intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Phát triển bài Toán thành các bài Toán mới nhằm phát huy năng lực tư duy của học sinh khá, giỏi trong chương trình Toán 10

Chia sẻ: Đỗ Văn Mười | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:44

144
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển bài Toán thành các bài Toán mới nhằm phát huy năng lực tư duy của học sinh khá, giỏi trong chương trình Toán 10 được viết với các nội dung: Lí do chọn đề tài, cơ sở lý luận và thực tiễn, tổ chức thực hiện các giải pháp, hiệu quả của đề tài, đề xuất khuyến nghị và khả năng áp dụng, tài liệu tham khảo. Mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Phát triển bài Toán thành các bài Toán mới nhằm phát huy năng lực tư duy của học sinh khá, giỏi trong chương trình Toán 10

  1.                                     THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “PHÁT TRIỂN BÀI TOÁN THÀNH CÁC BÀI TOÁN MỚI   NHẰM   PHÁT   HUY   NĂNG   LỰC   TƯ   DUY   CỦA   HỌC   SINH   KHÁ,   GIỎI   TRONG CHƯƠNG TRÌNH TOÁN 10” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn toán               Làm tài liệu cho giáo viên và học sinh trung học phổ thông. 3. Tác giả:                Họ và tên:  BÙI THỊ MẬN                       Nam (nữ) : Nữ.               Sinh ngày 10 tháng 06 năm 1984.               Trình độ chuyên môn:  Cử nhân sư phạm Toán.                 Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Nam Sách II.               Điện thoại:  0965705684. 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:                Trường THPT Nam Sách II.               Địa chỉ : Xã An Lâm huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương. 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu:                Trường THPT Nam Sách II .                Địa chỉ : Xã An Lâm huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương. 6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:              + Máy chiếu, phòng học, máy tính bỏ túi, tài liệu tham khảo...                         + Học sinh khối trung học phổ thông.  7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu:                Áp dụng từ năm học 2015­2016                      TÁC GIẢ  XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG                  (Ký, ghi rõ họ tên)                          SÁNG KIẾN 1
  2.                  Bùi Thị Mận  TÓM TẮT SÁNG KIẾN  1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.       Theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay ở trường trung   học phổ thông là tích cực hóa các hoạt động học tập của học sinh, khơi dậy   và phát triển khả năng tự  học nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực  độc lập, sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn  luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Tác động đến tình cảm,  đem lại niềm vui và hứng thú học tập cho học sinh. Vì thế  qua công tác  giảng dạy nhiều năm môn toán ở  các khối lớp nói chung và khối lớp 10 nói  riêng, tôi nhận thấy việc phát huy tính tự giác tích cực học tập của học sinh   là việc làm hết sức cần thiết, nó đòi hỏi người giáo viên phải có sự sáng tạo   trong giảng dạy.         Vì vậy để  học tốt môn toán, không những phải yêu cầu học sinh nắm  vững và biết vận dụng các bài toán cơ  bản mà còn phải biết cách phát triển  nó thành bài toán mới có tầm suy luận cao hơn, nhằm phát triển năng lực tư  duy cho học sinh. Cách dạy và học như  vậy mới đi đúng hướng đổi mới   phương pháp dạy học như hiện nay. Có như vậy mới tích cực hóa hoạt động  học tập của học sinh. Khơi dạy khả năng tự lập, chủ động, sáng tạo của học   sinh. Nhằm nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề. Rèn luyện kỹ  năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm  say mê hứng thú học tập cho học sinh.         Vậy để  có kĩ năng giải bài tập toán phải qua quá trình luyện tập. Tuy   rằng, không phải cứ giải nhiều là có kĩ năng. Việc luyện tập sẽ có hiệu quả,  nếu như biết khéo léo khai thác từ một bài tập này sang các bài tập tương tự  2
