intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Kinh nghiệm dạy học phân hoá trong môn Tiếng Việt lớp Ba theo Mô hình trường học mới VNEN

Chia sẻ: Trần Văn Gan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:28

86
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài: Áp dụng phương pháp dạy học phân hóa vào môn Tiếng Việt ở lớp Ba để vừa bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho học sinh khá giỏi, vừa trang bị kiến thức cơ bản cho học sinh trung bình, vừa bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho học sinh yếu kém. Qua đó nâng cao hiệu quả việc dạy học ở tất cả các môn học khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Kinh nghiệm dạy học phân hoá trong môn Tiếng Việt lớp Ba theo Mô hình trường học mới VNEN

Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> <br /> I. Phần mở đầu: <br /> <br /> I.1. Lý do chọn đề tài.<br /> Trong những năm gần đây thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp dạy  <br /> học ở cấp tiểu học đã có những thay đổi rõ rệt. Từ  phương pháp dạy học đến nội  <br /> dung chương trình và cách kiểm tra đánh giá học sinh,...Tuy nhiên có một sự  thay <br /> đổi lớn hơn đó là thay đổi trong nhận thức của người giáo viên về  giáo dục tiểu  <br /> học. Nếu như trước đây học sinh tiểu học đến trường chỉ  được học hai môn công <br /> cụ  đó là Toán và Tiếng Việt thì hiện nay yêu cầu phát triển toàn diện càng ngày <br /> càng được chú trọng. Khi đến trường các em không chỉ được học hai môn công cụ <br /> mà còn được học rất nhiều môn khác nhau như: Tin học, Ngoại ngữ, Mỹ thuật, Âm  <br /> nhạc,…theo đúng nghĩa của một môn học.<br /> Trong công cuộc đổi mới giáo dục bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành theo ba <br /> hướng: Đổi mới sách giáo khoa  ở  tất cả  các cấp học phổ  thông, đổi mới phương  <br /> pháp dạy học, đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh. Đi đôi với việc đổi mới  <br /> SGK, đổi mới chương trình là đổi mới phương pháp dạy học, được tiến hành với  <br /> phần đông giáo viên đang trực tiếp giảng dạy trên lớp hiện nay. Nhiều giáo viên đã  <br /> thực hiện áp dụng phương pháp mới nhưng chưa hiệu quả, chưa tích cực hóa và <br /> khơi dậy được năng lực học tập thực sự của tất cả các đối tượng học sinh. Hầu  <br /> hết các giáo viên chỉ  mới quan tâm đến đối tượng học sinh có lực học trung bình,  <br /> nắm được kiến thức cơ bản trong tài liệu hướng dẫn, còn đối tượng học sinh khá  <br /> giỏi có năng lực tư  duy sáng tạo và học sinh có lực học yếu kém còn chưa được <br /> quan tâm, bồi dưỡng đúng mức trong giờ  học, chưa khuyến khích phát triển tối đa <br /> và tối  ưu những khả  năng của từng cá nhân học sinh. Trong quá trình đổi mới <br /> phương pháp dạy học, việc bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề rất cần thiết và cần <br /> được thực hiện ngay  ở trong những tiết học đại trà nhằm phát hiện và bồi dưỡng,  <br /> ươm mầm những tài năng cho đất nước trong tương lai. Không những đảm bảo  <br /> chất lượng phổ cập đại trà mà đồng thời chú trọng phát hiện và bồi dưỡng học sinh  <br /> có năng khiếu về  Tiếng Việt, Toán và các môn học khác. Từ  trước đến nay, đổi  <br /> mới phương pháp dạy học chưa được chú trọng đúng mức, hầu hết các giáo viên  <br /> chỉ  dừng  ở  mức độ  trang bị  kiến thức cơ  bản cho đối tượng học sinh có lực học <br /> loại trung bình đại trà trong lớp, chưa thực sự quan tâm bồi dưỡng đến đối tượng  <br /> học sinh khá giỏi. Bởi lẽ  họ  chưa mạnh dạn, sợ  cháy thời gian, không đủ  thời  <br /> gian… ngại đầu tư thời gian nghiên cứu bài. Có những giáo viên vẫn dạy theo cách  <br /> <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền -1- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> như đã dạy từ mấy chục năm qua, phương pháp đàm thoại là chủ yếu. Ngược lại,  <br /> một số  giáo viên lại chỉ  chú ý đến đối tượng học sinh khá giỏi song chưa thực sự <br /> quan tâm đến sự tiếp thu kiến thức của đối tượng học sinh trung bình và yếu trong  <br /> lớp, làm cho những học sinh này không hiểu bài và có tư  tưởng sợ  học, giáo viên  <br /> không bồi dưỡng lấp lỗ hổng kiến thức cho các em ngay trong giờ học chính khóa.  <br /> Bên cạnh đó là một số  phương pháp dạy học truyền thống như  thuyết trình, đàm <br /> thoại, giảng giải, vấn đáp…còn nhiều mặt hạn chế, chưa khắc phục được nhược <br /> điểm này. Vậy câu hỏi đặt ra là cần phải dạy học như  thế  nào để  trong một giờ <br /> dạy đảm bảo: bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho đối tượng học sinh khá giỏi, trang <br /> bị  kiến thức cơ  bản cho học sinh trung bình và bồi dưỡng lấp chỗ  hổng cho học  <br /> sinh yếu kém ? Theo tôi, hoàn toàn có thể  áp dụng được trong các tiết học Tiếng <br /> Việt hoặc các môn khác cho tất cả  các đối tượng học sinh trong lớp bằng những  <br /> hình thức học tập, hệ thống câu hỏi, hệ thống bài tập thích hợp, bằng những biện  <br /> pháp phân hóa nội tại hợp lý, phù hợp với thực trạng học sinh trong lớp. Xuất phát  <br /> từ  những lí do trên, tôi chọn và nghiên cứu đề  tài:   Kinh nghiệm dạy học phân  <br /> hoá trong môn Tiếng Việt lớp Ba theo Mô hình trường học mới VNEN. <br /> Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cho biết, cùng với quá trình tích hợp là phân  <br /> hóa. Phân hóa là phải dạy học sao cho phù hợp với từng người, từng nhóm khác  <br /> nhau. Mỗi người có năng lực riêng, phù hợp với sở thích riêng, điều kiện riêng. Hai  <br /> khái niệm tích hợp và phân hóa tưởng như  mâu thuẫn nhưng lại thống nhất với  <br /> nhau và cần đảm bảo ở tất cả các cấp học. Vì giống như nhận thức của con người,  <br /> ở  cấp học dưới nhận thức một cách tổng quát và chưa có điều kiện đi sâu, nhưng  <br /> càng về  sau, khi càng nhận thức nhiều thì càng cần phải phân hóa. Càng đi sâu thì <br /> càng cần những tích hợp nhỏ.  