỡ ngỡ. Một số học sinh năng lực chỉ <br />
đạo nhóm còn hạn chế thường e dè, chưa mạnh dạn, thiếu tự tin năng lực chỉ đạo <br />
chưa quen, chưa thành thạo 10 bước học tập. Bên cạnh đó tài liệu Hướng dẫn học <br />
tập không có còn phụ thuộc vào cuốn sách hiện hành bởi vậy còn gặp nhiều khó <br />
khăn nhất định. Một số học sinh còn hiếu động chưa có lòng kiên trì và quyết tâm <br />
cao, thấy khó là các em lùi bước vì khả năng phân tích, tổng hợp đề toán kém. Hạn <br />
chế trong việc tìm ra mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài toán, tóm tắt bài toán <br />
thiếu chính xác. Học sinh khá giỏi thì chưa có thói quen tìm nhiều cách giải khác <br />
cho một bài toán. Một số em do kĩ năng tính toán hoặc giải toán còn hạn chế nên <br />
rất sợ học vì vậy việc dạy toán bên cạnh những thành công vẫn còn nhiều hạn <br />
chế. <br />
2.2. Các giải pháp.<br />
Xuất phát từ những thực trạng trên, tôi nhận thấy việc dạy học theo mô hình <br />
dạy học truyền thống đâu tiên là việc sắp xếp chỗ ngồi. Học sinh được ngồi theo <br />
dãy theo hàng, theo bàn, 2 học sinh ngồi 1 bàn, tất cả cùng nhìn lên bảng, nghe giáo <br />
viên truyền thụ kiến thức. Với cách học này thì thời gian truyền tải kiến thức sẽ <br />
được chủ động, kiến thức sẽ được truyền thụ đầy đủ trong 1 thời gian nhất định <br />
tuy nhiên học sinh ít được hoạt động hơn đặc biệt là làm việc theo nhóm lớn. Với <br />
môn toán luôn cần có sự trao đổi, so sánh, khẳng định chân lý .Quá trình làm việc <br />
như vậy sẽ giúp học sinh nhận biết chân lý nhanh hơn, ghi nhớ lâu hơn, đưa ra <br />
phương án, cách làm tối ưu nhất. Ở chương trình cũ người học không biết bài hôm <br />
nay cần học những gì, đích đến ở đâu. Chỉ sau khi tiết học kết thúc hoặc sau phần <br />
lý thuyết học sinh mới biết mình đang tìm hiểu nội dung gì. Vì vậy đã làm giảm, <br />
hạn chế tư duy của học sinh.<br />
Ở hình thức dạy học mới đã khắc phục được nhược điểm của hình thức <br />
dạy học cũ. Thứ nhất là học sinh được làm việc theo nhóm, hoạt động theo nhóm <br />
có thể trao đổi bài với bạn ngay trong giờ học. với cách viết sách mới thì học sinh <br />
được biết mục tiêu của bài học, biết mình cần đạt được điều gì sau bài học như <br />
vậy sẽ kích thích học sinh học tập mạnh dạn hơn, tư duy chủ động, sáng tạo hơn. <br />
Cách viết sách mới giúp học sinh tự học dễ dàng hơn, hiểu bài đơn giản hơn so với <br />
sách cũ trừu tượng.Có thể nói sách giáo khoa cũ là sách dành cho giáo viên giảng <br />
<br />
3<br />
dạy còn để tự học sinh làm việc là rất khó. Với hình thức dạy học mới giáo viên <br />
không phải nặng về giáo án nhưng nếu không tìm hiểu bài trước khi lên lớp thì có <br />
thể gặp nhiều tình huống khó xử nếu kiến thức không vững bởi môn toán lớp 5 <br />
không dễ, có rất nhiều bài toán trừu tượng. Trong quá trình dạy học môn toán theo <br />
chương trình VNEN nếu giáo viên không quan sát rộng, không chú ý đến những <br />
học sinh yếu, không chuẩn bị đồ dùng chu đáo thì hiệu quả tiết học rất thấp, học <br />
sinh yếu sẽ rất yếu do bị lệ thuộc vào học sinh khá giỏi dẫn đến hiệu quả tiết học <br />
thấp.<br />
