Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
<br />
I. Phần mở đầu: <br />
<br />
I.1. Lý do chọn đề tài.<br />
Trong những năm gần đây thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp dạy <br />
học ở cấp tiểu học đã có những thay đổi rõ rệt. Từ phương pháp dạy học đến nội <br />
dung chương trình và cách kiểm tra đánh giá học sinh,...Tuy nhiên có một sự thay <br />
đổi lớn hơn đó là thay đổi trong nhận thức của người giáo viên về giáo dục tiểu <br />
học. Nếu như trước đây học sinh tiểu học đến trường chỉ được học hai môn công <br />
cụ đó là Toán và Tiếng Việt thì hiện nay yêu cầu phát triển toàn diện càng ngày <br />
càng được chú trọng. Khi đến trường các em không chỉ được học hai môn công cụ <br />
mà còn được học rất nhiều môn khác nhau như: Tin học, Ngoại ngữ, Mỹ thuật, Âm <br />
nhạc,…theo đúng nghĩa của một môn học.<br />
Trong công cuộc đổi mới giáo dục bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành theo ba <br />
hướng: Đổi mới sách giáo khoa ở tất cả các cấp học phổ thông, đổi mới phương <br />
pháp dạy học, đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh. Đi đôi với việc đổi mới <br />
SGK, đổi mới chương trình là đổi mới phương pháp dạy học, được tiến hành với <br />
phần đông giáo viên đang trực tiếp giảng dạy trên lớp hiện nay. Nhiều giáo viên đã <br />
thực hiện áp dụng phương pháp mới nhưng chưa hiệu quả, chưa tích cực hóa và <br />
khơi dậy được năng lực học tập thực sự của tất cả các đối tượng học sinh. Hầu <br />
hết các giáo viên chỉ mới quan tâm đến đối tượng học sinh có lực học trung bình, <br />
nắm được kiến thức cơ bản trong tài liệu hướng dẫn, còn đối tượng học sinh khá <br />
giỏi có năng lực tư duy sáng tạo và học sinh có lực học yếu kém còn chưa được <br />
quan tâm, bồi dưỡng đúng mức trong giờ học, chưa khuyến khích phát triển tối đa <br />
và tối ưu những khả năng của từng cá nhân học sinh. Trong quá trình đổi mới <br />
phương pháp dạy học, việc bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề rất cần thiết và cần <br />
được thực hiện ngay ở trong những tiết học đại trà nhằm phát hiện và bồi dưỡng, <br />
ươm mầm những tài năng cho đất nước trong tương lai. Không những đảm bảo <br />
chất lượng phổ cập đại trà mà đồng thời chú trọng phát hiện và bồi dưỡng học sinh <br />
có năng khiếu về Tiếng Việt, Toán và các môn học khác. Từ trước đến nay, đổi <br />
mới phương pháp dạy học chưa được chú trọng đúng mức, hầu hết các giáo viên <br />
chỉ dừng ở mức độ trang bị kiến thức cơ bản cho đối tượng học sinh có lực học <br />
loại trung bình đại trà trong lớp, chưa thực sự quan tâm bồi dưỡng đến đối tượng <br />
học sinh khá giỏi. Bởi lẽ họ chưa mạnh dạn, sợ cháy thời gian, không đủ thời <br />
gian… ngại đầu tư thời gian nghiên cứu bài. Có những giáo viên vẫn dạy theo cách <br />
<br />
GV: Dương Thị Kim Truyền -1- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
như đã dạy từ mấy chục năm qua, phương pháp đàm thoại là chủ yếu. Ngược lại, <br />
một số giáo viên lại chỉ chú ý đến đối tượng học sinh khá giỏi song chưa thực sự <br />
quan tâm đến sự tiếp thu kiến thức của đối tượng học sinh trung bình và yếu trong <br />
lớp, làm cho những học sinh này không hiểu bài và có tư tưởng sợ học, giáo viên <br />
không bồi dưỡng lấp lỗ hổng kiến thức cho các em ngay trong giờ học chính khóa. <br />
Bên cạnh đó là một số phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm <br />
thoại, giảng giải, vấn đáp…còn nhiều mặt hạn chế, chưa khắc phục được nhược <br />
điểm này. Vậy câu hỏi đặt ra là cần phải dạy học như thế nào để trong một giờ <br />
dạy đảm bảo: bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho đối tượng học sinh khá giỏi, trang <br />
bị kiến thức cơ bản cho học sinh trung bình và bồi dưỡng lấp chỗ hổng cho học <br />
sinh yếu kém ? Theo tôi, hoàn toàn có thể áp dụng được trong các tiết học Tiếng <br />
Việt hoặc các môn khác cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp bằng những <br />
hình thức học tập, hệ thống câu hỏi, hệ thống bài tập thích hợp, bằng những biện <br />
pháp phân hóa nội tại hợp lý, phù hợp với thực trạng học sinh trong lớp. Xuất phát <br />
từ những lí do trên, tôi chọn và nghiên cứu đề tài: Kinh nghiệm dạy học phân <br />
hoá trong môn Tiếng Việt lớp Ba theo Mô hình trường học mới VNEN. <br />
Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển cho biết, cùng với quá trình tích hợp là phân <br />
hóa. Phân hóa là phải dạy học sao cho phù hợp với từng người, từng nhóm khác <br />
nhau. Mỗi người có năng lực riêng, phù hợp với sở thích riêng, điều kiện riêng. Hai <br />
khái niệm tích hợp và phân hóa tưởng như mâu thuẫn nhưng lại thống nhất với <br />
nhau và cần đảm bảo ở tất cả các cấp học. Vì giống như nhận thức của con người, <br />
ở cấp học dưới nhận thức một cách tổng quát và chưa có điều kiện đi sâu, nhưng <br />
càng về sau, khi càng nhận thức nhiều thì càng cần phải phân hóa. Càng đi sâu thì <br />
càng cần những tích hợp nhỏ. Nội dung chương trình, những kiến thức liên quan <br />
đên nhau s<br />
́ ẽ được xếp gần nhau để hỗ trợ việc nghiên cứu, học tập, vận dụng có <br />
tính hệ thống, biện chứng. Một trong những cách làm hiện nay là có thể ghép nhiều <br />
môn học thành một môn học. Mặt khác, những học sinh (hay những nhóm học sinh) <br />
khác nhau sẽ có năng lực riêng, sở thích riêng, điều kiện riêng. Để phù hợp riêng, <br />
cần phải day h<br />
̣ ọc phân hóa. <br />
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.<br />
Áp dụng phương pháp dạy học phân hóa vào môn Tiếng Việt ở lớp Ba để <br />
