intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số Phương pháp hiệu quả khi Dạy – Học phân môn vẽ theo mẫu ở tiểu học

Chia sẻ: Trần Thị Tan | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:20

55
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài giúp tôi tự học, tự rèn luyện để nâng cao tay nghề của mình, đồng thời tôi cũng muốn chuyển tải một số kinh nghiệm tích lũy được qua quá trình công tác của mình đến đồng nghiệp để cùng chung tay góp sức nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn vẽ theo mẫu và tìm hiểu ưu điểm các phương pháp dạy học để vận dụng vào việc thiết kế bài dạy cho các phân môn khác trong môn mĩ thuật ở trường tiểu học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số Phương pháp hiệu quả khi Dạy – Học phân môn vẽ theo mẫu ở tiểu học

  1. Đề Tài:      MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP  HIỆU QUẢ KHI DẠY – HỌC                       PHÂN MÔN VẼ THEO MẪU BẬC TIỂU HỌC I. PHẦN MỞ ĐẦU: I.1. Lý do chọn đề tài. Hòa trong xu thế  phát triển của toàn thế  giới Việt Nam  đang tiến nhanh trên con  đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện thành công công cụộc đó, phát  triển giáo dục là một chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt, bởi nó tác động rất lớn đến các  lĩnh vực khác.  Đúng vậy! Để có được một nền giáo dục phát triển toàn diện thì việc giáo dục thẩm   mĩ cho học sinh, tạo điều kiện cho các em tiếp xúc, làm quen và thưởng thức vẻ  đẹp của   thiên nhiên, của các tác phẩm mĩ thuật, biết cảm nhận cái đẹp của đường nét, mảng hình,  đậm nhạt, màu sắc, bố cục…đồng thời phát triển khả  năng quan sát, nhận xét, tư  duy sáng  tạo, hình thành các kỹ năng sống cho học sinh, góp phần phát hiện những học sinh có năng  khiếu mĩ thuật, tạo điều kiện cho các em phát triển tài năng của mình. Thông qua việc vẽ  tranh, xem tranh để tìm hiểu cái đẹp, cảm nhận cái đẹp mà hình thành cho học sinh thái độ,  hành vi thân thiện với môi trường, bảo vệ môi trường. Các em có thể tham gia các hoạt động   bên ngoài nhà trường để  thể  hiện hiểu biết, tình cảm của mình về  bộ  môn cũng như  tìm  hiểu về môi trường và Biến đổi khí hậu thông qua các hoạt động vẽ tranh, các hoạt động xã  hội khác.  Vẽ theo mẫu là một phân môn đòi hỏi học sinh tập trung nghiên quan sát mẫu là chính  mà giáo viên không chuẩn bị  được mẫu thực, và không hướng dẫn kĩ ( kể  cả  lúc học sinh   thực hành) cho nên khi học sinh thường vẽ mẫu trong sách hoặc vẽ theo trí tưởng tượng về  một vật mẫu nào đó. Do đó để  dạy tốt phân môn vẽ  theo mẫu  ở  tiểu học, giáo viên cần   hướng dẫn học sinh theo định hướng tích cực, truyền tải cho học sinh những khái niệm mĩ  thuật hết sức cụ thể, đơn giản và dễ hiểu. Kết hợp lời giảng với ví dụ, chứng minh thực tế  để học sinh thấy ngay và nhận biết rõ ràng về  đường nét, hình khối, mảng chiếu, màu sắc  đơn giản từ  đó mô phỏng được gần giống với mẫu thực và có ý thức bước đầu về  đậm   nhạt. Bộ  môn mĩ thuật nhìn chung học sinh đều có ý thức tích cực học tập, yêu thích bộ  môn, nhưng xét về  chuyên môn thì những ý thức  ấy, sở  thích  ấy cũng chỉ  dừng  ở  trào lưu  đơn thuần do học môn này học sinh tự do sáng tạo, không khí học tập thoải mái không gò ép   nên mỗi khi đến tiết mĩ thuật là các em rất hào hứng nhưng khi học thực hành thì các em lại  không tuân thủ làm theo các bước cơ bản đã được giáo viên hướng dẫn. Tôi nhận thấy một   số  tiết học vẽ  theo mẫu (có mẫu) nhưng học sinh lại vẽ  hình mà giáo viên minh họa trên  bảng chứ  không vẽ  theo những gì nhìn thấy. Do ý thức vẽ  như  vậy nên kết quả  bài vẽ  thường không vẽ theo hướng tại vị trí mình ngồi ( bên phải, bên trái và ở  giữa…) Điều này   cho ta thấy học sinh không hề chú ý tới hình dáng của mẫu một chút nào. Một số học sinh chưa thực sự quan tâm đến môn học cũng như bài vẽ, các em vẫn còn   tư  tưởng xem nhẹ  môn mĩ thuật, coi đây là môn học phụ. Bên cạnh thái độ  phân biệt vị  trí  môn học là khả năng tư duy của học sinh còn yếu.