2.2.1. Hình thức tổ chức dạy môn toán<br />
Cũng giống hình thức tổ chức dạy học các môn khác đặc trưng dễ nhận biết <br />
đầu tiên là việc sắp xếp chỗ ngồi. Học sinh được bố trí ngồi theo nhóm tùy vào <br />
điều kiện lớp học rộng hẹp, số lượng học sinh nhiều hay ít mà sắp xếp học sinh <br />
ngồi theo nhóm 4 người hoặc nhóm 6 người, không nên sắp xếp nhóm có 3 người <br />
hay 5 người. Một nhóm cũng không nên sắp sếp quá 6 người.<br />
Trong lớp nếu trình độ của học sinh tương đối đồng đều nhau thì ta nên sếp <br />
theo nhóm ngẫu nhiên khi đó các thành viên trong nhóm có điều kiện học tập giúp <br />
đỡ nhau hoàn thành bài học tốt hơn, tinh thần thi đua trong nhóm sẽ được khơi dậy. <br />
Học sinh nhận thức nhanh hơn có thể giúp đỡ bạn nhận thức chậm hơn tiến trình <br />
tiết học diễn ra nhanh hơn.Khi đó giáo viên có thời gian để mở rộng, khắc sâu kiến <br />
thức cho cả lớp.<br />
Lớp học có trình độ học sinh không đồng đều tùy thuộc vào mục đích dạy <br />
học của mỗi giáo viên có thể sắp xếp nhóm theo trình độ. Tức là nhóm học sinh <br />
nhận thức nhanh ngồi với nhau, nhóm học sinh nhận thức chậm hơn ngồi với <br />
nhau.Nhóm học sinh nhận thức nhanh có thể tự trải nghiệm chiếm lĩnh kiến thức <br />
nhanh hơn có thời gian để nâng cao kiến thức, giải toán nâng cao. Nhóm học sinh <br />
nhận thức chậm hơn được làm việc với nhau sẽ không còn sự ỷ lại, học sinh tự <br />
giác học tập hơn thi đua nhau cùng tiến bộ và được giáo viên hỗ trợ nhiều hơn thì <br />
nhóm học sinh này sẽ nhận thức kịp với tiến độ chương trình, đạt được mục tiêu <br />
của bài học. Với cách tổ chức này tôi thường tổ chức vào buổi học thứ hai hoặc <br />
vào những buổi học nâng cao năng lực học sinh.<br />
Lớp học có từ hai thành phần dân tộc trở nên do ngôn ngữ Tiếng Việt của <br />
học sinh còn hạn chế, có học sinh chưa hiểu hết nghĩa của bài toán trong khi tiếng <br />
dân tộc của giáo viên còn hạn chế thì có thể sắp xếp nhóm theo thành phần dân <br />
tộc. Được ngồi cùng nhau những nhóm học sinh này dễ giải thích thảo luận với <br />
nhau, ít mặc cảm từ đó giúp quá trình học tập đạt hiệu quả hơn.Với cách chia <br />
nhóm này tôi cũng thường sử dụng vào buổi học thứ hai.<br />
Có nhiều cách tổ chức lớp học nhưng để hiệu quả thì có 3 cách tổ chức lớp <br />
học như trên.<br />
Trong quá trình tổ chức như vậy vai trò của giáo viên hết sức quan trọng tiết <br />
học có thành công hay không chính là khâu tổ chức của giáo viên. Giáo viên là <br />
người gợi động cơ, tạo hứng thú, cho học sinh trải nghiệm dựa vào vốn kiến thức <br />
<br />
4<br />
sẵn có của học sinh trước tiết học mới.Giáo viên là người hướng dẫn giúp đỡ học <br />
sinh khi học sinh gặp khó khăn.Động viên khuyến khích các em làm các em tự tin <br />
vào bản thân, phát huy được hết năng lực, sở trường của mình. Người giáo viên <br />
đóng vai trò là người đánh giá chính quá trình chiếm lĩnh kiến thức hướng các em <br />
đến đáp án tối ưu nhất. Đồng thời cũng là người chốt lại kiến thức cơ bản của bài <br />
để các em không xa rời mục tiêu của bài.<br />
Để giúp đỡ được học sinh kịp thời trong tiết học thì vị trí đứng của giáo viên <br />
