Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi"<br />
<br />
SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH,<br />
PHÁT TRIỂN CỦA CTXH TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM<br />
CN. Kiều Văn Tu<br />
Giảng viên tổ CTXH, Khoa Giáo dục chính trị<br />
Trường Đại học Đồng Tháp<br />
CTXH giai đoạn tiền khoa học (trước thế kỷ 20)<br />
CTXH chuyên nghiệp (mang tính quốc tế) từ khi ra đời đến nay chưa đầy 100<br />
năm, song tiền đề lịch sử của sự hình thành và phát triển của CTXH – như là một khoa<br />
học, như một nghề nghiệp, đã bắt nguồn từ trong lòng xã hội cổ xưa. Các bằng chứng<br />
khoa học nghiên cứu về con người, trong đó phải kể đến nhân chủng học, sử học, tâm lý<br />
học, xã hội học… đã chứng minh được rằng kể từ khi con người được sinh ra cho đến<br />
nay, họ luôn luôn phải sống cùng sự đe dọa của thiên nhiên, của chiến tranh, của đói<br />
nghèo và bệnh tật, song dưới tác động của niềm tin tôn giáo, sự nghiệp từ thiện cứu tế<br />
dân nghèo luôn được tiến hành không gián đoạn. Con người luôn sẵn lòng giúp đỡ đồng<br />
loại, đó không chỉ là phẩm chất, là nhu cầu tình cảm, mà còn được coi là những nghĩa<br />
cử cao đẹp của con người. Có thể nói, về phương diện lịch sử thì những hành động<br />
nhân đạo, thánh thiện ấy đã có nguồn gốc từ lâu đời và hiện nay ở khắp các châu lục,<br />
với những ảnh hưởng bởi những ngoại lực khác nhau như các nhân tố kinh tế, chính trị,<br />
văn hóa, dân tộc.<br />
Tiếp cận nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển CTXH theo chiều dài<br />
lịch sử, các học giả người Nga cho rằng: “Hiệp ước năm 911” do Công tước Ôlêc (đại<br />
diện cho nhà nước Nga thời bấy giờ) kí kết với người Hy Lạp trong đó có chứa đựng<br />
những tình tiết liên quan đến việc nuôi dưỡng người già, cứu giúp người nghèo, chăm<br />
sóc người thương tật… mà ngày nay gọi là CTXH. “Chính hiệp ước này văn kiện sớm<br />
nhất trên thế giới nói chung và của nước Nga cổ nói riêng; là bằng chứng chính thức<br />
đầu tiên về sự quan tâm của nhà nước đối với những công dân cần được trợ giúp của<br />
mình”. Theo đó, sự phát triển của CTXH không được định hướng bởi một kế hoạch chủ<br />
đạo nào mà nó cứ diễn ra như là một công việc tất yếu của con người để làm vơi đi<br />
những nỗi đau của đồng loại.<br />
Đại học Đồng Tháp 61<br />
<br />
Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi"<br />
<br />
Cùng với sự tan rã của chế độ phong kiến là sự phát triển mạnh mẽ của chế độ tư<br />
bản. Vào thế kỷ 17, 18, chủ nghĩa Tư bản đã nhanh chóng trở thành một hệ thống thống<br />
trị toàn thế giới. Nhưng sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự tăng<br />
trưởng kinh tế tư bản chủ nghĩa, chỉ làm giàu cho một thiểu số của nhân loại, đó là giai<br />
cấp tư sản. Sự phân hóa giai cấp, hiện tượng bất bình đẳng, sự cách biệt giàu nghèo, tội<br />
phạm, tệ nạn xã hội… là sản phẩm tất yếu của xã hội tư bản đã làm nảy sinh những vấn<br />
đề xã hội, những mâu thuẫn xã hội. Trong sự nghiệp can thiệp kịp thời làm giảm bớt<br />
các nguy cơ dẫn đến phá hoại sự thăng bằng xã hội phải kể đến những chính sách, luật<br />
lệ của các tổ chức nhà nước. Theo các học giả phương Tây “đạo luật Elidabet của Anh<br />
quốc được ban hành vào năm 1601 là dấu hiệu quan trọng trong lịch sử hình thành một<br />
nghề CTXH”. Đạo luật này đã hướng tới sự giúp đỡ việc làm cho người nghèo, chăm<br />