vừa bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho học sinh khá giỏi, vừa trang bị kiến thức cơ <br />
<br />
<br />
GV: Dương Thị Kim Truyền -2- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
bản cho học sinh trung bình, vừa bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho học sinh yếu kém. Qua <br />
đó nâng cao hiệu quả việc dạy học ở tất cả các môn học khác.<br />
Nghiên cứu lí luận và thực tiễn dạy học phân hoá. Các hình thức dạy học <br />
phân hóa. Tại sao phải thực hiện dạy học phân hoá trong giờ Tiếng Việt. Mối quan <br />
hệ giữa phương pháp dạy học phân hoá với các phương pháp dạy học khác. Áp <br />
dụng dạy học phân hoá vào môn Tiếng Việt cho học sinh như thế nào ? Xác định <br />
hệ thống phân hóa các phân môn trong môn Tiếng Việt lớp Ba. Nghiên cứu những <br />
sai lầm thường gặp và biện pháp khắc phục cho học sinh trong dạy học môn Tiếng <br />
Việt. <br />
Thử nghiệm sư phạm để kiểm tra tính khả thi của đề tài.<br />
I.3. Đối tượng nghiên cứu:<br />
Dạy phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp 3 A trường tiểu học Lý Tự Trọng <br />
năm học 2014 – 2015.<br />
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu<br />
Nghiên cứu cơ sở lí luận về phương pháp dạy học phân hoá. <br />
Nghiên cứu việc vận dụng phương pháp dạy học phân hóa một cách có hiệu quả <br />
theo chủ đề trong môn Tiếng Việt lớp Ba.<br />
I.5. Phương pháp nghiên cứu.<br />
Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc và nghiên cứu các tài liệu viết về lí luận <br />
dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt và nghiên cứu các tài liệu liên quan đến tài <br />
liệu hướng dẫn tự học, sách tham khảo, tạp chí nghiên cứu giáo dục, sau đó phân <br />
tích, tổng hợp, sáng tạo. <br />
Phương pháp điều tra: Quan sát, tìm hiểu, tiến hành thăm lớp, dự giờ trao đổi, tìm <br />
hiểu ý kiến một số đồng nghiệp dạy giỏi môn Tiếng Việt, có kinh nghiệm, có tâm <br />
huyết và quan tâm đến đề tài.<br />
Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thử nghiệm ở học sinh lớp 3 A <br />
tại trường tiểu học Lý Tự Trọng, so sánh kết quả, đánh giá sự tiến bộ của học sinh <br />
trước và sau khi áp dụng đề tài.<br />
II. Phần nội dung <br />
<br />
II.1. Cơ sở lý luận<br />
<br />
<br />
GV: Dương Thị Kim Truyền -3- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
Xu hướng dạy học phân hóa ở nhiều nước được thực hiện bằng cách định <br />
hướng hoặc phân luồng cho học sinh ở các môn học tự chọn. Các định hướng này <br />
tạo cho HS các cơ hội lựa chọn cho mình hướng học lên phù hợp với năng lực, sở <br />
thích, nguyện vọng và các điều kiện riêng của mỗi HS. Xuất phát từ chức năng giáo <br />
dục, xét đến cùng là chức năng phát triển của mỗi cá nhân học sinh và trên cơ sở đó <br />
tạo ra động lực thúc đẩy phát triển. Theo đó, cá nhân chỉ có thể có sự phát triển tối <br />
đa khi nhà giáo dục và hệ thống giáo dục đáp ứng những khả năng, những nhu cầu, <br />
nguyện vọng bằng một chương trình nội dung và cách thức phù hợp. <br />
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khoá VIII đã nêu: “Đổi mới mạnh mẽ <br />
phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện <br />
thành nếp tư duy sáng tạo cho học sinh. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên <br />
tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học”.“Đổi mới tư duy giáo dục <br />
một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu <br />
và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện <br />
nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và trên thế giới; <br />
khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. <br />
Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, đảm bảo công <br />
bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và <br />
học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Trên <br />
thực tế một bộ phận giáo viên vẫn bằng kinh nghiệm của mình khi giảng dạy trên <br />
lớp đã có ý thức chuẩn bị công phu bài giảng, tìm hiểu trình độ nhận thức chung <br />
của lớp, phát hiện những HS khá giỏi, những HS còn yếu kém trong học tập, trên <br />
cơ sở đó xây dựng nội dung dạy học phù hợp.<br />
Dạy học phân hóa xuất phát từ yêu cầu đảm bảo thực hiện tốt tất cả mục <br />
đích dạy học, đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng <br />
của từng cá nhân. Việc kết hợp giữa giáo dục diện "đại trà" với giáo dục diện "mũi <br />
nhọn", giữa phổ cập với nâng cao trong dạy học Tiếng Việt cần được tiến hành <br />
theo các tư tưởng sau: Lấy trình độ phát triển chung của học sinh trong lớp làm nền <br />
tảng. Người giáo viên phải biết lấy trình độ phát triển chung và điều kiện chung <br />
của lớp làm nền tảng thì mới có điểm xuất phát chắc chắn. Nội dung và phương <br />
pháp dạy học trước hết phải thiết thực, phù hợp với trình độ và điều kiện chung <br />
đó. Phải tinh giảm nội dung, lược bỏ những nội dung chưa sát thực, chưa phù hợp <br />
với yêu cầu thật cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu <br />
<br />
<br />
GV: Dương Thị Kim Truyền -4- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
kém lên trình độ trên trung bình. Giúp các em đạt được chuẩn tối thiểu để có thể <br />
hòa nhập vào học tập đồng loạt theo trình độ chung. <br />
II.2.Thực trạng<br />
a. Thuận lợi khó khăn<br />
* Thuận lợi:<br />
Đại đa số bộ phận giáo viên đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi <br />
mới dạy học và dạy học theo quan điểm “ Dạy học phân hóa” là tất yếu khách <br />
quan, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Việc quản lý chương trình dạy học ở <br />