  2. Nhiều học sinh còn vẽ bài qua loa cho có bài chưa thực sự đầu tư vào bài vẽ, một số  học sinh còn vẽ bài chưa học trước ở nhà. Trong tiết học còn nói chuyện nhiều hay qua lại mượn đồ  dùng của nhau làm  ảnh  hưởng đến sự suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo của các bạn khi vẽ bài.  Qua thực tế  giảng dạy tôi nhận thấy điểm yếu này của học sinh chiếm tỷ  lệ  tương   đối lớn ( khoảng 20% đến 30%). Xuất phát từ những lý do trên và một số vấn đề thực tế còn hạn chế, vướng mắc đối  với cả giáo viên và học sinh, đã ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả dạy học phân môn vẽ theo   mẫu của bộ môn mĩ thuật. Vì vậy tôi mạnh dạn đưa ra biện pháp nhằm khắc phục để nâng   cao chất lượng cho phân môn vẽ theo mẫu bằng đề tài kinh nghiệm:  Một số Phương pháp   hiệu quả khi Dạy – Học phân môn vẽ theo mẫu ở tiểu học. I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. Nghiên cứu đề tài giúp tôi tự học, tự rèn luyện để nâng cao tay nghề của mình, đồng  thời tôi cũng muốn chuyển tải một số kinh nghiệm tích lũy được qua quá trình công tác của  mình đến đồng nghiệp để cùng chung tay góp sức nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn  vẽ theo mẫu và tìm hiểu ưu điểm các phương pháp dạy học để vận dụng vào việc thiết kế  bài dạy cho các phân môn khác trong môn mĩ thuật ở trường tiểu học. I.3. Đối tượng nghiên cứu. Đề tài tập trung nghiên cứu :  Một số phương pháp hiệu quả khi dạy phân môn vẽ  theo mẫu bậc tiểu học.  Đối tượng học sinh trường tiểu học Ngô Quyền. I.4. Giới hạn nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu việc dạy và học phân môn vẽ theo mẫu trong phạm vi trường tiểu  học Ngô Quyền. I.5. Phương pháp nghiên cứu. ­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu ­ Phương pháp điều tra thực trạng của trường ­ Phương pháp thực nghiệm ­ Phương pháp so sánh kết quả thực nghiệm với trước kia II. PHẦN NỘI DUNG: II.1. Cơ sở lý luận. Môn mĩ thuật  ở tiểu học chúng ta đang hướng dẫn học sinh cảm thụ mĩ thuật ở  mức   cảm tính thì phân môn vẽ  theo mẫu lại đóng vai trò quan trọng hơn cả. Khi học sinh nắm   vững kiến thức cơ bản ban đầu của phân môn vẽ  theo mẫu một cách vững vàng sẽ  là điều   kiện và khả năng để phát huy các phân môn khác. Khi nói tới bộ môn mĩ thuật chúng ta hiểu   rằng nó được bắt đầu từ  “cảm” sau “cảm” mới là “lý” hay nói cách khác nó bắt nguồn từ  “cảm tính” dần chuyển thành “lý tính”. Chính vì vậy, ở tiểu học mới chỉ dừng  ở mức “cảm   tính” mà thôi. Chúng ta dạy học sinh nhằm đạt được mục tiêu là học sinh có kiến thức ban  đầu về  mĩ thuật. Để  bắt đầu cảm nhận mĩ thuật các em sẽ  hình thành khái niệm mĩ thuật  qua cách quan sát, nhận xét sự vật hiện tượng trong cuộc sống, và những sự vật hiện tượng   ấy được sắp xếp, tổ chức trong 45 tiết (bài) vẽ theo mẫu ở tiểu học. Trong những bài này là  
  3. những mẫu vẽ đã được chủ động nghiên cứu để nó trở thành những mẫu đại diện điển hình  cho mọi sự vật hiện tượng.  Vẽ  theo mẫu  ở  tiểu học là phân môn tạo nên ý thức quan sát để  cảm nhận cái đẹp   của sự vật hiện tượng. Đó sẽ là một trong những kiến thức ban đầu quan trọng của chương   trình mĩ thuật tiểu học và từ  đây sẽ  dần hình thành các kĩ năng cần thiết để  giúp học sinh  hoàn thành các bài tập theo chương trình và vận dụng những kiến thức  ấy vào học tập, sinh   hoạt  hằng ngày. Kiến thức vẽ  theo mẫu  ở  tiểu học cũng như  các phân môn khác của bộ  môn mĩ thuật được thiết kế theo chương trình đồng tâm từ dễ đến khó như vẽ nét thẳng, nét   cong ( đối với lớp 1,2) vẽ những đồ vật thông dụng như cái xô, cái phích, cái bát, cái chén, lọ  hoa… (đối với lớp 4, 5).     Vẽ  theo mẫu là một phân môn mà học sinh được quan sát từ  mẫu thực và nhận xét  mẫu để rồi mô phỏng lại mẫu một cách giống thực. Tức là học sinh sẽ hình thành được kiến  thức cơ bản của môn mĩ thuật qua phân môn vẽ theo mẫu. Học sinh sẽ vẽ theo một phương   pháp cụ thể, đơn giản. Đó là vẽ hình chung trước( tổng thể mẫu) sau đó mới vẽ chi tiết( các  bộ  phận nhỏ) và chu trình được vận dụng trong tất cả các phân môn của môn mĩ thuật. Và   đây là những kiến thức cơ  bản tạo đà để  học sinh tiếp tục khám phá và làm chủ  cái đẹp   trong chương trình mĩ thuật  ở  các cấp cao hơn, đặt biệt là biết vận dụng cái đẹp vào cuộc  sống hằng ngày. II.2. Thực trạng. 1. Thuận lợi – Khó khăn. * Thuận lợi. Trường tiểu học Ngô Quyền đóng trên địa bàn thôn Tân Trung xã EaKênh huyện Krông  Pắc. Được sự  quan tâm của BGH nhà trường đã trang bị  đầy đủ  đồ  dùng dạy học và cập   nhật kịp thời các tài liệu liên quan để phục vụ cho môn mĩ thuật. Phụ  huynh quan tâm đến việc chuẩn bị  đầy đủ  dụng cụ  học tập liên quan đến môn  học cho con em mình. * Khó khăn. Trường học chưa có phòng chức năng dành cho môn mĩ thuật, một số  học sinh chưa   quan tâm đến môn học nên khi đến lớp không có đủ  đồ  dùng học tập. Điều kiện khó khăn  nên việc sưu tầm đồ dùng tranh, ảnh cũng hạn chế. 2. Thành công – hạn chế. Khi thực hiện đề tài này tôi thấy học sinh yêu thích môn học và tự tin hơn khi vẽ bài,  kết quả các bài thực hành tăng lên rõ rệt, không những vậy nó giúp học sinh trở thành người   thiết kế, tổ  chức, hướng dẫn hoạt động độc lập theo nhóm để  học sinh tự  chiếm lĩnh nội  dung học tập, chủ  động đạt mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ  theo yêu cầu của chương  trình. * Hạn chế. Bậc tiểu học các em ở độ tiểu từ 6 đến 11 do vậy tư duy phát triển chưa toàn diện nên   giáo   viên   cần   sáng   tạo   và   vận   dụng   nhiều   phương   pháp   truyền   thống   cùng   với   những   phương pháp mới hiện nay nhằm đưa tới học sinh cách học đơn giản và dễ hiểu nhất, nhằm  