  3. nhằm vận dụng tính chất nào đó và rèn luyện phương pháp làm một dạng bài  tập nào đó.       Nếu giáo viên biết hướng cho học sinh cách học chủ  động thì học sinh   không những không còn ngại học môn toán mà còn hứng thú với việc học   môn toán. Học sinh không còn cảm thấy học môn toán là gánh nặng, mà sẽ là   ham mê học toán, có được như thế là thành công của người dạy toán. ́ ừ những lý do trên va tinh hinh th          Xuât phat t ́ ̀ ̀ ̀ ực tê cua nha tr ́ ̉ ̀ ương, v ̀ ơí  ̣ ̣ ́ ơn đê co đ mong muôn giup hoc sinh hoc tôt h ́ ́ ̉ ́ ược nên tang v ̀ ̉ ưng chăc cho ̃ ́   ̃ ̣ ̣ ̀ ̀  “Phát triển bài toán thành các bài   nhưng năm hoc sau nên tôi chon đê tai:  toán mới nhằm phát huy năng lực tư  duy của học sinh   khá, giỏi  trong   chương trình toán 10”. 2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.            + Điều kiện áp dụng sáng kiến.  Sáng kiến được áp dụng để  giảng dạy cho học sinh trung học phổ  thông, nhất là học sinh lớp 10, lớp bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh ôn thi  Đại học, Cao Đẳng.  + Thời gian áp dụng sáng kiến : Năm học 2015­2016 và 2016­2017. + Đối tượng áp dụng sáng kiến: Đối tượng mà đề  tài hướng tới  nghiên cứu và áp dụng thực nghiệm là học sinh lớp 10. 3. Nội dung sáng kiến. Trong đề tài, tôi đã chọn một số bài toán rất cơ bản trong chương trình  toán lớp 10 và từ bài toán này theo hướng thay đổi giả  thiết của bài toán để  tạo ra một số  bài toán mới nhưng vẫn liên quan với bài toán ban đầu về  phương pháp giải. Đề  tài này tôi nghiên cứu đến kiến thức về  bất đẳng  thức, công thức lượng giác (Đại số 10) và kiến thức về véctơ, tích vô hướng   của hai véctơ và ứng dụng, các hệ thức lượng trong tam giác (Hình học 10). Đề tài của tôi có hai nội dung chính : 3
  4. + Phần Đại số : Phần này tôi giới thiệu một bài toán gốc về  chứng  minh bất đẳng thức đại số. Từ bài toán này tôi hướng dẫn học sinh khai thác   và phát triển thành các bài toán chứng minh bất đẳng thức đại số  và chứng   minh bất đẳng thức lượng giác. + Phần Hình học: Tôi giới thiệu hai bài toán gốc là hai bài toán về  đẳng thức véctơ  mà học sinh thường gặp. Tôi hướng dẫn học sinh chứng   minh hai bài toán gốc đó. Từ bài toán này tôi thay đổi (thêm , bớt…) một số  dữ  liệu của bài toán từ  đó yêu cầu học sinh phát biểu và chứng minh thành   bài toán mới.  Tuy nội dung tôi đề cập rất rộng và các bài tập dạng này cũng khá phong phú  song trong khuôn khổ thời gian có hạn nên tôi chỉ nêu ra một số bài toán điển   hình và sắp xếp theo một trình tự từ đơn giản đến phức tạp.             Điểm mới trong kết quả nghiên cứu là tính thực tiễn và tính hệ thống,  không áp đặt hoặc rập khuôn máy móc do đó mà học sinh dễ  dàng áp dụng   vào việc giải quyết các bài toán lạ, các bài toán khó. Bên cạnh đó lại đòi hỏi  học sinh phát huy tính tự lực, khả năng tư  duy, sáng tạo, để  nhận biết từng  dạng bài để tìm ra hướng giải và từ đó phát triển thành các bài toán mới. Đề tài này tôi bắt đầu nghiên cứu từ năm học 2014­2015 và bắt đầu áp  dụng vào giảng dạy năm học 2015­2016. Trong quá trình nghiên cứu của  mình, tôi luôn tìm tòi cũng như luôn tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp  nhằm hoàn thiện hơn nữa nội dung của đề tài. Tôi thấy, đề  tài có thể làm tài liệu tham khảo giảng dạy cho các thầy   cô dạy môn Toán tại trường trung học phổ thông. Đề  tài là tài liệu tham khảo bổ  ích cho các em thi học sinh  khá, giỏi,  khối 10 và các em học sinh thi THPT Quốc gia. Khi đề tài này được áp dụng và triển khai vào thực tiễn, tôi thấy rằng  nó có tác dụng rất lớn đến tư  duy và cách nhìn của các em về  môn toán đã  khác trước rất nhiều. 4
  5. 4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến.         ­ Đề tài đã góp phần nâng cao chất lượng của môn toán trung học phổ  thông. Kích thích tính tò mò, khả  năng ham thích học tập bộ  môn, dần hình  thành khả năng tư duy sáng tạo tự giác học tốt môn toán của học sinh.      ­ Đề  tài giúp các em hiểu một cách sâu sắc hơn các bài toán trong  chương trình toán lớp 10 cũng như  việc nghiên cứu các bài toán theo các  chiều hướng khác nhau. Từ đó hoàn thiện hơn cho học sinh tư duy sáng tạo,  khả  năng trình bày bài toán và quan trọng nhất là hướng cho các em nhìn  nhận bài toán theo nhiều chiều hướng.     ­ Hình thành óc thẩm mỹ, linh hoạt, nhạy bén, tích cực tư duy trong học  tập cũng như mọi hoạt động khác.            ­ Dần hình thành trong các em tình cảm đối với con người, với khoa   học, với đất nước, đi đến tích cực sáng tạo trong học tập và trong đời sống.          ­ Qua đề tài này, bản thân tôi thấy với cách chủ động tự nêu vấn đề và  giải quyết vấn đề  có sự  giúp đỡ  của giáo viên giúp học sinh có hứng thú  trong khi học và giúp học sinh có thói quen suy nghĩ khi giải quyết bài toán ở  nhiều góc độ  khác nhau thông qua một bài toán đơn giản bằng tư  duy khái   quát hóa để làm được bài toán khó hơn, tổng quát hơn. ­ Từ đó giúp các em học sinh hình thành tư  duy của mình biết tự  phát  triển tư duy khi học môn toán nói chung, môn hình học nói riêng. Vấn đề này  giúp học sinh giải quyết một bài toán chắc hơn, sáng tạo hơn.      ­ Từ việc khai thác và phát triển bài toán sẽ có nhiều bài toán hay được   hình thành, góp phần làm cho kho tàng toán học ngày càng phong phú. 5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng, mở rộng sáng kiến. Sáng kiến kinh nghiệm của tôi được áp dụng vào giảng dạy cho đối   tượng học sinh khá giỏi khối lớp 10, các lớp bồi dưỡng học sinh giỏi, lớp ôn   5
  6. thi đại học. Để áp dụng sáng kiến, đòi hỏi người giáo viên cần tăng cường  đầu tư dạy học bồi dưỡng năng lực tư duy cho học sinh thông qua việc phát   triển một bài toán thành các bài toán mới.  Đối với các cấp quản lý, nên động viên, khuyến khích giáo viên tích  cực viết và áp dụng sáng kiến vào thực tế giảng dạy; với các sáng kiến tiêu  biểu nên tổ  chức nhân rộng, phổ  biến cho giáo viên học tập và áp dụng vào  quá trình giảng dạy.                                       MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1 HOÀN CẢNH NẢY SINH SÁNG KIẾN.     Môn toán là một môn khoa học tự nhiên. Nó đóng vai trò rất quan trọng  trong thực tiễn cuộc sống, liên quan mật thiết với các môn học khác, làm  nền tảng cho các bộ  môn khoa học tự  nhiên khác. Vì vậy việc giảng dạy   môn Toán ở các trường Trung học phổ thông nói chung và môn Toán lớp 10  nói riêng là một vấn đề  hết sức quan trọng. Vì thế, để  đáp  ứng được nhu  cầu giảng dạy theo chuẩn kiến thức, kỹ năng và phân hóa theo năng lực học   sinh thì giáo viên phải có sự  đầu tư  nhiều hơn để  đưa ra phương pháp dạy  học mới cho phù hợp.   Trong thực tế,  việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là theo   hướng phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh. Bên cạnh việc đổi   mới trong phương pháp dạy thì việc đổi mới phương pháp học của học sinh   cũng rất quan trọng. Nó góp phần làm cho học sinh tăng khả năng tư duy, tìm  tòi và sáng tạo, quá trình lĩnh hội kiến thức đạt hiệu quả hơn. 6
  7.  Dạy học không đơn thuần chỉ  là truyền đạt kiến thức cho học sinh mà  còn đòi hỏi là phải xây dựng cho các em một phương pháp, một “con đường  đi” tự tìm đến “cái đích” của khoa học.         Trong tác phẩm nổi tiếng “Giải toán như thế nào?” Pôlia cho rằng: Ví  như  dòng sông nào cũng bắt nguồn từ  những con suối nhỏ, mỗi bài toán dù  khó đến đâu cũng có nguồn gốc từ những bài toán đơn giản, có khi rất quen  thuộc đối với chúng ta. Vì vậy trong quá trình tìm tòi lời giải các bài toán,  việc tìm hiểu xuất xứ  của chúng sẽ  giúp chúng ta tìm ra chìa khóa để  giải  chúng. Đặc biệt, nếu phát hiện bài toán có nguồn gốc từ  một bài toán trong  sách giáo khoa thì tình huống càng trở nên thú vị.    Trong quá trình giảng dạy môn toán  ở  trường Trung học phổ  thông tôi  thấy, trong các kì thi  đại học, cao đẳng, thi học sinh giỏi có những bài toán  tưởng chừng như  rất khó nhưng khi tìm hiểu lời giải thì nó lại là một bài  toán được mở rộng hoặc vận dụng từ một bài toán trong sách giáo khoa. Do  vậy để  giúp các em học sinh hiểu một cách sâu sắc hơn các bài toán trong   chương trình toán trung học phổ  thông nhất là toán lớp 10 cũng như  việc   nghiên cứu các bài toán theo các chiều khác nhau, từ  đó hoàn thiện hơn tư  duy sáng tạo, khả  năng trình bày bài toán và quan trọng nhất là hướng cho  các em nhìn nhận bài toán theo nhiều chiều hướng, tôi mạnh dạn chọn đề  tài: “Phát triển bài toán thành các bài toán mới nhằm phát huy năng lực   tư duy của học sinh khá, giỏi trong chương trình toán 10”. 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ.  Việc đổi mới phương pháp dạy học chỉ  từ  cách dạy thụ  động, cách  dạy phát huy tính tích cực, độc lập, chủ  động, sáng tạo của học sinh mà ta  định hướng “Dạy học tập trung vào học sinh”. Người giáo viên đóng vai trò  chủ  chốt, tổ  chức, dẫn dắt các hoạt động, tổ  chức sao cho học sinh được  học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự  giác, tích cực độc lập sáng   7