trường được thực hiện nghiêm túc, có các biện pháp kiểm tra thường xuyên. Hầu <br />
hết các giáo viên đều thực hiện đúng tiến độ, bám sát phân phối chương trình và <br />
thực hiện đăng ký bài giảng đều đặn. Ngay từ đầu năm học chuyên môn đã đề ra <br />
kế hoạch dạy học phù hợp với thực tế của nhà trường, có những quyết định đúng, <br />
kịp thời, tổ chức thực hiện kế hoạch tương đối hợp lý, khoa học. Chú ý coi trọng <br />
việc phân công giảng dạy cho giáo viên trên cơ sở năng lực, hoàn cảnh, nguyện <br />
vọng, phù hợp với nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Hàng năm đều tổ chức bồi <br />
dưỡng cho GV về chuyên môn, nghiệp vụ như việc thực hiện chương trình, tiêu <br />
chuẩn đánh giá giờ lên lớp, đổi mới phương pháp dạy học… Việc dự giờ thăm lớp, <br />
rút kinh nghiệm bài giảng, đánh giá kết quả bài giảng theo quan điểm phân hóa đã <br />
được tổ chức. Tổ chuyên môn đã phát huy hết vai trò trong việc quản lý hoạt động <br />
giảng dạy của giáo viên. Dự giờ, thống nhất nội dung bài giảng theo quan điểm <br />
phân hóa, góp ý rút kinh nghiệm giờ dạy. Duy trì chế độ kiểm tra, thanh tra chuyên <br />
môn, phối hợp với các tổ chức như công đoàn, đội để kiểm tra đánh giá việc thực <br />
hiện nề nếp dạy và học ở các lớp. Xây dựng tiêu chí thi đua ngay từ đầu năm học. <br />
Nhà trường, các đoàn thể trong và ngoài nhà trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh <br />
đã tích cực phối hợp với nhau tạo sự gắn kết trong công tác giáo dục. Hầu hết <br />
trước khi bước vào đầu năm học mới, đội ngũ GV đều được tập huấn bồi dưỡng <br />
chuyên môn nghiệp vụ trong đó chú trọng vào đổi mới phương pháp dạy học, trang <br />
bị cho GV một số kỹ thuật dạy học tích cực đáp ứng yêu cầu dạy học theo quan <br />
điểm dạy học phân hóa.<br />
* Khó khăn:<br />
Trong dạy học phân hóa giáo viên phải phân loại được từng đối tượng HS <br />
để từ đó mới có kế hoạch dạy học cho phù hợp. Kế hoạch dạy học phải chi tiết, <br />
<br />
<br />
<br />
GV: Dương Thị Kim Truyền -5- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
cụ thể cho từng đối tượng HS, do đó GV cảm thấy vất vả hơn khi lập kế hoạch <br />
dạy học.<br />
Nhiều giáo viên còn lúng túng, bối rối, chưa tự tin trong việc thiết kế các tiết <br />
dạy theo kiểu phân hóa cho từng đối tượng HS. Nếu quan tâm nhiều đến HS yếu, <br />
không có thời gian để định hướng cho HS giỏi, khá phát huy năng lực của bản thân; <br />
HS giỏi, khá dễ bị nhàm chán.<br />
Việc sử dụng phương tiện dạy học còn hạn chế do trình độ sử dụng của <br />
giáo viên chưa linh hoạt, tự tin.<br />
b. Thành công hạn chế<br />
* Thành công:<br />
Trong các phương pháp giảng dạy Tiếng Việt thì phương pháp dạy học phân <br />
hóa là một phương pháp khá hiệu quả. Trong giờ học Tiếng Việt, việc bảo đảm <br />
thực hiện tốt các mục đích dạy học đối với tất cả các đối tượng học sinh, khuyến <br />
khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của cá nhân là yêu cầu vô cùng <br />
quan trọng mà dạy học phân hóa đã đạt được. Dạy học phân hóa phát huy tốt khả <br />
năng cá thể hóa hoạt động của học sinh, đưa học sinh trở thành chủ thể của quá <br />
trình nhận thức, tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo, phù hợp với năng <br />
lực nhận thức của bản thân. Bên cạnh đó giáo viên có cơ hội hiểu và nắm được <br />
mức độ nhận thức của từng cá thể học sinh để đề ra những biện pháp tác động, <br />
uốn nắn kịp thời và có đánh giá một cách chính xác, khách quan. Dạy học phân hóa <br />
trong môn Tiếng Việt gây được hứng thú học tập cho mọi đối tượng học sinh, xóa <br />
bỏ mặc cảm tự ti của đối tượng học sinh có nhịp độ nhận thức thấp cùng tham gia <br />
tìm hiểu nội dung, yêu cầu của bài. Kích thích, gây hứng thú học tập cho các đối <br />
tượng học sinh khá giỏi phát huy hết khả năng, trí tuệ của mình. Không gây cảm <br />
giác nhàm chán cho học sinh khá giỏi. Dạy học phân hóa trong giờ dạy Tiếng Việt <br />
dễ dàng thực hiện, không gây khó khăn, trở ngại cho giáo viên trong việc chuẩn bị <br />
cũng như tiến hành giảng dạy. Không nhất thiết đòi hỏi cần có các phương tiện <br />
thiết bị hiện đại kèm theo, phù hợp với thực trạng điều kiện vật chất của nhà <br />
trường. Dạy phân hóa trong môn Tiếng Việt xóa bỏ mặc cảm, khoảng cách giữa <br />
học sinh yếu kém với học sinh khá giỏi, đưa các em sít lại gần nhau hơn qua sự tác <br />
động tình cảm trong các giờ học Tiếng Việt. Tạo điều kiện cho đối tượng học sinh <br />
yếu kém học hỏi, thảo luận với học sinh khá giỏi. Các em có cơ hội giúp đỡ nhau <br />
cùng phát triển, tiếp thu một cách nhanh chóng kiến thức của giờ học.<br />
<br />
GV: Dương Thị Kim Truyền -6- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
<br />
* Hạn chế: <br />
Nhược điểm cơ bản là người giáo viên trước khi lên lớp phải chuẩn bị bài <br />
soạn, hệ thống bài tập phân hóa được chọn lọc cẩn thận, đầu tư nhiều thời gian <br />
công sức. Tổ chức lớp học hiện nay hầu hết đều có số học sinh đông, chênh lệch <br />
nhiều về trình độ có thể gây khó khăn cho các giáo viên mới, giáo viên dạy thay có <br />
thể chưa kịp nắm được trình độ nhận thức của từng học sinh. Nề nếp, thói quen <br />
học tập ở một số lớp không ổn định khi không có giáo viên chủ nhiệm nên phần <br />
nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng những tiết học khác.<br />
c. Mặt mạnh mặt yếu<br />
* Mặt mạnh:<br />
Mỗi học sinh là một cá nhân có tiềm năng riêng, có trí thông minh, tình cảm <br />
và động lực học tập khác nhau nên trong các tiết dạy, nếu giáo viên áp dụng tốt các <br />
biện pháp phân hóa đồng thời có nhiệm vụ rõ ràng, phù hợp với từng đối tượng <br />
