JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br />
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2, pp. 116-122<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0018<br />
<br />
SỞ HỮU RUỘNG ĐẤT Ở TỈNH NAM ĐỊNH VÀ HÀ NAM THỜI NGUYỄN<br />
Mai Thị Tuyết<br />
<br />
Khoa Lí luận chính trị và Giáo dục công dân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
Tóm tắt. Nhà Nguyễn , ngay từ thời kì đầu đã đưa ra chính sách bảo vệ ruộng đất canh<br />
tác, đặc biệt là công điền. Tuy vậy, bức tranh sở hữu ruộng đất ở Hà Nam và Nam Định<br />
hoàn toàn trái ngược nhau. Nhờ đẩy mạnh khai khẩn ruộng đất hoang ven biển mà diện<br />
tích ruộng đất công ở Nam Định nhiều hơn ruộng đất tư. Hà Nam không gần biển, ruộng<br />
đất hình thành từ lâu đời; đồng thời, quan lại ra sức cướp đoạt ruộng đất “biến công vi<br />
tư”, cùng với thiên tai, dịch bệnh, tô thuế nặng nề, người nông dân bỏ ruộng đồng đi tha<br />
phương, khiến tư điền ở đây lấn át công điền. Thậm chí, nhiều xã, tổng không có công điền.<br />
Đời sống của người nông dân ở hai tỉnh hết sức cực khổ, đặc biệt là nông dân Hà Nam. Hai<br />
tỉnh sớm trở thành ngòi nổ và trung tâm đấu tranh ở miền Bắc chống thực dân Pháp sau<br />
này.<br />
Từ khóa: Ruộng đất, Nam Định, Hà Nam, Nhà Nguyễn.<br />
<br />
1.<br />
<br />
Mở đầu<br />
<br />
Nam Định và Hà Nam thời Nguyễn thuộc trấn Sơn Nam, nghề chính của cư dân nơi đây<br />
là nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất quan trọng, tác động lớn đến các quan hệ kinh tế xã hội và đời sống của người nông dân. Vấn đề này đã được giới nghiên cứu trong và ngoài nước<br />
quan tâm từ sớm. Xét từ phạm vi Đông Dương đến Nam Định và Hà Nam có thể kể tới một số<br />
công trình tiêu biểu như: Economie agricole de l’Indochine (Nông nghiệp Đông Dương, Hà Nội,<br />
1932) của Y.Henry; La Culture du riz dans le delta du Tonkin (Nghề trồng lúa ở đồng bằng Bắc<br />
Kì, Paris, 1935) của René Dumont; cuốn Monographie de la province de Ha Nam (Địa chí tỉnh Hà<br />
Nam) của Chính quyền thực dân, xuất bản 1932; Địa chí Hà Nam của Tỉnh Ủy, HĐND, UBND,<br />
xuất bản năm 2005. . . Các công trình nêu trên đã đề cập đến vấn đề nghiên cứu ở các khía cạnh<br />
khác nhau, cơ bản dưới dạng khái quát, chung chung hoặc ở một vài nội dung nhỏ lẻ nào đó. Tất<br />
cả đều có giá trị tham khảo rất tốt. Trên cơ sở kế thừa kết quả của các nhà nghiên cứu đi trước, bài<br />
viết đi sâu tìm hiểu chính sách ruộng đất của nhà Nguyễn, tình hình sở hữu ruộng đất ở hai tỉnh<br />
Nam Định và Hà Nam, so sánh các hình thức sở hữu ruộng đất ở hai tỉnh, nguyên nhân của sự khác<br />
biệt, cùng ảnh hưởng của sự chuyển dịch trong sở hữu ruộng đất đến đời sống của người nông dân<br />
nơi đây.<br />
<br />
Ngày nhận bài: 15/12/2015. Ngày nhận đăng: 10/3/2016<br />
Liên hệ: Mai Thị Tuyết, e-mail: maisontuyetdhsp@yahoo.com<br />
<br />
116<br />
<br />