  8. tạo năng lực giải quyết vấn đề, rèn luyện kĩ năng vận dụng vào thực tiễn,  tác động tình cảm, mang lại niềm tin, hứng thú học tập cho học sinh. Để  phát triển “Tư duy sáng tạo cho học sinh” thông qua việc dạy bài   luyện tập trong phần luyện tập đề tài của tôi được chia làm hai phần. Phần  1 là phần Đại số dùng ôn tập về bất đẳng thức, các hệ thức lượng trong tam  giác và công thức lượng giác.  Phần 2 là phần Hình học dùng ôn tập về véctơ  và các phép toán về  véctơ. Quán triệt quan điểm dạy học theo hướng “Phát   huy tính tích cực tự  giác, thói quen nghiên cứu khoa học của học sinh” thì  việc hướng dẫn học sinh có thói quen khai thác, nhìn nhận một vấn đề  trên   nhiều khía cạnh khác nhau sẽ  có tác dụng tốt trong việc phát triển tư  duy   logic, độc lập sáng tạo cho học sinh. Rèn luyện cho học sinh một số phương   pháp giải toán đại số, hình học như: ­ Phương pháp phân tích tổng hợp. ­ Phương pháp so sánh. ­ Phương pháp tổng quát hóa.... Khi giải một bài toán, ngoài yêu cầu đọc kỹ  đầu bài, phân tích giả  thiết bài toán, học sinh còn cần phải chú ý đến nhiều yếu tố khác như: nhận  dạng bài toán, nội dung kiến thức nào liên quan đến bài toán đặt ra, tìm mối   liên hệ  giữa bài toán đã cho với bài toán cơ  bản đã biết cách giải, trình bày  bài toán như  thế  nào cho chính xác và lôgic...có như  thế  mới có thể  giải  quyết được nhiều bài toán mà không gặp phải khó khăn.  Trong các kì thi, học sinh thường gặp các bài tập khó hơn nhiều so với  các bài tập trong sách giáo khoa. Thực tế, phần lớn các bài toán đều thuộc   một dạng toán nào đó mà các em đã biết cách giải, các bài toán đó được tạo  ra từ một bài toán ban đầu mà ta gọi là bài toán mới. Bài toán mới có thể  là bài toán hoàn toàn mới, cũng có thể  là sự  mở  rộng, đào sâu những bài toán đã biết. Thực tế khó có thể tạo ra một bài toán  hoàn toàn không có quan hệ gì về nội dung hoặc về phương pháp với những   8
  9. bài toán đã biết vì vậy để tạo ra một bài toán từ bài toán ban đầu thường có   các con đường sau: 1. Lập bài toán tương tự. 2. Lập bài toán đảo. 3. Thêm một số yếu tố rồi đặc biệt hóa. 4. Bớt một số yếu tố rồi khái quát hóa. 5. Thay đổi một số yếu tố. 3.THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ. 3.1. Thực trạng phần chung. Qua thực tiễn  giảng  dạy tôi nhận thấy  bài tập sách giáo khoa là hệ  thống bài tập cơ bản, nhằm củng cố kiến thức cho học sinh sau mỗi giờ học   lí thuyết. Bài tập sách giáo khoa cũng chứa đựng nội dung kiến thức quan  trọng, qua đó có thể  mở  rộng, xây dựng được hệ  thống các bài toán mới.  Như vậy chúng ta có thể xem phần lí thuyết và bài tập sách giáo khoa là kiến   thức cơ sở để vận dụng và giải quyết vấn đề trong quá trình học Toán. Tuy  nhiên khi dạy học theo hướng này còn tồn tại một số thực trạng sau:                Đối với học sinh: + Tình trạng phổ biến của học sinh hiện nay là nắm kiến thức rất “mơ  màng”. Rất nhiều học sinh còn bộc lộ những yếu kém, hạn chế về năng lực   tư  duy sáng tạo: Nhìn các đối tượng toán học một cách rời rạc, chưa thấy   được mối liên hệ  giữa các yếu tố  toán học, thường yếu trong việc chuyển  đổi ngôn ngữ để quy lạ về quen, không linh hoạt trong điều chỉnh hướng suy  nghĩ khi gặp trở ngại, quen với kiểu suy nghĩ rập khuôn, áp dụng một cách  máy móc những kinh nghiệm đã có vào hoàn cảnh mới, điều kiện mới đã  chứa đựng những yếu tố thay đổi, học sinh chưa có tính độc đáo khi tìm lời  9
