intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Nâng cao kết quả học tập môn Ngữ văn 10 thông qua hệ thống câu hỏi định hướng soạn bài theo biên soạn của giáo viên

Chia sẻ: Trần Thị Tan | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:18

46
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kết quả cho thấy giải pháp đã có tác động rất tích cực đến kết quả học tập của học sinh. Điểm số của học sinh nhóm thực nghiệm cao và đồng đều hơn so với nhóm đối chứng và các em đã yêu thích giờ văn hơn. Điều đó chứng tỏ rằng việc cho học sinh soạn bài theo hệ thống câu hỏi định hướng mà giáo viên biên soạn đã nâng cao được hiệu quả giờ dạy, học sinh yêu thích, chăm học hơn và đặc biệt là kết quả học tập môn Ngữ văn cao hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Nâng cao kết quả học tập môn Ngữ văn 10 thông qua hệ thống câu hỏi định hướng soạn bài theo biên soạn của giáo viên

  1. MỤC LỤC 1. TÓM TẮT ĐỀ TÀI trang 2 2. GIỚI THIỆU trang 3 2.1. Hiện trạng trang 3 2.2. Giải pháp thay thế trang 4 2.3. Một số nghiên cứu gần đây liên quan đến đề tài trang 5 2.4. Vấn đề nghiên cứu trang 5 2.5. Giả thuyết nghiên cứu trang 5 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU trang 5 3.1. Khách thể nghiên cứu trang 5 3.2. Thiết kế trang 6 3.3. Quy trình nghiên cứu trang 7 3.4. Đo lường trang 8 4. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ VÀ BÌNH LUẬN trang 9 4.1. Trình bày kết quả trang 9 4.2. Phân tích dữ liệu          trang 12 4.3. Bàn luận          trang 13 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ                             trang 14 5.1. Kết luận          trang 14 5.2. Khuyến nghị          trang 15 6. TÀI LIỆU THAM KHẢO         trang 17 Trang 1
  2. 1. TÓM TẮT ĐỀ TÀI Luận ngữ viết: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học  không bằng say mà học”. Có thể thấy, niềm yêu thích say mê chính là động  lực thúc đẩy, nuôi dưỡng sự  cố  gắng, nỗ  lực học tập không ngừng của  mỗi con người. Với vai trò tổ chức, hướng dẫn và điều khiển quá trình học  tập của học sinh, hơn ai hết việc phải tìm ra nhiều cách thức để  phát huy   cao nhất tính tích cực, sáng tạo của người học, gây niềm hứng thú say mê  học tập và mang lại kết quả cao trong học tập  ở các em học sinh chính là  nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi giáo viên đứng lớp. Thiết nghĩ, “làm sao để  khiến học sinh  thích mà học, rồi từ  đó say  mà học?” luôn là câu hỏi trăn trở, thường trực của hầu hết các giáo viên   giảng dạy. Tìm ra giải pháp để  phát huy cao nhất tính tích cực, sáng tạo   đồng thời tạo niềm hứng thú, say mê học tập và mang lại kết quả cao trong   học tập của các em học sinh đối với môn Ngữ văn cũng là một trong những   vấn đề đặt ra với hầu hết các giáo viên giảng dạy bộ môn này. Có thể nói  môn Ngữ  văn có một vai trò quan trọng trong việc giáo dục tư  tưởng tình  cảm cho học sinh, giúp các em biết yêu thương trân trọng cái đẹp, cái thiện,  lên án, căm ghét cái ác, cái xấu từ đó có hành động suy nghĩ phù hợp. Qua   đó góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn, tích cực chủ  động trong cuộc sống đặc biệt là trong thời đại khoa học công nghệ  phát  triển như hiện nay. Trong thời đại số hiện nay, một trong những vấn đề nhiều giáo viên  băn khoăn, trăn trở là tình trạng học sinh chán học môn Ngữ văn, quay lưng  lại với môn Ngữ  văn cũng như  các bộ  môn khoa học xã hội khác. Với   nhiều học sinh, giờ học Ngữ văn chỉ quanh quẩn trong vài hoạt động nhàm  chán: đọc –  nghe, chép bài, học thuộc, trả  bài. Trong đó việc đọc – nghe  Trang 2