Sở hữu ruộng đất ở tỉnh Nam Định và Hà Nam thời Nguyễn<br />
<br />
2.<br />
2.1.<br />
<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Chính sách ruộng đất của Nhà Nguyễn<br />
<br />
2.1.1. Chính sách đối với ruộng đất công<br />
Tô thuế nông nghiệp là nguồn thu chủ yếu của nhà nước phong kiến, nguồn này về cơ bản<br />
lấy từ công điền; đồng thời, công điền cũng là đối tượng mà các vua lấy ra để phong cấp cho hệ<br />
thống quan lại, hình thành tầng lớp địa chủ quan liêu làm chỗ dựa cho triều đại của mình. Vì vậy,<br />
ngay từ đầu, các vua Triều Nguyễn đã có chủ trương, biện pháp để bảo vệ loại ruộng đất này. Một<br />
mặt, Nhà nước hạn chế việc phân cấp ruộng đất không vĩnh viễn, thay bằng việc trả lương, mặt<br />
khác lại ra sức củng cố, phát triển công điền. Năm 1803, Triều đình cấm các làng xã không được<br />
bán đứt hay cầm cố ruộng đất công. Chỉ dụ của vua Gia Long đã nêu: “Phàm ruộng công, đất công<br />
không được bán đứt hay cầm cố, nếu trong xã nào vì có việc công khẩn cấp, cho người thuê để<br />
cấy, lấy tiền tiêu việc công, thì cho hạn lấy 3 năm đã hết tiền gốc lãi, rồi đem đất ấy giao trả cho<br />
xã dân chi cấp”, “nếu xã thôn nào trái lệnh cấm, quen thói cũ, mua bán riêng với nhau, việc phát<br />
giác ra, thì người mua nhầm bị mất tiền gốc, người làm văn khế, người cùng đứng tên trong văn<br />
khế và những người làm chứng đều bị trị tội nặng, ruộng đất đem bán trong văn khế vẫn truy trả<br />
dân” [7;4,113-114].<br />
Lệ này được nhắc lại nhiều lần trong thời gian sau đó dưới triều Nguyễn (1844, 1855, 1864)<br />
[6;39,137]. Chỉ dụ năm 1844 (năm Thiệu Trị thứ 4) ghi rõ: “Từ nay, phàm ruộng đất công các xã<br />
thôn, theo đúng lệ định, không được bán đứt, bán cố. Nếu xã thôn nào có việc chung khẩn trọng<br />
phải đem cố hay cho thuê lấy tiền tiêu dùng thì lí dịch xã ấy báo khắp hương mục cho đến dân<br />
chúng trong xã, hội họp tính rõ, quả thuận tình đợ cố mới được cho thuê cấy, nhưng không được<br />
quá hạn 3 năm. Văn khế đem cố phải nhiều người kí tên điểm chỉ. Nếu xã lớn thì vài chục người,<br />
xã nhỏ thì năm sáu người kí tên điểm chỉ liền nhau mới là việc công của làng”.<br />
Không chỉ ban hành chính sách bảo vệ ruộng đất công, nhà Nguyễn còn khuyến khích khai<br />
hoang mở mang diện tích gieo trồng, công điền công thổ. Từ năm 1802 đến 1855, nhà Nguyễn ban<br />
hành 25 quyết định về tổ chức khai hoang [6;142].<br />
<br />
2.1.2. Chính sách đối với ruộng đất tư<br />
Loại đất này ra đời rất sớm, khoảng thế kỉ X (xem thêm Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm,<br />
NCLS số 52, năm 1963; Vũ Huy Phúc, NCLS số 3, năm 1976), nó có vai trò khá quan trọng đối<br />
với xã hội phong kiến, các triều phong kiến phải lấy tầng lớp địa chủ quan liêu làm chỗ dựa cho<br />
mình, cho nên không thể không tôn trọng đối tượng này.<br />
Ruộng đất tư hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, từ sự cấp phát của triều đình, hoặc<br />