  10. giải bài toán.  Do đó việc kiến tạo nên hệ thống tri thức mới trên nền tri thức  cũ bị hạn chế. + Đa số học sinh thường có thói quen giải xong một bài toán xem như  là mình đã hoàn thành công việc được giao và dừng lại  ở  đó, ít có em  học  sinh nào biết chủ động, khai thác, tìm tòi, suy nghĩ, vận dụng nó để giải một  số  bài toán khác. Vì vậy khi đứng trước một bài toán mới, bài toán chưa có  thuật giải hay những bài toán nâng cao học sinh thường có tâm lí sợ và ngại,  thiếu tự  tin vào khả  năng của mình, lúng túng chưa biết cách chọn lọc các  kiến thức và liên kết những kiến thức cũ để  giải quyết vấn đề  mới có liên  quan. Do đó  ảnh hưởng lớn đến việc phát hiện và giải quyết vấn đề, hạn  chế đến việc phát triển tư duy của học sinh. Đối với giáo viên:  Do thời gian học tập của  học sinh ở trên lớp còn hạn chế so với khối   lượng   tri   thức   cần   truyền   đạt.   Kế   hoạch   dạy   học   phải   theo   phân   phối  chương trình nên nếu dạy học môn Toán lớp 10 theo hướng phát hiện và vận   dụng các bài toán gốc liên quan  thì mất khá nhiều thời gian dẫn đến việc  không thể hoàn thành bài giảng. Do đó: + Hầu hết giáo viên về phương pháp dạy học còn nặng về thuyết trình,  chưa phát huy hết được năng lực chủ động, tích cực và sáng tạo của học sinh.   Nhiều giáo viên chỉ tập trung hướng dẫn và yêu cầu học sinh làm các bài tập  được giao trong sách giáo khoa mà chưa quan tâm nhiều đến việc phát hiện   nguồn gốc của bài toán hay việc phát triển, mở rộng và tổng quát bài toán. + Thường sau mỗi tiết lý thuyết là đến tiết bài tập, giáo viên chỉ  tập   trung chữa bài tập một cách thuần túy, chưa tìm cách xây dựng chuỗi bài tập   nhằm củng cố, khắc sâu lý thuyết đã học. Nhiều giáo viên chưa thực sự quan  tâm để giúp học sinh làm nổi bật lên được mối quan hệ giữa các bài tập này  với bài tập khác, giữa những kiến thức đang học với những kiến thức trước  10
  11. đó. Khi dạy xong một chương giáo viên thường không hệ thống các dấu hiệu  để nhận biết một đối tượng toán học nằm rải rác trong chương.  + Khi  học sinh  đã giải được một bài toán thì  giáo viên  cũng thường  bằng lòng với lời giải đó mà chưa khuyến khích các em tìm ra các bài toán   tương tự, bài toán tổng quát hoặt đặt biệt hóa bài toán để tìm ra các bài toán   mới. Đối với sách giáo khoa hiện nay:   Lượng kiến thức đưa ra có phần dàn trải, các khái niệm, định lí chủ yếu   là giới thiệu để ứng dụng, không chứng minh. Dẫn đến việc coi nhẹ  vấn đề  hình thành khái niệm, định lí. Vì vậy còn tình trạng một số  giáo viên  ít dành  thời gian rèn luyện tư duy, tạo hứng thú kích thích tự  tìm tòi nghiên cứu mà  chủ yếu để học sinh thừa nhận khái niệm, định lí, đưa ra quy tắc và yêu cầu  vận dụng giải bài tập, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập  của học sinh. Do vậy, việc rèn luyện và phát triển năng lực tư duy cho học sinh nói  chung và năng lực tư duy sáng tạo cho học sinh phổ thông qua dạy học theo  con đường phát hiện và vận dụng  là một yêu cầu cần thiết. 3.2. Thực trạng cụ thể. 3.2.1. Ưu điểm.  Trong quá trình dạy môn toán lớp 10 và đặc biệt khi áp dụng đề tài này,  tôi nhận thấy đã giúp học sinh cảm thấy thích thú, say mê hơn khi học môn   toán.   Hơn thế nữa học sinh có thể phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo   của mình khi giải các dạng toán. 3.2.2 Hạn chế. Qua tìm hiểu, khảo sát tôi thấy học sinh vẫn còn một số  hạn chế như  sau: 11
  12. ­ Học sinh còn lười học bài và làm bài tập nên dẫn đến hổng kiến thức,   vì vậy việc vận dụng vào làm bài tập gặp rất nhiều khó khăn. Nên việc suy  nghĩ để giải các bài toán theo nhiều cách khác nhau mới không sử dụng được   hết các dữ kiện của bài toán. ­ Chưa biết vận dụng hoặc vận dụng rất chậm các phương pháp suy  luận trong giải toán, hoặc áp dụng phương pháp giải một cách thụ động. ­ Chưa tích cực tự  giác suy nghĩ tìm cách giải khác nhau cho một bài   toán hay mở rộng lời giải tìm được cho các bài toán khác, mặt khác học sinh   còn có tình trạng trông chờ,  ỷ  lại vào giáo viên. Do đó  ảnh hưởng rất nhiều   đến việc rèn luyện tư duy sáng tạo cho học sinh trong giải toán. 3.2.3 Nguyên nhân  Từ thực trạng của đa số  học sinh lớp 10 như trên dẫn đến kết quả  đa   số các em ngại học môn toán, cảm thấy học môn toán khô khan, khó hiểu, hầu  hết các em không có hứng thú học toán. Do đó đã  ảnh hưởng rất nhiều đến  việc học tập của các em. Từ đó dẫn đến việc lên lớp của giáo viên gặp không   ít khó khăn.  Vì vậy để  có được tiết học có hiệu quả  cao, cả  giáo viên và học sinh  cần phải có sự chuẩn bị chu đáo và sự  kết hợp hài hòa, đồng bộ. Phải có sự  thay đổi về cách tổ chức giờ học so với trước đây. Tôi đã trăn trở rất nhiều và tìm cách tháo gỡ những khó khăn mà cả cô  và trò đang gặp phải. Trước khi tôi chưa áp dụng sáng kiến này vào giảng  dạy, thực tế điều tra ở học sinh lớp 10 năm học 2014­2015 tôi nhận thấy như  sau: Lớp  Sĩ số     Số học sinh tự học Số học sinh tự học (chưa phát           (có tư duy)           huy được tính tư duy) 10B 40        11 HS (27.5 %)              29HS (72.5 %) 4. CÁC GIẢI PHÁP BIỆN PHÁP THỰC HIỆN. 4.1. ĐIỀU TRA CƠ BẢN. 12