  4. phát huy tính tích cực của học sinh, đưa các em vào tiết học một cách nhẹ  nhàng và bổ  ích.   Từ đó tạo cho các em có cái nhìn và cảm nhận về cái đẹp thông qua phân môn vẽ theo mẫu. 3. Mặt mạnh – mặt yếu. Qua nghiên cứu đề  tài đã giúp cho tôi trang bị  kiến thức, rèn luyện tay nghề  và vận  dụng nhiều phương pháp dạy học giúp học sinh phát triển trí tưởng tượng, biết yêu cái đẹp,  có ý thức trân trọng giữ gìn, bảo vệ cái đẹp của thiên hiên, của con người tạo ra. Học sinh có khả  năng hoàn thành tốt các bài vẽ  theo mẫu và các phân môn khác của  môn mĩ thuật. * Mặt yếu. Học sinh đi học quên mang đồ dùng liên quan đến môn học  Trong lớp ít phát biểu ý kiến xây dựng bài. Một số em chưa hoàn thành bài vẽ ở lớp. 4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động. Vẽ theo mẫu rèn luyện cho học sinh khả năng quan sát, nhận xét và kĩ năng vẽ nét, vẽ  bố  cục và vẽ  hình. Vẽ  theo mẫu còn giúp học sinh hiểu được vẻ  đẹp của mẫu, tạo điều   kiện để học sinh học các bài trang trí, vẽ  theo đề  tài, vẽ  tự  do, thường thức mĩ thuật thuận  lợi và hiệu quả hơn.   Phân môn vẽ theo mẫu xuyên suốt chương trình mĩ thuật tiểu học được thiết kế theo   quy trình đồng tâm, các đơn vị kiến thức được lặp lại nhưng có nâng cao hơn qua mỗi bài,   mỗi lớp.  Từ lớp 1 đến lớp 5 có 45 bài vẽ theo mẫu với những mẫu vẽ đơn giản như hình  khối, đường nét quen thuộc như  nét cong, nét thẳng, các hình cơ  bản như  hình tròn, hình  vuông, hình tam giác, hình chữ nhật; khối đơn giản như  khối cầu, khối hộp…vật dụng phổ  biến, gần gũi như cái xoong, cái  ấm, cái chén, cặp sách, lá cây, quả  cây…Khi vẽ theo mẫu   học sinh sẽ nắm được cách vẽ cân đối, vẽ từ bao quát đến chi tiết, từ những hình cơ bản tới  những đồ vật cụ thể, bước đầu so sánh kích thước, hình dáng, màu sắc của vật mẫu. Từ đó  học sinh sẽ  cảm nhận được mẫu, vẽ mẫu theo sự  “cảm” và so sánh để  hình vẽ  gần giống  với mẫu hơn.    Vẽ theo mẫu là một phân môn quan trọng và cần thiết cho các phân môn khác của môn  mĩ thuật. Bởi vì, nắm vững cách vẽ  của vẽ  theo mẫu thì các phân môn khác sẽ  dễ  dàng và  thuận lợi hơn nhiều và đặt biệt sẽ hình thành cách nhìn tổng thể ( định hình được trước khi   vẽ). Học sinh vẽ theo mẫu theo một quy trình: Quan sát – So sánh – Cảm nhận – Nhận biết   mẫu – Hình thành thới quen, kĩ năng khi các em vẽ bài. 5. Thực trạng mà đề tài đặt ra. Trước thực trạng khó khăn, điều kiện dạy học chưa đủ và đồng bộ, phương pháp giáo  dục chưa phát huy mạnh được vai trò của học sinh, để phân môn vẽ theo mẫu thực sự được   học sinh quan tâm và vẽ  đúng như  hướng dẫn và hoàn thành xuất sắc các bài vẽ  theo mẫu   trong chương trình, tôi đưa ra một số vấn đề cần giải quyết cụ thể sau. + Công tác chuẩn bị cần thiết cho bài giảng. + Hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét. + Hướng dẫn học sinh cách vẽ. + Hướng dẫn học sinh thực hành.
  5. + Nhận xét, đánh giá bài của học sinh. *  Các vấn đề trên được giải quyết tốt thì hiệu quả sẽ đem lại một bài giảng thành công cho   phân môn vẽ theo mẫu của bộ môn mĩ thuật. * Công tác chuẩn bị cần thiết cho bài giảng:  +  Sự chuẩn bị của giáo viên:     * Đối với việc chuẩn bị đồ dùng dạy học:      Đối với môn mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ theo mẫu nói riêng, việc sử dụng đồ  dùng dạy học (ĐDDH) là đặt biệt cần thiết, bởi dạy mĩ thuật là dạy trên những gì cụ  thể,   hiện diện một cách rõ ràng trước học sinh. Học sinh phải được quan sát một cách cụ thể về  hình dáng, đậm nhạt, màu sắc, đường nét, bố cục và tương quan vật mẫu (đối với bài vẽ hai   vật mẫu). Đó chính là kiến thức cơ bản của môn mĩ thuật.     Khi nói tới việc chuẩn bị đồ  dùng trực quan ta nghĩ đến nhiệm vụ  của môn mĩ thuật   ngoài việc cung cấp những tri thức bộ môn và rèn kĩ năng nó còn nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ   cho học sinh. Do đó đồ dùng giảng dạy đưa ra cho học sinh học tập ngoài yêu cầu học sinh   quan sát phải phù hợp với nội dung bài giảng còn có yêu cầu là phải đẹp để thu hút sự chú ý   của học sinh tạo nên không khí nghệ thuật của giờ học. Làm cho học sinh yêu thích vật mẫu   bởi vẻ  đẹp về  hình dáng, màu sắc của mẫu làm phấn chấn tinh thần học tập của các em.   Hơn thế  vẽ  theo mẫu thì phải có mẫu để  học sinh quan sát và vẽ  theo mẫu chứ  không để  học sinh vẽ lại hình minh họa trong sách mĩ thuật hoặc hình vẽ minh họa của giáo viên trên   bảng như vậy học sinh sẽ không hiểu bài và chất lượng không đạt yêu cầu như mong muốn.       