  3. không còn hứng thú, ghi chép dài dòng không sáng tạo và trả bài (trong các  bài kiểm tra) là đọc lại, chép lại bài giảng của thầy cô hay các bài văn mẫu.   Cách dạy văn, học văn như thế khiến học sinh cảm thấy giờ văn nặng nề,  nhàm chán. Học sinh hiện nay sống trong thời đại khoa học công nghệ tiên  tiến, có khả  năng tiếp cận một cách nhanh chóng và không giới hạn với   một kho giải trí và thông tin khổng lồ  trên internet.   Sức ép và sự  căng  thẳng trong học tập cũng làm gia tăng  ở  các em nhu cầu giải trí bằng các  trò chơi điện tử  và mạng xã hội. Có thể  nói trong cuộc cạnh tranh để  thu  hút sự  chú ý và yêu thích của giới trẻ  giữa môn Ngữ  văn và các phương   tiện giải trí khác, ưu thế  không thuộc về văn chương. Việc học môn Ngữ  văn của các em học sinh như đọc văn bản, soạn bài, … chỉ là học đối phó,   học tủ, học vẹt cho nên kết quả học tập ngày càng thấp. Vậy làm thế nào   để học sinh yêu thích môn Ngữ văn, từ đó chăm học, nâng cao kết quả học   tập? Một trong số  giải pháp mà tôi mạnh dạn lựa chọn để  cải thiện tình   hình đó là  “Nâng cao kết quả  học tập môn Ngữ  văn 10 thông qua hệ   thống câu hỏi định hướng soạn bài theo biên soạn của giáo viên”. Nghiên cứu được tiến hành trên hai nhóm tương đương nhau về học   lực. Đó là các em học sinh lớp 10A12 (gồm 38 em – nhóm thực nghiệm);  lớp 10A8 (gồm 42 em – nhóm đối chứng). Nhóm thực nghiệm được thực  hiện giải pháp thay thế   ở  các tết đọc văn trong chương trình Ngữ  văn 10,   tập 1(trừ  các tiết đọc văn thuộc phần Văn học nước ngoài và phần đọc   thêm). Nhóm  đối chứng  được dạy bình thường trong cùng thời gian và  phạm vi trên. Kết quả cho thấy giải pháp đã có tác động rất tích cực đến kết quả  học tập của học sinh. Điểm số  của học sinh nhóm thực nghiệm cao và  đồng đều hơn so với nhóm đối chứng và các em đã yêu thích giờ  văn hơn.  Điều đó chứng tỏ  rằng việc cho học sinh soạn bài theo hệ  thống câu hỏi   định hướng mà giáo viên biên soạn đã nâng cao được hiệu quả  giờ  dạy,   Trang 3
  4. học sinh yêu thích, chăm học hơn và đặc biệt là kết quả học tập môn Ngữ  văn cao hơn. 2. GIỚI THIỆU 2.1 . Hiện trạng Việc soạn bài môn Ngữ văn là việc làm quen thuộc và bắt buộc của  mỗi học sinh trước khi đến lớp. Có thể thấy đây là hoạt động cần thiết đối  với việc tự học, tự chuẩn bị bài của học sinh đi vào nề nếp, quy củ; để  sự  tương tác, chất lượng các tiết dạy – học của thầy và trò đạt hiệu quả cao.  