intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

So sánh quá trình tiếp nhận thuyết tính linh của viên mai ở Nhật Bản và Việt Nam - Nguyễn Đình Phức

Chia sẻ: Huynh Thi Thuy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

45
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vài nét về viên mai và thuyết tính linh, tiếp nhận thuyết tính linh ở Nhật Bản, tiếp nhận thuyết tính linh ở Việt Nam,... là những nội dung chính trong bài viết "So sánh quá trình tiếp nhận thuyết tính linh của viên mai ở Nhật Bản và Việt Nam". Mời các bạn cùng tham khảo để nắm bắt thông tin chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: So sánh quá trình tiếp nhận thuyết tính linh của viên mai ở Nhật Bản và Việt Nam - Nguyễn Đình Phức

SO SÁNH QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN THUYẾT <br /> TÍNH LINH CỦA VIÊN MAI Ở NHẬT BẢN VÀ VIỆT NAM<br /> Nguyễn Đình Phức<br /> (Khoa Ngữ văn Trung Quốc, USSH) <br /> <br /> <br /> Tóm tắt:  Thuyết Tính linh của Viên Mai thịnh hành  ở  Trung Quốc  <br /> khoảng giai đoạn nửa cuối thế kỷ 18. Thuyết này sau khi ra đời không chỉ có  <br /> ảnh hưởng lớn đến thi đàn Trung Quốc, lý luận thơ  ca Trung Quốc, ví như <br /> việc công kích chủ  trương phục cổ  và chủ  trương thi giáo của Thẩm Đức <br /> Tiềm, phản đối chủ  trương đem học thuật, khảo cứu vào thơ  của Uông  <br /> Phương Cương, đem lại cho thơ  ca và lý luận thơ  ca Trung Quốc sự  phát <br /> triển lành mạnh, mà còn  ảnh hưởng lan rộng sang các nước lân bang, đặc <br /> biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam. Trong bối cảnh toàn cầu hóa  <br /> đang không ngừng diễn ra và có những  ảnh hưởng sâu rộng vào mọi lĩnh  <br /> vực thuộc đời sống xã hội, chúng tôi cho rằng, việc chỉ ra những nét tương <br /> đồng và khác biệt trong quá trình tiếp nhận thuyết Tính linh  ở  các nước  <br /> ngoài Trung Quốc là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa. Bài viết này chủ <br /> yếu tập trung giải quyết những vấn đề  liên quan đến quá trình tiếp nhận  <br /> thuyết Tính linh trong văn học Việt Nam và Nhật Bản.<br /> Từ  khóa: Thuyết Tính linh    Viên Mai    thơ  ca Nhật Bản    thơ ca  <br /> Việt Nam<br /> <br /> 1. VÀI NÉT VỀ VIÊN MAI VÀ THUYẾT TÍNH LINH<br /> <br /> Viên Mai (1716 ­ 1797), tên tự là Tử Tài, hiệu là Giản Trai, vì từng trú <br /> tại Tiểu Thương Sơn Tùy Viên, cho nên người đời quen gọi là Tùy Viên tiên  <br /> sinh. Cuối đời ông còn dùng ba tên hiệu khác là Thương Sơn cư sĩ, Tùy Viên <br /> lão nhân và Thương Sơn tẩu. Viên Mai người đất Tiền Đường (nay thuộc <br /> thành phố  Hàng Châu, tỉnh Triết Giang), thuở  nhỏ  dĩnh ngộ, học giỏi. Vào <br /> năm Ung Chính thứ 5 (1727), ông đậu Tú tài khi mới vừa 12 tuổi. Năm Càn <br /> Long thứ 3 (1738), đậu Cử nhân; liền năm sau đó lại trúng Tiến sĩ. <br /> Viên Mai đậu Tiến sĩ ở tuổi 23, đây thực sự được xem là “thiếu niên <br /> đắc chí”; liền đó triều đình tổ  chức khảo thí, tên ông lại lọt vào danh sách  <br /> Thứ  cát sĩ, được phân chuyên học Mãn văn, được vào làm việc  ở  Hàn Lâm <br /> viện, nơi mà hết thảy mọi sĩ tử  đời Thanh đều đêm ngày mong ước. Trong  <br /> bài thơ Nhập Hàn Lâm, ông viết: <br /> Nhược Thủy Bồng Lai lộ kỷ trùng?<br /> Kim triêu thân đáo Nhị Châu cung.<br /> …Quốc ân khởi thị văn chương báo?<br /> Khoáng phục văn chương thượng vị công.1<br /> (Cõi tục Bồng Lai cách mấy trùng?<br /> Sáng nay thân đến Nhị Châu cung.<br /> … Ơn nước sao có thể báo đáp bằng văn chương?<br /> Huống hồ là ngay cả văn chương cũng chưa thật hay.)<br /> Thứ  cát sĩ tuy chỉ  là một chức quan không có phẩm hàm trong Hàn <br /> Lâm viện, thế  nhưng địa vị  thực đã khác xa những Tiến sĩ thông thường.  <br /> Trong bài thơ đáp lại bằng hữu tặng thơ khi ông về quê cưới vợ, ông viết:<br /> Hoàn hương phi diệu cẩm y tiên,<br /> Vị phú Phòng trung lạc nhất thiên.<br /> Tàm quý thiếu niên bần trung quá,<br /> Ngọc Đường xuân tại động phòng tiên. <br /> (Khất giá quy thú lưu biệt chư đồng niên)<br /> [Về quê nào phải để khoe áo cẩm mới,<br /> Chỉ để hát bài ca Phòng trung lạc mà thôi (chỉ việc cưới vợ).<br /> Thẹn thuở niên thiếu sống trong bần cùng,<br /> Nay ở chốn Ngọc Đường lại đi lo việc động phòng trước.]<br />  “Ngọc Đường” chỉ Hàn Lâm viện. Ở đây tuy tác giả sử dụng hai chữ <br /> “tàm quý” (thẹn), nhưng thực ra là sự tự hào tột độ khó có thể giữ mãi trong  <br /> lòng; việc vui trong đời không ngừng tiếp diễn, khiến tác giả tràn đầy niềm <br /> tin vào tiền đồ của bản thân trong tương lai. <br /> Ba năm sau, vào năm Càn Long thứ  7 (1742), do thành tích Mãn văn <br /> không đạt yêu cầu, ông bị loại tên khỏi Hàn Lâm viện, bổ ra làm Tri huyện <br /> đất Giang Nam. Mặc dù trước đó bạn đồng niên là Lưu Tư cũng đồng cảnh  <br /> ông khi ấy, ông từng an ủi:<br /> Hàn Lâm bách thiên sử bất tái,<br /> Tuần lại nhất sự dân năng truyền.<br /> (Chốn Hàn Lâm dù có viết trăm thiên, sử sách cũng không chép;<br /> Nhưng tất thảy mọi việc của quan Tuần dân chúng đều truyền.)<br /> Thế nhưng khi sự việc trên xảy ra với chính mình, Viên Mai hoàn toàn <br /> không giữ  được bình tĩnh. Với ông, trước tiên đó là sự  thất vọng đến cùng <br /> cực:<br /> Tam niên xuân mộng Ngọc Đường không,<br /> Kha mã tiêu tiêu lạc diệp trung.<br /> Sinh bản thô tài cam ngoại lại,<br /> <br />  Viên Mai (1997), Viên Mai toàn tập, Giang Tô cổ tịch xuất bản, tr.118. Những bài thơ dẫn của Viên <br /> 1<br /> <br /> <br /> Mai dưới đây đều trích từ sách này.<br /> Khứ do nhẫn lệ vị chư công.<br /> (Ba năm giấc mộng Hàn Lâm viện đã thành không;<br /> Lá rơi xào xạc trên chuỗi ngọc treo nơi đầu ngựa.<br /> Sinh ra đã kém tài, nên đành cam phận làm quan cõi ngoài;<br /> Đến khi ra đi còn nén lệ vì các bạn đồng niên.)<br /> Kế  đó là nỗi xót xa không ngừng trào dâng, đến nỗi tác giả  như hoàn  <br /> toàn mất phương hướng trước hiện thực:<br /> Thủ chiết phù dung hạ nhân thế,<br /> Bất tri nhân thế cánh hà như.<br /> (Tay bẻ phù dung xuống cõi phàm,<br /> Hoàn toàn không rõ chốn hạ giới sẽ ra sao.)