Trong chương trình mĩ thuật ở tiểu học có 45 bài vẽ theo mẫu giáo viên cần chuẩn bị  đầy đủ  mẫu theo đơn vị  bài và trực quan cho các bài đó. Từ  những mẫu vẽ  đơn giản như:   (Khối hộp, khối trụ, khối cầu) tới những mẫu vẽ cụ thể hơn như ( quả cây, ấm tích, chén,  bát, lọ hoa, bình đựng nước…)       Sử chuẩn bị của giáo viên còn căn cứ theo từng bài. Một mặt do tiết học thường được  tổ chức tại lớp học “ thông thường” một mặt sỹ số học sinh/lớp đông khiến các em khó quan  sát mẫu nếu bày một mẫu trên bảng. Do đó giáo viên cần chuẩn bị nhiều mẫu vẽ giống nhau  trên một yêu cầu của bài vẽ mẫu đó để cho học sinh hoạt động theo nhóm, theo tổ.  Ví dụ: Để  dạy bài “Vẽ  quả” (quả  dạng tròn) bài 10 mĩ thuật lớp 1 trang 15 vở tập   vẽ. Nếu học sinh khoảng 30 em  ngồi trong một phòng học bàn ghế kê sát nhau theo hướng  nhìn lên bảng thì việc giáo viên bày một mẫu (quả  cây) để  học sinh quan sát và vẽ  là điều   không thể, bởi những học sinh ngồi bàn dưới và cuối lớp sẽ không thể nhìn thấy mẫu. Như  vậy sẽ vô hiệu khi giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét. Ở bài này quả quan sát   khó (vì nhỏ) cho nên tôi chuẩn bị (3,4) mẫu và bày theo nhóm, tổ giúp học sinh quan sát và vẽ  hiệu quả hơn.   Đối với bài vẽ này tôi chuẩn bị cho bài giảng những tranh vẽ các bước dựng hình, đêń   hoan thanh bai ve. Cách v ̀ ̀ ̀ ̃ ẽ cụ thể, rõ ràng, đẹp vẽ trên khổ giấy lớn để học sinh dễ quan sát,   việc chuẩn bị trực quan tốt còn giúp cho học sinh hình thành khái niệm mẫu vẽ nhanh nhất,   hiệu quả và đơn giản nhất.  Ví dụ: Bài vẽ quả cà chua  VẼ RA GIẤY A4
  6. + Sự chuẩn bị đối với học sinh: Học vẽ  theo mẫu đối với học sinh tiểu học vốn vẫn là kiến thức trừu tượng nhất   trong bộ  môn mĩ thuật. Trừu tượng bởi lẽ  học sinh dần hình thành khái niệm về  khối, về  hình thể. Tuy nhiên vẽ  theo mẫu  ở  tiểu học không đòi hỏi học sinh diễn tả  được khối rõ  ràng mà chỉ  yêu cầu học sinh có khái niệm về  ‘khối” mà thôi. Vì lý do này, học sinh cần   chuẩn bị tốt điều kiện để tham gia vào tiết học một cách tích cực và hiệu quả. Việc xem bài trước là công việc của học sinh. Từ  đó, học sinh sẽ  tìm hiểu mẫu  ở  nhà( nếu có) hoặc mẫu tương tự, sẽ tạo được thói quen chủ  động của học sinh. Có những   bài học sinh chuẩn bị mẫu vẽ cá nhân để giờ thực hành làm việc một cách độc lập như: Bài  vẽ lá cây ( MT lớp 2 bài 13 trang 40 ). Việc chuẩn bị này giúp học sinh tư duy nhanh hơn, so   sánh dễ dàng và đặc biệt tiếp thu bài cũng nhanh hơn. Việc chuẩn bị đồ dùng học tập là một yếu tố cần thiết đối với học sinh, nếu học sinh   chuẩn bị đầy đủ mọi đồ dùng như: Vở tập vẽ, bút chì, bút dạ, sáp màu, tẩy, thước kẻ…Như  vậy sự chuẩn bị tốt của giáo viên và học sinh sẽ đạt được kết quả cao cho tiết học vẽ theo   mẫu. * Hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét mẫu: Dạy mĩ thuật nói chung và vẽ  theo mẫu nói riêng, phải thực hiện theo hướng để  học   sinh làm bài thực hành là chính ( thời gian khoảng 20/ 35 phút của tiết học). Thời gian hướng  
  7. dẫn học sinh quan sát khoảng 5 – 7 phút, phần này tuy ít thời gian nhưng lại là một việc hết   sức quan trọng trong quá trình hình thành kiến thức mĩ thuật, kiến thức vẽ theo mẫu đối với  học sinh. + Thực tế:        Lâu nay dạy vẽ theo mẫu thường qua loa nhất trong năm phân môn của môn mĩ thuật.   Bởi một lẽ  đồ  dùng dạy học thiếu rất nhiều, mẫu vẽ  thường không có trong suốt chương  trình tiểu học, việc giáo viên chuẩn bị mẫu cho học sinh cũng gặp nhiều khó khăn.      Mặt khác lớp học quá đông từ 25 – 30 em/ lớp, bàn kê thẳng xếp cố  định theo hướng  nhìn lên bảng. Với điều kiện như thế thì việc học sinh quan sát mẫu là một điều tương đối   phức tạp và hiệu quả của tiết học là một vấn đề cần bàn tới. Từ những thực tế ấy tôi mạnh  dạng đưa ra những phương pháp cụ  thể, nhằm khắc phục và nâng cao hiệu quả  dạy – học  phân môn vẽ theo mẫu ở tiểu học. + Phương pháp:       Trong 45 bài vẽ theo mẫu ở tiểu học được chia điều cho 5 khối lớp là những bài vẽ từ  đơn giản và nâng cao dần theo cấu trúc chương trình đồng tâm. Vì vậy ở các lớp (1, 2, 3) là  những mẫu vẽ đơn giản như: hình tam giác, hình tròn, hình vuông, cái túi xách, cái cốc…Còn   ở lớp (4, 5) nhìn chung mẫu vẽ là đồ dùng trong gia đình như: cái bát, ấm tích, lọ hoa… Cho  nên, việc hướng dẫn cho học sinh là rất cụ thể, rất gần gũi, giáo viên sử dụng phương pháp   phù hợp sẽ đạt hiệu quả cao.      Giáo viên bày mẫu: Lớp học đông nên giáo viên bày mẫu vẽ  vào giữa lớp và kê bàn  ghế theo hình chữ U để học sinh nào cũng có cự ly gần với mẫu, và đảm bảo các em được  quan sát mẫu 100%. Đối với những mẫu nhỏ như cái cốc, lá cây, quả… giáo viên cần chuẩn  bị nhiều mẫu giống nhau để  cho học sinh quan sát theo nhóm, như  vậy sẽ khắc phục được  tình trạng học sinh không quan sát mẫu, làm việc riêng hay đùa nghịch.     Khi đặt câu hỏi quan sát giáo viên nên nêu những cao hỏi đơn giản dễ  hiểu như: Em  hãy so sánh chiều cao của mẫu với chiều ngang của mẫu như thế nào? Khi giáo viên đặt câu   hỏi như vậy học sinh sẽ tập trung vào so sánh, nhận xét mẫu và đưa ra kết quả. Căn cứ vào  thực tế cùng phương pháp dạy đổi mới tôi đưa ra một số ví dụ áp dụng nội dung cho vấn đề  hướng dẫn quan sát nhận xét. + Một số ví dụ: + Bài 24: Vẽ cái ấm tích và cái bát: MT 5 trang 50. 