cũng rất quan trọng. Giáo viên cần chọn vị trí phù hợp sao cho vừa giúp đỡ được <br />
nhóm này đồng thời vẫn quan sát được nhóm khác hoạt động, tránh tình trạng trong <br />
khi giáo viên đi giúp đỡ nhóm này thì nhóm khác không hoạt động hoặc hoạt động <br />
xong rồi ngồi chơi, giáo viên cần phát hiện và kịp thời cho học sinh chuyển sang <br />
hoạt động khác. Theo tôi các nhóm cần được bố trí sao cho giáo viên có thể đi lại <br />
thuận tiện xung quanh và các học sinh nhận thức chậm sẽ được bố trí ngồi ngoài <br />
để giáo viên thuận tiện giúp đỡ và quan sát.<br />
<br />
Sơ đồ tổ chức lớp học 30 học sinh mỗi nhóm 6 học sinh<br />
<br />
<br />
<br />
B<br />
ả<br />
n<br />
g <br />
l<br />
ớ<br />
p<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Vị trí giáo viên nên chọn trong quá trình quan sát giúp đỡ các nhóm<br />
<br />
<br />
2.2. 2Cách thức tiếp nhận thông tin<br />
Để quá trình tiếp nhận thông tin, chiếm lĩnh kiến thức đạt hiệu quả cần thực <br />
hiện theo quy trình sau :<br />
Gợi động cơ, tạo hứng thúHiểu được mục tiêu của bài học Tổ chức cho học <br />
sinh trải nghiệmPhân tích, khám phá, rút ra kiến thức mới Thực hành Vận <br />
dụng.<br />
Gợi động cơ, tạo hứng thú: Khới dạy hứng thú của học sinh về chủ đề <br />
của bài học; học sinh cảm thấy gần gũi với mình; tạo sự tò mò thích thú: có thể <br />
đặt câu hỏi; đặt một tình huống; đố vui..<br />
<br />
<br />
5<br />
Hiểu được mục tiêu bài học: Cho học sinh biết được đích cần phải đến <br />
của bài học, tiết học. Không chỉ là việc đọc mục tiêu học sinh phải hiểu rõ từng <br />
chữ, từng từ của mục tiêu từ đó học sinh sẽ hoạt động hiệu quả đúng hướng.<br />
Tổ chức cho học sinh trải nghiệm :Huy động vốn kiến thức của học sinh, <br />
học sinh trải qua tình huống có vấn đề trong đó chứa đựng những nội dung kiến <br />
thức mới.<br />
Phân tích, khám phá, rút ra kiến thức mới : Dùng những câu hỏi gợi mở, câu <br />
hỏi phân tích, đánh giá để giúp học sinh rút ra bài học. Có thể dùng hình thức thảo <br />
luận cặp đôi, nhóm … kích thích trí tò mò sự ham thích tìm tòi, khám phá phát hiện <br />
của học sinh.<br />
Thực hành : Cho học sinh vận dụng những kiến thức vừa học để làm <br />
những bài tập cơ bản. Giáo viên quan sát giúp đỡ học sinh nhận ra khó khăn của <br />
mình, nhấn mạnh lại quy tắc, thao tác, cách thực hiện. Đồng thời giáo viên tiếp tục <br />
ra các bài tập khó hơn phù hợp với khả năng của học sinh, tiếp tục giúp các em <br />
giải quyết khó khăn bằng cách liên hệ với kiến thức cơ bản. Có thể giao bài cho cá <br />
nhân, hoặc theo nhóm…<br />
Vận dụng : Giáo viên cần giúp học sinh thấy được ý nghĩa thực tế của toán <br />
học từ đó khắc sâu kiến thức. Khuyến khích học sinh diễn đạt theo ngôn ngữ cách <br />
hiểu của chính các em. Khuyến khích học sinh tập phát biểu, diễn đạt có lí lẽ, có <br />
lập luận logic.<br />
Lưu ý: Trong quá trình giảng dạy để đạt hiệu quả cần vận dụng linh hoạt, <br />
mềm dẻo không phải hoàn cảnh nào cũng vận dụng dầy đủ các bước trên.<br />
Cơ bản trong mọi tình huống giáo viên cần chuẩn bị kiến thức, nhiệt tình <br />
với học sinh, nghiêm túc trong dạy học, luôn động viên khuyến khích kịp thời, cần <br />