cường hào, lí trưởng địa phương chiếm đoạt ruộng đất công làng xã, từ mua bán, khẩn hoang. . .<br />
Chính sách khẩn hoang của triều Nguyễn đã góp phần làm cho diện tích tư điền phát triển thêm.<br />
Những người khẩn hoang có thể được một phần đất đai, hoặc một nửa, thậm chí là toàn bộ. Tù<br />
phạm tham gia khẩn hoang cũng có thể được nhận ruộng đất tư, chỉ dụ của Minh Mạng (1930) ghi<br />
rõ: ở bất kì chỗ nào trong nước có tù phạm phải tội đi đày phải tới làm việc trong quân, thì các<br />
quan lại địa phương sai họ đến những nơi đất hoang có thể cày cấy được, cấp cho đồn điền làm<br />
ruộng mà khai thác. Sau 3 năm số ruộng khai thác được ghi vào sổ địa bạ xã thôn sở tại, cho làm<br />
ruộng tư của bọn ấy, tha miễn thuế lệ. Lại đủ 3 năm, quan địa phương xét ruộng tốt xấu, chước<br />
định thuế lệ để trưng thu [7;10,94].<br />
Ở Nam Định, Doanh điền sứ Nguyễn Chính và Phó sứ Đỗ Tông Phát tổ chức khai khẩn tổng<br />
Quế Hải đều được nhận ruộng tư điền (gọi là biếu điền), tất cả những người tham gia khai khẩn<br />
117<br />
<br />
Mai Thị Tuyết<br />
<br />
(117 suất) đều được nhận ruộng đất theo tỉ lệ 2:1 (2 phần tư điền, 1 phần công điền).<br />
Sự tôn trọng của nhà Nguyễn còn thể hiện trong việc đền bù (nếu các công trình công cộng<br />
ở các địa phương xây dựng trên ruộng đất của tư nhân). Thậm chí, ruộng đất tư ở một số địa phương<br />
được đền bù nhiều hơn ruộng đất công. Đơn cử khi đào sông Phủ Lợi (1935) tại Thừa Thiên, ruộng<br />
công đền bù mỗi mẫu 20 quan, nhưng ruộng tư là 100 quan. Tại Nam Định (1832), khi đắp đồn,<br />
nhà nước phải đền bù mỗi mẫu 80 quan. Mở quan lệ (1833), ruộng đất có văn khế được cấp mỗi<br />
mẫu 120 quan, không có văn khế được 50 hoặc 60 quan [6;254].<br />
Nhà Nguyễn một mặt ra sức bảo vệ ruộng đất công làng xã, mặt khác lại bảo vệ cả tư điền.<br />
Luật Gia Long điều 87 và 91 quy định: Nhà nước xử phạt những kẻ chiếm đoạt ruộng đất tư của<br />
người khác hoặc làm thiệt hại tới hoa lợi của người khác. Tuy nhiên, nếu ruộng đất tư mà để hoang<br />
hóa thì triều đình xử rất nghiêm. Luật Gia Long quy định: “Nếu ai chiếm nhiều ruộng đất nhưng<br />
lại bỏ hoang, từ 3 mẫu đến 10 mẫu thì bị đánh 30 roi, cứ 10 mẫu lại tăng thêm một bậc, chịu tội<br />
80 trượng. Số ruộng đất này bị Nhà nước tịch thu” (điều 84).<br />
Như vậy, một mặt Nhà Nguyễn chủ trương bảo vệ và mở ruộng công điền, mặt khác lại bảo<br />
vệ tư điền. Mặc dù không khuyến khích mở rộng diện tích như công điền, nhưng Nhà Nguyễn rất<br />
tôn trọng hình thức sở hữu ruộng đất này. Tô thuế ruộng đất là nguồn thu chính của Nhà nước,<br />
nguồn này chủ yếu lấy từ công điền, cho nên Nhà nước ra sức bảo vệ và mở rộng diện tích công<br />
điền (chỗ dựa về kinh tế). Tuy nhiên, địa chủ quan lại là chỗ dựa của chế độ phong kiến (chỗ dựa<br />
về chính trị), cho nên Nhà nước cần phải duy trì và tôn trọng tư điền (loại ruộng đất thuộc sở hữu<br />