sóc người già, người tàn tật và trẻ em mồ côi…<br />
Đầu thế kỷ 19, dạng CTXH sơ khai được thực hiện bởi các nhà truyền giáo và các<br />
tình nguyện viên (ở Mỹ). Những tình nguyện viên thường xuyên được tuyển chọn và được<br />
phân công giúp đỡ những người nghèo đói, ốm yếu, bệnh tật, trẻ em mồ côi, người già<br />
không nơi nương tựa… Họ được gọi là “những vị khách thân thiện”. Các nhà tình nguyện<br />
còn thông qua các “Ủy ban cải thiện hình thức vệ sinh” và “Vụ giải phóng nô lệ” giúp đỡ<br />
chăm sóc những nô lệ vừa được giải phóng nhanh chóng hòa nhập vào cộng đồng xã hội.<br />
Những năm 1870, khủng hoảng kinh tế tư bản chủ nghĩa kéo dài nhiều thập kỷ<br />
đẩy con người vào sống nghèo khổ, bần cùng, xã hội rối ren. Các công sở, thành phố<br />
bao trùm không khí lo âu, buồn tẻ. Các nhà băng kiệt quệ, hàng triệu người lâm vào<br />
cảnh thất nghiệp. Phong trào bãi công, biểu tình diễn ra tại nhiều đô thị lớn ở châu Âu<br />
và ở Mỹ, thậm chí nhiều cuộc bãi công còn mang tính bạo lực. Các hoạt động từ thiện<br />
hình như đã không hoàn thành được cái mục đích mang tính “cách mạng” của nó. Hơn<br />
thế nữa, nhiều nhà hoạt động từ thiện thất vọng nhận ra rằng các chương trình hoạt<br />
động cứu trợ thực chất là hoang phí thậm chí nó dẫn đến sự sa sút về mặt tinh thần cho<br />
người nghèo, bởi nó chỉ làm tăng thêm tình trạng phụ thuộc, sự ỷ lại của họ, không<br />
những không giải phóng họ khỏi cảnh cực khổ mà còn kéo dài tình trạng bần cùng.<br />
Những nhà hoạt động từ thiện cũng nhận ra rằng: năng lực thấp, lười nhác, rượu chè<br />
Đại học Đồng Tháp 62<br />
<br />
Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi"<br />
<br />
không phải là nguyên nhân chính của nghèo khổ. Nhà triết học, xã hội học người Anh<br />
Herbert Spencer thậm chí còn lên án: “… cứu trợ là phá hoại xã hội, làm hỏng người<br />
nghèo vì nó gây ra những phụ thuộc làm mất động cơ hành động”. Luận điểm của<br />
Spencer tuy mang nặng tính chủ quan nhưng cũng đã chứng tỏ sự cần thiết phải tiến<br />
hành những hoạt động cứu giúp theo một cách thức mới nhằm tăng cường hiệu quả<br />
trong công tác chăm sóc, giúp đỡ mọi đối tượng của họ.<br />
Các hoạt động cứu giúp muốn có hiệu quả đòi hỏi rất nhiều yếu tố, không chỉ cần có<br />
một địa vị xã hội cao, một trái tim nhân từ của Chúa, hay là sự hảo tâm của một người<br />
thành đạt. Ngay cả các hoạt động mang tính xã hội này cũng đòi hỏi phải có một đội ngũ<br />
được đào tạo và được trả lương một cách chuyên nghiệp. Năm 1877, “Tổ chức từ thiện xã<br />
hội” được thành lập ở Mỹ đã chú ý tới việc tổ chức các tình nguyện viên. Cũng từ đó “các<br />
tình nguyện viên” của những năm 1880-1890 đã trở thành những nhân viên CTXH.<br />
Cần nói thêm rằng, sự ra đời và phát triển nhanh chóng của CTXH ở châu Âu đã<br />
có ảnh hưởng rất lớn đến CTXH ở Mỹ. Các tổ chức cứu tế tư nhân, các tổ chức phúc lợi<br />
xã hội lần lượt xuất hiện. Ngoài ra, nhà nước còn đưa ra những đạo luật nhằm giúp đỡ<br />
trực tiếp những người nghèo, người khuyết tật. Năm 1898, Hiệp hội các tổ chức từ thiện<br />
ở Mỹ đầu tiên được thành lập. Đó là sự tiếp nối hoạt động của ủy ban quốc gia nhằm<br />
phát triển khoa học từ thiện (vay mượn mô hình từ thiện của Anh). Mục đích của hiệp<br />
hội là tái tổ chức các Hiệp hội từ thiện cộng đồng cũng như cá nhân (vốn phát triển<br />