chú ý quan tâm đến học sinh nhận thức chậm.<br />
2.2.3. Cách ghi nhớ kiến thức<br />
Ghi nhớ kiến thức rất quan trọng bởi trong môn toán kiến thức của bài sau <br />
thường liên quan đến kiến thức bài trước.Không nhớ được kiến thức bài trước học <br />
sinh không thể vận dụng vào hoạt động bài sau.Đặc biệt mô hình VNEN chủ yếu <br />
là học sinh tự khám phá, chiếm lĩnh kiến thức. Để ghi nhớ hiệu quả cần làm như <br />
sau :<br />
Việc học toán phải chú trọng vào tư duy phân tích hơn là học thuộc lòng đơn <br />
thuần. <br />
Ví dụ :Ghi nhớ cách đổi 1m2 = 100 dm2<br />
Cho hs hiểu 1m2 là diện tích hình vuông có cạnh 1m, mà 1m = 10dm. Diện <br />
tích hình vuông có cạnh 1m bằng diện tích hình vuông cạnh 10dm. <br />
Diện tích hình vuông cạnh 10dm là: 10 10 = 100dm2<br />
Vậy 1m2 = 100 dm2<br />
<br />
6<br />
1dm<br />
<br />
1m<br />
Tạo ấn tượng sẽ làm cho học sinh nhớ lâu<br />
Ví dụ : Ghi nhớ được thứ tự của bảng đơn vị đo độ dài.<br />
Km hm dam m dm cm m<br />
Đây là 1 dãy kĩ tự mà học sinh không nhớ được thứ tự các đơn vị dẫn đến <br />
tình trạng không thể đổi được đơn vị đo. Vậy cần tạo cho học sinh 1 ấn tượng về <br />
bảng đơn vị đo. Có thể làm như sau:<br />
Từ Km hm dam m dm m<br />
Trở thành Không họcđể mà đi chăn mèo<br />
Km hm dam m dm cm m<br />
Không học để mà đi chăn mèo<br />
Tức là gắn chữ cái đầu của mỗi đơn vị với 1 từ và tạo thành một câu ấn <br />
tượng. Câu này đọc thì vô lý nhưng học sinh rất ấn tượng vì vậy chắc chắn học <br />
sinh sẽ không bao giờ quên bảng đơn vị đo độ dài và sẽ không bị nhầm lẫn khi đổi.<br />
Và một cách ghi nhớ nữa là dựa vào sơ đồ tư duy của bộ não: sơ đồ này <br />
giống như một cái cây có 1 gốc và nhiều cành nhánh, mỗi cành nhánh là một mảng <br />
kiến thức, công thức giúp học sinh hệ thống lại kiến thức theo cách lôgic<br />
Ví dụ: S = a x a<br />
<br />
Hình vuông<br />
p = a x 4<br />
<br />
S = a x b<br />
Hình chữ nhật<br />
<br />
p = (a +b)x2<br />
<br />
<br />
7<br />
Hình học Hình tam giác S = a x h : 2<br />
<br />
p = a + b + c<br />
Hình thang<br />
S = (a + b) x h : 2<br />
<br />
p = a + b + c + d<br />
<br />
Trên đây là ví dụ về sơ đồ tư duy tùy vào bài cụ thể mà có các sơ đồ khác <br />
nhau.Cũng có thể dùng sơ đồ tư duy để chốt lại kiến thức bài học.<br />
VI. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM<br />
Bài minh họa cho sáng kiến<br />
* 1 Ví dụ 1<br />
Bài 37: NHÂN MỘT SỐ THẬP PHÂN VỚI MỘT SỐ THẬP PHÂN<br />
Mục tiêu<br />
Cho học sinh đọc mục tiêu bài học, nhắc lại với bạn về những việc mình <br />
cần đạt được sau bài học.<br />
A. Hoạt động cơ bản<br />
1. Học sinh làm việc theo nhóm khám phá cách nhân hai số thập phân.<br />
Học sinh cùng bạn cùng đọc kĩ bài toán<br />
a) Một mảnh vườn hình chữ nhật có chiều dài là 9,8m, chiều rộng là 5,3m. <br />
Tính diện tích mảnh vườn đó.<br />
b) Em hỏi để bạn trả lời<br />
Để tính diện tích mảnh vườn đó ta làm thế nào? Thực hiện phép tính gì?<br />
c) Em và bạn cùng đọc rồi giải thích cho nhau nghe dung sau:<br />
Để tính 9,8 5,3 = ?, thông thường ta đặt tính rồi làm như sau :<br />
9,8 Thực hiện phép nhân như nhân các số tự nhiên.<br />