Để việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh diễn ra được tốt, học sinh cần có   sự  định hướng. Thông thường hiện nay, yếu tố  định hướng để  học sinh   chuẩn bị bài ở nhà chính là hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách  giáo khoa. Nhìn chung, hệ  thống câu hỏi này được xây dựng kĩ lưỡng dựa  trên yêu cầu chuẩn kiến thức kĩ năng của từng bài học. Tuy nhiên hệ thống   câu hỏi hướng dẫn trong sách giáo khoa đặc biệt là phần văn bản mới chỉ  là định hướng chung cho mọi đối tượng học sinh, chưa có sự  phân loại cụ  thể. Các câu hỏi đặt ra còn chung chung, hệ thống câu hỏi chưa có tính dẫn  dắt, hỏi gộp nhiều ý trong một câu khiến học sinh lúng túng. Trong khi đó,  đối tượng học sinh rất đa dạng, khả năng nắm vấn đề  của học sinh ở mỗi  vùng miền có sự khác nhau nên sử dụng câu hỏi chung trong sách giáo khoa  nhiều khi chưa phù hợp. Một thực trạng khác nữa, từ  hệ  thống câu hỏi  trong sách giáo khoa, đã có rất nhiều bộ sách biên soạn câu trả lời sẵn nên   nhiều học sinh đối phó bằng cách sao chép tài liệu vào vở  mà không cần  đọc văn bản, không nắm được chút gì về văn bản. Qua  thực  tế  giảng  dạy nhiều  năm của  bản thân  ở   trường THPT  Krông Nô, kết hợp với việc tham khảo ý kiến của đồng nghiệp trong tổ  chuyên môn, tôi nhận thấy hiện nay đa số học sinh chưa thực sự chủ động  và tích cực trong việc soạn bài trước khi đến lớp. Các em thấy khó khăn khi  Trang 4
  5. soạn các bài đọc văn. Đây có thể được xem là nguyên nhân chính khiến các   em học sinh không hứng thú với môn Ngữ  văn dẫn đến kết quả  học tập   không cao. 2.2 . Giải pháp thay thế Giáo viên xây dựng một hệ thống câu hỏi định hướng phần đọc văn  và cung cấp đến học sinh trước mỗi kì, giúp học sinh soạn bài. Hệ  thống  câu hỏi định hướng giáo viên biên soạn căn cứ vào: Tài liệu Chuẩn kĩ năng,  kiến thức Ngữ  văn 10; Hệ  thống câu hỏi hướng dẫn  ở  mỗi bài học trong   Sách giáo khoa Ngữ  văn 10; Đối tượng học sinh ban cơ bản trường THPT   Krông Nô. 2.3. Một số nghiên cứu gần đây liên quan đến đề tài ­ Phạm Thúy Hằng (2011) Đặt câu hỏi trong dạy học tác phẩm tự  sự  dân   gian chương trình Ngữ  văn lớp 10,  Trường Đại học Giáo dục – Đại học  Quốc gia Hà Nội. ­ Lưu Thị  Nụ  (2008) Thiết kế  bộ  câu hỏi đặc trưng thể  loại dạy học tác   phẩm văn học nước ngoài trong nhà trường THPT Việt Nam – Khóa luận  tốt nghiệp, Khoa Sư phạm – Đại học Quốc gia Hà Nội. ­ Trần Thanh Tuấn, Xây dựng hệ thống câu hỏi cho bài soạn Ngữ  văn 12,  Giáo viên trường THPT Long Hiệp – Huyện Trà Cú – Tỉnh Trà Vinh. 2.4. Vấn đề nghiên cứu Việc giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi định hướng giúp học sinh  soạn bài môn Ngữ văn 10 có nâng cao kết quả học tập của học sinh không? 2.5. Giả thuyết nghiên cứu Giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi định hướng giúp học sinh soạn  bài môn Ngữ văn 10 sẽ nâng cao kết quả học tập của học sinh. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Khách thể nghiên cứu Trang 5