hoặc nhóm đối tượng học sinh sẽ giúp các em phát triển tối đa năng lực cá nhân của <br />
bản thân. Dạy học phân hóa tốt sẽ đáp ứng và phát huy được nguyện vọng, sở <br />
trường và phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của các cá nhân khác nhau.<br />
Dạy học phân hóa trong giờ Tiếng Việt giúp học sinh có nhiều cơ hội để <br />
phát triển. Mỗi cá nhân dù ở bất kì nhóm đối tượng nào đều có cơ hội để phát huy <br />
hết sở trường của bản thân. Tạo ra động lực học tập cho các em, tạo điều kiện <br />
thuận lợi cho sự phát triển tối đa tư chất và năng lực của học sinh năng khiếu. Loại <br />
trừ được tình trạng quá tải đối với học sinh yếu kém. Giúp học sinh nắm được một <br />
cách chính xác,vững chắc có hệ thống những kiến thức và kỹ năng môn Tiếng Việt. <br />
Có năng lực vận dụng những tri thức đó vào các tình huống khác nhau trong cuộc <br />
sống. Phát triển những năng lực phẩm chất trí tuệ, giúp cho học sinh biến những <br />
phẩm chất thu nhận được thành phẩm chất của bản thân mình, thành công cụ để <br />
nhận thức và hành động đúng đắn trong các lĩnh vực hoạt động học tập các môn <br />
học khác, trong cuộc sống thường ngày. Giáo dục cho học sinh về tư tưởng, đạo <br />
đức, lối sống, thẩm mỹ của người công dân yêu nước trung thực và giản dị. Phát <br />
triển ở mỗi học sinh khả năng học tập, đồng thời phát hiện và bồi dưỡng sớm cho <br />
học sinh có năng khiếu về môn Tiếng Việt, bồi dưỡng tình yêu quê hương đất <br />
nước một cách chân thành qua môn Tiếng Việt. Giáo dục phẩm chất đạo đức thẩm <br />
mỹ đúng đắn phù hợp với con người Việt Nam trong thời đại hiện nay.<br />
* Mặt yếu:<br />
<br />
<br />
GV: Dương Thị Kim Truyền -7- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
Dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt ở buổi thứ hai giáo viên chưa thật <br />
sự mạnh dạn, linh hoạt trong việc xây dựng nội dung. Các nội dung trong tiết dạy <br />
còn cơ cấu cứng ở môn tự chọn, năng khiếu nên việc điều chỉnh thời lượng khó <br />
thực hiện được. Mặc dù giáo viên rất tâm huyết với nghề, rất yêu trẻ nhưng chưa <br />
thật sự gần gũi, thân thiện, chưa thuyết phục học sinh bằng tình cảm, chưa tạo <br />
niềm tin cũng như hứng thú trong học tập, nhu cầu học tập cho trẻ nhất là học sinh <br />
yếu. Việc tổ chức các hoạt động sôi nổi trong các tiết học cho học sinh còn hạn <br />
chế nên học sinh không có hứng thú học tập, không tập trung vào hoạt động học.<br />
Lớp nào cũng có đủ các đối tượng học sinh (giỏi, khá, trung bình, yếu, cá <br />
biệt,..), sỉ số lớp đông nên khi thiết kế bài dạy giáo viên mất nhiều thời gian, gặp <br />
khó khăn. Còn một bộ phận học sinh yếu, gia đình không quan tâm, bất hòa nên các <br />
em chán học, ngại học, ỷ lại làm ảnh hưởng đến nề nếp và không khí lớp học.<br />
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động…<br />
Giáo viên chưa có thói quen phân hóa các đối tượng học sinh trong tiết dạy. <br />
Nội dung tiết dạy thiết kế chưa phù hợp với tình hình thực tế và các đối tượng học <br />
sinh của lớp.<br />
Đại đa số bộ phận GV đã nhận thức được trong thời đại ngày nay đổi mới <br />
dạy học và dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa là tất yếu khách quan, phù <br />
hợp với xu thế chung của thế giới. Song họ vẫn thực hiện dạy học theo quan điểm <br />
dạy học phân hóa theo kinh nghiệm truyền thống. Nội dung chương trình một số <br />
phần của môn học đôi chỗ chưa phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh. Phân <br />
phối chương trình đôi chỗ còn chưa phù hợp (lượng kiến thức của một số bài chưa <br />
phù hợp). Giáo viên chưa được bồi dưỡng qui trình dạy học theo quan điểm dạy <br />
học phân hóa một cách có hệ thống, bài bản. Sự phối hợp giữa học sinh, gia đình và <br />
nhà trường trong việc tìm hiểu năng lực và nguyện vọng cũng như quản lý học tập <br />
của học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Học sinh còn lúng túng chưa quen với <br />
phương pháp học tập chủ động, tích cực. Một số nội dung của môn học còn tương <br />
đối khó so với trình độ nhận thức của HS, điều này gây quá tải với HS, nhất là với <br />
những HS đồng bào, HS yếu kém. Ngược lại nội dung học tập trong tài liệu học <br />
tập chưa được thiết kế theo hướng dạy học phân hóa các đối tượng học sinh, chưa <br />
có nội dung dành cho học sinh khá giỏi. Một số giáo viên còn hạn chế về năng lực <br />
thật sự. Chưa thực sự dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để đáp ứng yêu cầu <br />
ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục, chưa nhận thức được đầy đủ vai trò, vị trí <br />
của mình trong giai đoạn mới. Môi trường làm việc của giáo viên cũng như môi <br />
<br />
GV: Dương Thị Kim Truyền -8- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
trường học tập của học sinh chưa đáp ứng với mô hình dạy học mới. Một số GV <br />
chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng về chuẩn kiến thức, kỹ năng đã quy định <br />
trong giảng dạy. Đời sống kinh tế của một số học sinh còn khó khăn, chưa nhận <br />
được sự quan tâm đúng mức của gia đình, gia đình chưa tạo điều kiện thuận lợi <br />
nhất về thời gian cũng như đầu tư phương tiện học tập (đặc biệt là học sinh sống <br />
xa gia đình, bố mẹ đi làm ăn xa) nên họ chưa dành nhiều thời gian cho việc đáp ứng <br />
các hoạt động ứng dụng của con em tại gia đình, do đó ảnh hưởng đến chất lượng <br />
dạy học. <br />
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.<br />
Dạy học phân hoá là một quan điểm dạy học tập trung vào việc thiết kế <br />
giảng dạy xuất phát từ tình hình thực tế của HS, dựa vào đặc điểm cá nhân, tâm lí, <br />