  13. Trong nhiều năm trực tiếp giảng dạy và qua công tác bồi dưỡng học   sinh giỏi, qua tìm hiểu hứng thú học toán của học sinh tôi thấy chỉ có 15% học   sinh thực sự thứng thú học toán (có tư duy sáng tạo), 35% học sinh gọi là có  thích học toán một chút (chưa có tính độc lập, tư duy sáng tạo) và 50% còn lại  nửa thích nửa không. Qua gần gũi tìm hiểu thì các em cho biết, cũng rất muốn học, xong  nhiều khi không có thời gian để  học do phải giúp gia đình và hơn nữa là các  em chưa có điều kiện để mua các loại tài liệu tham khảo vì thế  các em chưa  biết cách tư duy trong cách giải một bài toán nào đó, bởi vì do điều kiện khách  quan của địa phương và của trường, học sinh chỉ  được bồi dưỡng  ở  trường  một thời gian ngắn nhất định. Do vậy học sinh chưa có hứng thú học toán. 4.2. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN. Xuất phát từ điều mong muốn là học sinh được rèn luyện khả năng tư  duy, sáng tạo, tìm được nhiều cách giải. Muốn vậy bản thân người giáo viên  phải là người tìm ra nhiều cách giải nhất. Vì thế  từ  kết quả điều tra của năm học 2014­2015 nên trong quá trình  giảng dạy ngay từ  đầu năm học 2015­2016 tôi suy nghĩ, nghiên cứu để  làm  sao học sinh không còn cảm thấy chán học môn toán, vì thế ngoài các buổi ôn  theo lịch của trường, tôi đã chủ động dành thời gian ôn thêm cho các em để bổ  sung những kiến thức mà các em còn quên . Ngoài ra, tôi thường xuyên áp   dụng trong các giờ luyện tập, bồi dưỡng tôi nhận thấy nội dung mà tôi nghiên  cứu bước đầu đã định hướng cho học sinh về  mặt tư duy và hình thành cho  học sinh có thói quen luôn tự đặt câu hỏi cho mình và tìm cách giải quyết mỗi   vấn đề khi giải toán. Từ đó hình thành cho học sinh thói quen nghiên cứu kỹ  bài trước khi làm. Do thời gian không có nhiều sau đây tôi xin đưa ra một số bài toán bắt  đầu từ  bài toán cơ  bản, tôi thay đổi giả  thiết của bài toán để  được bài toán  mới vẫn giữ nguyên bản chất của bài toán cũ nhưng phải có mức độ  tư  duy  13
  14. cao hơn, phải có tư duy tổng quát hóa mới giải quyết được vấn đề, tôi thấy   vận dụng vào quá trình ôn tập cho học sinh lớp 10 rất phù hợp. Đề tài của tôi được chia làm 2 phần. Phần đại số là các bài toán về bất  đẳng thức. Phần hình học là các bài toán áp dụng về đẳng thức véctơ  Thông qua các bài tập tôi sẽ  đưa đến cho học sinh các cách tiếp cận  khác nhau đối với các bài toán có cùng một dạng nhằm phát huy tư duy logic  cho học sinh. 4.2.1. PHẦN ĐẠI SỐ 4.2.1.1 Bài toán gốc. Bài toán 1: Cho x, y, z  là ba số thực dương.Chứng minh rằng:                                ( x + y)( y + z )( z + x) 8 xyz       (1)                                                     (Bài 8­Sách Bài tập Đại số 10, NXB Giáo   Dục)           Bài toán trên có thể được đưa ra để yêu cầu học sinh giải trong tiết bài   tập ngay sau khi được học các kiến thức cơ  bản về  bất đẳng thức trong  chương trình Đại số lớp 10. Có nhiều cách để chứng minh cho bài toán này,   có thể  giải bài toán bằng vận dụng bất đẳng thức CauChy (Bất đẳng thức   trung bình cộng, trung bình nhân). Số lượng các em làm được chiếm 70% .  Tôi gọi một học sinh lên bảng trình bày lời giải như sau:                                           Giải :   Theo bất đẳng thức CauChy ta có :  x + y 2 xy > 0 y + z 2 yz > 0 .                        z + x 2 zx > 0                Suy ra:  ( x + y)( y + z )( z + x) 8 xyz  (Điều phải chứng minh). 14