  8. Đối với bài này mục tiêu đặt ra là học sinh tập quan sát, so sánh, ước lượng tỷ lệ mẫu  ghép (hai vật mẫu) để tìm ra vị trí, khích thước các bộ phận của mẫu. Riêng về kĩ năng yêu  cầu học sinh vẽ được gần giống mẫu ( Diễn tả được đặt điểm, tỷ lệ chính của mẫu, vẽ  đậm nhạt theo từng góc độ quan sát)    Ở bài này tôi cho học sinh ngồi vẽ theo hình  chữ U, mẫu vẽ bày giữa phòng học, học  sinh vẽ  theo ba hướng bên trái, bên phải và  ở  giữa lớp, mẫu vẽ  đặt vừa tầm nhìn của học   sinh, mẫu vẽ phải đảm bảo có mĩ quan.     Phần quan sát chung: Giáo viên chuẩn bị hai miếng bìa, một miếng được đục lỗ hình  chữ  nhật bao quanh cả  hai mẫu và một miếng bìa đục thủng hình chữ  nhật bao quanh vừa  cái bát. Mục đích của sự  chuẩn bị  này là khi đặt câu hỏi đối với học sinh về  khung hình  chung và khung hình riêng của từng vật mẫu trông giống hình gì? Hình riêng của cái bát nhỏ  bằng một phần mấy của hình chung? Việc đục lỗ  miếng bìa làm đơn giản  ở  chỗ  học sinh  nhìn thấy một lổ thủng mà trong nó (phía sau) chứa trọn vẹn mẫu vẽ, như vậy học sinh sẽ  hiểu được khung hình chung và hình riêng là như thế nào.     Để học sinh nhận biết được đậm nhạt, tôi chọn một hướng ánh sáng chiếu vào mẫu,   lúc đó học sinh quan sát mẫu sẽ  nhận dạn được tối thiểu 3 sắc độ  đậm, đậm vừa, nhạt.  Tương tự như vậy tôi nêu câu hỏi cho học sinh, em nhìn lên mẫu thấy phần bên nào là đậm   nhất? Còn phần giữa em thấy độ đậm nhạt như thế nào? ( ở giữa là độ sáng trung gian).     Qua hai ví dụ cụ thể trên chúng ta thấy để  bắt đầu học vẽ nói chung và vẽ  theo mẫu  nói riêng thì việc quan trọng đó là phải quan sát, nhận xét. Khi quan sát nhận xét đầy đủ mẫu  việc tiến hành vẽ của học sinh sẽ dễ dàng và ít mắc phải lỗi sai lớn về tỷ lệ, hình dáng. Có   thể nói phần hướng dẫn quan sát nhận xét là điều kiện bất biến để hướng dẫn tiếp học sinh  cách vẽ. * Hướng dẫn học sinh cách vẽ:
  9. +   Hướng dẫn về  bố cục ( cách sắp xếp):  Ở  phần hướng dẫn này tôi treo trực quan  bao   gồm 4 hình vẽ trong đó có: một hình vẽ  rất nhỏ ở giữa trang giấy, một hình có hình vẽ sang   mép của trang giấy, một hình vẽ thật lớn kín cả chiều cao giấy và cuối cùng một bài vẽ cân  đối đẹp mắt. Sau đó cho học sinh tự chọn và nhận xét bài đẹp nhất ( các bài được đánh số từ  1 – 4 theo thứ tự như trên ). Khi học sinh được quan sát, nhận xét thì việc tìm ra hình vẽ thứ  4 đẹp điều rất dễ dàng. Qua đó giáo viên nêu câu hỏi ngược lại, tại sao hình vẽ 1, 2, 3 lại là hình chưa đẹp? và những lý do ấy được học sinh nêu ra một cách rõ ràng, giáo   viên bổ sung nhằm phát huy tính tích cực, chủ động ở học sinh khi vẽ bài. +  Hướng dẫn học sinh vẽ hình chung của mẫu:     Khung hình chung có nghĩa là hình của mẫu vẽ được chứa trọn vẹn bên trong khung   hình  ấy, khi xác định bố  cục của bài vẽ  chiếm bao nhiêu giấy tức là khung hình chung sẽ  chiếm từng ấy, khi vẽ khung hình chung học sinh chủ động được tỷ lệ với trang giấy. + Tìm và xác định các vị trí của các bộ phận chi tiết trên mẫu vẽ:     Khi hoàn thành được khung hình chung của mẫu rồi giáo viên hướng dẫn học sinh  xác  định một số bộ phận chi tiết như khi vẽ các khối cơ bản cần xác định các mặt, đối với các  vật dụng thì cần xác định các bộ phận chi tiết trên vật dụng đó. Trước hết giáo viên hướng  dẫn học sinh vẽ trục đối xứng cho bài vẽ có mẫu cân đối, đối xứng, có chiều đứng như một   số  mẫu: cái cốc, khối hộp, cái phích, cái bát…khi học sinh xác định được trục đối xứng thì  việc vẽ mẫu sẽ không bị đổ ngả đổ nghiêng. + Hướng dẫn học sinh vẽ phác bằng nét thẳng:     Phần này việc quan trọng làm thế  nào để  học sinh hiểu là vẽ  nét thẳng  thì hình vẽ  chuẩn và đẹp hơn là chúng ta vẽ nét cong ngay. Lúc này giáo viên sử dụng phương pháp trực   quan bằng thị  phạm trên bảng để  học sinh nhận thấy việc vẽ  nét thẳng để  tạo thành hình  dáng của mẫu sau đó chúng ta tẩy bỏ  nét thẳng và chỉnh sửa hình sao cho gần giống mẫu  thật theo hướng quan sát của từng em theo từng góc độ. + Hướng dẫn vẽ chi tiết ( mô phỏng giống mẫu):    Vẽ  chi tiết tức là học sinh sẽ  vẽ  những gì các em quan sát, so sánh, nhận xét và nhìn   thấy trên mẫu. Đích cuối cùng của bài vẽ  theo mẫu đối với học sinh tiểu học là mô phỏng   được mẫu. Sau các bước trên  giáo viên hướng dẫn học sinh cần bám sát vào các nét thẳng   để hoàn thiện, phần này giáo viên không nên giảng giải áp đặt, trên cơ sở mẫu giáo viên đặt  câu hỏi tập trung vào các bộ phận chi tiết của mẫu. + Hướng dẫn học sinh cách vẽ đậm nhạt:    Đậm nhạt là một khái niệm tương  đối trừu tượng  đối với học sinh học mĩ thuật   ( phần này áp dụng cho học sinh khối 4, 5). Cụ thể  ở phần này giáo viên giảng giải cho học  sinh biết đậm nhạt trên mẫu do đâu mà có( do ánh sáng chiếu vào mẫu), có chổ  ánh sáng   chiếu được vào, có chỗ  không chiếu vào được và tạo ra ranh giới sáng ( có ánh sáng chiếu  trực tiếp), tối ( không có ánh sáng chiếu trực tiếp), trung gian ( có ánh sáng ít, chiếu gián   tiếp), vẽ  đậm nhạt cần cho vẽ  theo mẫu sẽ  diễn tả  được không gian của mẫu, biểu đạt  được khối của vật mẫu như vậy khi vẽ đậm nhạt bài vẽ sẽ nổi khối tức là trông giống như  mẫu thật, nhìn bài vẽ hấp dẫn hơn, đẹp hơn. Qua đó học sinh sẽ thích thú và hào hứng hơn  với những bài vẽ mẫu lần sau.