<br /> Kế  đó là những năm tác giả  sống trong trạng thái day dứt, lưu luyến <br /> với quá khứ huy hoàng, dẫu bản thân tác giả  từng viết rằng “nhìn về  Ngọc <br /> Đường, khác nào chốn thượng giới”. Nhưng cũng chính từ đây, có thể thấy <br /> rõ, trong trường hợp vạn bất đắc dĩ, việc thừa nhận thân phận “nhân gian” <br /> của mình trong thế đối nghịch với Ngọc Đường “thiên thượng”, cũng là cách <br /> tốt nhất để tác giả thoát ra bên ngoài trạng thái lưu luyến. Để đến năm Càn <br /> Long thứ 9 (1744), khi có dịp gặp lại các bạn đồng niên trước đó từng cùng <br /> làm việc ở Hàn Lâm viện, ông thể hiện ra một diện mạo tinh thần hoàn toàn <br /> khác, không phải bi thương, cảm khái, mà là thái độ đầy vẻ lạc quan, tự đắc <br /> và siêu thoát:<br /> Loan phiêu phụng bạc nhất thiên niên,<br /> Lưu thủy hành vân ý sái nhiên.<br /> Đãn sử nhân gian hoán sinh Phật,<br /> Thắng giao thiên thượng tác ngoan tiên.<br /> (Loan bay phượng đậu đã ngàn năm,<br /> Nước chảy mây bay thảy đều tự do tự tại.<br /> Chỉ cần được người đời gọi là Phật sống,<br /> Còn hơn là vị tiên cố chấp cõi thượng giới.)<br /> Và chỉ  chờ  đến năm sau, năm Càn Long thứ  10 (1745), trong bài thơ <br /> Đáp Tăng Nam Thôn luận thi, chủ trương thơ viết tính linh đã chính thức ra <br /> đời:<br /> Đề bút tiên tu vấn tính tình,<br /> Phong tài hưu họa Tống Nguyên Minh.<br /> Bát âm phân liệt cung thương vận,<br /> Nhất đại đô tồn Nhã Tụng thanh.<br /> Thu nguyệt khí thanh thiên xứ hảo,<br /> Hóa công tài đại bách hoa sinh.<br /> Liên dư quan thoái thi thiên tiến,<br /> Tuy bất năng quân hiếu luận binh.<br /> (Cầm bút sáng tác trước tiên phải chú ý đến tính tình của mình,<br /> Văn chương ở đời chớ nên phân thành các đời Tống, Nguyên, Minh.<br /> Bát âm tuy phân thành cung thương khác nhau,<br /> Nhưng những tác phẩm như Nhã Tụng thì đời nào cũng có.<br /> Trăng thu khí thu trong trẻo, nơi nơi đều tuyệt diệu,<br /> Bởi tạo hóa tài lớn nên trăm hoa mới nở.<br /> Chỉ thương ta quan thì giáng mà thơ lại tiến,<br /> Tuy không phải quân tướng nhưng vẫn thích bàn luận việc binh.)<br /> Trước nay, khi đề  cập đến nguyên nhân ra đời thuyết Tính linh của <br /> Viên Mai, phần lớn các tác giả cho rằng, hoặc do ảnh hưởng của các yếu tố <br /> tiểu tư sản mới manh nha, hoặc do  ảnh hưởng từ các nhà thơ  tiền bối như <br /> Diệp Tiếp, Tiết Tuyết, Tra Vi Nhân. Tuy không thể  hoàn toàn phủ  nhận  <br /> những nguyên nhân này, thế  nhưng, xét từ  khía cạnh thời gian, chúng đều <br /> xuất hiện khá trễ  trong cuộc đời Viên Mai. Vậy nên, chúng tôi cho rằng,  <br /> nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc ông nêu ra thuyết Tính linh, ắt phải có <br /> liên quan đến “cú sốc”  ở  Hàn Lâm viện nêu trên. Ngoài ra, nếu xét từ  nội <br /> dung thuyết Tính linh, tức trước sau luôn chỉ  trích thuyết Thần vận của  <br /> Vương Sĩ Trinh, thuyết Cách điệu của Thẩm Đức Tiềm và thuyết Cơ lý của <br /> Uông Phương Cương, ba nhà thơ, ba lý thuyết này đồng thời cũng là đại <br /> diện của Hàn Lâm viện đời Thanh, có thể dễ dàng thấy rõ điều này.<br /> Hai chữ “tính linh” lần đầu tiên xuất hiện trong Thi phẩm của Chung <br /> Vinh. Cụ  thể  là khi tác giả  phẩm bình thơ  của Nguyễn Tịch: “ Kỳ  nguyên <br /> xuất ư Tiểu nhã. Vô điêu trùng chi công. Nhi Vịnh hoài chi tác, khả dĩ đào <br /> tính linh, phát u tư.” (Thơ  Nguyễn Tịch khởi nguồn từ  Tiểu nhã trong Thi <br /> kinh. Thơ ông hoàn toàn không chú trọng chạm trổ tỉa tót câu chữ. Thơ  Vịnh  <br /> hoài của ông có thể thanh lọc tính linh con người, khởi phát những suy nghĩ  <br /> sâu sắc độc đáo trong lòng người đọc.) Bản thân Viên Mai cũng từng viết  <br /> rằng:<br /> Sao đáo Chung Vinh Thi phẩm nhật,<br /> Cai tha tri đạo Tính linh thời.<br /> (Ngày chép đến sách Thi phẩm của Chung Vinh,<br /> Cũng là lúc ông ta hiểu rõ về hai chữ Tính linh.)<br /> Thế  nhưng nếu truy về  nguồn gốc trực tiếp,  ắt không thể  không chỉ <br /> ra quan điểm về “tài tính” của Lưu Hiệp. Trong thiên  Thể tính sách Văn tâm <br /> điêu long, Lưu Hiệp viết rằng: <br /> Phàm trong lòng có tình cảm hoạt động sẽ hình thành ngữ ngôn, đạo <br /> lý phát ra cũng hình thành văn chương, đây chính là quá trình tình lý từ   ẩn <br /> đến hiện, từ  trong ra ngoài. Thế  nhưng, tài năng cũng có bình thường và  <br /> kiệt xuất, khí cũng có cương nhu, học có nông sâu, tập có nhã dâm, tất cả <br /> đều do trước bởi tính tình khuôn đúc, sau do hậu thiên tác động mà thành.  <br /> Vậy nên, dưới ngòi bút của nhà văn, trong vườn văn, tác phẩm có sự  khác <br /> nhau rất nhiều, tựa như  sóng nước, mây trôi, biến đổi không ngừng. Vì <br /> vậy, văn từ, tình lý hoặc bình thường, hoặc kiệt xuất không thể  không có  <br /> mối quan hệ mật thiết với tài năng của tác giả; phong cách hứng thú hoặc <br /> cương hoặc nhu, sao có thể không liên quan đến khí chất của tác giả; dùng <br /> điển thác ý hoặc nông hoặc sâu, chưa từng nghe nói là không can hệ  đến  <br /> học vấn; thể  thức hoặc nhã hoặc dâm, ít khi không có quan hệ  mật thiết  <br /> với thói quen của nhà văn. Mọi người đều thuận theo bản tính và sự  tu  <br /> dưỡng để sáng tác, phong cách tác phẩm cũng không khác gì diện mạo của  <br /> con người vậy.2<br /> Theo Lưu Hiệp, văn học chính là sự  thể  hiện “tài tính” ra bên ngoài <br /> của nhà văn, cho nên đề  cập đến văn học, trước tiên phải đề  cập đến “tài  <br /> tính” của chủ thể. Vẫn kế thừa quan điểm của Lưu Hiệp, nhưng Viên Mai <br /> đẩy lý luận lên mức cao hơn:<br /> Làm thơ  cũng như  việc chép sử, trong đó tài, học, thức đều không <br /> thể  thiếu, nhưng tài luôn quan trọng nhất. Ví như  tạo hóa không có tài  ắt <br /> không thể sáng tạo thành vạn vật, thánh nhân không có tài ắt không thể chế <br /> thành khí tượng, nhà thơ  nếu không có tài ắt không thể  bao quát điển tịch,  <br /> vận tính linh. Cho nên, có thể thấy tài luôn hết sức quan trọng.3<br /> Nhìn chung tài tính bao gồm hai phần cơ  