  6. Tôi chọn khách thể  nghiên cứu là hai lớp: 10A8 và 10A12, trường  THPT Krông Nô năm học 2016 – 2017. Giáo viên: Lớp 10A8 (lớp thực nghiệm) do cô giáo Nguyễn Thị Huyền làm chủ  nhiệm. Lớp gồm 42 học sinh (trong đó 18 nữ, 24 nam); Lớp 10A12 (lớp đối   chứng) do thầy giáo Nguyễn Quốc Việt làm chủ  nhiệm. Lớp gồm 38 học  sinh (trong đó 15 nữ, 23 nam). Cả  hai lớp đều có số  lượng học sinh nam   nhiều hơn học sinh nữ. Cả hai giáo viên chủ nhiệm đều giảng dạy bộ môn   Toán, là những giáo viên trẻ, yêu nghề, nhiệt tình và có trách nhiệm cao  trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh. Học sinh: Hai nhóm lớp được chọn tham gia nghiên cứu có điểm tương đồng  nhau về giới tính, ý thức học tập, kết quả học tập. Bảng 1: Bảng tương quan giữa hai nhóm Các Họ Họ Hạnh kiểm thô c  c  ng  sin lực tin h  các  nhó m Sĩ số Nam Nữ G K TB Y K T K TB Y Lớp 10A8 42 24 18 1 7 31 3 0 39 3 0 0 Lớp 10A12 38 23 15 0 5 31 2 0 36 2 0 0 3.2. Thiết kế Chọn hai lớp nguyên vẹn: lớp 10A8 là nhóm đối chứng và lớp 10A12  là nhóm thực nghiệm. Tôi dùng bài kiểm tra khảo sát đầu năm (bài kiểm tra  chung toàn trường cho học sinh khối 10 để xếp lớp) làm bài kiểm tra trước   Trang 6
  7. tác động. Kết quả  kiểm tra cho thấy điểm trung bình của hai nhóm có sự  khác nhau, do đó tôi dùng phép kiểm chứng T – tets để  kiểm chứng sự  chênh lệch giữa điểm số trung bình của hai nhóm trước khi tác động. Kết quả: Bảng 2: Kiểm chứng để kiểm tra kết quả tương đương Lớp đối chứng Lớp thực nghiệm TBC 2,6 2,5 P = 0,78 P = 0,78 > 0,05 từ  đó kết luận điểm chênh lệch điểm số  trung bình   của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng là không có ý nghĩa, hai nhóm  được coi là tương đương. Sử dụng thiết kế 2: Kiểm tra trước và sau tác động đối với các nhóm   tương đương. Bảng 3: Thiết kế nghiên cứu Kiểm tra  Tác động Kiểm tra  Nhóm trước tác  sau tác động động Soạn bài theo hệ thống  Thực nghiệm 01 câu hỏi do giáo viên biên  03 soạn Soạn bài theo hệ thống  Đối chứng 02 câu hỏi hướng dẫn  04 trong sách giáo khoa Ở thiết kế này, tôi sử dụng phép kiểm chứng T – tets độc lập. 3.3. Quy trình nghiên cứu Chuẩn bị của giáo viên: Trang 7
  8. ­ Đối với lớp 10A12 (nhóm thực nghiệm), giáo viên cung cấp hệ  thống câu hỏi định hướng giúp học sinh  soạn bài. Hệ  thống câu hỏi bao  gồm toàn bộ  các tiết đọc văn thuộc phân môn Văn học trong chương trình  Ngữ văn lớp 10, tập 1 (trừ các văn bản thuộc phần Văn học nước ngoài và   các bài đọc thêm). Ở mỗi tiết dạy, giáo viên sử dụng thời gian củng cố bài   học để  kiểm tra vở  soạn nhằm đánh giá việc soạn bài của học sinh. Các  bài cụ thể: + Chiến thắng Mtao Mxây + Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy + Tấm Cám + Tam Đại con gà + Nhưng nó phải bằng hai mày + Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa + Tỏ lòng + Cảnh ngày hè + Nhàn + Đọc Tiểu Thanh kí ­ Đối với lớp 10A8 (nhóm đối chứng), giáo viên tiến hành dạy học  bình thường. Học sinh nhóm thực nghiệm soạn bài theo hệ  thống câu hỏi   hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 (tập 1). Tiến hành dạy thực nghiệm: Thời gian tiến hành thực nghiệm vẫn tuân theo kế  hoạch dạy học  của nhà trường và theo thời khóa biểu để đảm bảo tính khách quan. Cụ thể  như sau: Bảng 4: Thời gian thực hiện Tuầ Ngày tháng Tiết  Tên bài n PPCT 3 13/9/2016 8, 9 Chiến thắng Mtao Mxây Trang 8