5,3 Hai thừa số có tất cả hai chữ số ở phần thập <br />
2 9 4 phân, ta dùng dấu phẩy tách ở tích ra hai chữ số kể <br />
4 9 0 từ phải sang trái.<br />
5 1,9 4<br />
d) Đặt tính rồi tính : 25,8 1,4.<br />
Giáo viên quan sát, giúp đỡ học sinh làm, chốt kiến thức trong nhóm cần lưu <br />
ý lại cách nhân hai số thập phân. Đó là nhân giống như nhân các số tự nhiên, đếm <br />
xem có tất cả bao nhiêu chữ số ở đằng sau dấu phẩy của hai thừa số thì tích sẽ có <br />
bấy nhiêu chứ số đằng sau dấu phẩy. Bởi nhiều học sinh sẽ không hiểu hết nghĩa <br />
của phần đọc thông tin.<br />
HĐ 2 Làm việc cả lớp<br />
a) Làm việc cá nhân nêu cách đặt tính và thực hiện phép tính 8,74 6,9.<br />
Đổi vở trao đổi với bạn. <br />
<br />
<br />
8<br />
b) Em và bạn đọc rồi giải thích cho nhau nghe nội dung cách nhân hai số <br />
thập phân. <br />
Giáo viên thực hiện giảng trên lớp vì đây là phần kiến thức trọng tâm học <br />
sinh cần hiểu rõ cách làm thế nào, đặt dấu phẩy ở đâu. “ Thực hiện nhân như nhân <br />
hai số tự nhiên, hai thừa số có tất cả ba chữ số ở hàng thập phân thì tích cũng có ba <br />
chữ số ở hàng thập phân. Dùng dấu phẩy tách tích ra ba chữ số kể từ phải sang <br />
trái. Vừa nói giáo viên vừa chỉ trên bảng để tạo hình ảnh trực quan.<br />
c) Học sinh thực hiện đặt tính rồi tính : 16,25 6,7<br />
Thống nhất kết quả đúng, hướng dẫn bạn còn gặp khó khăn.<br />
HĐ 3. Khắc sâu kiến thức<br />
Làm việc cặp đôi cùng bạn đọc nội dung quy tắc cách nhân một số thập <br />
phân với một số thập phân, nói với bạn cách nhân một số thập phân với một số <br />
thập phân, lấy ví dụ minh họa.<br />
B. Hoạt động thực hành<br />
Cặp đôi<br />
HĐ 1. Đặt tính rồi tính<br />
Học sinh làm việc cá nhân, sau đó từng cặp đổi vở chữa bài cho nhau<br />
a) 25,8 1,5 b) 16,25 6,7 c) 0,24 4,7 d) 7,826 4,5<br />
HĐ 2 Hình thức tổ chức như HĐ 1, giáo viên quan, kiểm tra các nhóm làm <br />
việc, hoặc trợ giúp nhóm, học sinh còn lúng túng.<br />
a) Tính rồi so sánh giá trị của a b và b a<br />
a b a b b a<br />
2,36 4,2<br />
3,05 2,7<br />
b) Em và bạn đọc rồi giải thích cho nhau nghe nội dung :<br />
Nhận xét<br />
Phép nhân các số thập phân có tính chất giao hoán :<br />
Khi đổi hai thừa số của một tích thì tích không thay đổi.<br />
a b = b a<br />
<br />
<br />
<br />
c) Em vận dụng viết ngay kêt quả tính:<br />
4,34 3,6 = 15,624 9,04 16 = 144,64<br />
3,6 4,34 = ............. 16 9,04 = ..............<br />
HĐ 3 Thực hiện lần lượt các hoạt động sau.<br />
a) Đặt tính rồi tính :<br />
Các em hoạt động cá nhân, so sánh kết quả<br />
142,57 0,1 531,75 0,01<br />
b) Học sinh đọc theo cặp rồi giải thích cho nhau nghe nội dung :<br />
<br />
<br />
<br />
9<br />
Giải thích cho bạn tại sao khi nhân một số thập phân với 0,1 ; 0,01 ; 0,001... <br />
ta không cần đặt tính mà chỉ việc dịch chuyển dấu phẩy sang bên trái một, hai, ba,.. <br />
chữ số.<br />
Giáo viên quan sát, giúp đỡ. Khắc sâu lại kiến thức trong nhóm, có thể giải <br />
thích thêm nếu học sinh chưa hiểu.<br />
c) Tính nhẩm.<br />
Học sinh làm việc cá nhân đổi vở kiểm tra nhau.<br />
HĐ 4 Viết các số đo dưới dạng số đo có đơn vị là kilômét vuông<br />