chủ yếu của địa chủ quan lại). Sự thay đổi giữa hai hình thức sở hữu này cũng phản ánh phần nào<br />
sự thịnh suy của chế độ phong kiến quan liêu ở Việt Nam qua các thời kì.<br />
<br />
2.2.<br />
<br />
Tình hình sở hữu ruộng đất ở Nam Định và Hà Nam thời Nguyễn<br />
<br />
Chính sách khuyến khích khẩn hoang của Nhà Nguyễn đã phát huy tác dụng tại địa bàn<br />
tỉnh Nam Định. Năm 1828, sau khi đàn áp xong cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành, Nguyễn Công<br />
Trứ (Tổng Đốc Hải An) đã đề nghị với nhà Nguyễn cho tổ chức khai hoang lập làng ấp ở Nam<br />
Định và Ninh Bình. Một số vùng đất mới ra đời từ công cuộc này như: huyện Tiền Hải (Thái Bình<br />
ngày nay) với 18.970 mẫu ruộng; 2 xã thuộc huyện Nam Trực và 1 tổng thuộc huyện Giao Thủy;<br />
Kim Sơn (Ninh Bình) với 1.260 mẫu ruộng [6;134]. Ở Nam Định, nhà Nguyễn tiếp tục tổ chức<br />
khai hoang và lập ra các đơn vị: tổng Ninh Nhất (này thuộc huyện Hải Hậu) và Hoành Thu (Giao<br />
Thủy), do Nguyễn Công Trứ tổ chức; tổng Quế Hải (Hải Hậu) do Doanh điền sứ Nguyễn Chính và<br />
Phó sứ Đỗ Tông Phát tổ chức; tổng Sĩ Lâm (Nghĩa Hưng) do Phạm Văn Nghị tổ chức [1;21].<br />
Theo Nam Định khai khẩn chí, đến thời Đồng Khánh, Thành Thái, nhân dân ở ven biển<br />
Nam Định tiến hành khai hoang lập thêm được nhiều làng, trại khác.<br />
Số liệu Bảng 1 cho thấy, ở đời vua Đồng Khánh và Thành Thái, tính sơ bộ cũng có hàng<br />
vạn mẫu đất được khai khẩn trở thành đất canh tác và đất ở, nhiều thôn, xã, ấp ra đời. Kết quả này<br />
vừa giải quyết vấn đề kinh tế cho người dân, lại vừa kéo giãn bớt những khu dân cư đông đúc ra<br />
những vùng đất mới khẩn hoang.<br />
Gần đây, các nhà nghiên cứu tiến hành khảo sát địa bạ 100 xã, thôn thuộc 5 huyện Thượng<br />
Nguyên, Mỹ Lộc, Thiên Bản, Nam Chân, Vọng Doanh thời Nguyễn cho thấy, công điền chiếm tới<br />
40,50%, còn tư điền chỉ chiếm 35,83%, số còn lại thuộc về các loại đất đai khác như: thần từ Phật<br />
tự điền, đất bãi ven sông, thổ trạch viên trì . . . [8;274].<br />
Nguyên nhân công điền ở Nam Định thời gian này nhiều hơn tư điền là do sự tác động quan<br />
trọng của công cuộc khẩn hoang “đất đai khai khẩn được nếu không phải là toàn bộ thì cũng một<br />
nửa bị biến thành sở hữu công cộng” [8;274].<br />
118<br />
<br />
Sở hữu ruộng đất ở tỉnh Nam Định và Hà Nam thời Nguyễn<br />
<br />
TT<br />
1<br />
2<br />
3<br />
<br />
Bảng 1. Khai khẩn ruộng đất dưới thời vua Đồng Khánh, Thành Thái [2]<br />
<br />
Người tham gia khai khẩn<br />
Nhân dân xã Nghĩa Xá<br />
Nhân dân huyện Trực Ninh<br />
Đoàn Trái Thái và Lâm Văn Khoát đem<br />
dân đi theo Nguyễn Công Trứ<br />
<br />
4<br />
<br />
Bùi Văn Châu<br />
<br />
5<br />
<br />
Nhân dân tổng Sĩ Lâm (Nghĩa Hưng)<br />
<br />
6<br />
<br />
Nhân dân 14 ấp thuộc tổng Lạc Thiện<br />
<br />
7<br />
<br />
Ấp Xuân Thủy (Hải Hậu)<br />