bản là tính tình và linh cơ, <br /> với quan niệm tính linh đến từ  tài tính, cho nên thuyết Tính linh của Viên <br /> Mai về cơ bản cũng gồm hai phần: một là nhắm đến biểu đạt tính tình, tức  <br /> biểu đạt thế giới tình cảm chân thực của chủ thể; hai là nhắm đến linh cơ, <br /> tức cá tính đa dạng và bản năng trời cho của chủ  thể. Bởi xuất phát từ  tài  <br /> tính, nên Viên Mai hết sức xem trọng thiên phú, bản tính của con người,  <br /> phản đối sự gò ép, bó buộc. Cũng bởi xem trọng tài tính, cho nên trong mọi <br /> tính huống đều phải lấy “chân” làm đầu, phải có “chân nhân” sau đó mới có  <br /> “chân tính tình” và sau nữa mới có “chân thi”. Khác Viên Mai, đại diện của  <br /> Công An phái là Viên Hoành Đạo lại chủ  trương tính linh bắt nguồn từ <br /> “đồng tâm” (lòng con trẻ), mà “đồng tâm” với tư  cách là bản tâm của con  <br /> người, cho nên ai cũng giống ai. Chỉ  trong trường hợp con người đi vào xã  <br /> hội, tiêm nhiễm những thói hư tật xấu, đồng tâm sẽ từ từ mất đi, nhưng đây  <br /> là do bởi hậu thiên, chứ  không liên quan đến tiên thiên. Trong khi đó, Viên  <br /> <br />  Lưu Hiệp (1998), Văn tâm điêu long, Châu Chấn Phù chú, Nhân Dân văn học xuất bản xã, tr.308.<br /> 2<br /> <br /> <br />  Viên Mai (1997), “Tưởng Tâm Dư Tàng Viên thi thoại tự”, in trong Tiểu Thương Sơn phòng văn tập, <br /> 3<br /> <br /> <br /> quyển 28, Viên Mai toàn tập, Giang Tô cổ tịch xuất bản.<br /> Mai lại cho rằng, sự  khác biệt giữa các nhà thơ  chính  ở  khả  năng trời cho <br /> của mỗi người.<br /> Nhìn từ khía cạnh học thức, nếu như Viên Hoành Đạo cho rằng thiên  <br /> bẩm của con người là hoàn toàn giống nhau, không nên tiêm nhiễm thứ  lý <br /> tính hậu thiên, đồng thời phản đối việc học, thì Viên Mai ngược lại lại hết  <br /> sức xem trọng việc học. Theo ông, bởi khả  năng trời phú cho mỗi người <br /> khác nhau nên mới cần học tập để bổ túc những bất cập của tiên thiên. Ông  <br /> từng lấy việc bắn tên để  so sánh mối quan hệ  giữa tài và học. Ông nói:  <br /> “Làm thơ như việc bắn tên, mỗi đề đến tay, khác nào mối quan hệ giữa tên <br /> và chim hồng hộc, người bắn giỏi chỉ cần một phát trúng đích, người không <br /> giỏi có bắn ngàn vạn phát cũng không trúng”, “trúng hay không trúng thực  <br /> không ngoài bốn chữ  ‘thiên bẩm học tập’”, bởi vì “đến là do học tập, còn <br /> trúng là do tài”4. <br /> Về  vấn đề  nhã tục, do Viên Hoành Đạo cho rằng, tiên thiên của mỗi  <br /> người là hoàn toàn giống nhau, cho nên với ông, hoàn toàn không có sự phân <br /> biệt nhã tục, thể  loại văn học mà ông xem trọng nhất chính là dân ca, một <br /> thể  loại phù hợp nhất cho việc biểu đạt chân tình, “đồng tâm”. Trái lại, <br /> Viên Mai từng viết rằng: “Thơ rất khó đạt đến nhã, phải nhờ học vấn mới  <br /> có thể  đạt tới, nếu không chỉ  là thô tục dễ  dãi mà thôi.” Từ  một số  khía <br /> cạnh trên đây, có thể thấy rõ sự khác biệt giữa khái niệm tính linh của Viên <br /> Mai và Viên Hoành Đạo. <br /> Diêu Nại trong Viên Tùy Viên quân mộ chí minh bính tự nói Viên Mai <br /> “danh việt hải bang” (danh truyền ra nước ngoài); Khưu Vĩ Viên trong Ngũ <br /> bách thạch động thiên huy trần nói cụ thể hơn: “Tùy Viên toàn tập của Viên <br /> Giản Trai tiên sinh húy Mai người đất Tiền Đường, Triết Giang nổi tiếng  <br /> trong ngoài nước cùng tên tuổi của ông, theo thời gian danh tiếng  ấy không  <br /> những không suy mà càng thịnh.5” “Hải bang”, “hải ngoại”  ở  đây chủ  yếu <br /> chỉ  Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, dưới đây chủ  yếu xét quá trình tiếp <br /> nhận thuyết Tính linh của Viên Mai ở Nhật Bản và Việt Nam.<br /> <br /> 2. TIẾP NHẬN THUYẾT TÍNH LINH Ở NHẬT BẢN <br /> <br /> Theo thống kê của tác giả  Nhật Bản Takashi Matsumura trong bài viết <br /> “Ảnh hưởng của  Tùy Viên thi thoại  của Viên Mai  ở  Nhật Bản”, khoảng thời <br /> gian từ  1791­1859, các tác phẩm của Viên Mai như   Tùy Viên thi thoại,  Tiểu  <br /> 4<br />  Viên Mai (1997), Viên Mai toàn tập, Giang Tô cổ tịch xuất bản, quyển 3, tr.703.<br /> 5<br />  Viên Mai (1997), Viên Mai toàn tập, Vương Anh Chí biên tập, Giang Tô cổ tịch xuất bản, quyển 8, <br /> tr.22.<br /> Thương Sơn phòng tập,  Tiểu Thương Sơn phòng xích độc,  Tiểu Thương Sơn  <br /> phòng văn sao, Tùy Viên tam thập chủng đều trước sau truyền đến Nhật Bản. <br /> Về  thời điểm cụ  thể, theo khảo cứu của Shigeru Shimizu ( ? ? ? ) trong “Thơ <br /> Thanh ở  Nhật Bản”, vào năm Khoan Chánh thứ  3 Tân Hợi (1791), Tùy Viên thi  <br /> thoại  được chở  đến Nhật Bản,  Tiểu Thương Sơn phòng tập  được nhập vào <br /> Nhật Bản năm Khoan Chánh thứ  5 Quý Sửu (1793), hai tập Tiểu Thương Sơn  <br /> phòng xích độc, Tiểu Thương Sơn phòng văn sao được nhập năm Khoan Chánh <br /> thứ 10 Mậu Ngọ  (1798). Riêng hai tập đầu, khi nhập vào Nhật Bản, Viên Mai <br /> vẫn còn sống. Ngoài ra, Kansai Ichikawa (1749­1820), một nhà Hán học, nhà thơ <br /> chuyên viết chữ Hán nổi tiếng Nhật Bản từng nhập khẩu bộ  Tùy Viên tam thập  <br /> chủng, sau đó ông còn biên soạn bộ  Tùy Viên thi sao xuất bản  ở Nhật vào năm <br /> Văn Hóa thứ  13 (1816), sách này có tác dụng tích cực trong việc truyền bá thơ <br /> Tính linh và thuyết Tính linh của Viên Mai ở Nhật Bản.<br /> Khoảng giai đoạn cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, khi Hokuzan Yamamoto ( ?<br /> ??? 1752­1812) soạn bộ Tác thi chí cấu (khắc in năm 1783) và Hiếu kinh lầu thi  <br /> thoại (khắc in năm 1809), trong đó ông phản đối chủ trương thơ ca của các nhà <br /> Thất tử, đề  xướng lối thơ Tính linh, nhưng ở  đây hai chữ  Tính linh vẫn là của <br /> Viên Hoành Đạo, hoàn toàn chưa nhắc gì đến Tính linh của Viên Mai. Thế <br /> nhưng học trò của ông đã bắt đầu biết đến tên tuổi của Viên Mai và một số nhà <br /> thơ đời Thanh. Trong Nhật Bản thi sử, tác giả Hokkai Emura ( ? ? ? ? 