Nội dung chương trình, những kiến thức liên quan <br /> đên nhau s<br /> ́ ẽ được xếp gần nhau để  hỗ  trợ  việc nghiên cứu, học tập, vận dụng có <br /> tính hệ thống, biện chứng. Một trong những cách làm hiện nay là có thể ghép nhiều  <br /> môn học thành một môn học. Mặt khác, những học sinh (hay những nhóm học sinh) <br /> khác nhau sẽ  có năng lực riêng, sở  thích riêng, điều kiện riêng. Để  phù hợp riêng,  <br /> cần phải day h<br /> ̣ ọc phân hóa. <br /> I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.<br /> Áp dụng phương pháp dạy học phân hóa vào môn Tiếng Việt  ở  lớp Ba để <br /> vừa bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho học sinh khá giỏi, vừa trang bị kiến thức cơ <br /> <br /> <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền -2- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> bản cho học sinh trung bình, vừa bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho học sinh yếu kém. Qua  <br /> đó nâng cao hiệu quả việc dạy học ở tất cả các môn học khác.<br /> Nghiên cứu lí luận và thực tiễn dạy học phân hoá. Các hình thức dạy học <br /> phân hóa. Tại sao phải thực hiện dạy học phân hoá trong giờ Tiếng Việt. Mối quan <br /> hệ  giữa phương pháp dạy học phân hoá với các phương pháp dạy học khác. Áp  <br /> dụng dạy học phân hoá vào môn Tiếng Việt cho học sinh như thế nào ? Xác định  <br /> hệ  thống phân hóa các phân môn trong môn Tiếng Việt lớp Ba. Nghiên cứu những  <br /> sai lầm thường gặp và biện pháp khắc phục cho học sinh trong dạy học môn Tiếng  <br /> Việt. <br /> Thử nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của đề tài.<br /> I.3. Đối tượng nghiên cứu:<br /> Dạy phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp 3 A trường tiểu học Lý Tự  Trọng <br /> năm học 2014 – 2015.<br /> I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu<br /> ­ Nghiên cứu cơ sở lí luận về phương pháp dạy học phân hoá. <br /> ­ Nghiên cứu việc vận dụng phương pháp dạy học phân hóa một cách có hiệu quả <br /> theo chủ đề trong môn Tiếng Việt lớp Ba.<br /> I.5. Phương pháp nghiên cứu.<br /> ­ Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc và nghiên cứu các tài liệu viết về  lí luận  <br /> dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt và nghiên cứu các tài liệu liên quan đến tài <br /> liệu hướng dẫn tự học, sách tham khảo, tạp chí nghiên cứu giáo dục, sau đó phân <br /> tích, tổng hợp, sáng tạo. <br /> ­ Phương pháp điều tra: Quan sát, tìm hiểu, tiến hành thăm lớp, dự giờ trao đổi, tìm  <br /> hiểu ý kiến một số đồng nghiệp dạy giỏi môn Tiếng Việt, có kinh nghiệm, có tâm  <br /> huyết và quan tâm đến đề tài.<br />  ­ Phương pháp thực nghiệm sư  phạm: Tiến hành thử  nghiệm  ở  học sinh lớp 3 A  <br /> tại trường tiểu học Lý Tự Trọng, so sánh kết quả, đánh giá sự tiến bộ của học sinh  <br /> trước và sau khi áp dụng đề tài.<br /> II. Phần nội dung <br /> <br /> II.1. Cơ sở lý luận<br /> <br /> <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền -3- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> Xu hướng dạy học phân hóa  ở  nhiều nước được thực hiện bằng cách định  <br /> hướng hoặc phân luồng cho học sinh  ở các môn học tự  chọn. Các định hướng này <br /> tạo cho HS các cơ hội lựa chọn cho mình hướng học lên phù hợp với năng lực, sở <br /> thích, nguyện vọng và các điều kiện riêng của mỗi HS. Xuất phát từ chức năng giáo  <br /> dục, xét đến cùng là chức năng phát triển của mỗi cá nhân học sinh và trên cơ sở đó <br /> tạo ra động lực thúc đẩy phát triển. Theo đó, cá nhân chỉ có thể có sự phát triển tối <br /> đa khi nhà giáo dục và hệ thống giáo dục đáp ứng những khả năng, những nhu cầu,  <br /> nguyện vọng bằng một chương trình nội dung và cách thức phù hợp. <br /> Nghị  quyết Hội nghị  Trung  ương 2 khoá VIII đã nêu: “Đổi mới mạnh mẽ <br /> phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện <br /> thành nếp tư duy sáng tạo cho học sinh. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên <br /> tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy ­ học”.“Đổi mới tư  duy giáo dục  <br /> một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu  <br /> và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện <br /> nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và trên thế giới; <br /> khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. <br /> Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công  <br /> bằng về  cơ  hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để  toàn xã hội học tập và  <br /> học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Trên <br /> thực tế một bộ phận giáo viên vẫn bằng kinh nghiệm của mình khi giảng dạy trên <br /> lớp đã có ý thức chuẩn bị  công phu bài giảng, tìm hiểu trình độ  nhận thức chung <br /> của lớp, phát hiện những HS khá giỏi, những HS còn yếu kém trong học tập, trên  <br /> cơ sở đó xây dựng nội dung dạy học phù hợp.<br /> Dạy học phân hóa xuất phát từ  yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt tất cả  mục  <br /> đích dạy học, đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối  ưu những khả  năng  <br /> của từng cá nhân. Việc kết hợp giữa giáo dục diện "đại trà" với giáo dục diện "mũi  <br /> nhọn", giữa phổ  cập với nâng cao trong dạy học Tiếng Việt cần được tiến hành <br /> theo các tư tưởng sau: Lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền  <br /> tảng. Người giáo viên phải biết lấy trình độ  phát triển chung và điều kiện chung  <br /> của lớp làm nền tảng thì mới có điểm xuất phát chắc chắn. Nội dung và phương  <br /> pháp dạy học trước hết phải thiết thực, phù hợp với trình độ  và điều kiện chung  <br /> đó. Phải tinh giảm nội dung, lược bỏ những nội dung chưa sát thực, chưa phù hợp  <br /> với yêu cầu thật cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu <br /> <br /> <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền -4- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> kém lên trình độ  trên trung bình. Giúp các em đạt được chuẩn tối thiểu để  có thể <br /> hòa nhập vào học tập đồng loạt theo trình độ chung. <br /> II.2.Thực trạng<br /> a. Thuận lợi­ khó khăn<br /> * Thuận lợi:<br /> Đại đa số bộ phận giáo viên đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi <br /> mới dạy học và dạy học theo quan điểm “ Dạy học phân hóa” là tất yếu khách  <br /> quan, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Việc quản lý chương trình dạy học ở <br /> trường được thực hiện nghiêm túc, có các biện pháp kiểm tra thường xuyên. Hầu <br /> hết các giáo viên đều thực hiện đúng tiến độ, bám sát phân phối chương trình và <br /> thực hiện đăng ký bài giảng đều đặn. Ngay từ  đầu năm học chuyên môn đã đề  ra  <br /> kế hoạch dạy học phù hợp với thực tế của nhà trường, có những quyết định đúng, <br /> kịp thời, tổ  chức thực hiện kế hoạch tương đối hợp lý, khoa học. Chú ý coi trọng  <br /> việc phân công giảng dạy cho giáo viên trên cơ  sở  năng lực, hoàn cảnh, nguyện <br /> vọng, phù hợp với nhiệm vụ chính trị  của nhà trường. Hàng năm đều tổ  chức bồi  <br /> dưỡng cho GV về  chuyên môn, nghiệp vụ  như  việc thực hiện chương trình, tiêu <br /> chuẩn đánh giá giờ lên lớp, đổi mới phương pháp dạy học… Việc dự giờ thăm lớp, <br /> rút kinh nghiệm bài giảng, đánh giá kết quả  bài giảng theo quan điểm phân hóa đã <br /> được tổ chức. Tổ chuyên môn đã phát huy hết vai trò trong việc quản lý hoạt động  <br /> giảng dạy của giáo viên. Dự  giờ, thống nhất nội dung bài giảng theo quan điểm  <br /> phân hóa, góp ý rút kinh nghiệm giờ dạy. Duy trì chế độ kiểm tra, thanh tra chuyên <br /> môn, phối hợp với các tổ  chức như  công đoàn, đội để  kiểm tra đánh giá việc thực  <br /> hiện nề nếp dạy và học ở các lớp. Xây dựng tiêu chí thi đua ngay từ đầu năm học.  <br /> Nhà trường, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh <br /> đã tích cực phối hợp với nhau tạo sự  gắn kết trong công tác giáo dục. Hầu hết  <br /> trước khi bước vào đầu năm học mới, đội ngũ GV đều được tập huấn bồi dưỡng  <br /> chuyên môn nghiệp vụ trong đó chú trọng vào đổi mới phương pháp dạy học, trang  <br /> bị  cho GV một số  kỹ  thuật dạy học tích cực đáp  ứng yêu cầu dạy học theo quan <br /> điểm dạy học phân hóa.<br /> * Khó khăn:<br /> Trong dạy học phân hóa giáo viên phải phân loại  được từng đối tượng HS <br /> để  từ  đó mới có kế  hoạch dạy học cho phù hợp. Kế  hoạch dạy học phải chi tiết,  <br /> <br /> <br /> <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền -5- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> cụ  thể  cho từng đối tượng HS, do đó GV cảm thấy vất vả  hơn khi lập kế hoạch  <br /> dạy học.<br /> Nhiều giáo viên còn lúng túng, bối rối, chưa tự tin trong việc thiết kế các tiết <br /> dạy theo kiểu phân hóa cho từng đối tượng HS. Nếu quan tâm nhiều đến HS yếu,  <br /> không có thời gian để định hướng cho HS giỏi, khá phát huy năng lực của bản thân; <br /> HS giỏi, khá dễ bị nhàm chán.<br /> Việc sử  dụng phương tiện dạy học còn hạn chế  do trình độ  sử  dụng của <br /> giáo viên chưa linh hoạt, tự tin.<br /> b. Thành công­ hạn chế<br /> * Thành công:<br /> Trong các phương pháp giảng dạy Tiếng Việt thì phương pháp dạy học phân <br /> hóa là một phương pháp khá hiệu quả. Trong giờ  học Tiếng Việt, việc bảo đảm <br /> thực hiện tốt các mục đích dạy học đối với tất cả các đối tượng học sinh, khuyến  <br /> khích phát triển tối đa và tối  ưu những khả  năng của cá nhân là yêu cầu vô cùng  <br /> quan trọng mà dạy học phân hóa đã đạt được. Dạy học phân hóa phát huy tốt khả <br /> năng cá thể  hóa hoạt động của học sinh, đưa học sinh trở  thành chủ  thể  của quá <br /> trình nhận thức, tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo, phù hợp với năng <br /> lực nhận thức của bản thân. Bên cạnh đó giáo viên có cơ  hội hiểu và nắm được <br /> mức độ  nhận thức của từng cá thể  học sinh để  đề  ra những biện pháp tác động,  <br /> uốn nắn kịp thời và có đánh giá một cách chính xác, khách quan. Dạy học phân hóa <br /> trong môn Tiếng Việt gây được hứng thú học tập cho mọi đối tượng học sinh, xóa  <br /> bỏ mặc cảm tự ti của đối tượng học sinh có nhịp độ nhận thức thấp cùng tham gia  <br /> tìm hiểu nội dung, yêu cầu của bài. Kích thích, gây hứng thú học tập cho các đối <br /> tượng học sinh khá giỏi phát huy hết khả  năng, trí tuệ  của mình. Không gây cảm  <br /> giác nhàm chán cho học sinh khá giỏi. Dạy học phân hóa trong giờ dạy Tiếng Việt  <br /> dễ  dàng thực hiện, không gây khó khăn, trở ngại cho giáo viên trong việc chuẩn bị <br /> cũng như  tiến hành giảng dạy. Không nhất thiết đòi hỏi cần có các phương tiện <br /> thiết bị  hiện đại kèm theo, phù hợp với thực trạng điều kiện vật chất của nhà <br /> trường. Dạy phân hóa trong môn Tiếng Việt xóa bỏ  mặc cảm, khoảng cách giữa <br /> học sinh yếu kém với học sinh khá giỏi, đưa các em sít lại gần nhau hơn qua sự tác <br /> động tình cảm trong các giờ học Tiếng Việt. Tạo điều kiện cho đối tượng học sinh  <br /> yếu kém học hỏi, thảo luận với học sinh khá giỏi. Các em có cơ  hội giúp đỡ  nhau  <br /> cùng phát triển, tiếp thu một cách nhanh chóng kiến thức của giờ học.<br /> <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền -6- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> <br /> * Hạn chế: <br /> Nhược điểm cơ  bản là người giáo viên trước khi lên lớp phải chuẩn bị  bài <br /> soạn, hệ  thống bài tập phân hóa được chọn lọc cẩn thận, đầu tư  nhiều thời gian  <br /> công sức. Tổ  chức lớp học hiện nay hầu hết đều có số  học sinh đông, chênh lệch  <br /> nhiều về trình độ có thể gây khó khăn cho các giáo viên mới, giáo viên dạy thay có <br /> thể  chưa kịp nắm được trình độ  nhận thức của từng học sinh. Nề  nếp, thói quen  <br /> học tập  ở  một số  lớp không  ổn định khi không có giáo viên chủ  nhiệm nên phần <br /> nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng những tiết học khác.