  10. * Hướng dẫn học sinh thực hành:      Như đã biết, phần thực hành chúng ta phải dành 2/3 tiết học để  các em thể  hiện bài,  hơn nữa đây lại là bài vẽ theo mẫu thì việc đó rất quan trọng. Việc hướng dẫn học sinh thực  hành cần chú ý những nội dung: Để học sinh quan sát và vẽ độc lập, giáo viên tham gia góp ý   cho cá nhân học sinh.      Đối với phân môn vẽ theo mẫu, việc vẽ theo mẫu là rất quan trọng cho nên giáo viên  cần hướng dẫn học sinh ngay khi thấy các em làm bài thực hành có chiều hướng chưa đúng.      Học sinh làm bài độc lập: Tới giờ  thực hành học sinh phải đảm bảo có đầy đủ  đồ  dùng học tập (100% ), bút chì, tẩy, vở tập vẽ, học sinh vẽ theo mẫu  ở vị trí mình ngồi nhìn  thấy, tập trung vẽ sát với mẫu, đảm bảo đúng tỷ lệ của mẫu. Giáo viên hướng dẫn cá nhân: Việc hướng dẫn cá nhân rất quan trọng trong thời gian  thực hành của học sinh. Vì trong khi vẽ không tránh khỏi những sai sót, cũng như  gặp phải  một số vướng mắc, chính vì vậy  việc hướng dẫn cá nhân rất cần thiết.      Khi hướng dẫn cá nhân học sinh giáo viên tuyệt đối không được cầm bút sữa bài cho  học sinh mà chỉ  hướng dẫn. Trong quá trình hướng dẫn thấy có nhiều học sinh mắc phải   một lỗi giáo viên yêu cầu học sinh dừng bút để hướng dẫn, uốn nắn kịp thời. Đối với bài vẽ lọ hoa và quả tôi hướng dẫn học sinh vẽ theo các bước sau: vẽ tay
  11. * Nhận xét đánh giá sản phẩm của học sinh:      Nhằm phát huy tính tích cực của học sinh khi học môn mĩ thuật nói chung và phân môn  vẽ theo mẫu nói riêng, thì việc nhận xét đánh giá là điều rất quan trọng, nhận xét bài của học   sinh cần phát huy được tinh thần khích lệ   các em hăng hái học phân môn là chính, và phải  tôn trọng ý kiến của học sinh nếu là tích cực, nếu bài vẽ chưa đạt yêu cầu giáo viên cần nhẹ  nhàng nhắc nhở  không nên chê các em trước lớp điều này làm cho các em tự  ti lần sau sẽ  không tích cực, không hứng thú với phân môn vẽ theo mẫu vì nghĩ mình vẽ không được đẹp  như các bạn.      Qua thời gian thực hành giáo viên chọn một số bài vẽ  đẹp và chưa đẹp dán lên bảng  lớp. Mục đích để học sinh tư duy khách quan theo cảm nhận của mình. Ở phần này giáo viên  nêu câu hỏi: Em hãy chọn các bài vẽ  đúng, đẹp? Tại sao những bài còn lại không đẹp?,   Những bài vẽ chưa đẹp em thấy hình vẽ  của các bạn như  thế nào?, Đối với lớp (4, 5), Em   thấy bạn vẽ  đậm nhạt như  vậy đã đúng, đẹp chưa? Trông khối hình đã rõ hay chưa?...Qua   một loạt ý kiến của học sinh giáo viên tập hợp được ưu điểm và khuyết điểm của từng bài  và đưa ra nhận xét chung để học sinh phát huy những  ưu điểm và khắc phục điểm yếu cho   những bài vẽ theo mẫu lần sau. II.3. Giải pháp, biện pháp. * Mục tiêu của giải pháp, biện pháp. Cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu về mĩ thuật và hình thành các kĩ năng  cần thiết để học sinh hoàn thành được các bài tập theo chương trình. Giáo dục thị  hiếu thẩm mĩ lành mạnh cho học sinh, giúp các em cảm nhận và vận  dụng những kiến thức về mĩ thuật vào học tập, sinh hoạt hằng ngày góp phần xây dựng môi   trường thẩm mĩ cho xã hội.  *  Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.  Học mĩ thuật không nhằm đào tạo các em trở  thành họa sĩ hay những người chuyên   gia làm nghề mĩ thuật mà học để  các em biết yêu cái đẹp, có ý thức trân trọng giữ  gìn, bảo   vệ cái đẹp của thiên nhiên, của con người tạo ra. Lượng kiến thức đưa vào từng bài học chỉ dừng lại ở mức sơ đẳng và được chọn lọc   theo mức điển hình. Những lượng kiến thức này được lập lại nâng cao và phát triển dần ở  các lớp sau. Mỗi phân môn đều có đặc điểm riêng nhưng tất cả  đều nằm trong tổng thể chung là  sử  dụng ngôn ngữ  mĩ thuật cho các hoạt động thực hành và hoạt động này chiếm thời gian  khoảng 20/35 phút của tiết học, những sản phẩm các em tạo ra luôn hướng đến mục tiêu  chung là tạo ra cái đẹp xung quanh mình  ứng dụng cái đẹp vào cuộc sống, sinh hoạt hằng  ngày. Nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong phân môn vẽ theo mẫu, cũng như hiệu   quả của tiết học đạt kết quả cao giáo viên cần sử dụng linh hoạt các phương pháp như:
  12. Phương pháp quan sát: Nhằm tạo cho các em thói quen quan sát làm giàu vốn biểu   tượng kinh nghiệm sống của các em đó là tiền đề  của vẽ  theo mẫu, từ  những yêu cầu đó  thường xuyên giúp các em có thói quen quan sát hình thành trong trí nhớ  giúp học sinh nhìn   thấy cái hiện thực trong tự nhiên, trong mẫu vẽ. Phương pháp trực quan, giúp học sinh quan sát mẫu thực, nhận biết được độ đậm nhạt   của mẫu, nhận biết mẫu có hình khối gì? mẫu có mấy vật mẫu? Từ  những yêu cầu đó  thường xuyên giúp các em có thói quen quan sát hình thành trong trí nhớ  vốn kiến thức giúp  học sinh nhìn thấy cái hiện thực trong tự nhiên, trong xã hội để  thể  hiện chung trong bài vẽ  của mình một cách độc đáo, sáng tạo và riêng biệt. Phương pháp so sánh, gợi mở, vấn đáp và luyện tập… Giáo viên cần kết hợp linh hoạt  giữa các phương pháp này với nhau, tạo thành một phương pháp tổng hợp, phù hợp với tất  cả các đối tượng, phù hợp với bài giảng, gắng liền với thực tiễn.   