Phú Lễ, Phú Văn, thôn Nam Khai, ấp Phúc<br />
Hải, ấp Xuân Hà<br />
Nhân dân xã Đại An<br />
Trần Ngọc Quế cùng nhân dân<br />
Nguyễn Vĩnh Giáo, Trần Hữu Công, Lại<br />
Trình, Lại Thế Vĩnh, Trần Văn Thiện, Vũ<br />
Đình Sỹ, Đỗ Như Sơn, Đào Văn Long. . .<br />
cùng nhân dân<br />
<br />
8<br />
9<br />
10<br />
11<br />
<br />
12<br />
<br />
Người thôn Đô Tráng và thôn Phú Thọ<br />
(Trực Ninh)<br />
<br />
13<br />
<br />
Các cụ Nguyễn Nhất, Nguyễn Nhì, Nguyễn<br />
Tam cùng nhân dân<br />
<br />
14<br />
<br />
4 cụ họ Mai, họ Phạm, họ Nguyễn, họ Đỗ<br />
<br />
Tên vùng đất sau khai khẩn<br />
Trại Xuân Hòa<br />
Trại Lác Môn<br />
<br />
Diện tích<br />
<br />
Lý Tân Lịch<br />
Xã Cốc Thành<br />
Hưng)<br />
Vùng đất trồng cói<br />
<br />
(Nghĩa<br />
Hàng trăm mẫu<br />
Thành<br />
điền:<br />
4.006<br />
mẫu;<br />
chưa<br />
thành<br />
điền: 1.747 mẫu<br />
Hơn 4000 mẫu<br />
Hơn 1000 mẫu<br />
<br />
Xã Văn An (Nam Trực)<br />
Trại Liêu Ngạn<br />
13 xã thôn thuộc tổng Sỹ<br />
Lâm<br />
Thành lập 4 xóm: An Ninh,<br />
An Phú, An Mỹ, An Thịnh<br />
(Xuân Trường)<br />
Xã Bắc Câu<br />
Xã Quần Mông (nay là<br />
xã Lạc Quần, huyện Giao<br />
Thủy).<br />
<br />
Mặc dù Nhà Nguyễn tích cực bảo vệ và phát triển ruộng đất công, nhưng hiện tượng “biến<br />
công vi tư” vẫn diễn ra và ngày một gia tăng, khiến diện tích công điền trong cả nước giảm sút<br />
mạnh (Nam Định và Thái Bình xảy ra ít hơn cả). Phan Huy Chú nhận xét: “Nước ta duy có trấn<br />
Sơn - Nam - Hạ là rất nhiều ruộng và đất bãi công. . . Còn các xứ khác thì các hạng ruộng công<br />
không có mấy, dù xứ nào có nữa thì cũng chỉ đủ để cung cấp binh lương và ngụ lộc, không thể san<br />
chia cho các hạng” [8;273].<br />
Chủ trương cho phép các làng xã cầm cố ruộng đất có thời hạn của triều Nguyễn đã tạo cơ<br />
sở, kẽ hở cho bọn cường hào, lí dịch thao túng, chiếm đoạt ruộng đất công. Tại Nam Định, năm<br />
1844, bố chính Lê Khiêm Quang nói: “Công điền công thổ là lợi ích chung của một làng, gần đây<br />
bọn cường hào lí dịch, phần nhiều thác cớ nói là việc công tiêu, thông đồng đem điển cố đi, thuế<br />
lệ lại chia bổ cho dân xã phải nộp. . . ” [6;150].<br />
Thực tế, nạn này đã có từ trước, các vua Nguyễn đã liên tục ban hành chính sách để hạn chế<br />
và đẩy lùi nó. Năm 1828, Nguyễn Công Trứ đã từng nói: “Chúng công nhiên không sợ hãi gì, tự<br />
hùng trưởng với nhau. . . Những nơi có ruộng đất công, thường thường mượn việc cầm mướn để<br />
làm bở béo cho mình. . . thậm chí ẩn lậu dinh điền hàng nghìn mẫu mà không nôp thuế” [10;28].<br />
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, các chính sách bảo vệ ruộng đất công của nhà Nguyễn “đã hoàn<br />
toàn thất bại trước sự phát triển mãnh liệt của ruộng đất tư hữu”. Đến năm 1871, Tự Đức phải<br />
119<br />
<br />
Mai Thị Tuyết<br />
<br />
“chuẩn cho bán ruộng đất công bỏ hoang làm ruộng đất tư” [7;32,271].<br />