nhanh chóng trong giai đoạn khủng hoảng năm 1870) tiếp tục ứng dụng các nguyên tắc<br />
khoa học từ thiện nhưng khắc phục một hệ quản phổ biến trước đó đã mắc phải là tạo<br />
nên sự phụ thuộc và duy trì bần cùng.<br />
Có thể nói rằng, đây cũng chính là thời điểm đánh dấu bước chuyển từ những việc<br />
làm từ thiện bắt nguồn từ những niềm tin và đạo đức hay tôn giáo sang một lĩnh vực mới<br />
đó là CTXH, một hoạt động mang tính chất khoa học, một nghề nghiệp.<br />
Sự hình thành và phát triển của CTXH ở Việt Nam<br />
Sự hình thành và phát triển của CTXH ở Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật hình<br />
thành và phát triển CTXH trên thế giới. Các cơ sở hình thành CTXH ở Việt Nam cũng bắt<br />
nguồn từ tình cảm tốt đẹp giữa con người và con người. Trải qua các giai đoạn lịch sử, tinh<br />
Đại học Đồng Tháp 63<br />
<br />
Kỷ yếu Hội thảo ngày CTXH thế giới 2009 - "Nhân viên xã hội - Tác nhân của sự thay đổi"<br />
<br />
thần nhân đạo và lòng yêu thương đồng loại luôn luôn gắn liền với quá trình hình thành và<br />
phát triển của các chính sách xã hội, các luật lệ xã hội. Trên cơ sở đó, sự ra đời và phát<br />
triển của CTXH ở Việt Nam thời kỳ trước và sau đổi mới phát triển như sau:<br />
Thời kỳ trước đổi mới:<br />
Các hoạt động an sinh xã hội, các dịch vụ xã hội hầu như tạm ngưng. Chỉ có các<br />
thiết chế lớn như bệnh viện, các trung tâm nuôi dưỡng người già và trẻ mồ côi đã tiếp<br />
tục họat động dưới một chính quyền mới. CTXH trong thời kỳ này không phát triển.<br />
Tuy vậy, số lượng nhân viên CTXH đến thời điểm này đã có: 500 người huấn luyện<br />
ngắn hạn, 300 người có bằng đào tạo 2 năm, 20-25 cán sự xã hội và nhân viên, 7 thạc sĩ<br />
CTXH, 2 thạc sĩ Phát triển cộng đồng đều được đào tạo từ nước ngoài.<br />
Thời kỳ sau đổi mới:<br />
Bên cạnh những thành tựu về mọi mặt như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,<br />
những biểu hiện tiêu cực dưới tác động của nền kinh tế thị trường đã trở thành những<br />
vấn đề xã hội bức xúc, trong đó phải kể đến các hiện tượng đói nghèo, bệnh tật, nghiện<br />
hút, mại dâm, trẻ em bị ngược đãi, trẻ em lang thang, buôn bán phụ nữ, thất nghiệp, di<br />
dân tự do… các chính sách xã hội các nội dung tuyên truyền, giáo dục CTXH đã kịp<br />
thời triển khai theo hướng các giải pháp hỗ trợ như: chương trình xóa đói giảm nghèo,<br />
công ước về quyền trẻ em, cứu trợ xã hội… trong mạng lưới CTXH không thể không<br />
kể đến các hoạt động của các tổ chức quốc tế phi chính phủ như quỹ cứu trợ nhi đồng ở<br />
Anh, quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc… các hỗ trợ mang tính nhân đạo của họ đã góp phần<br />
vào việc xây dựng các cơ sở lý luận và các phương pháp thực hành CTXH, đặc biệt là<br />
với đối tượng trẻ em Viêt Nam. Hoạt động CTXH gần đây vẫn tiếp tục được quan tâm<br />
đã và đang đi vào chuyên nghiệp hóa theo hướng vừa đào tạo vừa thực hành.<br />
Đến năm 2000, ngoài những cán bộ có bằng cử nhân, thạc sĩ được đào tạo trong<br />
và ngoài nước còn có hàng trăm cán bộ được bồi dưỡng những kiến thức cơ bản về<br />
CTXH thông qua những lớp tập huấn do các giảng viên, các chuyên gia trong và ngoài<br />
nước tham gia giảng dạy. Đến nay đã có hơn 30 trường đại học, cao đẳng đang đào tạo<br />
và tuyển sinh chuyên ngành CTXH.<br />
<br />
Đại học Đồng Tháp 64<br />
<br />