Cách so sánh mẫu, cách vẽ thông qua quan sát mẫu thực, có thể học sinh không hiểu  thế nào là “bố cục”, không hiểu thế nào là dựng “hình chung”, ước lượng “tỷ lệ”…Giáo viên   có thể giải thích một cách đơn giản, dễ hiểu nhất như: Bố cục là cách sắp xếp hình vẽ vào   trang giấy, bố cục đẹp là sự sắp xếp hình vẽ cân đối, bố cục chưa đẹp là sắp xếp hình vẽ bị  lệch sang trái, phải…Tỷ lệ ta có thể hiểu đơn giản là chiều cao so với chiều ngang, xem các   chiều này hơn kém nhau bao nhiêu lần, từ đó giữ được tỷ lệ chuẩn của mẫu khi vẽ sẽ không  bị sai lệch. Phương pháp liên hệ thực tiễn: Thông qua mỗi bài học giáo viên không những trang bị  cho các em kiến thức mà hình thành cho các em kĩ năng sống biết giao tiếp học hỏi lẫn nhau,   biết giúp đỡ  người khó khăn, biết gìn giữ  và bảo vệ  đồ  dùng trong gia đình và bảo vệ  của   công… Phương pháp giảng dạy của giáo viên cần phát huy được tính tích cực, sự độc lập suy   nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của học sinh và đây cũng là tư  tưởng chủ  đạo của phương pháp dạy   học mĩ thuật nói chung và dạy vẽ theo mẫu nói riêng. Hơn nữa học sinh phải là người chủ  động tiếp nhận kiến thức từ giáo viên. Vì thế khi giảng dạy giáo viên không chỉ quan tâm tới   phương pháp của giáo viên mà còn phải chú ý tới phương pháp của học sinh. Do đó, khi Dạy   – Học vẽ theo mẫu ở tiểu học tôi thường chú tâm vào những đặc điểm sau: + Tạo được không khí học tập để học sinh háo hức chờ đón bài học + Tạo điều kiện cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi những vấn đề mà giáo viên giảng giải. + Tổ chức tiết học sao cho học sinh tham gia vào quá trình nhận thức một cách tự giác. + Động viên, khích lệ nhằm giúp học sinh làm bài bằng khả năng và cảm xúc riêng. * Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp. Bậc tiểu học các em  ở  độ  tuổi từ  6 đến 11 tuổi do vậy tư  duy phát triển chưa hoàn   thiện nên khi dạy học phân môn vẽ  theo mẫu tôi luôn chú trọng đến đặc điểm tâm sinh lý   của trẻ và tìm nhiều phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh. Mặc khác ở tuổi   này các em học mà chơi, chơi mà học do vậy mỗi tiết học vẽ tôi thường tổ chức các trò chơi   liên quan đến từng bài học để tạo cho các em sự thích thú và say mê vẽ tranh. Ví dụ: Bài vẽ cái ấm tích và cái bát. Giáo viên quy định cái ấm tích là “thò”, cái bát là  “thụt”. Trò chơi này áp dụng cho cả lớp cùng chơi.
  13. * Luật chơi:  Khi giáo viên hô “tích thò” nếu thấy đúng với quy định thì giơ  tay lên theo  (GV), tiếp tục như  vậy GV hô “bát thò” nếu HS thấy sai thì thụt tay xuống. Tương tự  như  vậy GV hô vừa đúng quy định vừa không đúng đối với cả hai mẫu.   Trên đây là một trong số các trò chơi tôi thường áp dụng cho các tiết học vẽ theo mẫu  nhằm khắc sâu kiến thức hơn khi các em học vẽ theo mẫu, tạo được không khí vui tươi hồn  nhiên, nhẹ  nhàng và sinh động trong tiết học, để  cho học sinh nhận thấy tiết học vẽ mẫu   không khô cứng, và góp phần vào tiết dạy thành công hơn thông qua các trò chơi cho phân   môn vẽ theo mẫu. * Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. Qua nghiên cứu đề tài đã giúp tôi trang bị về kiến thức, rèn luyện tay nghề và tìm được   nhiều phương pháp dạy học để  nâng cao chất lượng dạy – học vẽ theo mẫu giúp học sinh   phát triển về  trí, thể, mĩ từ  đó các em biết sáng tạo, tìm tòi, hiểu biết về cái đẹp và có khả  năng vận cái đẹp vào cuộc sống. II.3. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. Qua thời gian giảng dạy và áp dụng phương pháp bản thân nhận thấy kết quả  đạt  được một cách rất tích cực với tỷ lệ học sinh hoàn thành bài vẽ theo mẫu với những yêu cầu   cụ thể và thuyết phục. Đã áp dụng thành công cho các khối lớp. Dưới đây là một số thống kê   so sánh qua việc chưa áp dụng và đã áp dụng. ** Thời gian đầu chưa áp dụng được: HS vẽ   HS vẽ hình   HS vẽ hình   khối   được đậm,   Ghi chú stt số HS cân dối đúng tỷ lệ lớp nhạt SL % SL % SL % 1 1B 29 11 36.7 10 33.3 2 2B 33 15 50.0 10 33.3 Không vẽ   đậm, nhạt 3 3C 28 16 53.3 14 46.7 Vẽ đậm, vẽ   4 4A 32 14 56.0 12 48.0 8 32.0 nhạt Vẽ đậm, vẽ   5 5B 28 16 53.3 16 53.3 12 40 nhạt     ** Thời gian đã áp dụng phương pháp mới.(Từ học kỳ II năm học 2012 ­ 2013 đến học   kỳ I năm học 2014 ­ 2015). stt Khối   số HS HS vẽ hình   HS vẽ hình   HS vẽ   Ghi chú lớp cân dối đúng tỷ lệ được   đậm,  
  14. nhạt SL % SL % SL % 1 1B 29 17 56.7 15 50.0 2 2B 33 20 66.7 17 56.7 Không vẽ   đậm, nhạt 3 3C 28 21 70.0 18 60.0 68. Vẽ đậm, vẽ   4 4A 32 22 88.0 20 80.0 17 0 nhạt 63. Vẽ đậm, vẽ   5 5B 28 26 86.7 22 73.3 19 3 nhạt        Qua những kết quả  đạt được và áp dụng thành công với học sinh các khối lớp, đây  cũng là nguồn động viên khích lệ  bản thân hoàn thành tốt nhiệm vụ  và luôn tìm ra những   biện pháp, cũng như  áp dụng nhiều phương pháp một cách nhuần nhuyễn để  phục vụ  cho  việc Dạy ­ Học mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ theo mẫu nói riêng ngày một tốt hơn. III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ. Qua thực tiễn giảng dạy và nhiều năm đứng lớp, với tâm huyết và trách nhiệm của   người giáo viên đối với thế hệ tương lai của đất nước bản thân tôi luôn tìm tòi, học hỏi kinh   nghiệm của những người đi trước cũng như  qua nhiều phương tiện khác nhau để  nâng cao  trình độ chuyên môn. Từ đó hoàn thành tốt nhiệm vụ của người giáo viên đồng thời tạo cho   học sinh yêu thích phân môn vẽ theo mẫu hơn, luôn sáng tạo để tiết học luôn được đổi mới   về hình thức dạy, học nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh, tạo cho các em có  cái nhìn và cảm nhận về cái đẹp của cuộc sống và trong sinh hoạt hằng ngày.      Trong quá trình dạy học phân môn vẽ theo mẫu nói riêng và môn mĩ thuật nói chung tôi  rút ra một số kinh nghiệm trong giảng dạy như sau: 1/ Đối với nhà trường:   Cần đầu tư về cơ sở vật chất  như phòng học mĩ thuật riêng.  Các đồ dùng dạy học cần thiết cho bộ môn mĩ thuật như: các vật mẫu tượng các hình  khối, giá vẽ, bản vẽ, tranh ảnh…  2/ Đối với giáo viên:     Bám sát mục tiêu bài dạy, dạy đúng đặc trưng bộ môn. Nắm vững kiến thức bộ môn.( Bám chuẩn kiến thức kĩ năng) Thực hiện đúng công văn chỉ đạo nội dung điều chỉnh dạy và học Tham gia đầy đủ  các lớp tập huấn chuyên đề, tham gia dự  giờ  môn Mĩ thuật tại các  đơn vị bạn để rút kinh nghiệm trong giảng dạy. Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học bộ môn Mĩ thuật Chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng dạy học ( Mẫu vẽ, tranh  ảnh minh hạo, hình gợi ý cách  vẽ)… Giáo viên hướng dẫn cách vẽ mẫu trên bảng lớp. Quan tâm nhiều các đối tượng học sinh chưa tích cực tham gia hoạt động.