sinh lí, nhu cầu, động cơ, hứng thú, nguyện vọng, điều kiện hoàn cảnh... của các <br />
em mà tìm cách dạy cho phù hợp. <br />
Khi dạy học phân hóa tôi thường lấy trình độ phát triển chung của học sinh <br />
trong lớp làm nền tảng, bổ sung một số nội dung và biện pháp phân hóa để giúp <br />
học sinh khá giỏi đạt được những yêu cầu nâng cao trên cơ sở đã đạt được những <br />
yêu cầu cơ bản. Sử dụng những biện pháp phân hóa đưa diện học sinh yếu kém lên <br />
trình độ chung. Áp dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tiên tiến trong Mô hình <br />
trường học mới VNEN và các phương pháp dạy học tiên tiến khác là một điều kiện <br />
thuận lợi để dạy phân hóa đối tượng học sinh như dạy học phát hiện và giải quyết <br />
vấn đề,… đặc biệt là phương pháp dạy học phân hóa ngay trong giờ học chính <br />
khóa, buổi học thứ hai trong ngày sẽ giúp học sinh phát huy được hết khả năng của <br />
mình, tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo tùy theo mức độ nhận thức <br />
của từng đối tượng học sinh. Đạt được như vậy mới thực sự là đổi mới phương <br />
pháp dạy học, góp phần xây dựng đào tạo con người mới: chủ động, sáng tạo phù <br />
hợp với sự phát triển khoa học kỹ thuật như hiện nay. Trong những năm học vừa <br />
qua, người giáo viên dù đã vào nghề nhiều năm hoặc mới chập chững bước vào <br />
nghề đều gặp vướng mắc nhất định, đặc biệt là khi dạy môn Tiếng Việt thường <br />
gặp nhiều khó khăn hơn bởi bộ môn này chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các bộ môn <br />
khác và có nhiều phân môn khác nhau. <br />
Khác rất nhiều đối với quan điểm dạy học khác, điểm khá đặc thù của dạy <br />
học phân hóa là nhằm phát hiện và bù đắp lỗ hổng kiến thức, tạo động lực thúc <br />
đẩy học tập; biến niềm đam mê trong cuộc sống thành động lực trong học tập. Nói <br />
cách khác, dạy học phân hóa là con đường ngắn nhất để đạt mục đích của dạy học <br />
<br />
GV: Dương Thị Kim Truyền -9- Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
đồng loạt. Đảm bảo mọi đối tượng HS đều đạt được Chuẩn kiến thức, kỹ năng <br />
các môn học trong chương trình. Có nội dung dành cho đối tượng HS giỏi, khá; HS <br />
trung bình, yếu. Dạy học phân hóa theo Chuẩn kiến thức, kỹ năng giúp cho giáo <br />
viên biết được lượng kiến thức mới và thực hành rèn kỹ năng qua mỗi bài học để <br />
xác định yêu cầu cần đạt cho từng đối tượng HS. Đồng thời xác định được nội <br />
dung cần nâng cao cho đối tượng HS giỏi, khá; nội dung cần truyền thụ cho HS <br />
trung bình, yếu. Yêu cầu cần đạt trong tài liệu Chuẩn kiến thức, kỹ năng được trình <br />
bày ngắn gọn, cụ thể, dễ hiểu. Từ đó, giáo viên xác định được những kiến thức <br />
trọng tâm cần truyền thụ, khắc sâu trong mỗi tiết dạy, cho mỗi đối tượng HS. HS <br />
giỏi, khá được giáo viên căn cứ vào Chuẩn tối thiểu để mở rộng việc cung cấp <br />
kiến thức, rèn luyện kĩ năng phát huy tính sáng tạo. Học sinh trung bình, yếu có cơ <br />
hội tiếp cận kiến thức theo khả năng, tạo được sự hứng thú và đam mê trong học <br />
tập, không thấy bị thua kém bạn bè. <br />
II.3. Giải pháp, biện pháp<br />
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp<br />
Tôi hy vọng qua sáng kiến này giúp cho đồng nghiệp thấy được tầm quan <br />
trọng của việc dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt cho học sinh tiểu học. Có <br />
cái nhìn sâu hơn về việc dạy học phân hóa cho học sinh. Hiểu được lợi ích to lớn <br />
mà học sinh có được qua các giờ học phân hóa. Thay đổi suy nghĩ về cách tổ chức <br />
dạy học đồng loạt cho cùng một đối tượng học sinh. <br />
Góp phần cung cấp, hỗ trợ thêm cho giáo viên những phương pháp, kĩ năng, <br />
kĩ thuật dạy học phân hóa trong các tiết dạy.<br />
Giúp cho đối tượng học sinh khá giỏi phát huy hết khả năng, trí tuệ của bản <br />
thân. Học sinh yếu kém có cơ hội phấn đấu vươn lên trong học tập.<br />
b. Nội dung và cách thực hiện giải pháp, biện pháp<br />
Dạy học phân hoá có thể thực hiện ở 2 cấp độ :<br />
Dạy học phân hoá ở cấp vĩ mô (phân hoá ngoài), là sự tổ chức quá trình dạy <br />
học thông qua cách tổ chức các lớp khác nhau cho các đối tượng HS khác nhau, xây <br />
dựng các chương trình GD khác nhau. <br />
Dạy học phân hoá ở cấp vi mô (phân hoá trong), là tổ chức quá trình dạy học <br />
trong một tiết học, một lớp học có tính đến đặc điểm cá nhân HS; đặc trưng của <br />
lớp học là việc sử dụng những biện pháp phân hoá thích hợp trong một lớp học, <br />
cùng một chương trình và tài liệu chung. Hình thức phân hóa này luôn được tôi coi <br />
là cần thiết, đó là nhiệm vụ của giáo viên trực tiếp giảng dạy cũng như của cán bộ <br />
GV: Dương Thị Kim Truyền - 10 - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
quản lý chuyên môn ở cấp trường. Loại phân hóa này phù hợp với đối tượng học <br />
sinh tiểu học. Nên trong giờ Tiếng Việt hoặc các môn học khác tôi thường áp dụng <br />
kiểu phân hóa này.<br />
* Các bước tổ chức dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa:<br />
Bước 1: Điều tra, khảo sát đối tượng HS trước khi giảng dạy. <br />
Sự giống và khác nhau về trình độ phát triển nhân cách của mỗi cá thể học <br />
sinh đòi hỏi một quá trình dạy học thống nhất với những biện pháp phân hóa nội <br />
tại. Nhiệm vụ của giáo viên là nghiên cứu tìm hiểu những mặt mạnh và yếu trong <br />
năng lực, trình độ phát triển của học sinh để có biện pháp cụ thể tác động đến đối <br />
tượng. Có như vậy mới giúp cho tất cả học sinh đều tiếp thu được những kiến <br />
thức và kỹ năng tối thiểu. Đồng thời, phát hiện và đào tạo nhân tài ngay từ trong <br />