Học sinh thực hiện cá nhân, làm xong báo cáo nhóm trưởng, nhóm trưởng <br />
kiểm tra.<br />
HĐ 5, HĐ6 Giải các bài toán sau :<br />
Học sinh làm bài, đổi vở chữa bài cho nhau.<br />
Đây là 2 bài toán có lời văn nếu trong lớp có nhiều học sinh gặp khó khăn <br />
chưa làm được. Ta sẽ chuyển sang hoạt động lớp để đảm bảo học sinh kịp tiến độ <br />
chương trình. Nhưng vẫn đảm bảo tính tích cực lấy học sinh làm trung tâm.<br />
Học sinh báo kết quả những việc em đã làm.<br />
Giáo viên có thể dùng sơ đồ tư duy như sau để củng cố lại kiến thức cho <br />
học sinh.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nhân như nhân số Đếm số chữ số ở Đánh dấu phẩy ở <br />
tự nhiên phần thập phân của tích <br />
hai thừa số<br />
<br />
Nhân số thập <br />
phân<br />
<br />
<br />
Nhân số thập Đếm số chữ số ở <br />
phân với 0,1 ; phần thập phân các Dịch dấu phẩy ở <br />
0,01 ; 0,001... số 0,1 ; 0,01 ; tích <br />
0,001... <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
10<br />
C. Hoạt động ứng dụng<br />
Các em đọc yêu cầu hoạt động ứng dụng, yêu cầu các em về nhà đo thực tế <br />
rồi tính diện tích của nền căn phòng.<br />
Giáo viên nhận xét và ghi nhận kết quả học tập của học sinh<br />
Với bài học trên học sinh đã được làm việc theo đúng quy trình, trong bất cứ <br />
hoạt động nào học đều được làm việc cá nhân trước khi hoạt động cặp đôi, hoạt <br />
động nhóm, hoạt động cả lớp. Học sinh được được khắc sâu kiến thức qua sơ đồ <br />
tư duy hoặc cũng có thể giáo viên gợi ý để học sinh tự vẽ sơ đồ kiến thức, như <br />
vậy học sinh càng nhớ lâu hơn.<br />
3. Phần kết luận:<br />
3.1. Kết quả đạt được:<br />
Với phương pháp dạy học theo mô hình VNEN tất cả học sinh trong lớp đều <br />
được cùng nhau bàn bạc, hợp tác để giải quyết vấn đề. Đây là phương pháp dạy <br />
học dễ tổ chức và áp dụng được cho tất cả các môn học trong chương trình tiểu <br />
học. Qua hoạt động học tập học sinh biết cách trình bày ý kiến của mình với <br />
người khác, với tập thể, làm cho các em trở nên tự giác, linh động, sáng tạo, mạnh <br />
dạn, tự tin hơn. Học sinh biết nghe và lựa chọn để tiếp nhận hiểu biết của người <br />
khác để bổ sung vào vốn hiểu biết của mình, đồng thời tập dượt cho các em vai trò <br />
chỉ đạo. Qua việc tổ chức hoạt động học tập tôi thấy các em hứng thú, say sưa sôi <br />
nổi hơn trong học tập. Những học sinh giỏi thực sự có điều kiện phát huy năng lực <br />
của mình. Còn những em trước đây kĩ năng tính toán hạn chế, tiếp thu bài chậm, ít <br />
trao đổi, ít giơ tay phát biểu ý kiến thì nay đã mạnh dạn hơn, tự tin hơn, sôi nổi <br />
hơn nhiều. Các em biết hợp tác, giúp đỡ, giao tiếp học hỏi lẫn nhau, tự tìm tòi, tự <br />
phát hiện, tự chiếm lĩnh kiến thức. Các em học tập một cách hứng thú, tập trung <br />
với tinh thần thi đua, vui vẻ, tích cực. Tiết dạy nhẹ nhàng, tự nhiên, sinh động và <br />
hiệu quả. Lớp học trở nên thân thiện, gần gũi tạo cho các em có được cảm giác <br />
mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Kết quả học tập cuối năm của học sinh ở <br />
môn Toán do tôi giảng dạy được nâng lên rõ rệt so với kết quả khảo sát trước khi <br />