1713­1788) <br /> đã trích dẫn một số thơ của các tác giả  đời Thanh, trong đó có Viên Mai. Dưới  <br /> thời Edo (1603­1849), Viên Mai là nhà thơ triều Thanh có thơ được truyền bá và <br /> có sức ảnh hưởng rộng rãi nhất ở Nhật Bản. Tác giả Tanso Hirose ( ???? 1782­<br /> 1856) trong  Đạm Song thi thoại  nói: “Phàm những người học theo thơ  Thanh,  <br /> không ai  không tôn Viên Tử  Tài làm thầy.” Thậm chí  học trò của Hokuzan  <br /> Yamamoto là Gozan Kikuchi ( ? ? ? ? 1769­1849) còn phỏng theo cách thức của <br /> Tùy Viên thi thoại, soạn bộ  Ngũ Sơn đường thi thoại, sách này gồm 10 quyển, <br /> được in mỗi năm một quyển bắt đầu từ  năm 1807. Trong sách, ông nói, thầy  <br /> ông chủ  trương học theo thơ  “Viên”, “Viên”  ở  đây là Viên Hoành Đạo; nhưng <br /> hầu hết học trò lại đi học thơ của Viên Mai.<br /> Phương  Tuấn Sư,  người  từng  soạn niên phổ  cho Viên Mai,  trong   Tiêu <br /> Huyên tùy bút, ông dẫn lời tựa của tác giả người Nhật là Shin Anseki ( ??? 1791­<br /> 1860) viết cho sách Mai Thôn thi sao có nội dung như sau:<br /> Nhật Bản khắc in sách Mai Thôn thi sao, người nước ấy là Shin Anseki viết <br /> lời tựa có đoạn viết như  sau: “Văn học đời Thanh tác giả  rất nhiều, trong đó <br /> Vương Nguyễn Đình đứng vị trí số một. Nhà thơ nổi tiếng trước Vương Nguyễn  <br /> Đình là Ngô Mai Thôn, người nổi tiếng sau Nguyễn Đình là Viên Tử  Tài, có thể <br /> nói, thơ ca của họ đều xứng đáng trở thành một nhà riêng vậy. Gần đây các nhà  <br /> nho đã sao hai tập thơ  của Vương, Viên, đồng thời đã cho khắc in lưu hành  ở <br /> đời, nhưng thơ của Mai Thôn thì chưa… Tử Tài thiên bẩm cực cao, học vấn cũng  <br /> uyên bác, tài hoa phiêu dật, kinh thiên động phách, rất giống phong cách của Lý  <br /> Bạch, chỉ tiếc là đôi khi còn quá vụn, quá khéo và chuộng lạ.6”<br /> Shin Anseki tên tự  là Tư  Thuận, hiệu là Cấn Trai, tác phẩm tiêu biểu có <br /> Cấn Trai văn tồn, Cấn Trai thi lược,… Theo Tiêu Huyên tùy bút, ông sùng bái <br /> thơ Ngô Vĩ Nghiệp (Mai Thôn), trong lời tựa, ông cho rằng thơ  Mai Thôn kiêm <br /> được sở trường của cả thơ Vương lẫn thơ Viên, đồng thời ông theo quan điểm  <br /> của Triệu Dực cho rằng “Mai Thôn xứng đáng là đại gia trong làng thơ”. Thế <br /> nhưng, ông lại tiếc cho Mai Thôn là đã “thờ  hai triều”, không thể  “thủ  nghĩa <br /> thành nhân”, cũng không thể “ẩn cư chốn điền viên”, cho nên cảm thán “thơ của <br /> Tùy Viên thanh cao hơn nhiều vậy”. Từ lời tựa trên, chúng ta không chỉ  có thể <br /> nắm bắt sơ lược tình hình tiếp nhận thơ Thanh ở Nhật Bản khoảng cuối thế kỷ <br /> 18 đầu thế  kỷ  19, mà còn có thể  thấy được những đánh giá khá cao của giới  <br /> Hán học Nhật Bản đối với Viên Mai và thơ ông ở khá nhiều phương diện.<br />   Khoảng đầu thế  kỷ  18, giới Hán học Nhật Bản rộn lên phong trào mô  <br /> phỏng Thất tử  đời Minh với chủ  trương “tôn Đường biếm Tống”. Dư  Việt  <br /> trong Đông Doanh thi tuyển tự viết rằng: “Khẳng khái học theo phái phục cổ, <br /> thế  là nhà nhà tàng trữ  thi tập của Thương Minh, người người ôm sách của <br /> Yểm Châu, trong sáng tác, từ tảo được xem trọng, phong cốt được nhấn mạnh, <br /> nhìn chung mọi thứ đều học theo Thất tử đời Minh. 7”  Ở đây Thương Minh chỉ <br /> Lý Phàn Long, Yểm Châu tức Vương Thế  Trinh, cả  hai đều là thành viên của <br /> nhóm Hậu thất tử thuộc đời Minh. Về thơ ca, nhóm này tôn sùng thơ Hán Ngụy,  <br /> Thịnh Đường. Dẫu rằng  ở  giai đoạn cuối đời, Vương Thế  Trinh từng thay đổi  <br /> chủ trương thi học, nhưng về cơ bản vẫn không đi ra ngoài chủ trương “văn tất  <br /> Tần Hán, thơ   ắt Thịnh Đường”. Các nhà thơ  Nhật Bản giai đoạn Chính Đức <br /> (1711­1716) và Hưởng Bảo (1716­1735) phần nhiều mô phỏng theo chủ trương  <br /> Cách điệu của Vương, Lý, điều này gây phản cảm cho một số  nhà thơ  đương <br /> thời và sau đó, thế  tất vào khoảng giữa thế  kỷ  18, niên hiệu Bảo Lịch (1751­<br /> 1764), thơ ca Nhật Bản lại chuyển sang tôn Tống, phản đối chủ trương học tập  <br /> “Ngụy Đường thi”, tức đã từ cực đoan này lại chuyển sang một cực đoan khác.  <br /> Chính trong bối cảnh này, một số nhà lý luận, nhà thơ có tầm nhìn sáng suốt, họ <br /> phản đối chủ  trương tôn Đường, cũng như  không thể  phiến diện đề  cao thơ <br /> Tống, đây cũng là nguyên do xuất hiện của xu hướng thi học “triết trung”. Về <br /> cơ bản phái này phản đối việc phân chia thơ ca thành Đường Tống, chủ trương  <br /> “ngã tự vi ngã” (tôi tự là tôi), mà chủ trương thơ ca của Viên Mai chính phù hợp  <br /> 6<br />  Phương Tuấn Sư (1995), Tiêu Huyên tùy lục, quyển 12, Trung Hoa thư cục, tr.450.<br /> 7<br />  Dư Việt, Đông Doanh thi tuyển, quyển thủ, bản khắc in năm Quang Tự thứ 9.<br /> với mục tiêu phê phán phái phục cổ ở Nhật Bản, cho nên chỉ cần có điều kiện,  <br /> lập tức nó được các tác giả Nhật Bản tiếp thu rất nhanh.<br /> Vào năm 1804, tức sau ngày mất của Viên Mai 7 năm, Nhật Bản đã cho <br /> khắc in bản Tùy Viên thi thoại do Yasushi Nishikawa (???) biên tập. Trong sách, <br /> lời tựa của Hokuzan Yamamoto có đoạn viết rằng:<br /> Khoảng mười năm trước đây, bởi Đường thi tuyển được truyền bá mà lối <br /> thơ  phỏng Đường hủ  bại thịnh hành  ở  đời, ngay như  thơ  Tô Đông Pha “chân <br /> chính”, thơ Viên Trung Lang (Hoành Đạo) thanh tân, những người học theo cũng  <br /> không được mấy. Ngày nay văn minh đại hóa, thị  hiếu của con người không  <br /> ngừng thay đổi, “chân thi” trỗi dậy, những kẻ  chuyên làm thơ  hủ  bại đã giảm  <br /> hẳn, số lượng khác nào sao buổi sớm. Thử  bình tâm công bằng mà đánh giá thế <br /> giới thơ, thơ Đường thơ Tống há có thể phân thành hay dở, thơ Đường há có thể <br /> phân thành tam Đường sao? … Viên Tử  Tài coi thường tất cả  sự thiển cận  ấy,  <br /> luận thơ chỉ dùng một chữ “diệu”, còn lại vứt bỏ tất cả. Ông từng nói rằng: Thơ <br /> hay có thể phân thành Đường Tống chăng?8<br /> Sách Đường thi tuyển do Lý Phàn Long biên tập trước nay luôn được xem  <br /> là đại diện tiêu biểu cho quan điểm thi học của Hậu thất tử đời Minh. Khi các  <br /> nhà thơ Nhật Bản giai đoạn Chính Đức Hưởng Bảo chủ trương mô phỏng Cách  <br /> điệu của Vương, Lý, sách từng được xem là giáo trình tối quan trọng cho việc  <br /> học thơ. Hokuzan Yamamoto sùng bái thơ  Tống, đề  cao thơ  tính linh của Công  <br /> An phái đời Minh. Bản thân ông cũng khá hâm mộ  thuyết Tính linh của Viên <br /> Mai, bằng chứng cụ  thể  là, trên đây ông đã dẫn quan điểm phản đối thơ  phân  <br /> Đường Tống của Viên Mai. Thế  nhưng, mục đích của ông chủ  yếu vẫn chỉ  là <br /> phản đối mô phỏng thơ  Đường, chủ  trương nên học thơ  Tống, cho nên quan  <br /> điểm của ông vẫn chưa hoàn toàn tương hợp với quan điểm luận thơ  của Viên <br /> Mai. Ngoài ra,  ở quyển đầu của sách Tùy Viên thi thoại do Nhật Bản khắc nêu <br /> trên, còn có lời tựa của Shiro Jiro Ikeda (???? 