lớp học. Trong quá trình dạy học, tôi thường xuyên theo dõi, tìm hiểu, kiểm tra để <br />
phân loại học sinh trong lớp, thường tôi chia lớp làm 3 nhóm đối tượng học sinh: <br />
Nhóm có nhịp độ nhận thức nhanh (nhóm khá giỏi), nhóm có nhịp độ nhận thức <br />
chậm (nhóm yếu kém), và nhóm có nhịp độ nhận thức trung bình. Qua đó, đề ra <br />
những yêu cầu khác nhau đối với từng loại đối tượng học sinh: mức độ khó dễ các <br />
câu hỏi đàm thoại, mức độ yêu cầu đối với phương pháp học tập được nghiên cứu, <br />
số lượng và yêu cầu của các hoạt động cho từng nhóm. Đối với hai đối tượng khá <br />
giỏi và yếu kém tôi thấy thường có biểu hiện không nắm được kiến thức và kỹ <br />
năng cơ bản, có những sai lầm nghiêm trọng, kết quả kiểm tra thường dưới mức <br />
trung bình. Song tôi cố gắng tìm ra nguyên nhân học kém Tiếng Việt của các em. Có <br />
em học kém vì năng lực đọc, viết yếu, vốn từ nghèo nàn, ..có em học yếu vì nguyên <br />
nhân khác (gia đình khó khăn, không có điều kiện thời gian học tập, có vướng mắc <br />
về tư tưởng nên chưa tập trung …), để từ đó có biện pháp giáo dục, giúp đỡ như: <br />
xây dựng lòng tự tin ở bản thân, thường xuyên theo dõi, động viên kịp thời, tranh <br />
thủ sự quan tâm của gia đình và cộng đồng. Bên cạnh đó tôi cũng nghiên cứu những <br />
đặc điểm về tư duy, về phương pháp suy nghĩ của các em thường thể hiện ở 3 đặc <br />
điểm sau: nhiều "lỗ hổng" về tri thức, kỹ năng tiếp thu chậm, phương pháp học tập <br />
chưa tốt. Tôi không đồng nhất các em học kém với nhau mà phân kiểu học của từng <br />
học sinh kém Tiếng Việt để có phương pháp giúp đỡ. Ở loại học sinh có thành <br />
phần từ logic nổi trội hơn thì tôi hình thành cho các em khái niệm từ lời nói, đi từ <br />
tư duy đến hình tượng. Ở loại học sinh có thành phần trực quan hình tượng mạnh <br />
hơn thì tôi dùng con đường khái quát hóa trên cơ sở trực quan, đi từ hình tượng đến <br />
tư duy. Đối với học sinh khá giỏi có năng lực học tập Tiếng Việt các em có khả <br />
<br />
GV: Dương Thị Kim Truyền - 11 - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
năng học tốt môn Tiếng Việt thường có xu hướng thích đọc sách báo, đọc những <br />
bài văn hay, dùng từ, dùng câu có hình ảnh, nói năng lưu loát nhưng thường coi nhẹ <br />
các yêu cầu thông thường. Do đó các em không nắm chắc kiến thức cơ bản. Vì vậy, <br />
điều quan trọng nhất là hình thành ở các em lòng ham thích, hứng thú, say mê học <br />
Tiếng Việt, thường xuyên giáo dục đức tính kiên trì, tỉ mỉ, cẩn thận, khiêm tốn, sẵn <br />
sàng giúp đỡ bạn cùng nhóm, cùng lớp tiến bộ. Trong giờ học, tôi suy nghĩ tìm tòi <br />
để đề ra cho hoc sinh những câu hỏi đào sâu (chẳng hạn trả lời câu hỏi, yêu cầu <br />
trong tài liệu bằng cách khác.<br />
Ví dụ: Ở hoạt động thuộc về phân môn Tập đọc, trong khi các nhóm đều <br />
làm việc chung một hoạt động là đọc và giải nghĩa các từ đã cho sẵn trong tài liệu <br />
thì nhóm hoặc cá nhân trong các nhóm có nhịp độ làm việc nhanh, hoàn thành tốt <br />
yều cầu của hoạt động đó thì tôi cho các em tìm thêm từ khó trong bài để giải nghĩa <br />
cho nhau nghe hoặc tự chọn và đặt câu có hình ảnh so sánh hoặc nhân hóa với một <br />
trong các từ đó, phù hợp với nội dung kiến thức trong chuẩn kiến thức kĩ năng của <br />
thời điểm học tập hoặc khai thác khía cạnh khác nhau của các họat động đơn giản. <br />
Với học sinh trung bình tôi cho các em nắm thật chắc kiến thức cơ bản trong tài <br />
liệu hướng dẫn học tập, làm đầy đủ và đạt yêu cầu các hoạt động với sự gợi ý ở <br />
mức độ hạn chế của giáo viên, có thể tiếp thu phần nào kiến thức nâng cao của học <br />
sinh khá giỏi. <br />
Biện pháp điều tra, phát hiện và phân loại đối tượng học sinh về khả năng <br />
lĩnh hội kiến thức và trình độ phát triển thông qua quan sát, kiểm tra, tìm hiểu… có <br />
thể được tiến hành ngay trong những tuần đầu năm học và trong suốt quá trình dạy <br />
học, tôi thường xuyên theo dõi điều chỉnh lại nhân sự nhóm, chuyển lên nhóm trên <br />
hoặc xuống nhóm dưới nếu có thành viên nào trong nhóm tỏ ra tiến bộ hay thụt lùi. <br />
Tuy nhiên, để đảm bảo mục đích và hiệu quả sư phạm, có thể tùy thuộc vào đặc <br />
điểm và số lượng học sinh trong lớp mà có thể phân thành nhiều nhóm (chẳng hạn <br />
phân thành 6 nhóm: 2 nhóm khá giỏi, 2 nhóm trung bình, 2 nhóm yếu kém) vừa khơi <br />
gợi niềm tin ở khả năng mỗi cá nhân, tránh mặc cảm, tự ti, vừa tạo nhu cầu thi đua <br />
học tập giữa các nhóm. Trong trường hợp chia nhóm theo kiểu này tôi thường hay <br />
áp dụng ở các tiết dạy tăng cừờng ở buổi học thứ hai. Bình thường thì vẫn áp dụng <br />
kiểu chia nhóm ngẫu nhiên hoặc nhóm đa trình độ để tạo điều kiện cho học sinh <br />
khá giỏi hỗ trợ học sinh yếu kém. Hoặc để các em có cơ hội học hỏi lẫn nhau.<br />
Bước 2: Lập kế hoạch dạy học, thiết kế tiết dạy từ việc phân tích nhu cầu của <br />
HS<br />
<br />
GV: Dương Thị Kim Truyền - 12 - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
Ở mỗi tiết dạy Tiếng Việt, tôi nghiên cứu nắm vững nội dung và yêu cầu <br />
của bài học. Đây là vấn đề trước tiên và đặc biệt quan trọng của giáo viên trong <br />
việc thiết kế bài học có chất lượng theo kiểu phân hóa. Có nắm vững nội dung <br />
kiến thức bài học thì mới có thể hình thành các phương pháp dạy học để vận dụng <br />
vào từng tình huống cụ thể cho hiệu quả, đạt được mục đích dạy học của mình. <br />
Tôi thực hiện cẩn thận và xem xét nhiều khía cạnh khác nhau của các bài tập trong <br />
tài liệu hướng dẫn học tập và những bài tập cho học sinh làm thêm. Khi thiết kế <br />