<br /> c. Mặt mạnh ­ mặt yếu<br /> * Mặt mạnh:<br /> Mỗi học sinh là một cá nhân có tiềm năng riêng, có trí thông minh, tình cảm <br /> và động lực học tập khác nhau nên trong các tiết dạy,  nếu giáo viên áp dụng tốt các <br /> biện pháp phân hóa đồng thời có nhiệm vụ  rõ ràng, phù hợp với từng đối tượng <br /> hoặc nhóm đối tượng học sinh sẽ giúp các em phát triển tối đa năng lực cá nhân của  <br /> bản thân. Dạy học phân hóa tốt sẽ  đáp  ứng và phát huy được nguyện vọng, sở <br /> trường và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của các cá nhân khác nhau.<br /> Dạy học phân hóa trong giờ  Tiếng Việt giúp học sinh có nhiều cơ  hội để <br /> phát triển. Mỗi cá nhân dù ở bất kì nhóm đối tượng nào đều có cơ hội để  phát huy  <br /> hết sở  trường của bản thân. Tạo ra động lực học tập cho các em, tạo điều kiện <br /> thuận lợi cho sự phát triển tối đa tư chất và năng lực của học sinh năng khiếu. Loại  <br /> trừ được tình trạng quá tải đối với học sinh yếu kém. Giúp học sinh nắm được một  <br /> cách chính xác,vững chắc có hệ thống những kiến thức và kỹ năng môn Tiếng Việt.  <br /> Có năng lực vận dụng những tri thức đó vào các tình huống khác nhau trong cuộc  <br /> sống. Phát triển những năng lực phẩm chất trí tuệ, giúp cho học sinh biến những  <br /> phẩm chất thu nhận được thành phẩm chất của bản thân mình, thành công cụ  để <br /> nhận thức và hành động đúng đắn trong các lĩnh vực hoạt động học tập các môn  <br /> học khác, trong cuộc sống thường ngày. Giáo dục cho học sinh về  tư  tưởng, đạo  <br /> đức, lối sống, thẩm mỹ  của người công dân yêu nước trung thực và giản dị. Phát  <br /> triển ở mỗi học sinh khả năng học tập, đồng thời phát hiện và bồi dưỡng sớm cho <br /> học sinh có năng khiếu về  môn Tiếng Việt, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất  <br /> nước một cách chân thành qua môn Tiếng Việt. Giáo dục phẩm chất đạo đức thẩm  <br /> mỹ đúng đắn phù hợp với con người Việt Nam trong thời đại hiện nay.<br /> * Mặt yếu:<br /> <br /> <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền -7- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> Dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt  ở buổi thứ hai giáo viên chưa thật  <br /> sự mạnh dạn, linh hoạt trong việc xây dựng nội dung. Các nội dung trong tiết dạy  <br /> còn cơ  cấu cứng  ở  môn tự  chọn, năng khiếu nên việc điều chỉnh thời lượng khó  <br /> thực hiện được. Mặc dù giáo viên rất tâm huyết với nghề, rất yêu trẻ  nhưng chưa <br /> thật sự  gần gũi, thân thiện, chưa thuyết phục học sinh bằng tình cảm, chưa tạo <br /> niềm tin cũng như hứng thú trong học tập, nhu cầu học tập cho trẻ nhất là học sinh  <br /> yếu. Việc tổ  chức các hoạt động sôi nổi trong các tiết học cho học sinh còn hạn <br /> chế nên học sinh không có hứng thú học tập, không tập trung vào hoạt động học.<br /> Lớp nào cũng có đủ  các đối tượng học sinh (giỏi, khá, trung bình, yếu, cá <br /> biệt,..), sỉ số  lớp đông nên khi thiết kế bài dạy giáo viên mất nhiều thời gian, gặp  <br /> khó khăn. Còn một bộ phận học sinh yếu, gia đình không quan tâm, bất hòa nên các <br /> em chán học, ngại học, ỷ lại làm ảnh hưởng đến nề nếp và không khí lớp học.<br /> d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động…<br /> Giáo viên chưa có thói quen phân hóa các đối tượng học sinh trong tiết dạy. <br /> Nội dung tiết dạy thiết kế chưa phù hợp với tình hình thực tế và các đối tượng học  <br /> sinh của lớp.<br /> Đại đa số  bộ  phận GV đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi mới  <br /> dạy học và dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa là tất yếu khách quan, phù  <br /> hợp với xu thế chung của thế giới. Song họ vẫn thực hiện dạy học theo quan điểm <br /> dạy học phân hóa theo kinh nghiệm truyền thống. Nội dung chương trình một số <br /> phần của môn học đôi chỗ chưa phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Phân <br /> phối chương trình đôi chỗ còn chưa phù hợp (lượng kiến thức của một số bài chưa <br /> phù hợp). Giáo viên chưa được bồi dưỡng qui trình dạy học theo quan điểm dạy <br /> học phân hóa một cách có hệ thống, bài bản. Sự phối hợp giữa học sinh, gia đình và  <br /> nhà trường trong việc tìm hiểu năng lực và nguyện vọng cũng như quản lý học tập <br /> của học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Học sinh còn lúng túng chưa quen với <br /> phương pháp học tập chủ động, tích cực. Một số nội dung của môn học còn tương  <br /> đối khó so với trình độ nhận thức của HS, điều này gây quá tải với HS, nhất là với  <br /> những HS đồng bào, HS yếu kém. Ngược lại nội dung học tập trong tài liệu học  <br /> tập chưa được thiết kế theo hướng dạy học phân hóa các đối tượng học sinh, chưa <br /> có nội dung dành cho học sinh khá giỏi. Một số giáo viên còn hạn chế về năng lực  <br /> thật sự. Chưa thực sự dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để đáp ứng yêu cầu <br /> ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục, chưa nhận thức được đầy đủ  vai trò, vị  trí  <br /> của mình trong giai đoạn mới. Môi trường làm việc của giáo viên cũng như  môi <br /> <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền -8- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> trường học tập của học sinh chưa đáp ứng với mô hình dạy học mới. Một số  GV  <br /> chưa nhận thức đầy đủ  tầm quan trọng về  chuẩn kiến thức, kỹ năng đã quy định <br /> trong giảng dạy. Đời sống kinh tế  của một số  học sinh còn khó khăn, chưa nhận  <br /> được sự  quan tâm đúng mức của gia đình,  gia đình chưa tạo điều kiện thuận lợi <br /> nhất về thời gian cũng như đầu tư phương tiện học tập (đặc biệt là học sinh sống  <br /> xa gia đình, bố mẹ đi làm ăn xa) nên họ chưa dành nhiều thời gian cho việc đáp ứng  <br /> các hoạt động ứng dụng của con em tại gia đình, do đó ảnh hưởng đến chất lượng  <br /> dạy học. <br /> e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.