1767­1837) có đoạn viết như sau:<br /> Đến lúc chúng tôi dựng thi đàn “chân thi”, chủ  trương lối thơ tính linh mới  <br /> mẻ, thành lũy của lối thơ hủ bại không đánh mà tự hàng, không công mà tự  phá,<br /> … Cái gọi thơ tính lính mới mẻ ở đây là thổ lộ lòng mình, quyết không nếm cặn <br /> bã của cổ  nhân. Cái gọi “chân thi”  ở  đây chỉ  chủ  trương linh hoạt, quyết không <br /> viết những câu thơ chết. Nhóm chúng tôi nêu ra chủ trương này ở đời đã hơn 10 <br /> năm, thế mà đến nay vẫn chưa thật thịnh hành trong nước, nói gì đến Tùy Viên  <br /> tiên sinh cũng truyền bá thuyết này  ở  nước ông. Sách  Tùy Viên thi thoại  được <br /> khắc in năm Nhâm Tý (1792), cách nay đã 13 năm. Tùy Viên cùng với sự trỗi dậy <br /> <br /> <br /> <br />  Yasushi Nishikawa, Tùy Viên thi thoại, quyển thủ, bản khắc in của Sùng Văn đường, Văn Hội đường <br /> 8<br /> <br /> <br /> năm Nguyên Hóa thứ nhất (1804).<br /> của nhóm chúng tôi, có thể  xem là khác nơi nhưng cùng thời, còn sự  tương hợp <br /> trong chủ trương luận thơ há chẳng phải là duyên trời khiến xui hay sao?9<br /> Shiro Jiro Ikeda tên tự là Thiên Dân, hiệu là Thi Phật, tác phẩm còn truyền  <br /> có Thi Thánh đường tập. Cũng như Hokuzan Yamamoto, ông cũng phản đối thi  <br /> luận của Hậu thất tử, chủ  trương Tính linh. Bản thân ông đặc biệt xem trọng  <br /> sách  Tùy Viên thi thoại. Quan điểm về  thơ  của ông có rất nhiều điểm tương  <br /> đồng với thuyết Tính linh của Viên Mai, cụ thể: “thơ dùng để thổ lộ lòng mình”  <br /> chính là “thơ  độc tả  tính linh” của Viên Mai, cũng là nội hàm chủ  yếu của <br /> thuyết Tính linh; khái niệm “chân thi” cũng chính là chủ trương “tính tình đắc kỳ <br /> chân”, tình cảm trong thơ  phải là tình cảm chân thực của Viên Mai. Về  “chủ <br /> trương linh hoạt, quyết không viết những câu thơ chết”, Viên Mai cũng từng nói <br /> rằng, “tất thảy mọi con chữ trong thơ văn đều phải ở thế đứng, không thể nằm  <br /> trên mặt giấy”, hoặc “phải đến mức trăm chữ sống cũng không được phép xuất <br /> hiện một chữ  chết”. Cái gọi “linh hoạt”  ở đây thực chất là chỉ  khía cạnh ngôn <br /> ngữ  của tác phẩm, tức ngôn ngữ  cần sinh động, thú vị  và giàu sức sống, đây  <br /> cũng là một nội dung quan trọng của thuyết Tính linh. Mặc dù Shiro Jiro Ikeda  <br /> nói rằng, nhóm thơ của ông sống cùng thời với Viên Mai, hai nơi nhau tuy không  <br /> mưu mà ngẫu nhiên có sự  trùng hợp. Thế nhưng, theo chúng tôi, có lẽ  phải sau <br /> khi ông đọc Tùy Viên thi thoại, quan điểm phản đối lối thơ phục cổ của ông mới <br /> thật sự định hình.<br /> Cùng thời với Shiro Jiro Ikeda, tác giả Sanyo Rai (??? 1780­1832) cũng chịu <br /> ảnh hưởng từ  Viên Mai khá rõ nét. Sanyo Rai tên tự  là Tử  Thành, hiệu Sơn <br /> Dương, tác phẩm tiêu biểu có  Nhật Bản chính sử, Nhật Bản ngoại sử và Sơn  <br /> Dương di cảo. Trong quyển 2 của  Sơn Dương di cảo, có chùm thơ  Luận thi  <br /> tuyệt cú  27 bài viết năm Văn Chánh thứ  10 (1828). Theo Noriyuki Takemura  <br /> khảo chứng, chùm thơ này có mối quan hệ hết sức gần gũi với chùm thơ tuyệt <br /> cú 38 bài Phỏng Nguyên Di Sơn luận thi của Viên Mai, bao gồm cả chủ trương  <br /> thi học lẫn hình thức. <br /> Ngoài các tác giả  nêu trên, còn rất nhiều tác giả  Nhật Bản khác có cách <br /> nhìn, cách đánh giá khá tích cực về  quan điểm Tính linh cũng như  thơ  văn của  <br /> Viên Mai, ví như  Koto Koan ( ? ? ? ? 1796­1863), Kyokuso Hirose ( ? ? ? ? 1807­<br /> 1763), Gozan Kikuchi,… Ví như Koto Koan trên cơ sở nắm chắc phong cách tản <br /> văn của Viên Mai, ông đưa bình luận rằng: “Văn ông (chỉ Viên Mai) phát huy cái <br /> mới lạ, kiêm cả  nội dung phê phán, cấu tứ  độc đáo, văn chảy ra từ  trong lòng,<br /> …10” Kyokuso Hirose trước sau luôn phản đối quan điểm thi học của Thất tử,  <br /> 9<br />  Yasushi Nishikawa, Tùy Viên thi thoại, quyển thủ, bản khắc in của Sùng Văn đường, Văn Hội đường <br /> năm Nguyên Hóa thứ nhất (1804).<br /> 10<br />  Koto Koan, lời tựa sách Tùy Viên văn sao, bản khắc in của Quần Ngọc đường năm Minh Trị thứ 15 <br /> trong Độc thịnh Minh bách gia thi, ông viết: “Tôi đọc thơ đời Minh, mười bài có <br /> đến chín bài phục cổ”, “Khí chết đầy trên giấy, gấp sách còn liên tục buồn <br /> nôn”; trong  Luận thi thi, ông chủ  trương: “Thơ  là thế  giới tinh thần của con <br /> người, hà tất phải lập cha ông”, “Thà viết ra từ mới điệu mới, đừng mô phỏng  <br /> theo điệu thức của cổ nhạc phủ”,… Những chủ trương như “thơ là thế giới tinh <br /> thần của con người”, thơ  trọng cái mới, phản đối phục cổ, phỏng cổ,… thảy  <br /> đều có mối quan hệ mật thiết với nội dung Tính linh của Viên Mai. <br /> Ngoài những đánh giá tích cực về  con người, thơ  cũng như  quan điểm thi <br /> học của Viên Mai, đây đó vẫn có những ý kiến trái chiều, thậm chí phê bình <br /> những bất cập trong quan điểm thi học của Viên Mai. Ví như trường hợp Sanyo  <br /> Rai, ông sống ở thời kỳ thuyết Tính linh của Viên Mai thịnh hành nhất trong lịch  <br /> sử  thi học Nhật Bản, bản thân ông ngoài việc tiếp thu những yếu tố  tích cực  <br /> trong lý luận thi học của Viên Mai, ông vẫn có những quan điểm của cá nhân  <br /> trong cách đánh giá thi luận của Viên Mai và những vấn đề có liên quan. Ví dụ,  <br /> trước thực tế  các nhà thơ  Nhật Bản quá đề  cao Viên Mai, ông đã thể  hiện rõ  <br /> quan điểm phê phán của của mình khi viết:<br /> Lịch Thành hà cập Khánh Dương tài,<br /> Ngụy thể tòng lai khuyết biệt tài.