  15.       Sau khi học sinh đã giải được bài toán, để rèn luyện tư duy sáng tạo   cho học sinh, tôi đặt vấn đề với học sinh như sau :       Nếu ta đặt x = a + b ­ c; y = b + c – a; z = c + a – b với a, b, c là 3 cạnh   của một tam giác thì bài toán trên sẽ trở thành bài toán nào?         Học sinh tư  duy để  trả  lời câu hỏi của giáo viên và kết quả  mong  muốn là  tìm được bài toán mới:  Bài toán 2 :    Cho a, b, c  là độ dài ba cạnh của một tam giác. Chứng minh rằng:                       abc (b + c − a)(c + a − b)(a + b − c)                          (2) Lúc này trong 42 học sinh lớp 10A tôi dạy chỉ  có 12 em giơ  tay xung   phong lên bảng làm bài, vì vậy tôi phải gợi ý như sau : Gợi ý: Xuất phát từ cách đặt: x = a + b ­ c;  y = b + c – a; z = c + a –   b. Hãy tính  x+y ;  y+z ; x+z ;  x.y.z ? Học sinh của tôi bắt đầu hiểu ra, tôi gọi học sinh trả lời :                 x + y = 2b ; x + z = 2a ; y + z = 2c ;                 x.y.z = (a + b – c).( b + c – a).( c + a – b).  Tôi gợi ý tiếp: Khi a,b,c là 3 cạnh của tam giác thì xét dấu của x,y,z?  Học sinh trả lời x >0, y >0, z >0 Hãy thay các kết quả  vừa tính được vào bất đẳng thức (1) của   Bài   toán 1 ta suy ra được điều gì ?  Cả lớp lại vui mừng bắt tay làm bài tập vào vở.  Sau khi học sinh hoàn thiện bài toán 2 thì tôi tiếp tục đặt vấn đề: Ta  thử “đi tìm” cách chứng minh Bài toán 2 khi a, b, c là ba số dương và không  là ba cạnh của một tam giác. Tôi yêu cầu học sinh chứng minh bất đẳng thức  (2)với dữ  liệu được thay đổi như  trên. Lúc này chỉ  có 2 học sinh thực hiện  được. Do đó tôi đã đưa ra một số  gợi ý như  sau: Giả  sử  a, b, c không là ba   cạnh của một tam giác khi đó xảy ra ba khả năng:  a b + c; b c + a; c a + b .  Xét trường hợp:  a b + c  hãy đánh giá  a + b − c ?   b + c − a ?   c + a − b ? 15
  16.  Học sinh trả lời :   a + b − c b + c + b − c = 2b > 0 ;                              b + c − a b + c − b − c = 0 ; c + a − b c + b + c − b = 2c > 0           Tôi hỏi học sinh tiếp : dấu của  ( b + c − a ) ( c + a − b ) ( a + b − c )  ?             Học sinh trả lời  ( b + c − a ) ( c + a − b ) ( a + b − c ) 0            Tôi đưa ra nhận xét :  abc > 0 (b + c − a)(c + a − b)(a + b − c) .           Đến lúc này các em đã hiểu và cả lớp lại hào hứng thực hiện với các   trường hợp còn lại. Và từ đó học sinh đưa ra được bài toán : Bài toán 3:  Cho a, b, c là ba số thực dương. Chứng minh bất đẳng thức:                                  abc (b + c − a)(c + a − b)(a + b − c)                       (3) Đối với học sinh khá giỏi nếu dừng lại ở đây sẽ không phát huy hết được   sự  sáng tạo, không tạo được thử  thách đòi hỏi họ  phải thực sự  nỗ  lực tư  duy. Do vậy tôi phải giúp học sinh mở  rộng theo hướng nâng cao bài toán  bằng cách sử  dụng bất đẳng thức (1), bất đẳng thức (2), bất đẳng thức (3)   để “tạo ra” chuỗi bài toán: 4.2.1.2 Vận dụng và khai thác bất đẳng thức(1).  Tôi đặt vấn đề :  Áp dụng bất đẳng thức (1) cho 3 số  dương:  sinA, sinB, sinC với A, B, C  là ba góc của một tam giác ta sẽ thu được điều gì?    Học   sinh   trả   lời   :  (s inA + sinB)(s inB + sinC )(s inC + sinA) 8sin A sin BsinC Tôi tiếp tục dẫn dắt học sinh phát triển bài toán. a+b a−b Căn cứ vào công thức : sina + sinb = 2sin .cos   tính  SinA+ SinB ; 2 2 SinB+ SinC ; SinC+ SinA ?       Áp dụng công thức nhân đôi: sin2a=2sina.cosa hãy tính SinA, SinB,SinC ?  16
  17.       Học sinh thực hiện biến đổi theo yêu cầu của tôi một cách dễ dàng.       Tôi yêu cầu 1 học sinh lên bảng thực hiện biến đổi đồng thời 2 vế của   bất đẳng thức  (s inA + sinB)(s inB + sinC )(s inC + sinA) 8sin A sin BsinC            Giải :                                                (s inA + sinB)(s inB + sinC )(s inC + sinA) 8sin A sin BsinC    C A− B A B −C B C−A                   8cos cos cos cos cos cos 2 2 2 2 2 2                    A A B B C C 64sin cos sin cos sin cos                      2 2 2 2 2 2 A− B B −C C−A A B C             ۳ cos cos cos 8sin sin sin 2 2 2 2 2 2 Từ kết quả trên ta thu được bài toán sau: Bài toán 4:      Cho  ∆ ABC. Chứng minh rằng:      A− B B −C C−A A B C                   cos cos cos 8sin sin sin . 2 2 2 2 2 2 Rõ ràng nếu giáo viên không rèn luyện cho học sinh tư duy liên hệ giữa  bài toán này với bài toán khác thì rất khó để  học sinh dễ  dàng nhận ngay ra   được mối liên hệ rất “mật thiết” giữa các bài toán nêu trên. Việc liên tưởng   tới ba số dương sinA, sinB, sinC như là một trường hợp đặc biệt của ba số  dương bất kỳ a, b, c có thể được xem như một sự sáng tạo. Tích cực khuyến   khích để học sinh luôn mạnh dạn tìm cách sáng tạo như  vậy trong suốt quá  trình dạy học sẽ giúp học sinh hình thành thói quen tư duy sau khi giải xong   mỗi bài toán. Đến đây tôi không cần đặt vấn đề gợi mở như trên, học sinh vẫn có thể  tư duy để tiếp tục vận dụng bất đẳng thức (1) nếu cho ba số dương:   tan A , tan B ,tan C với  A, B, C  là ba góc của một tam giác ta có:  2 2 2     17