<br /> Dạy học phân hoá là một quan điểm dạy học tập trung vào việc thiết kế <br /> giảng dạy xuất phát từ tình hình thực tế của HS, dựa vào đặc điểm cá nhân, tâm lí, <br /> sinh lí, nhu cầu, động cơ, hứng thú, nguyện vọng, điều kiện hoàn cảnh... của các <br /> em mà tìm cách dạy cho phù hợp. <br /> Khi dạy học phân hóa tôi thường lấy trình độ  phát triển chung của học sinh  <br /> trong lớp làm nền tảng, bổ  sung một số  nội dung và biện pháp phân hóa để  giúp  <br /> học sinh khá giỏi đạt được những yêu cầu nâng cao trên cơ sở đã đạt được những  <br /> yêu cầu cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu kém lên <br /> trình độ chung. Áp dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tiên tiến trong Mô hình  <br /> trường học mới VNEN và các phương pháp dạy học tiên tiến khác là một điều kiện <br /> thuận lợi để dạy phân hóa đối tượng học sinh như dạy học phát hiện và giải quyết  <br /> vấn đề,… đặc biệt là phương pháp dạy học phân hóa ngay trong giờ  học chính <br /> khóa, buổi học thứ hai trong ngày sẽ giúp học sinh phát huy được hết khả năng của <br /> mình, tiếp thu kiến thức một cách chủ  động, sáng tạo tùy theo mức độ  nhận thức  <br /> của từng đối tượng học sinh. Đạt được như  vậy mới thực sự  là đổi mới phương <br /> pháp dạy học, góp phần xây dựng đào tạo con người mới: chủ động, sáng tạo phù  <br /> hợp với sự  phát triển khoa học kỹ thuật như hiện nay. Trong những năm học vừa  <br /> qua, người giáo viên dù đã vào nghề  nhiều năm hoặc mới chập chững bước vào  <br /> nghề  đều gặp vướng mắc nhất định, đặc biệt là khi dạy môn Tiếng Việt thường  <br /> gặp nhiều khó khăn hơn bởi bộ môn này chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các bộ môn <br /> khác và có nhiều phân môn khác nhau.  <br /> Khác rất nhiều đối với quan điểm dạy học khác, điểm khá đặc thù của dạy <br /> học phân hóa là nhằm phát hiện và bù đắp lỗ  hổng kiến thức, tạo động lực thúc  <br /> đẩy học tập; biến niềm đam mê trong cuộc sống thành động lực trong học tập. Nói  <br /> cách khác, dạy học phân hóa là con đường ngắn nhất để đạt mục đích của dạy học <br /> <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền -9- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> đồng loạt. Đảm bảo mọi đối tượng HS đều đạt được Chuẩn kiến thức, kỹ  năng  <br /> các môn học trong chương trình. Có nội dung dành cho đối tượng HS giỏi, khá; HS  <br /> trung bình, yếu. Dạy học phân hóa theo Chuẩn kiến thức, kỹ  năng giúp cho giáo <br /> viên biết được lượng kiến thức mới và thực hành rèn kỹ  năng qua mỗi bài học để <br /> xác định yêu cầu cần đạt cho từng đối tượng HS. Đồng thời xác định được nội  <br /> dung cần nâng cao cho đối tượng HS giỏi, khá; nội dung cần truyền thụ  cho HS  <br /> trung bình, yếu. Yêu cầu cần đạt trong tài liệu Chuẩn kiến thức, kỹ năng được trình <br /> bày ngắn gọn, cụ  thể, dễ  hiểu. Từ  đó, giáo viên xác định được những kiến thức <br /> trọng tâm cần truyền thụ, khắc sâu trong mỗi tiết dạy, cho mỗi đối tượng HS. HS <br /> giỏi, khá được giáo viên căn cứ  vào Chuẩn tối thiểu để  mở  rộng việc cung cấp  <br /> kiến thức, rèn luyện kĩ năng phát huy tính sáng tạo. Học sinh trung bình, yếu có cơ <br /> hội tiếp cận kiến thức theo khả năng, tạo được sự  hứng thú và đam mê trong học  <br /> tập, không thấy bị thua kém bạn bè. <br />  II.3. Giải pháp, biện pháp<br /> a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp<br /> Tôi hy vọng qua sáng kiến này giúp cho đồng nghiệp thấy được tầm quan <br /> trọng của việc dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học. Có <br /> cái nhìn sâu hơn về việc dạy học phân hóa cho học sinh. Hiểu được lợi ích to lớn <br /> mà học sinh có được qua các giờ học phân hóa. Thay đổi suy nghĩ về cách tổ chức  <br /> dạy học đồng loạt cho cùng một đối tượng học sinh. <br /> Góp phần cung cấp, hỗ trợ thêm cho giáo viên những phương pháp, kĩ năng,  <br /> kĩ thuật dạy học phân hóa trong các tiết dạy.<br /> Giúp cho đối tượng học sinh khá giỏi phát huy hết khả năng, trí tuệ của bản <br /> thân. Học sinh yếu kém có cơ hội phấn đấu vươn lên trong học tập.<br /> b. Nội dung và cách thực hiện giải pháp, biện pháp<br /> Dạy học phân hoá có thể thực hiện ở 2 cấp độ :<br /> Dạy học phân hoá ở cấp vĩ mô (phân hoá ngoài), là sự tổ chức quá trình dạy <br /> học thông qua cách tổ chức các lớp khác nhau cho các đối tượng HS khác nhau, xây <br /> dựng các chương trình GD khác nhau. <br /> Dạy học phân hoá ở cấp vi mô (phân hoá trong), là tổ chức quá trình dạy học  <br /> trong một tiết học, một lớp học có tính đến đặc điểm cá nhân HS; đặc trưng của  <br /> lớp học là việc sử  dụng những biện pháp phân hoá thích hợp trong một lớp học,  <br /> cùng một chương trình và tài liệu chung. Hình thức phân hóa này luôn được tôi coi <br /> là cần thiết, đó là nhiệm vụ của giáo viên trực tiếp giảng dạy cũng như của cán bộ <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền - 10 - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> quản lý chuyên môn  ở  cấp trường. Loại phân hóa này phù hợp với đối tượng học <br /> sinh tiểu học. Nên trong giờ Tiếng Việt hoặc các môn học khác tôi thường áp dụng <br /> kiểu phân hóa này.