<br /> Trúc Xá Ngư Dương hồn bất tỉnh,<br /> Phục vi mãn khẩu thuyết Viên Mai11. (Luận thi tuyệt cú)<br /> (Lý Phàn Long nào sách bằng tài của Lý Mộng Dương,<br /> Ngụy thể trước nay không có người phân biệt rõ.<br /> Bậc đại gia trong làng thơ Thanh như Chu Di Tôn, Vương Sĩ Trinh còn chưa  <br /> rõ,<br /> Thế mà mở miệng ra là chỉ thấy nói đến hai chữ Viên Mai.)<br /> Vẫn cùng một nội dung phê phán, trong bài thơ Dạ độc Thanh thi chư nhân  <br /> thi hý phú, trên cơ  sở  bình luận thơ của một loạt các nhà thơ  từ  cuối đời Minh <br /> như  Chung Tinh, Đàm Nguyên Xuân, Trần Tử Long,… cho đến Viên Mai, cuối  <br /> cùng Sanyo Rai cũng đưa ra kết luận:<br /> Như hà thử gian quản khuy báo,<br /> Duy bả nhất Viên khái toàn Thanh.<br /> (Hỏi làm thế nào nhìn ra tinh thần của thơ ca trong suốt thời gian này,<br /> Mọi người đều trả lời, chỉ có cách thông qua thơ Viên Mai để nắm bắt thành <br /> tựu thơ của toàn bộ đời Thanh.)<br /> Không dừng lại  ở  đó, trong Dạ  độc Thanh thi chư  nhân thi hý phú, Sanyo <br /> Rai còn chỉ ra khuyết điểm của thơ cũng như con người Viên Mai:<br /> Kiện bút thùy ma Tàng Viên lũy,<br /> (1882).<br /> 11<br />  Sanyo Rai, Sơn Dương di cảo, quyển 2, bản khắc in năm Minh Trị thứ 12 (1879).<br /> Ngạnh ngữ nan áp Âu Bắc doanh. <br /> Thương Sơn phù hiêu bút thâu thiệt,<br /> Tâm phạ nhị tử tài tung hoành.12<br /> (Bút mạnh ai bằng Tưởng Sĩ Thuyên,<br /> Lời cứng ai có thể áp chế Triệu Dực.<br /> Viên Mai khinh bạc, khiếm nhã, từ không đạt ý,<br /> Trong lòng lại luôn sợ Tưởng Triệu lấn lướt mình về tài năng.)<br /> Đây là một một trong những đánh giá khá khắt khe, thậm chí là hơi quá ở <br /> khía cạnh nhân cách của Viên Mai. Với chủ trương biểu hiệu tính linh, thơ Viên  <br /> Mai đôi khi không thể  tránh khỏi khuyết điểm như  tiêm xảo, khinh bạc, vụn  <br /> vặt, khiếm nhã. Tác giả Gozan Kikuchi thậm chí còn đánh giá ông chỉ là con hát <br /> già khi viết:<br /> Thi thoại dã tự hàm túc cừu,<br /> Thiển cận vị túc bình thiên thu.<br /> Sương kiếm thúy nga giai ban sắc,<br /> Tốt cánh Viên Triệu thị lão ưu.13<br /> (Thi thoại dường như đều hàm chứa thù xưa,<br /> Thiển cận chưa đủ bình phẩm chân lý ngàn đời.<br /> Kiếm sương, mày ngài đều là vật trang điểm nữ sắc,<br /> Nói cho cùng Triệu và Viên chỉ là con hát già mà thôi.)<br /> Ở đây “thoại” chỉ  Tùy Viên thi thoại và Âu Bắc thi thoại, tác giả  cho rằng <br /> cả hai đều không thật có giá trị. Riêng Viên Mai và Triệu Dực, thực chỉ là những <br /> con hát già mà thôi, tối ngày chỉ  làm động tác giả  cho người khác xem, thực  <br /> không có bất kỳ giá trị gì. Cũng cùng ý này, Akira Nagano ( ??? 1783­1837) trong <br /> Tùng Âm khoái đàm  viết: “Về  Tùy Viên thi thoại  của Viên Tử  Tài, những tác <br /> phẩm mà ông chuộng chỉ  là nữ  sắc, trúc chi, từ  đây thực không khó thấy nhân <br /> phẩm của ông ta.14”<br /> Từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, đặc biệt từ năm 1911 trở đi, đi cùng với <br /> xu hướng người Nhật Bản ngày càng ít sáng tác chữ  Hán, thơ  đời Thanh trong  <br /> đó có cả thơ và mảng lý luận thơ của Viên Mai rất ít được chú ý, cho đến nay, <br /> nhìn chung chúng chỉ là vấn đề nghiên cứu của các học giả, các giảng viên, sinh <br /> viên trong các trường Đại học. <br /> <br /> 3. TIẾP NHẬN THUYẾT TÍNH LINH Ở VIỆT NAM<br /> <br /> 12<br />  Sanyo Rai, Sơn Dương di cảo, quyển 2, bản khắc in năm Minh Trị thứ 12 (1879).<br /> 13<br />  Dẫn lại Vương Hiểu Bình, “Luận thi thi của phái chiết trung thời Edo”, in trên Trung Quốc thi học, <br /> tập 4. <br /> 14<br />  Akira Nagano, Tùng Âm khoái đàm, in trong Triêu đại tùng thư, Thượng Hải thư điếm ấn ảnh năm <br /> 1994.<br /> Về thời điểm cụ thể thuyết Tính linh của Viên Mai truyền vào Việt Nam, <br /> đây là vấn đề  khá nan giải, trước nay đã có một số  tác giả  đề  cập, thế  nhưng  <br /> theo chúng tôi, vấn đề  vẫn chưa được giải quyết  ổn thỏa. Tác giả  Nguyễn <br /> Thanh Tùng trong hai bài viết Vài nét về thuyết Tính linh trong tư tưởng thi học  <br /> Việt Nam thời trung đại và Thăng Long ­ Hà Nội với sự tiếp nhận và truyền bá  <br /> tư tưởng thi học mới từ Trung Hoa: trường hợp thuyết Tính linh (cuối thế kỷ 18  <br /> – đầu thế kỷ 19) đã đưa ra giả thuyết thuyết Tinh linh truyền vào Việt Nam chủ <br /> yếu thông qua cửa ngõ Thăng Long – Hà Nội. Tất nhiên quan điểm của tác giả <br /> về vấn đề liên quan từ bài viết thứ nhất công bố vào năm 2008 sang bài viết thứ <br /> hai công bố vào tháng 8/2010 đã có sự thận trọng nhất định, đó là từ khẳng định  <br /> đi đến giả thiết với trường hợp phán đoán nêu trên.<br /> Theo chúng tôi, có nhiều khả năng thuyết Tinh linh của Viên Mai vào Việt  <br /> Nam bằng hai con đường: thứ nhất, là con đường di dân và thứ hai là con đường  <br /> sứ thần, trong đó con đường di dân chỉ thật sự chỉ có ý nghĩa khi có các cựu thần <br /> nhà Minh di cư  sang Việt Nam. Riêng về  cửa ngõ du nhập, có lẽ  cũng không <br /> hoàn toàn cố  định vào bất kỳ  một nơi nào, nhưng căn cứ  trên xu hướng phát  <br /> triển của thuyết Tính linh ở Việt Nam ở những thời kỳ sau đó, có thể phác thảo <br /> hai hướng đi vào của thuyết Tính linh. Một là con đường sứ thần, phần lớn diễn  <br /> ra qua ngõ ải Nam Quan, lịch sử phát triển của con đường này phải bắt đầu từ <br /> thế  kỷ thứ 17, khi vua Lê chúa Trịnh  ở  Thăng Long. Hai là, con đường di cư ra <br /> nước ngoài của các cựu thần triều Minh, trong đó bến thứ  nhất chính là Việt  <br /> Nam, với cửa ngõ là hầu hết những cảng biển quan trọng của Việt Nam từ Bắc  <br /> chí Nam, sau đó cộng đồng Hoa kiều di dân này có xu hướng dịch chuyển vào  <br /> miền Trung và cuối cùng là miền Nam Việt Nam, cụ thể là vùng đất Hà Tiên – <br /> Gia