  9. 4 20/9/2016 11, 12 Truyện An Dương Vương và Mị Châu –  Trọng Thủy 6 4/10/2016 18, 19 Tấm Cám 7 11/10/2016 21 Tam Đại con gà; Nhưng nó phải bằng hai mày 8 18/10/2016 24, 25 Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa 12 15/11/2016 35 Tỏ lòng 13 22/11/2016 36, 37 Cảnh ngày hè 14 29/11/2016 39, 40 Nhàn 14 2/12/2016 41 Đọc Tiểu Thanh kí 3.4. Đo lường Bài kiểm tra trước tác động là bài kiểm tra khảo sát chất lượng đầu  năm học 2016 – 2017 do trường THPT Krông Nô ra chung cho tất cả  học   sinh khối 10. Bài kiểm tra sau tác động lần 1 là bài viết số  2 do giáo viên bộ  môn  ra đề  chung cho hai lớp (xem phần phụ  lục). Bài kiểm tra này được tiến  hành cho học sinh hai lớp làm trong tuần 8, theo phân phối chương trình  Ngữ văn 10. Đề kiểm tra gồm hai phần: phần đọc – hiểu và phần làm văn  với tỉ lệ điểm là 3/7. Thời gian kiểm tra 90 phút. Bài kiểm tra sau tác động lần 2 là bài kiểm tra chất lượng học kì I,   năm học 2016 – 2017, đề kiểm tra do tổ chuyên môn ra chung cho học sinh   toàn trường (xem phần phụ  lục). Đề  kiểm tra cũng gồm hai phần: phần  đọc – hiểu và phần làm văn với tỉ  lệ  điểm là 3/7. Thời gian kiểm tra 90   phút. Bài kiểm tra này được tiến hành cho học sinh toàn trường thi trong   tuần 18 theo lịch thi học kì I, năm học 2016 – 2017 của trường THPT Krông  Nô. Học sinh thi theo danh sách sắp xếp thứ  tự  họ  và tên, mỗi phòng thi  gồm 24 em. Tiến hành kiểm tra và chấm bài: Trang 9
  10. Đối với bài kiểm tra sau tác động lần 1, tôi tiến hành cho học sinh  làm bài viết số  2 (2 tiết) trên lớp theo đúng phân phối chương trình giảng   dạy môn Ngữ  văn 10. Tôi đã chấm bài theo đáp án và biểu điểm đã xây   dựng (trình bày ở phần phụ lục). Đối với bài kiểm tra sau tác động lần 2, học sinh toàn trường tiến   hành làm bài kiểm tra học kì I theo lịch thi của nhà trường. Bài kiểm tra   được cắt phách và do tổ chuyên môn chấm theo đáp án và biểu điểm đã xây  dựng (xem phần phụ lục). 4. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ VÀ BÌNH LUẬN 4.1. Trình bày kết quả Bảng 5: Kết quả trước tác động LỚP 10A8 10A12 SĨ SỐ 42 38 ĐIỂM SỐ LƯỢNG 0 0 1 0,5 4 2 1 4 2 1,5 7 6 2 4 7 2,5 1 4 3 6 6 3,5 7 4 Trang 10
  11. 4 6 1 4,5 0 4 5 2 0 5,5 1 1 6 0 0 6,5 0 0 7 0 0 7,5 0 0 8 0 0 8,5 0 0 9 0 0 9,5 0 0 10 0 0 TỔNG SỐ ĐIỂM 109 95,5 ĐIỂM TRUNG BÌNH 2,6 2,5 Bảng 6: Kết quả sau tác động LỚP 10A8 10A12 SĨ SỐ 42 38 ĐIỂM SỐ LƯỢNG LẦN 1 LẦN 2 LẦN 1 LẦN 2 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 2 0 2 0 1 3 0 2 0 0 4 6 12 0 3 5 8 12 3 6 6 14 11 9 17 7 11 3 16 7 8 3 0 10 4 9 0 0 0 0 10 0 0 0 0 TỔNG SỐ ĐIỂM 249 205 261 227 ĐIỂM TRUNG BÌNH 5,9 4,9 6,9 6 Trang 11
  12. Bảng 7: So sánh điểm trung bình kiểm tra sau tác động lần 1 Đối chứng Thực nghiệm Điểm trung bình 5,9 6,9 Độ lệch chuẩn 1,15 0,9 Giá trị P của T – tets 0,00011 Chênh lệch giá trị TB  chuẩn (SMD) 0,87 Bảng 8: So sánh điểm trung bình kiểm tra sau tác động lần 2 Đối chứng Thực nghiệm Điểm trung bình 4,9 6 Độ lệch chuẩn 1,2 1,2 Giá trị P của T – tets 0,00015 Chênh lệch giá trị TB  chuẩn (SMD) 0,92 4.2. Phân tích dữ liệu Qua bảng 6 (bảng kiểm tra trước tác động), ta thấy kết quả của hai   nhóm trước tác động là tương đương (chênh lệch điểm trung bình chỉ  là  0,1). Nhưng sau tác động  ở  cả  hai lần (bảng 7, bảng 8), kết quả học tập   của hai nhóm đã có sự chênh lệch. Cả hai nhóm đều tăng, nhưng nhóm thực   nghiệm tăng nhiều hơn. Sau tác động lần 1, điểm trung bình của nhóm thực  nghiệm là 6,9 điểm trung bình của nhóm đối chứng là 5,9. Sau tác động lần  2, sự  chêch lệch điểm trung bình giữa hai nhóm cao hơn lần 1.  