<br /> *  Các bước tổ chức dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa:<br /> Bước 1: Điều tra, khảo sát đối tượng HS trước khi giảng dạy. <br /> Sự  giống và khác nhau về trình độ  phát triển nhân cách của mỗi cá thể  học  <br /> sinh đòi hỏi một quá trình dạy học thống nhất với những biện pháp phân hóa nội  <br /> tại. Nhiệm vụ của giáo viên là nghiên cứu tìm hiểu những mặt mạnh và yếu trong  <br /> năng lực, trình độ phát triển của học sinh để có biện pháp cụ thể tác động đến đối <br /> tượng. Có như  vậy mới giúp cho tất cả  học sinh đều tiếp thu được những kiến  <br /> thức và kỹ  năng tối thiểu. Đồng thời, phát hiện và đào tạo nhân tài ngay từ  trong <br /> lớp học. Trong quá trình dạy học, tôi thường xuyên theo dõi, tìm hiểu, kiểm tra để <br /> phân loại học sinh trong lớp, thường tôi chia lớp làm 3 nhóm đối tượng học sinh:  <br /> Nhóm có nhịp độ  nhận thức nhanh (nhóm khá giỏi), nhóm có nhịp độ  nhận thức  <br /> chậm (nhóm yếu kém), và nhóm có nhịp độ  nhận thức trung bình. Qua đó, đề  ra <br /> những yêu cầu khác nhau đối với từng loại đối tượng học sinh: mức độ khó dễ các <br /> câu hỏi đàm thoại, mức độ yêu cầu đối với phương pháp học tập được nghiên cứu, <br /> số lượng và yêu cầu của các hoạt động cho từng nhóm. Đối với hai đối tượng khá  <br /> giỏi và yếu kém tôi thấy thường có biểu hiện không nắm được kiến thức và kỹ <br /> năng cơ  bản, có những sai lầm nghiêm trọng, kết quả  kiểm tra thường dưới mức  <br /> trung bình. Song tôi cố gắng tìm ra nguyên nhân học kém Tiếng Việt của các em. Có <br /> em học kém vì năng lực đọc, viết yếu, vốn từ nghèo nàn, ..có em học yếu vì nguyên <br /> nhân khác (gia đình khó khăn, không có điều kiện thời gian học tập, có vướng mắc  <br /> về  tư tưởng nên chưa tập trung …), để từ  đó có biện pháp giáo dục, giúp đỡ  như:  <br /> xây dựng lòng tự  tin  ở  bản thân, thường xuyên theo dõi, động viên kịp thời, tranh <br /> thủ sự quan tâm của gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó tôi cũng nghiên cứu những  <br /> đặc điểm về tư duy, về phương pháp suy nghĩ của các em thường thể hiện ở 3 đặc  <br /> điểm sau: nhiều "lỗ hổng" về tri thức, kỹ năng tiếp thu chậm, phương pháp học tập  <br /> chưa tốt. Tôi không đồng nhất các em học kém với nhau mà phân kiểu học của từng <br /> học sinh kém Tiếng Việt để  có phương pháp giúp đỡ.  Ở  loại học sinh có thành <br /> phần từ ­ logic nổi trội hơn thì tôi hình thành cho các em khái niệm từ lời nói, đi từ <br /> tư duy đến hình tượng. Ở loại học sinh có thành phần trực quan ­ hình tượng mạnh  <br /> hơn thì tôi dùng con đường khái quát hóa trên cơ sở trực quan, đi từ hình tượng đến  <br /> tư  duy. Đối với học sinh khá giỏi có năng lực học tập Tiếng Việt các em có khả <br /> <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền - 11 - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> năng học tốt môn Tiếng Việt  thường có xu hướng thích đọc sách báo, đọc những  <br /> bài văn hay, dùng từ,  dùng câu có hình ảnh, nói năng lưu loát nhưng thường coi nhẹ <br /> các yêu cầu thông thường. Do đó các em không nắm chắc kiến thức cơ bản. Vì vậy,  <br /> điều quan trọng nhất là hình thành  ở  các em lòng ham thích, hứng thú, say mê học <br /> Tiếng Việt, thường xuyên giáo dục đức tính kiên trì, tỉ mỉ, cẩn thận, khiêm tốn, sẵn <br /> sàng giúp đỡ  bạn cùng nhóm, cùng lớp tiến bộ. Trong giờ học, tôi suy nghĩ tìm tòi <br /> để  đề  ra cho hoc sinh những câu hỏi đào sâu  (chẳng hạn trả lời câu hỏi, yêu cầu  <br /> trong tài liệu bằng cách khác.<br /> Ví dụ:  Ở  hoạt động thuộc về  phân môn Tập đọc, trong khi các nhóm đều  <br /> làm việc chung một hoạt động là đọc và giải nghĩa các từ  đã cho sẵn trong tài liệu  <br /> thì nhóm hoặc cá nhân trong các nhóm có nhịp độ  làm việc nhanh, hoàn thành tốt <br /> yều cầu của hoạt động đó thì tôi cho các em tìm thêm từ khó trong bài để giải nghĩa <br /> cho nhau nghe hoặc tự chọn và đặt câu có hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa với một  <br /> trong các từ đó, phù hợp với nội dung kiến thức  trong chuẩn kiến thức kĩ năng của  <br /> thời điểm học tập hoặc khai thác khía cạnh khác nhau của các họat động đơn giản.  <br /> Với học sinh trung bình tôi cho các em nắm thật chắc kiến thức cơ  bản trong tài  <br /> liệu hướng dẫn học tập, làm đầy đủ  và đạt yêu cầu các hoạt động với sự gợi ý ở <br /> mức độ hạn chế của giáo viên, có thể tiếp thu phần nào kiến thức nâng cao của học <br /> sinh khá giỏi. <br /> Biện pháp điều tra, phát hiện và phân loại đối tượng học sinh về  khả  năng <br /> lĩnh hội kiến thức và trình độ phát triển thông qua quan sát, kiểm tra, tìm hiểu… có  <br /> thể được tiến hành ngay trong những tuần đầu năm học và trong suốt quá trình dạy  <br /> học, tôi thường xuyên theo dõi điều chỉnh lại nhân sự  nhóm, chuyển lên nhóm trên <br /> hoặc xuống nhóm dưới nếu có thành viên nào trong nhóm tỏ ra tiến bộ hay thụt lùi. <br /> Tuy nhiên, để  đảm bảo mục đích và hiệu quả  sư  phạm, có thể  tùy thuộc vào đặc  <br /> điểm và số lượng học sinh trong lớp mà có thể phân thành nhiều nhóm (chẳng hạn  <br /> phân thành 6 nhóm: 2 nhóm khá giỏi, 2 nhóm trung bình, 2 nhóm yếu kém) vừa khơi  <br /> gợi niềm tin ở khả năng mỗi cá nhân, tránh mặc cảm, tự ti, vừa tạo nhu cầu thi đua  <br /> học tập giữa các nhóm. Trong trường hợp chia nhóm theo kiểu này tôi thường hay  <br /> áp dụng ở các tiết dạy tăng cừờng ở buổi học thứ hai. Bình thường thì vẫn áp dụng <br /> kiểu chia nhóm ngẫu nhiên hoặc nhóm đa trình độ  để  tạo điều kiện cho học sinh  <br /> khá giỏi hỗ trợ học sinh yếu kém. Hoặc để các em có cơ hội học hỏi lẫn nhau.<br /> Bước 2: Lập kế hoạch dạy học, thiết kế tiết dạy từ việc phân tích nhu cầu của  <br /> HS<br /> <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền - 12 - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> Ở  mỗi tiết dạy Tiếng Việt, tôi nghiên cứu nắm vững nội dung và yêu cầu <br /> của bài học. Đây là vấn đề  trước tiên và đặc biệt quan trọng của giáo viên trong  <br /> việc thiết kế  bài học có chất lượng theo kiểu phân hóa. Có nắm vững nội dung <br /> kiến thức bài học thì mới có thể hình thành các phương pháp dạy học để vận dụng <br /> vào từng tình huống cụ  thể  cho hiệu quả, đạt được mục đích dạy học của mình.  <br /> Tôi thực hiện cẩn thận và xem xét nhiều khía cạnh khác nhau của các bài tập trong  <br /> tài liệu hướng dẫn học tập và những bài tập cho học sinh làm thêm. Khi thiết kế <br /> các pha dạy học đồng loạt tôi sử dụng kết hợp phương pháp dạy học phát hiện và  <br /> giải quyết vấn đề, …với các câu hỏi phân hóa. Khi đưa các yếu tố phát hiện và giải  <br /> quyết vấn đề kết hợp cùng hệ thống câu hỏi phân hóa vào bài học sẽ phát triển tư <br /> duy, tăng cường tính tự giác, chủ động, sáng tạo cho các đối tượng học sinh. Những <br /> tri thức mới được kiến tạo nhờ  quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề, học sinh  <br /> được khám phá, phân tích vấn đề, để đề xuất và thực hiện được phương pháp giải  <br /> quyết. Tạo ra các tình huống có vấn đề là thành phần quan trọng trong dạy học theo <br /> xu hướng tích cực hóa quá trình học tập của học sinh. Tình huống có vấn đề là tình <br /> huống khó khăn đặt ra, để khắc phục nó phải tìm tòi suy nghĩ, phải có tri thức mới,  <br /> những biện pháp mới, những cách giải quyết thích hợp hay có thể là tình huống có  <br /> mâu thuẫn. Để  phát huy tính tích cực, tự  giác học tập của học sinh cần tạo ra các  <br /> tình huống có vấn đề để học sinh khám phá ra tri thức mới. Có nhiều biện pháp tạo <br /> ra tình huống. Khai thác phần hoạt động ứng dụng  ở gia đình hoặc khai thác phần <br /> kiến thức cơ bản, phần thực hành. Chọn một ứng dụng của kiến thức mới. Tôi đặt  <br /> vấn đề  mới đòi hỏi học sinh nghiên cứu, đặt học sinh trước mâu thuẫn chưa giải <br /> quyết được với kiến thức cũ. Chọn kiến thức mới giải quyết nhanh hơn. Gắn cho  <br /> các yêu cầu với nội dung thực tế tạo cho học sinh hứng thú thực hiện yêu cầu đó. <br /> Ví dụ: Hoạt động ứng dụng  ở bài 27 C Yêu cầu tìm hiểu về  con suối hoặc  <br /> dòng sông gần nơi em ở. Có những học sinh nhà ở rất xa những con suối dòng sông  <br /> đó. HS cảm thấy rất bối rối, lúng túng để  hoàn thành bài tập  ứng dụng khi mình <br /> không có điều kiện để đi đến tận nơi tìm hiểu về dòng sông hoặc con suối đó. Giáo <br /> viên có thể gợi ý cho các em thực hiện bằng cách tìm hiểu qua sách báo ở thư viện,  <br /> qua truyền hình hoặc qua mạng Internet, …Khi đó học sinh sẽ rất hứng thú để thực <br /> hiện. <br /> Hoặc ở bài 4 C tập 1A  ở phần thực hành hoạt động 6: Kể một kỉ niệm đẹp <br /> nhất về ông hoặc bà của mình. Khi quan sát các nhóm làm việc, tôi thấy có HS rất  <br /> lúng túng, sau 15 phút nhưng em vẫn chưa viết được một câu nào nhưng đó không  <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền - 13 - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> phải là đối tượng HS yếu kém. Sau khi tìm hiểu nguyên nhân tôi mới biết em không <br /> có ông bà. <br /> Tình huống có vấn đề  được xuất hiện khi giáo viên đặt ra các tình huống <br /> phải lựa chọn. Trong dạy học, phát hiện và giải quyết vấn đề  giáo viên đưa học  <br /> sinh vào tình huống có vấn đề  rồi giúp học sinh giải quyết vấn đề  đặt ra bằng hệ <br /> thống câu hỏi dẫn dắt. Bằng cách đó học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm <br /> được phương pháp đi tới tri thức đó, lại vừa phát triển tư duy sáng tạo và có tiềm  <br /> năng vận dụng tri thức vào những tình huống mới, phát hiện kịp thời và giải quyết <br /> hợp lý các vấn đề xảy ra. Làm cho hệ thống câu hỏi trở thành một quá trình dẫn dắt <br /> học sinh suy luận. Không lặp lại các câu hỏi một cách đơn điệu nên hỏi cùng nội  <br /> dung dưới nhiều hình thức khác nhau. Có như vậy các em vừa nắm được bản chất  <br /> vấn đề, vừa biết vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau. Hệ  thống <br /> câu hỏi phân hóa song vẫn tác động đến học sinh yếu kém cũng có thể trả lời được  <br /> vì nó đã có quá trình dẫn dắt và học sinh khá cũng phải theo dõi câu hỏi dễ dàng vì <br /> đằng sau nó là sự phát hiện mới. <br /> Khi thiết kế các hoạt động phân hóa ý đồ phân hóa của tôi là để cho học sinh <br /> khác nhau có thể tiến hành các hoạt động phù hợp với trình độ  khác nhau của học  <br /> sinh. Tôi dựa vào đặc điểm và sự phân loại học sinh trong lớp để đề ra các yêu cầu  <br /> thích hợp. Có thể  phân hóa về  yêu cầu bằng cách cho sử  dụng mạch hoạt động <br /> phân bậc, giao cho học sinh giỏi những hoạt động có yeue cầu ở bậc cao hơn so với  <br /> các đối tượng học sinh khác. Đối với học sinh yếu kém, có thể giao các hoạt động <br /> có yêu cầu ở mức thấp hơn. Cụ thể là khoảng cách giữa hai bậc liên tiếp không quá <br /> cao, quá xa. Nhiều bậc học sinh yếu kém gộp lại thành một bậc của học sinh trung <br /> bình hoặc khá giỏi. Hoặc ngay trong một hoạt động tôi cũng có thể  tiến hành dạy  <br /> phân hóa nếu như  hoạt động đó đảm bảo yêu cầu cho cả  ba nhóm đối tượng học  <br /> sinh vừa bồi dưỡng lấp lỗ  hổng cho học sinh yếu kém, vừa trang bị  kiến thức  <br /> chuẩn cho học sinh trung bình và vừa có kiến thức nâng cao cho học sinh khá, giỏi. <br /> Ví dụ: Với yêu cầu của những hoạt động thiên về  phân môn Tập làm văn  <br /> như: Kể  về một người hàng xóm mà em yêu quý nhất hoặc các yêu cầu tương tự <br /> của phân môn tập làm văn. Để  cho tất cả  các đối tượng học sinh trong lớp cùng  <br /> thực hiện một yêu cầu, tạm thời chia lớp thành hai cấp độ: hứng thú mạnh và hứng <br /> thú trung bình. Đối với nhóm hứng thú trung bình, tôi chỉ  hướng dẫn học sinh kể <br /> theo 4 gợi ý như yêu cầu. Theo dõi giúp đỡ  các em cách dùng từ  đặt câu đúng ngữ <br /> pháp, đúng chính tả. Đối với nhóm hứng thú mạnh đặt thêm một số câu hỏi phụ để <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền - 14 - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> các em hình dung ra một người hàng xóm đã để lại trong tâm trí các em rất nhiều ấn <br /> tượng  và   tự   kể   lại  không  theo  gợi  ý   trong   hoạt   động  về   người  đó,   đồng  thời  <br /> khuyến khích các em sáng tạo trong cách dùng từ đặt câu, đặt câu có hình  ảnh nên <br /> sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa trong đoạn văn, đưa cảm xúc thật sự của mình <br /> vào trong đoạn viết khi để về người hàng xóm đó. Để từ đó các em có thể nói được <br /> càng nhiều chi tiết về người đang kể càng tốt. Tuy nhiên với nhóm hứng thú trung <br /> bình giáo viên cũng có thể  định hướng, khuyến khích thêm cho các em, để  các em  <br /> cũng viết được đoạn văn rõ ý, dùng từ đặt câu đúng ngữ pháp, câu văn rõ ràng, sáng  <br /> sủa và cũng có được những cảm xúc thực sự khi nói về người hàng xóm đó.