Định. Tại đây thuyết Tính linh thể hiện xu hướng chiết trung rõ rệt hơn bao  <br /> giờ  hết, cùng với trung tâm thuyết Tính linh  ở  miền Bắc là Thăng Long – Hà  <br /> Nội với xu hướng có phần thuần Tính linh hơn, tạo thành thế  gọng kìm đem  <br /> đến sự  ảnh hưởng cho vùng trung tâm là vùng đất Thuận Hóa, kinh đô của đất <br /> nước. Trong xu thế  phát triển, thuyết Tính linh của các danh thần từ  Gia Định <br /> truyền ra có phần thắng thế, sau đó cùng với quá trình không ngừng tiếp xúc với <br /> điển tịch từ  Trung Quốc nhập về  có nội dung liên quan đến thuyết Tính linh,  <br /> thuyết này đã trở  thành một thuyết có  ảnh hưởng sâu rộng không chỉ   ở  Thuận <br /> Hóa mà còn lan rộng ra các vùng trên cả nước. Không dừng lại ở đó, thuyết Tính  <br /> linh còn đóng vai trò bước chuyển trong việc kết nối giữa thi học truyền thống  <br /> và thi học hiện đại, đặc biệt là thơ  lãng mạn Pháp, một loại thơ  đặc biệt coi  <br /> trọng tình cảm cá nhân ở những thập niên đầu thế kỷ 20.<br />  Trong ba thuyết Thần vận, Cách điệu, Tính linh thịnh hành  ở  đời Thanh, <br /> Tính linh là thuyết du nhập vào Việt Nam sớm nhất.  Ở miền Nam, Nguyễn Cư <br /> Trinh (1716­1767) danh sĩ đất Thuận Hóa trong Đáp Hà Tiên Hiệp trấn Anh Đức  <br /> hầu thi dẫn có đoạn viết:<br /> Phàm tồn  ở  trong lòng là chí, ngụ  chí thành thơ. Người ta có nông sâu, cho <br /> nên thơ có ẩn ước, rõ ràng, uyên bác, giản lược khác nhau… Nói tóm lại, thơ cần  <br /> lấy trung hậu làm gốc (bất ngoại hồ trung hậu vi bổn), hàm súc làm nghĩa, bình <br /> đạm làm hay, còn như văn từ hoa lệ, luyện câu xảo diệu, cũng chỉ nằm ngoài lục  <br /> nghĩa mà thôi15.<br /> Theo tác giả, thơ gắn liền với tài tính, quy định bởi khả  năng thiên phú, vì <br /> người có nông sâu nên thơ của mỗi người cũng khác nhau. Quan điểm “thơ cần <br /> lấy trung hậu làm gốc” tuy có nhuốm màu đạo lý của Nho gia, thế  nhưng vẫn <br /> rất gần với quan điểm “quý chân”, “tri bổn” của Viên Mai. Nguyễn Cư  Trinh <br /> từng có khoảng thời gian gần 12 năm, từ  năm Quý Dậu 1753 đến năm Ất Dậu  <br /> 1765 làm quan  ở  Gia Định, từng qua lại, giao lưu văn chương khá nhiều với  <br /> Mạc Thiên Tích và nhóm Chiêu Anh Các ở Hà Tiên. Ông có chùm thơ mười bài <br /> họa Hà Tiên thập vịnh của Mạc Thiên Tứ  viết khoảng năm 1755. Bài dẫn trên <br /> đây có lẽ cũng được viết vào khoảng thời gian nêu trên. Trên đây đã nói, thuyết <br /> Tính linh của Viên Mai được chính thức đề xướng ở Trung Quốc năm Càn Long <br /> thứ  10 (1745), trung tâm hoạt động của thuyết này là vùng Triết Giang, Trung <br /> Quốc. Theo thời  gian,  khi  thuyết  này  đã xác  lập danh  tiếng  ở   Trung Quốc,  <br /> truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỷ 18, <br /> đương nhiên cũng truyền sang Việt Nam. Thực tế lịch sử còn cho thấy rằng, có  <br /> nhiều khả  năng Tính linh của Viên Mai truyền sang Việt Nam là sớm nhất, do <br /> mục tiêu di cư ra nước ngoài giai đoạn đầu đời Thanh của người dân vùng Hoa  <br /> Nam là Việt Nam và các nước vùng Đông Nam Á chứ không phải là Triều Tiên,  <br /> Nhật Bản, nhất là thuở   ấy Nhật Bản vẫn trong giai đoạn bế  quan tỏa cảng.  <br /> Một điểm nữa cũng cần chú ý, đó là, trong cuộc chạy loạn tránh quân Mãn <br /> Thanh, hầu hết trí thức nhà Nam Minh, những người giỏi thơ văn đều chạy dạt  <br /> xuống vùng Hoa Nam, và khi điều kiện không còn phù hợp cho việc lưu lại trên <br /> đất Trung Hoa, họ  đành phải chọn lựa phương án ra nước ngoài, nhưng trong  <br /> lòng luôn ôm tâm lý tạm lánh nạn, nạn qua sẽ  lập tức quay về  cố  quốc, nên  <br /> phần lớn những người này đều chọn Việt Nam. Quan điểm thi học của Nguyễn  <br /> Cư Trinh có thể nói là sự tập trung tinh hoa của thi học Trung Quốc, mang đậm <br /> màu sắc chiết trung, điều này tất nhiên là do bản thân ông tự chắt lọc, nhưng có <br /> lẽ  không thể  phủ  nhận vai trò của việc giao lưu, xướng họa văn chương với <br />  Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, quyển 5, Nhân tài, bản viết tay do Thư viện Viện Khoa học xã hội <br /> 15<br /> <br /> <br /> TP. HCM điển tàng, mã số VD.9.<br /> Mạc Thiên Tích và nhóm Chiêu Anh Các, mà trong đó không hiếm nhà thơ người  <br /> Hoa đến từ Trung Quốc. <br /> Cùng thời Nguyễn Cư  Trinh,  ẩn sĩ Ngô Thế  Lân  ở  Thuận Hóa từng lấy  <br /> phong trúc ám chỉ tự nhiên, chủ trương nhà thơ xử thế cần thuận theo tự nhiên,  <br /> bảo toàn thiên tính tự nhiên, đồng thời cho rằng, sáng tác thơ ca cần đạt tới cái  <br /> thú vị  chân thực của tự  nhiên. Có được điều này, chúng tôi cho rằng,  ắt không <br /> thể tìm được câu giải thích khi rời xa bối cảnh giao lưu thơ văn giữa người Việt  <br /> và người Hoa ở Thuận Hóa thuở ấy16. <br /> Ở  miền Bắc, cùng thời với họ  Nguyễn, họ  Ngô  ở  miền Nam có Thượng  <br /> thư Lê Hữu Kiều (1691­1760), trong lời đề tựa cho tập Tàng chuyết tập của Mai <br /> Doãn Thường, ông viết: <br /> Thơ dùng để nói chí, từ Tam bách thiên trở đi, thảy đều ngâm vịnh tính tình. <br /> Nhưng duy chỉ người xưa có chân tình, tự nhiên, khoáng đạt, cho nên văn chương  <br /> hình thành trong lúc nói cười, trong đó cảnh tình đều hay, điều này thực người  <br /> đời nay không thể theo kịp vậy.17<br /> Lê   Quý   Đôn   (1726­1784)   từng   đi   sứ   Trung   Quốc   vào   năm   1761,   trong  <br /> chuyến đi này ông từng có khá nhiều giao lưu với các thi nhân, danh sĩ Trung <br /> Quốc đương thời. Trong sách Vân Đài loại ngữ soạn xong năm 1773, thiên Văn <br /> nghệ có đoạn Lê Quý Đôn dẫn lời Nhan Chi Thôi nói: <br /> Từ  xưa đến nay, các văn nhân phần nhiều mắc phải cái bệnh khinh bạc; <br /> nguyên là cái thể chất văn chương làm cho ý hứng của họ thì bay lên cao vút; tính  <br /> linh của họ  thì phát lộ  một cách bồng bột mà trở  thành kiêu căng, quên cả  việc  <br /> giữ gìn, và hăng hái tiến thủ. <br /> Ông còn đưa ra bình luận:<br /> Ta cho rằng đó là vì ít học vấn, thiếu hàm dưỡng, thành ra bị  cái khí nó sai <br /> sử. Nếu ý hứng, tính linh vẫn giữ được bình đạm, một khi nêu lên và phát ra, lại  <br /> càng thấy ung dung… Nhưng nếu thể chất của văn chương chảy ra từ học vấn,  <br /> thế thì há lại có lẽ văn chương khiến người ta kiêu căng?18<br /> Không dừng lại  ở  đó, ông còn đưa ra thuyết “tam yếu” chuyên dụng cho  <br /> việc sáng tác thơ ca:<br /> Thơ  khởi phát từ  lòng người. Ba trăm thiên trong Thi kinh phần nhiều xuất <br /> phát từ điền phu, khuê phụ, thế mà văn sĩ đời sau không theo kịp, ấy là vì nó chân  <br /> thành. Những bài nhạc phủ, ca hành đời Hán Ngụy còn giữ  được tình cảm chân  <br /> thành ấy. Thế nhưng cũng từ đấy về sau, thơ bị thanh luật gò bó, bị âm vận giới  <br /> 16<br />  Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, quyển 5, Nhân tài, bản viết tay do Thư viện Viện Khoa học xã hội <br /> TP. HCM điển tàng, mã số VD.9.