Ở  lần tác   động này, điểm trung bình của nhóm thực nghiệm là 6,0 còn điểm trung  bình của nhóm đối chứng chỉ  là 4,9. Sau tác động kiểm chứng chêch lệch  điểm trung bình bằng T–Tets cho kết quả P của hai lần tác động là: sau tác  động lần 1 cho kết quả của P = 0,00011 sau tác động lần 2 cho kết quả của  P = 0,00015. Qua kết quả  sau hai lần tác động, có thể  thấy sự  chêch lệch  Trang 12
  13. giữa điểm trung bình của nhóm thực nghiệm với nhóm đối chứng là có ý  nghĩa,  tức là chêch lệch kết quả  điểm trung bình nhóm thực nghiệm cao  hơn nhóm đối chứng là không ngẫu nhiên mà do tác động. Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn lần 1 là: SMD = (6,9 ­ 5,9): 1,15 = 0,87 Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn lần 2 là: SMD = (6,0 ­ 4,9): 1,2=0,92 Theo bảng tiêu chí Cohen, chênh lệch giá trị trung bình chuẩn nằm ở  mức từ 0,8 – 1,00 cho thấy mức độ ảnh hưởng của việc giáo viên xây dựng  hệ thống câu hỏi định hướng giúp học sinh soạn bài đến kết quả  học tập  môn Ngữ văn của nhóm thực nghiệm là lớn. Như vậy giả thuyết về đề tài “ Giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi  định hướng giúp học sinh soạn bài môn Ngữ văn 10” làm nâng cao kết quả  học tập của học sinh đã được kiểm chứng. Trang 13
  14. Biểu đồ so sánh điểm trung bình trước tác động và sau hai lần tác động   của nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm 4.3. Bàn luận Kết   quả   bài   kiểm   tra   sau   tác   động   ở   cả   hai   lần   của   nhóm   thực   nghiệm điểm trung bình lần lượt là 6,9 và 6,0 còn kết quả  kiểm tra của   nhóm đối chứng lần lượt là 5,9 và 4,9. Độ  chênh lệch điểm số  trung bình  của hai nhóm lần 1 là 1,0 và lần 2 là 1,1. Điều đó cho thấy điểm trung bình   của hai lớp đối chứng và thực nghiệm đã có sự  khác biệt rõ rệt, lớp được   tác động có điểm trung bình cao hơn lớp đối chứng. Chênh lệch giá trị  trung bình chuẩn của hai bài kiểm tra   SMD  lần  lượt là 0,87 và 0,92. Điều này có nghĩa mức độ ảnh hưởng của tác động là  lớn. Phép kiểm chứng T – Tets điểm trung bình bài kiểm tra sau tác động  của hai lớp là P = 0,0001 
  15. Việc giáo viên xây dựng hệ thống câu hỏi định hướng giúp học sinh  soạn bài môn Ngữ văn 10 ở trường THPT Krông Nô thay thế cho việc học   sinh soạn bài theo hệ  thống câu hỏi trong sách giáo khoa đã nâng cao kết  quả học tập của học sinh. Dạy văn bằng việc xây dựng hệ thống câu hỏi định hướng giúp học  sinh soạn bài là một phương pháp dạy học phù hợp với nhà trường hiện  đại và chủ trương tích cực hóa hoạt động của học sinh trong học tập, làm   cho các em yêu thích môn Ngữ  văn hơn, chăm học hơn và từ  đó nâng cao   kết quả học tập. Đây cũng là phương pháp dạy học phù hợp với mục đích  học tập của UNESCO đã từng đề  xướng: “Học để  biết, học để  làm, học   để chung sống, học để tự khẳng định mình”. 