  18. A B B C C A A B C (tan + tan )(tan + tan )(tan + tan ) 8tan tan tan       2 2 2 2 2 2 2 2 2  C A B A B C cos cos cos sin sin sin A B C 1 ۳� 2 2 2 8 2 2 2 sin sin sin A B B C C A A B C 2 2 2 8 cos cos cos cos cos cos cos cos cos 2 2 2 2 2 2 2 2 2 Ta thu được bài toán quen thuộc sau: A B C 1  Bài toán 5 :    Cho ∆ ABC.  Chứng minh rằng:   sin sin sin . 2 2 2 8 Tiếp   tục   áp   dụng   bất   đẳng   thức  (1)  cho   ba   số   dương:  sin2 A, sin2B, sin2C  với  A, B, C  là ba góc của  tam giác nhọn  ABC  ta có:      (sin 2 A + sin 2 B)(sin 2 B + sin 2C )(sin C + sin 2 A) 8sin 2 Asin 2 B sin 2C cos( A − B)cos( B − C )cos(C − A) ۳ 8 cos A.cos B.cos C Ta thu được bài toán sau: Bài toán 6:    Cho ∆ ABC nhọn. Chứng minh rằng:  cos( A − B)cos( B − C )cos(C − A)                                           8 cosA.c osB.cos C 4.2.1.3 Vận dụng và khai thác bất đẳng thức (2).  (2) ۳ abc 8( p − a)( p − b)( p − c) 8S 2 ۳ abc p abc . 8 pr ۳ abc 4R p ۳ R 2r Đối với  bất đẳng thức (2), tôi đặt vấn đề để học sinh khai thác và phát  triển thành bài toán: 18
  19. Bài toán 7:  Cho ∆ ABC có bán kính đường tròn ngoại tiếp, bán kính đường   tròn nội tiếp lần lượt là  R, r . Chứng minh rằng:   R 2r .  Tiếp tục “khai thác”  ta có:                   Bất   đẳng   thức  (2) � abc(a + b + c) �(a + b + c)(b + c − a)(c + a − b)(a + b − c) � abc(a + b + c) �16 p( p − a)( p − b)( p − c)                                       � abc(a + b + c) �16S 2 � (ab)(bc) + (bc)(ca) + (ca)(ab) �16S 2 (*) Ta áp dụng bất đẳng thức quen thuộc  ( x + y + z ) 2 3( xy + yz + zx)  cho ba  số dương  ab, bc, ca  ta được bất đẳng thức :   ( ab + bc + ca ) 2 3 � �.  (ab)(bc) + (bc)(ca) + (ca)(ab) � � Kết hợp với  (*) ta có :   2                            48S 2 ( ab + bc + ca ) �� ab + bc + ca �4 3S .  Từ đó ta thu được bài toán: Bài toán 8:     Cho  ∆ ABC có diện tích S . Chứng minh rằng:                                    ab + bc + ca 4 3S . 4.2.1.4 Vận dụng và khai thác bất đẳng thức(3).  + Biến đổi (3) ta có:    a + b + c + 3abc a ( b + c ) + b ( a + c ) + c ( a + b ) . 3 3 3 2 2 2 Như vậy ta có bài toán sau :  Bài toán 9:  Cho a,b,c là các số thực không âm. Chứng minh rằng:              a + b + c + 3abc a ( b + c ) + b ( a + c ) + c ( a + b ) . 3 3 3 2 2 2 19
  20. + Biến đổi vế phải :  a 2 ( b + c ) + b 2 ( a + c ) + c 2 ( a + b ) = ab ( a + b ) + bc ( b + c ) + ca ( a + c ) ta được :   a + b + c + 3abc 3 3 3 ab ( a + b ) + bc ( b + c ) + ca ( a + c ) . Bài toán 10:  Cho a,b,c là các số thực không âm. Chứng minh rằng:              a + b + c + 3abc 3 3 3 ab ( a + b ) + bc ( b + c ) + ca ( a + c ) . + Cộng 3abc vào hai vế của bất đẳng thức ở bài toán 9, ta lại có: a 3 + b3 + c 3 + 6abc ( a + b + c ) ( ab + bc + ca ) . Bài toán 11:  Cho a,b,c là các số thực không âm. Chứng minh rằng:                      a + b + c + 6abc 3 3 3 ( a + b + c ) ( ab + bc + ca ) . 3 3 2 2 2 ( + Áp dụng:  a + b + c − 3abc = ( a + b + c ) a + b + c − ab − bc − ca .   3 ) vào vế trái của bất đẳng thức ở bài toán 11, ta thu được: ( a + b + c ) ( a 2 + b2 + c 2 − ab − bc − ca ) + 9abc ( a + b + c ) ( ab + bc + ca ) . hay   ( a + b + c ) + 9abc 4 ( a + b + c ) ( ab + bc + ca ) . 3 Bài toán 12:  Cho a,b,c là các số thực không âm. Chứng minh rằng:                         ( a + b + c ) + 9abc 4 ( a + b + c ) ( ab + bc + ca ) . 3 + Nếu thêm a+b+c > 0 thì từ bất đẳng thức ở Bài toán 12, ta có: 9abc         ( a + b + c ) + 4 ( ab + bc + ca ) . 2 a+b+c 9abc hoặc khai triển thành:  a + b + c + 2 2 2 2 ( ab + bc + ca ) . a+b+c Bài toán 13:  Cho a,b,c là các số thực dương. Chứng minh rằng:  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
31=>1