  15. Sử  dụng linh hoạt các phương pháp dạy học (phù hợp với đối tượng học sinh tiểu   học) Đánh giá xếp loại học sinh đúng với thông tư 32/BGD&ĐT Tổ chức lớp học theo nhiều hình thức để học sinh được quan sát mẫu rõ ràng và vẽ tốt  hơn. Tổ chức trò chơi phù hợp với từng bài vẽ theo mẫu. Thông qua các bài học của môn Mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ theo mẫu nói riêng  giáo dục học sinh biết quý trọng và bảo vệ những đồ  dùng có trong gia đình, trường học… những tài sản chung nơi công cộng.  Giáo dục học sinh tình yêu quê hương, đất nước biết trồng nhiều cây xanh để bảo vệ  môi trường xanh – sạch – đẹp. Cây xanh không những có vai trò hấp thụ  khí cacbon điô xít  mà còn cung cấp ôxy cho môi trường, hấp thụ bụi làm môi trường xanh ­ sạch ­ đẹp hơn và  giảm tác động của BĐKH (Biến đổi khí hậu) tích cực tham gia các hoạt động bảo vệ  môi  trường như: Vệ sinh trường, lớp học, thu gom phân loại, xử lý rác thải, tiết kiệm giấy, điện,  nước, trồng nhiều cây xanh và chăm sóc cây, tham gia các phong trào kế  hoạch nhỏ  phong   trào quyên góp ủng hộ các bạn vùng bị thiên tai, bão, lũ…như vậy chúng ta đã góp phần vào   ứng phó với Biến đổi khí hậu. Hãy yêu thiên nhiên và luôn thực hiện một lối sống thân thiện với môi trường và là  tấm gương sáng để lôi cuốn mọi người xung quanh cùng thay đổi. Làm cho môi trường của   chúng ta luôn xanh – sạch – đẹp với môi trường trong lành. 3. Đối với học sinh: Chuẩn bị chu đáo ở nhà việc xem bài, quan sát mẫu ở nhà, chuẩn bị mẫu mang đến lớp (đối với những bài vẽ mẫu cá nhân) Chuẩn bị  đầy đủ  đồ  dùng học tập (Vở  tập vẽ, giấy A4, bút chì, tẩy, bút dạ, sáp   màu…) 4. Đối với phụ huynh:
  16. Phối hợp với phụ huynh học sinh quan tâm, giúp đỡ  các em  việc học tập  ở nhà cũng  như  việc chuẩn bị  bài, đồ  dùng học tập khi đến lớp. Không để  tình trạng các em đến lớp  không mang đầy đủ đồ dùng học tập... Vâng! Tôi, các bạn, chúng ta là những nhà giáo luôn mang trong mình trọng trách lớn  lao của sự  nghiệp trồng người. Chúng ta thường xuyên học tập, rèn luyện, tu dưỡng để  xứng đáng là những nhà giáo hội tụ cả nét đẹp tâm hồn và trí tuệ để góp phần xây dựng nền   giáo dục huyện nhà ngày càng phát triển hơn. Trên đây tôi đã mạnh dạn đưa ra Một số Phương pháp dạy học sinh  vẽ  theo mẫu  hiệu  quả bậc tiểu họccó hiệu quả. Bằng những kinh nghiệm thực tế giảng dạy của bản thân,  rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của BGH và các đồng nghiệp để đề tài được hoàn   thiện và áp dụng trong dạy học mĩ thuật nói chung và loại bài vẽ  theo mẫu nói riêng ngày   một hiệu quả hơn.              Tôi xin chân thành cảm ơn!                                                                              Eana, Ngày 25 tháng 11 năm 2014                                                                                                         Người viết                                                                                                        Lê Thị Lý
  17. NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN …………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………… CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CHẤM  SÁNG KIẾN Huỳnh thị Biên
  18. MỤC LỤC I. PHẦN MỞ ĐẦU: I.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………………1 I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài………………………………………………………2 I.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………………….2 I.4. Giới hạn nghiên cứu…………………………………………………………………2 I.5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………….2 II. PHẦN NỘI DUNG:…………………………………………………………………2 II.1. Cơ sở lý luận………………………………………………………………………..2 II.2. Thực trạng…………………………………………………………………………3 1. Thành công – hạn chế…………………………………………………………………3 2. Mặt mạnh – mặt yếu…………………………………………………………………..3 3.Thuận lợi – Khó khăn…………………………………………………………………..3 4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động…………………………………………………3 5. Thực trạng mà vấn đề đặt ra……………………………………………………………4 * Công tác chuẩn bị cần thiết cho bài giảng………………………………………………4 * Hướng dẫn học sinh quan sát, nhận xét mẫu……………………………………………7 * Hướng dẫn học sinh cách vẽ…………………………………………………………….9 * Hướng dẫn học sinh thực hành…………………………………………………………10 * Nhận xét đánh giá sản phẩm của học sinh……………………………………………..12 II.3. Giải pháp, biện pháp………………………………………………………………12 * Mục tiêu của giải pháp, biện pháp………………………………………………………12 *  Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp…………………………………12 * Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp…………………………………………….....13 * Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu…………………………13 II.3. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu….14 III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ…………………………………………………..15 1/ Đối với nhà trường……………………………………………………………………..15  2/ Đối với giáo viên ……………………………………………………………………….15 3/ Đối với học sinh.………………………………………………………………………..16 4/ Đối với phụ huynh:……………………………………………………………………..16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0