6.2. Khuyến nghị a. Đối với giáo viên Xây dựng hệ thống câu hỏi định hướng giúp học sinh soạn bài phải  căn cứ  trên: lực học của học sinh từng lớp, sách giáo khoa, sách chuẩn kĩ  năng – kiến thức, gắn với từng bài học cụ  thể. Do đó giáo viên phải hết   sức thận trọng khi xây dựng hệ  thống câu hỏi sao cho vừa sức với tất cả  các học sinh trong lớp từ  yếu – trung bình – khá – giỏi để  các em không  chán nản và dựa dẫm vào bạn khác. Bởi vậy hệ  thống câu hỏi phải sắp  xếp từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao. Muốn làm  được điều đó đòi hỏi người giáo viên phải am hiểu tác phẩm, am hiểu tâm  lí lứa tuổi, am hiểu khả năng của học sinh mình. Và việc áp dụng tác động  ở các khối lớp khác nhau thì mức độ cũng phải khác nhau. Trong quá trình dạy học, giáo viên cần kết hợp nhiều phương pháp  dạy học để  giờ  học đạt hiệu quả  cao, đồng thời tránh sự  nhàm chán cho  học sinh trong giờ học. Trang 15
  16. b. Đối với học sinh: soạn bài chi tiết theo hệ thống câu hỏi định hướng  giáo viên cung cấp. Trong giờ  học cần chú ý, hăng hái tích cực tham gia  giải quyết vấn đề giáo viên đề ra. c. Đối với tổ, nhóm chuyên môn: Đề nghị xây dựng các chuyên đề áp  dụng phương pháp dạy học thông qua việc giáo viên xây dựng hệ  thống   câu hỏi định hướng giúp học sinh soạn bài vào giờ  dạy tác phẩm văn học   để rút kinh nghiệm làm cho giờ dạy đạt kết quả cao. Trên đây là mội vài suy nghĩ, kinh nghiệm của tôi về  việc nâng cao   kết quả học tập môn Ngữ văn 10. Thiết nghĩ để tạo hứng thú cho học sinh,   giúp học sinh tích cực chủ động chiếm lĩnh tri thức, tiến tới tự sáng tạo tri  thức là phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, và  yêu cầu của xã hội. Qua giải pháp mà tôi nêu ra  ở  trên mong rằng sẽ  góp  một phần nhỏ để các đồng nghiệp cùng tham khảo. Các suy nghĩ trên chắc  chắn không tránh khỏi những thiếu sót tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ,  đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! Trang 16
  17. 6. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.  Lê Huy Bắc (chủ  biên) (2006),  Hỏi – đáp kiến thức Ngữ  văn 10,  NXB  Giáo dục. 2. Bộ giáo dục & Đào tạo (2010), Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ   năng môn Ngữ văn lớp 10, NXB Giáo dục Việt Nam. 3. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2006), Sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 1, NXB  Giáo dục. 4. Bộ Giáo dục & Đào tạo (2006), Sách giáo viên Ngữ  văn 10, tập 1, NXB  Giáo dục. 5. Lê Thị Diệu Hoa (2006), Ôn luyện kiến thức và Bài tập rèn luyện kĩ năng   Ngữ văn 10, NXB Giáo dục. 6. Nguyễn Xuân Lạc (chủ biên) (2006), Hỏi đáp về văn học 10, NXB Trẻ. 7.  Phan Trọng Luận (chủ  biên) (2006), Sách  Bài tập Ngữ  văn 10, tập 1,  NXB Giáo dục. Trang 17
  18. 8. Phan Trọng Luận (chủ biên) (2007), Thiết kế bài học Ngữ văn 10, NXB  Giáo dục. 9. NXB Đại học Quốc gia Thành phố  Hồ  Chí Minh (2006), Kiến thức cơ  bản Ngữ văn 10. 10. Lã Nhâm Thìn (2006), Ôn tập Ngữ văn 10, NXB Giáo dục. Trang 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2