áp dụng sáng kiến.<br />
Bảng 1: Kết quả khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến:<br />
<br />
<br />
11<br />
Toán<br />
Giỏi Khá TBình Yếu<br />
SL % SL % SL % SL %<br />
7 24,1 10 34,5 10 34,5 2 6,9<br />
Bảng 2: Kết quả khảo sát sau khi áp dụng sáng kiến:<br />
Toán<br />
Giỏi Khá TBình Yếu<br />
SL % SL % SL % SL %<br />
20 69 8 27,6 1 3,4 0 0<br />
3.2. Bài học kinh nghiệm:<br />
Để giúp học sinh học tốt Toán 5 theo mô hình VNEN thì bản thân tôi đã thực <br />
hiện các giải pháp trên trong quá trình dạy và học. Trong lớp một số học sinh yếu <br />
từ chỗ lười học nay đã có sự tiến bộ nhiều: siêng năng hơn, không còn lo lắng sợ <br />
sệt khi gặp bài toán khó để cho rằng khả năng mình làm không được. Bên cạnh đó <br />
người giáo viên phải thường xuyên làm giàu vốn kiến thức của bản thân để trong <br />
quá trình dạy học có thể ứng xử kịp thời với những tình huống, với những bài khõ <br />
mà học sinh nêu ra. Giáo viên vừa là người thầy truyền đạt những kiến thức vừa là <br />
người cha, người mẹ chăm sóc thương yêu và động viên, an ủi, để giúp học sinh <br />
ngày càng tiến bộ. Đồng thời luôn luôn làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục đó là <br />
một yếu tố để nâng cao chất lượng giáo dục. <br />
Qua thực tế vận dụng trong quá trình dạy học, bản thân tôi đã đúc rút ra những <br />
bài học cụ thể như sau:<br />
Cần xác định rõ mục tiêu bài dạy và thiết kế bài giảng chu đáo.<br />
Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện và nội dung cho hoạt động .<br />
Lựa chọn phương pháp và tổ chức hình thức dạy họcmột cách linh hoạt. <br />
Tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp với mục tiêu, nội dung bài học, môn <br />
học, thời gian học theo từng đặc điểm và trình độ nhận thức của từng học sinh <br />
trong lớp.<br />
Trong quá trình tổ chức, giáo viên cần quan tâm giúp đỡ nhóm, cá nhân hoạt động <br />
còn yếu, chưa sôi nổi.<br />
<br />
12<br />
Đánh giá, nhận xét phải hết sức công bằng, vô tư, khách quan, có tính chất động <br />
viên, khích lệ học sinh.<br />
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi đã áp dụng và đúc rút qua <br />
thực tế giảng dạy Toán ở lớp 5. Tôi xin mạnh dạn trình bày lên đây mong các bạn <br />
đồng nghiệp cùng tham khảo và đóng góp ý kiến để bản thân tôi giảng dạy tốt hơn <br />
trong những năm tiếp theo. <br />
3.3. Kiến nghị, đề xuất:<br />
<br />
<br />
Quảng Bình, ngày 30 tháng 10 năm 2016<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Ngô Trần Ái Nguyễn Thị Bình Nguyễn Quý Thao Bùi Quang Tuấn Nguyễn <br />
Hồng Vy Vũ Quang Vinh ( Năm 2007) SGK Toán 5 Nhà xuất bản Giáo dục Hà <br />
Nội.<br />
2. Ngô Trần Ái Nguyễn Thị Bình Nguyễn Quý Thao Bùi Quang Tuấn Nguyễn <br />
Hồng Vy Vũ Quang Vinh ( Năm 2007) SGK Toán 5 Nhà xuất bản Giáo dục Hà <br />
Nội.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
13<br />
3 . Ngô Trần Ái Nguyễn Quý Thao Phạm Ngọc Định Ngô Ánh Tuyết Vũ Bà <br />
Khánh ( Năm 2013) Tài liệu tập huấn dạy học theo mô hình trường tiểu học mới <br />
Việt Nam lớp 4 Tập 1,2. <br />
<br />
<br />
<br />
<br />
14<br />