<br /> 17<br />  Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, mục Thiên chương, bản chép tay, thư viện Hán Nôm Viện Nghiên <br /> cứu Hán Nôm Hà Nội điển tàng, mã số A.32.<br /> 18<br />  Lê Quý Đôn, Vân Đài loại ngữ, thiên Văn nghệ, bản chép tay, thư viện Hán Nôm Viện Nghiên cứu <br /> Hán Nôm Hà Nội điển tàng, mã số A.141.<br /> hạn, người có tài thường lo về phóng túng, kẻ bất tài thường khổ về câu nệ, mà  <br /> những gì phát ra từ  cõi lòng đều không chân thật. Cho nên, tôi thường cho rằng <br /> cốt yếu về  thơ  có ba điều, bao gồm tình, cảnh, sự  (việc). Tiếng trời kêu lên  ở <br /> trong lòng, tình động nơi tâm cơ; nhãn căn tiếp xúc với bên ngoài, cảnh chạm vào <br /> ý; lấy việc xưa mà chứng minh việc nay, chép việc làm, thuật sự  tích, việc luôn <br /> xét ở tiêu chuẩn thu nạp. Tuy tác giả không hoàn toàn giống nhau, nhưng đại khái <br /> đều không đi ra ngoài ba điều cốt yếu  ấy. Trong đó, cần lấy “ôn nhu đôn hậu” <br /> làm gốc, còn như  thể  thế, chỉ  thú, âm tiết, cách điệu chỉ  là phụ  thêm mà thôi.  <br /> Phàm tình là người, cảnh là trời, việc hợp giữa trời và người mà quán thông. Lấy <br /> tình thẩm cảnh, lấy cảnh kết vào việc, gặp việc thì phát ra lời, nhân theo lời mà  <br /> thành tiếng. Như vậy, cảnh giới không hẹn mà tự đến, lời không mong hay mà tự <br /> hay, có thể tiếp nối thành tựu của Phong Tao19.<br /> Lê Quý Đôn từng đi sứ Trung Quốc, lại từng có thời gian kinh lược ở miền  <br /> Nam, việc xem trọng “chân tình” và chủ  trương dùng học vấn để  dẫn dắt tình <br /> cảm, rõ ràng có sự  tương hợp không nhỏ  với nội hàm Tính linh của Viên Mai.  <br /> Vậy nên, mặc dù không thật am hiểu tình hình thi học cổ  trung đại Việt Nam,  <br /> hai tác giả  Trung Quốc là Vương Tiểu Thuẫn và Hà Thiên Niên vẫn đưa ra <br /> khẳng định: “Thuyết ‘tam yếu’ và thuyết ‘quý chân’của nhà sử học thời Lê mạt <br /> Lê Quý Đôn phản ánh sự ảnh hưởng của phái Tính linh thời Minh Thanh đối với <br /> Việt Nam.20” Tất nhiên,  ở  đây vẫn cần phải chú ý rằng, việc lấy “ôn nhu đôn <br /> hậu” làm gốc, chứng tỏ  sự   ảnh hưởng của Nho giáo trong việc  ước thúc tình <br /> cảm, và như  trên đã đề  cập, nội hàm khái niệm tính linh giữa hai triều Minh  <br /> Thanh là hoàn toàn khác nhau.<br /> Tác giả Trần Lê Phan (1736­1798) trong bài khải về   Ngự chế Càn Nguyên  <br /> tập của Trịnh Doanh viết: “Trộm nghĩ, thơ vốn bắt nguồn ở tính tình con người  <br /> mà bao quát cả  vật lý, thi giáo lấy thành, hiếu, kính để  bồi dưỡng nhân luân... <br /> Để sửa sang đạo hóa thì tìm rõ đầu mối  ở chính kinh, để  nung đúc tính linh thì <br /> thường thấm nhuần lục nghĩa.21”<br /> Trịnh Sâm (1739­1782) trong lời tựa tập thơ  Tâm thanh tồn dị tập của chính <br /> mình viết rằng: “Thơ  dùng để  nói cái chí của con người.  Ở  trong lòng là chí, <br /> phát ra lời là thơ, cho nên ba trăm bài thơ trong  Thi kinh, dùng một lời có thể bao <br /> quát là ‘suy nghĩ mà không tà vạy’. Thơ là môn tâm học mà thôi, thanh luật hay <br /> <br /> <br /> <br /> 19<br />  Lê Quý Đôn, Vân Đài loại ngữ, thiên Văn nghệ, bản chép tay, thư viện Hán Nôm Viện Nghiên cứu <br /> Hán Nôm Hà Nội điển tàng, mã số A.141.<br /> 20<br />   Vương Tiểu Thuẫn, Hà Thiên Niên, “Việt Nam cổ đại thi học thuật lược”, đăng trên  Văn học bình  <br /> luận, số 5/2002, tr.24­25.<br /> 21<br />  Phan Huy Chú, Văn tịch chí, Lịch triều hiến chương loại chí, quyển 43, bản chữ Hán chép tay của  <br /> Đông Dương văn khố.<br /> dở thì đáng kể gì?... Còn như việc ngâm vịnh tính tình thì ta lấy  Phong Nhã làm <br /> tôn chỉ, chưa từng gia công vào việc đối tỷ và phương pháp đặt câu hay dở.22” <br /> Nói tóm lại, vào khoảng những thập niên cuối của thế  kỷ  18, thông qua <br /> nhiều con đường, đặc biệt đáng chú ý là con đường di dân và con đường sứ <br /> thần, học giả Việt Nam cả hai miền Nam Bắc đã có điều kiện tiếp cận và hấp  <br /> thu những tinh hoa dưỡng chất từ  thuyết Tính linh của Viên Mai. Cũng giống <br /> như  Viên Mai, các nhà thơ  Việt Nam đều chủ  trương cách hiểu thơ  ca từ  khía <br /> cạnh tài tính, đồng thời chủ  trương cần thiết phải có sự  chân thành trong tình  <br /> cảm của thi nhân, đây đồng thời cũng là phần cốt yếu của thơ  ca. Điểm khác  <br /> biệt chủ yếu của các thi nhân Việt Nam trong so sánh với Viên Mai là, do đại đa <br /> số các thi nhân Việt Nam đều là người làm quan trong triều đình, nên cách hiểu  <br /> về nội hàm tính linh, vẫn đây đó chịu ảnh hưởng chất “ôn nhu đôn hậu” của thi  <br /> giáo.<br /> Bước sang giai đoạn giao thời giữa thế  kỷ 18 và 19, thuyết Tính linh vẫn <br /> không ngừng được duy trì và mở  rộng phạm vi  ảnh hưởng trong các nhà thơ <br /> Việt Nam  ở  cả  hai miền Nam Bắc, ví như   nhóm Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn  <br /> Tĩnh, Lê Quang Định…  ở  Gia Định và một loạt các nhà thơ   ở  miền Bắc như <br /> Ngô Thì Vị, Bùi Dương Lịch, Nguyễn Du, Nguyễn  Địch Cát, Bùi Huy Bích,  <br /> Nguyễn Hành, Phạm Quý Thích,… Đáng chú ý là, ở giai đoạn này, do điều kiện  <br /> lịch sử, chủ trương “thơ văn là 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2