Tại Hà Nam, xem trong 25 quyết định của Nhà Nguyễn về tổ chức khai hoang trong toàn<br />
quốc (như đã nêu), không có quyết định khai hoang ở Hà Nam. Ruộng đất tại đây có lịch sử lâu<br />
đời, vua, chúa các triều đại thường về Hà Nam (Đọi Sơn, huyện Duy Tiên) vào dịp đầu xuân để<br />
cày mẫu “động thổ, khai mùa” (cày tịch điền). Lệ ấy đã trở thành truyền thống (bắt đầu từ năm<br />
987, đời vua Lê Đại Hành) và là ngày hội của người dân địa phương (Lễ hội Đọi Sơn). Tình trạng<br />
chiếm đoạt ruộng đất công ở Hà Nam “biến công vi tư” đã diễn ra trong một thời gian dài qua các<br />
triều đại phong kiến. Đến thời Nguyễn, ruộng đất công bị thu hẹp một cách nghiêm trọng. Số liệu<br />
trong tài liệu địa bạ tỉnh Hà Nam thời Nguyễn minh chứng rõ cho vấn đề này. Đơn cử về diện tích<br />
ruộng đất của huyện Duy Tiên như sau:<br />
Bảng 2. Diện tích các loại ruộng đất huyện Duy Tiên thời Nguyễn [3]<br />
<br />
Tên Tổng<br />
Bạch Sam<br />
Chuyên Nghiệp<br />
Hoàng Đạo<br />
Lam Cầu<br />
Mộc Hoàn<br />
Tiên Xá<br />
Trác Bách<br />
Yên Khê<br />
Tổng<br />
<br />
Công điền (mẫu)<br />
85<br />
144<br />
123<br />
36<br />
131<br />
156<br />
8<br />
579<br />
1262 (9%)<br />
<br />
Tư điền (mẫu)<br />
1936<br />
1361<br />
1161<br />
1580<br />
925<br />
2241<br />
217<br />
1072<br />
10493 (80%)<br />
<br />
Loại khác<br />
239<br />
244<br />
186<br />
199<br />
176<br />
280<br />
21<br />
118<br />
1463 (11%)<br />
<br />
Ghi chú<br />
<br />
Bảng trên cho chúng ta thấy, diện tích tư điền nhiều hơn gấp nhiều lần so với công điền. Chỉ<br />
tính diện tích ruộng đất loại khác (Phật tự điền và Thần từ điền. . . Đây là ruộng đất thuộc quyền sử<br />
dụng của cộng đồng, được giao cho người trong xã cùng chia đều canh tác, một phần hoa lợi phục<br />
vụ tu sửa đền chùa hoặc đèn hương cúng lễ. Chỉ có điều Nhà nước đánh thuế ruộng tư, là mức thuế<br />
thấp hơn thuế ruộng công đối với loại sở hữu này) [5;130]. . . đã nhiều hơn công điền 2%.<br />
Bảng 3. Một số xã thuộc Hà Nam có diện tích tư điền nhiều vượt trội [4]<br />
<br />
Tên xã<br />
Nhật Tựu (Kim Bảng)<br />
Siêu Nghệ (Kim Bảng)<br />
Lạc Nhuế (Kim Bảng)<br />
Yên Lạc (Kim Bảng)<br />
Nông Vụ (Kim Bảng)<br />
Bút Sơn (Kim Bảng)<br />
Lạt Sơn (Kim Bảng)<br />
Thụy Lôi (Kim Bảng)<br />
Định Xá (Kim Bảng)<br />
Mai Xá (Nam Xang)<br />
Công Xá (Nam Xang)<br />
Tế Cát (Nam Xang)<br />
Nga Thượng (Nam Xang)<br />
Phương Lâm (Kim Bảng)<br />
Thuận Đức (Kim Bảng)<br />
Đức Mộ (Kim Bảng)<br />
Quang Thừa (Kim Bảng)<br />
<br />
120<br />
<br />
Tư điền (mẫu)<br />
260<br />
323<br />
713<br />
362<br />
358<br />
102<br />
902<br />
205<br />
293<br />
402<br />
146<br />
298<br />
145<br />
218<br />
644<br />
411<br />
365<br />
<br />
Công điền (mẫu)<br />
1<br />
0<br />
0,2<br />
1<br />
1<br />
1<br />
0<br />
2<br />
0<br />
3<br />
4<br />
2<br />
4<br />
0,2<br />
2<br />
0<br />
4<br />
<br />