<br /> Bước 3: Kết hợp nhiều phương tiện dạy học, lựa chọn những hình thức tổ  <br /> chức dạy học phù hợp với mục tiêu bài học. <br /> Xem xét các yếu tố   ảnh hưởng đến quá trình học tập: môi trường, phương  <br /> tiện, điều kiện dạy học …Trong mỗi tiết học Tiếng Việt, tôi thường sử  dụng <br /> phương tiện dạy học và đồ  dùng học tập khác nhau như: phiếu học tập, bảng  <br /> nhóm, các thẻ từ, thẻ câu, những bông hoa được cắt bằng giấy màu xốp hoặc các lá  <br /> cờ  bé xinh xinh để  làm phần thưởng kích thích cho học sinh hứng thú học tập khi  <br /> nhóm có kết quả  hoạt động tốt, khi các em tham gia các trò chơi tìm từ, tìm nhân <br /> vật bí ẩn,…đây là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giờ học nên trong  <br /> các tiết dạy tôi thực sự quan tâm và chú trọng. <br /> Thông thường trong các giờ  học, tôi tổ  chức cho học sinh học tập trong lớp <br /> học song một số tiết học có liên quan nhiều đến thiên nhiên để thay đổi không khí,  <br /> làm mới môi trường học tập, một số tiết học tôi thiết kế  cho học sinh từng nhóm <br /> học ở không gian rộng hơn. Để đảm bảo cho các tiết học theo kiểu này có hiệu quả <br /> tôi thường chú ý đến điều kiện sân bãi, môi trường xung quanh, điều kiện thời tiết <br /> … các yếu tố đó có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tâm lý, tinh thần học tập của học  <br /> sinh nên tôi đề ra các phương án khác nhau để đảm bảo chất lượng giờ học. <br /> Phương tiện dạy học góp phần chứa đựng và truyền tải thông tin, tạo điều <br /> kiện thuận lợi cho việc tổ  chức hoạt động học tập nên là một yếu tố  quan trọng <br /> không thể thiếu được trong đổi mới phương pháp dạy học theo xu hướng tích cực  <br /> hóa hoạt động của học sinh. Mỗi giờ  học tôi sử  dụng các phương tiện dạy học  <br /> khác nhau tùy thuộc vào các chức năng của từng loại phương tiện như: kiến tạo tri  <br /> thức, rèn luyện kỹ năng, kích thích hứng thú học tập, tổ  chức điều khiển quá trình <br /> học tập … Tôi phối hợp sử  dụng các phương tiện dạy học khác nhau trong từng <br /> tình huống cụ thể để  lấy điểm mạnh của phương tiện này bổ  sung điểm yếu của  <br /> <br /> GV: Dương Thị Kim Truyền - 15 - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br /> Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br /> <br /> <br /> phương tiện khác, nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của hệ thống phương  <br /> tiện dạy học trong mỗi giờ học. Phiếu học tập, trò chơi học tập, câu đố  vui, … là  <br /> những phương tiện thể hiện rõ tính ưu việt khi tổ chức các pha phân hóa trong giờ <br /> học nên giáo viên biết sử dụng hợp lý, vì chúng vừa góp phần tổ  chức điều khiển  <br /> quá trình học tập đến từng cá thể  học sinh phát huy khả năng của mình, kích thích  <br /> hứng thú học tập, vừa góp phần hợp lý hóa công việc của giáo viên và học sinh,  <br /> trong đó các yếu tố thời gian, khối lượng công việc được đảm bảo. <br /> Bước 4: Kiểm tra, đánh giá sự tiến bộ của HS trong suốt quá trình giảng dạy.<br /> Việc kiểm tra, đánh giá kết quả của từng nhóm, từng cá nhân học sinh trong  <br /> suốt quá trình giảng dạy là một căn cứ  để  tôi biết được mức độ  tiến bộ   ở  từng <br /> nhóm đối tượng học sinh. Từ  đó có những biện pháp khích lệ  kịp thời, giúp học  <br /> sinh phát huy tốt hơn nữa  ở các tiết học tiếp theo. Đồng thời cũng làm nguồn động <br /> lực giúp học sinh hứng thú hơn trong học tập.<br /> Bám sát theo từng hoạt động của tất cả các nhóm đối tượng học sinh, tôi sử <br /> dụng các kĩ thuật đánh giá kết quả học tập của học sinh trong Mô hình VNEN như:  <br /> quan sát, kiểm tra nhanh, kiểm tra miệng, kiểm tra thực hành, phỏng vấn nhanh, <br /> đánh giá sản phẩm của nhóm,…để  đánh giá sự  tiến bộ  của học sinh  hoặc những <br /> điểm học sinh cần cố gắng để  có kế  hoạch động viên, giúp đỡ  học sinh kịp thời, <br /> đồng thời giúp tôi điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ  chức các hoạt <br /> động dạy học và kịp thời phát hiện những cố gắng để động viên, khuyến khích, ghi  <br /> nhận sự tiến bộ hàng ngày của từng học sinh, giúp học sinh cảm thấy tự tin và vui  <br /> thích với các hoạt động học tập. Đồng thời giúp học sinh biết tự đánh giá, rút kinh <br /> nghiệm, tự điều chỉnh bài làm, hoạt động của mình, bồi dưỡng hứng thú học tập và  <br /> rèn luyện để  học sinh ngày càng tiến bộ  hơn. Góp phần làm giảm áp lực cho học <br /> sinh khi đến trường. Khuyến khích các em   tự  học, sáng tạo.  Quan điểm của tôi <br /> trong dạy học phân hóa là luôn cố  gắng tạo mối quan hệ  dân chủ  giữa cô và trò,  <br /> giữa trò và trò để giúp HS cởi mở, tự tin hơn.<br /> * Quy trình tổ chức các pha phân hóa trong giờ dạy:<br /> Tổ chức các pha dạy học đồng loạt: Kết hợp và sử dụng các phương pháp <br /> dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, tình huống … nhằm mục đích giúp học <br /> sinh tiếp thu tốt các kiến thức. Các phương pháp này có ưu điểm rất lớn là tạo ra  <br /> tình huống gợi vấn đề, điều khiển học sinh hoạt động tự  đánh giá, tích cực chủ <br /> động và sáng tạo. Để  thu hút tất cả  các đối tượng học sinh trong lớp tham gia tìm <br /> hiểu nội dung bài học. Tôi giao nhiệ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2