các pha dạy học đồng loạt tôi sử dụng kết hợp phương pháp dạy học phát hiện và <br />
giải quyết vấn đề, …với các câu hỏi phân hóa. Khi đưa các yếu tố phát hiện và giải <br />
quyết vấn đề kết hợp cùng hệ thống câu hỏi phân hóa vào bài học sẽ phát triển tư <br />
duy, tăng cường tính tự giác, chủ động, sáng tạo cho các đối tượng học sinh. Những <br />
tri thức mới được kiến tạo nhờ quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề, học sinh <br />
được khám phá, phân tích vấn đề, để đề xuất và thực hiện được phương pháp giải <br />
quyết. Tạo ra các tình huống có vấn đề là thành phần quan trọng trong dạy học theo <br />
xu hướng tích cực hóa quá trình học tập của học sinh. Tình huống có vấn đề là tình <br />
huống khó khăn đặt ra, để khắc phục nó phải tìm tòi suy nghĩ, phải có tri thức mới, <br />
những biện pháp mới, những cách giải quyết thích hợp hay có thể là tình huống có <br />
mâu thuẫn. Để phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh cần tạo ra các <br />
tình huống có vấn đề để học sinh khám phá ra tri thức mới. Có nhiều biện pháp tạo <br />
ra tình huống. Khai thác phần hoạt động ứng dụng ở gia đình hoặc khai thác phần <br />
kiến thức cơ bản, phần thực hành. Chọn một ứng dụng của kiến thức mới. Tôi đặt <br />
vấn đề mới đòi hỏi học sinh nghiên cứu, đặt học sinh trước mâu thuẫn chưa giải <br />
quyết được với kiến thức cũ. Chọn kiến thức mới giải quyết nhanh hơn. Gắn cho <br />
các yêu cầu với nội dung thực tế tạo cho học sinh hứng thú thực hiện yêu cầu đó. <br />
Ví dụ: Hoạt động ứng dụng ở bài 27 C Yêu cầu tìm hiểu về con suối hoặc <br />
dòng sông gần nơi em ở. Có những học sinh nhà ở rất xa những con suối dòng sông <br />
đó. HS cảm thấy rất bối rối, lúng túng để hoàn thành bài tập ứng dụng khi mình <br />
không có điều kiện để đi đến tận nơi tìm hiểu về dòng sông hoặc con suối đó. Giáo <br />
viên có thể gợi ý cho các em thực hiện bằng cách tìm hiểu qua sách báo ở thư viện, <br />
qua truyền hình hoặc qua mạng Internet, …Khi đó học sinh sẽ rất hứng thú để thực <br />
hiện. <br />
Hoặc ở bài 4 C tập 1A ở phần thực hành hoạt động 6: Kể một kỉ niệm đẹp <br />
nhất về ông hoặc bà của mình. Khi quan sát các nhóm làm việc, tôi thấy có HS rất <br />
lúng túng, sau 15 phút nhưng em vẫn chưa viết được một câu nào nhưng đó không <br />
GV: Dương Thị Kim Truyền - 13 - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
phải là đối tượng HS yếu kém. Sau khi tìm hiểu nguyên nhân tôi mới biết em không <br />
có ông bà. <br />
Tình huống có vấn đề được xuất hiện khi giáo viên đặt ra các tình huống <br />
phải lựa chọn. Trong dạy học, phát hiện và giải quyết vấn đề giáo viên đưa học <br />
sinh vào tình huống có vấn đề rồi giúp học sinh giải quyết vấn đề đặt ra bằng hệ <br />
thống câu hỏi dẫn dắt. Bằng cách đó học sinh vừa nắm được tri thức mới, vừa nắm <br />
được phương pháp đi tới tri thức đó, lại vừa phát triển tư duy sáng tạo và có tiềm <br />
năng vận dụng tri thức vào những tình huống mới, phát hiện kịp thời và giải quyết <br />
hợp lý các vấn đề xảy ra. Làm cho hệ thống câu hỏi trở thành một quá trình dẫn dắt <br />
học sinh suy luận. Không lặp lại các câu hỏi một cách đơn điệu nên hỏi cùng nội <br />
dung dưới nhiều hình thức khác nhau. Có như vậy các em vừa nắm được bản chất <br />
vấn đề, vừa biết vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau. Hệ thống <br />
câu hỏi phân hóa song vẫn tác động đến học sinh yếu kém cũng có thể trả lời được <br />
vì nó đã có quá trình dẫn dắt và học sinh khá cũng phải theo dõi câu hỏi dễ dàng vì <br />
đằng sau nó là sự phát hiện mới. <br />
Khi thiết kế các hoạt động phân hóa ý đồ phân hóa của tôi là để cho học sinh <br />
khác nhau có thể tiến hành các hoạt động phù hợp với trình độ khác nhau của học <br />
sinh. Tôi dựa vào đặc điểm và sự phân loại học sinh trong lớp để đề ra các yêu cầu <br />
thích hợp. Có thể phân hóa về yêu cầu bằng cách cho sử dụng mạch hoạt động <br />
phân bậc, giao cho học sinh giỏi những hoạt động có yeue cầu ở bậc cao hơn so với <br />
các đối tượng học sinh khác. Đối với học sinh yếu kém, có thể giao các hoạt động <br />
có yêu cầu ở mức thấp hơn. Cụ thể là khoảng cách giữa hai bậc liên tiếp không quá <br />
cao, quá xa. Nhiều bậc học sinh yếu kém gộp lại thành một bậc của học sinh trung <br />
bình hoặc khá giỏi. Hoặc ngay trong một hoạt động tôi cũng có thể tiến hành dạy <br />
phân hóa nếu như hoạt động đó đảm bảo yêu cầu cho cả ba nhóm đối tượng học <br />
sinh vừa bồi dưỡng lấp lỗ hổng cho học sinh yếu kém, vừa trang bị kiến thức <br />
chuẩn cho học sinh trung bình và vừa có kiến thức nâng cao cho học sinh khá, giỏi. <br />
Ví dụ: Với yêu cầu của những hoạt động thiên về phân môn Tập làm văn <br />
như: Kể về một người hàng xóm mà em yêu quý nhất hoặc các yêu cầu tương tự <br />
của phân môn tập làm văn. Để cho tất cả các đối tượng học sinh trong lớp cùng <br />
thực hiện một yêu cầu, tạm thời chia lớp thành hai cấp độ: hứng thú mạnh và hứng <br />
thú trung bình. Đối với nhóm hứng thú trung bình, tôi chỉ hướng dẫn học sinh kể <br />
theo 4 gợi ý như yêu cầu. Theo dõi giúp đỡ các em cách dùng từ đặt câu đúng ngữ <br />
pháp, đúng chính tả. Đối với nhóm hứng thú mạnh đặt thêm một số câu hỏi phụ để <br />
GV: Dương Thị Kim Truyền - 14 - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
các em hình dung ra một người hàng xóm đã để lại trong tâm trí các em rất nhiều ấn <br />
tượng và tự kể lại không theo gợi ý trong hoạt động về người đó, đồng thời <br />
khuyến khích các em sáng tạo trong cách dùng từ đặt câu, đặt câu có hình ảnh nên <br />
sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa trong đoạn văn, đưa cảm xúc thật sự của mình <br />
vào trong đoạn viết khi để về người hàng xóm đó. Để từ đó các em có thể nói được <br />
càng nhiều chi tiết về người đang kể càng tốt. Tuy nhiên với nhóm hứng thú trung <br />
bình giáo viên cũng có thể định hướng, khuyến khích thêm cho các em, để các em <br />
cũng viết được đoạn văn rõ ý, dùng từ đặt câu đúng ngữ pháp, câu văn rõ ràng, sáng <br />
sủa và cũng có được những cảm xúc thực sự khi nói về người hàng xóm đó.<br />
Bước 3: Kết hợp nhiều phương tiện dạy học, lựa chọn những hình thức tổ <br />
chức dạy học phù hợp với mục tiêu bài học. <br />
Xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình học tập: môi trường, phương <br />
tiện, điều kiện dạy học …Trong mỗi tiết học Tiếng Việt, tôi thường sử dụng <br />
phương tiện dạy học và đồ dùng học tập khác nhau như: phiếu học tập, bảng <br />
nhóm, các thẻ từ, thẻ câu, những bông hoa được cắt bằng giấy màu xốp hoặc các lá <br />
cờ bé xinh xinh để làm phần thưởng kích thích cho học sinh hứng thú học tập khi <br />
nhóm có kết quả hoạt động tốt, khi các em tham gia các trò chơi tìm từ, tìm nhân <br />
vật bí ẩn,…đây là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giờ học nên trong <br />
các tiết dạy tôi thực sự quan tâm và chú trọng. <br />
Thông thường trong các giờ học, tôi tổ chức cho học sinh học tập trong lớp <br />
học song một số tiết học có liên quan nhiều đến thiên nhiên để thay đổi không khí, <br />
làm mới môi trường học tập, một số tiết học tôi thiết kế cho học sinh từng nhóm <br />
học ở không gian rộng hơn. Để đảm bảo cho các tiết học theo kiểu này có hiệu quả <br />
tôi thường chú ý đến điều kiện sân bãi, môi trường xung quanh, điều kiện thời tiết <br />
… các yếu tố đó có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tâm lý, tinh thần học tập của học <br />
sinh nên tôi đề ra các phương án khác nhau để đảm bảo chất lượng giờ học. <br />
Phương tiện dạy học góp phần chứa đựng và truyền tải thông tin, tạo điều <br />
kiện thuận lợi cho việc tổ chức hoạt động học tập nên là một yếu tố quan trọng <br />
không thể thiếu được trong đổi mới phương pháp dạy học theo xu hướng tích cực <br />
hóa hoạt động của học sinh. Mỗi giờ học tôi sử dụng các phương tiện dạy học <br />
khác nhau tùy thuộc vào các chức năng của từng loại phương tiện như: kiến tạo tri <br />
thức, rèn luyện kỹ năng, kích thích hứng thú học tập, tổ chức điều khiển quá trình <br />
học tập … Tôi phối hợp sử dụng các phương tiện dạy học khác nhau trong từng <br />
tình huống cụ thể để lấy điểm mạnh của phương tiện này bổ sung điểm yếu của <br />
<br />
GV: Dương Thị Kim Truyền - 15 - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng<br />
Kinh nghiệm dạy học phân hóa trong môn Tiếng Việt lớp Ba<br />
<br />
<br />
phương tiện khác, nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của hệ thống phương <br />
tiện dạy học trong mỗi giờ học. Phiếu học tập, trò chơi học tập, câu đố vui, … là <br />
những phương tiện thể hiện rõ tính ưu việt khi tổ chức các pha phân hóa trong giờ <br />
học nên giáo viên biết sử dụng hợp lý, vì chúng vừa góp phần tổ chức điều khiển <br />
quá trình học tập đến từng cá thể học sinh phát huy khả năng của mình, kích thích <br />
hứng thú học tập, vừa góp phần hợp lý hóa công việc của giáo viên và học sinh, <br />
trong đó các yếu tố thời gian, khối lượng công việc được đảm bảo. <br />
Bước 4: Kiểm tra, đánh giá sự tiến bộ của HS trong suốt quá trình giảng dạy.<br />
Việc kiểm tra, đánh giá kết quả của từng nhóm, từng cá nhân học sinh trong <br />
suốt quá trình giảng dạy là một căn cứ để tôi biết được mức độ tiến bộ ở từng <br />
nhóm đối tượng học sinh. Từ đó có những biện pháp khích lệ kịp thời, giúp học <br />
sinh phát huy tốt hơn nữa ở các tiết học tiếp theo. Đồng thời cũng làm nguồn động <br />
lực giúp học sinh hứng thú hơn trong học tập.<br />
Bám sát theo từng hoạt động của tất cả các nhóm đối tượng học sinh, tôi sử <br />
dụng các kĩ thuật đánh giá kết quả học tập của học sinh trong Mô hình VNEN như: <br />
quan sát, kiểm tra nhanh, kiểm tra miệng, kiểm tra thực hành, phỏng vấn nhanh, <br />
đánh giá sản phẩm của nhóm,…để đánh giá sự tiến bộ của học sinh hoặc những <br />
điểm học sinh cần cố gắng để có kế hoạch động viên, giúp đỡ học sinh kịp thời, <br />
đồng thời giúp tôi điều chỉnh, đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt <br />
động dạy học và kịp thời phát hiện những cố gắng để động viên, khuyến khích, ghi <br />
nhận sự tiến bộ hàng ngày của từng học sinh, giúp học sinh cảm thấy tự tin và vui <br />
thích với các hoạt động học tập. Đồng thời giúp học sinh biết tự đánh giá, rút kinh <br />
nghiệm, tự điều chỉnh bài làm, hoạt động của mình, bồi dưỡng hứng thú học tập và <br />
rèn luyện để học sinh ngày càng tiến bộ hơn. Góp phần làm giảm áp lực cho học <br />
sinh khi đến trường. Khuyến khích các em tự học, sáng tạo. Quan điểm của tôi <br />
trong dạy học phân hóa là luôn cố gắng tạo mối quan hệ dân chủ giữa cô và trò, <br />
giữa trò và trò để giúp HS cởi mở, tự tin hơn.<br />
* Quy trình tổ chức các pha phân hóa trong giờ dạy:<br />
Tổ chức các pha dạy học đồng loạt: Kết hợp và sử dụng các phương pháp <br />
dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, tình huống … nhằm mục đích giúp học <br />
sinh tiếp thu tốt các kiến thức. Các phương pháp này có ưu điểm rất lớn là tạo ra <br />
tình huống gợi vấn đề, điều khiển học sinh hoạt động tự đánh giá, tích cực chủ <br />
động và sáng tạo. Để thu hút tất cả các đối tượng học sinh trong lớp tham gia tìm <br />
hiểu nội dung bài học. Tôi giao nhiệ