intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Truyện cổ tích Tấm Cám và Cô bé Lọ Lem dưới góc nhìn nhân học văn hoá

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

253
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày một số vấn đề lý luận về việc tiếp nhận văn học dân gian dưới góc nhìn nhân học văn hoá; So sánh sự tương đồng và khác biệt của các motif trong truyện Cô bé Lọ Lem và Tấm Cám từ góc nhìn nhân học văn hoá; Truyện Cô bé Lọ Lem và Tấm Cám – những kiến giải từ văn hoá tộc người thông qua dấu ấn tín ngưỡng và phong tục tập quán.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Truyện cổ tích Tấm Cám và Cô bé Lọ Lem dưới góc nhìn nhân học văn hoá

  1. TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM VÀ CÔ BÉ LỌ LEM DƯỚI GÓC NHÌN NHÂN HỌC VĂN HOÁ HỒ NGUYỄN BẢO NHI Khoa Ngữ văn Tóm tắt: Văn học dân gian từ lâu đã có một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần và trong nền văn học của mỗi dân tộc trên thế giới. Nó nảy sinh từ cuộc sống lao động – đấu tranh, thể hiện những tình cảm cao quý và đẹp đẽ của người dân, đó là tình cảm của con người với thiên nhiên đất nước, tình cảm của con người với con người trong sản xuất và sinh hoạt… Nếu như trong văn học viết, người nghệ sĩ cần đổi mới và sáng tạo không ngừng, tránh đi vào những lối mòn lặp lại thì trong văn học dân gian đó lại là một hiện tượng phổ biến làm nên đặc trưng độc đáo, trở thành phương thức sáng tác đặc thù mang tính loại hình. Ta thấy rằng type truyện về người mồ côi trong truyện Tấm Cám (Việt Nam) và truyện cô bé Lọ Lem (Châu Âu) của anh em nhà Grimm là type truyện được phổ biến rộng rãi, với nhiều phiên bản phong phú, nội dung đa dạng cũng như mang đậm màu sắc văn hóa dân gian, đồng thời cũng là type truyện rất đỗi quen thuộc không chỉ của Việt Nam, Châu Âu mà còn được tìm thấy ở nhiều tộc người khác nhau trên toàn thế giới. Với vấn đề nghiên cứu: Cô bé Lọ Lem và Tấm Cám dưới góc nhìn nhân học văn hoá, chúng tôi mong muốn góp phần cung cấp một cái nhìn toàn diện và đi sâu vào từng phương diện của văn hoá tộc người cũng như sự thể hiện của nó trong tác phẩm. Từ đó góp phần thể hiện những đặc trưng văn hoá, lối tư duy độc đáo của từng dân tộc cũng như giá trị nghệ thuật đặc sắc của truyện kể dân gian. Từ khóa: nhân học văn hóa, motif, Cô bé Lọ Lem, Tấm Cám, truyện cổ tích 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC TIẾP NHẬN VĂN HỌC DÂN GIAN DƯỚI GÓC NHÌN NHÂN HỌC VĂN HOÁ Nhân học được xem là khoa học nghiên cứu xã hội và nhân văn phức tạp bậc nhất của thế kỷ XX, là bộ môn cực kỳ phát triển ở Bắc Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản... và nhiều quốc gia phát triển khác. Trên thế giới, ngành học này đã phát triển mạnh mẽ từ thế kỉ XIX nhưng ở Việt Nam thì cái tên “Nhân học” còn khá mới mẻ. Nhân học (Anthropology) là một ngành nghiên cứu tổng hợp về con người, cụ thể là về nguồn gốc, sự phát triển, các tổ chức chính trị xã hội, tôn giáo, ngôn ngữ, nghệ thuật và các tạo vật của con người... Phạm vi nghiên cứu nhân học rất rộng, bởi vậy, chúng ta có thể tóm gọn lại rằng nhân học là ngành khoa học nghiên cứu về lịch sử, văn hoá và nguồn gốc của con người. Nhân học được chia thành nhiều nhánh, mỗi nhánh nghiên cứu một khía cạnh của cuộc sống. Tuy có những khác biệt về đối tượng, mục đích và cách tiếp cận nghiên cứu cụ thể nhưng tất cả các phân ngành của nhân học đều có mối quan hệ với nhau, đều nỗ lực trình bày bản chất sinh học và văn hoá của con người, nhấn mạnh tới vai trò của văn hoá và các cách tiếp cận mà chúng sử dụng đều mang tính so sánh. Nhân học văn hoá xã hội Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2016-2017 Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tháng 12/2016: tr. 34-41
  2. TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM VÀ CÔ BÉ LỌ LEM… 35 (Socio – Cultural Anthropology): nghiên cứu về các vấn đề văn hoá, xã hội của các cộng đồng người trên trái đất. Trong phân ngành này có rất nhiều chuyên ngành nhỏ như: nhân học chính trị, nhân học tôn giáo, nhân học biểu tượng... Dù với nhiều đường hướng tiếp cận khác nhau, bản chất trọng tâm mà Nhân học luôn đặt lên hàng đầu là vấn đề của con người. Ngành này ở Bắc Mĩ gọi là nhân học văn hoá vì thiên về nghiên cứu văn hóa, còn ở Tây Âu gọi là nhân học xã hội. Trong khi đó các nhà khoa học ở cộng đồng các nước nói tiếng Pháp và Liên Xô cũ gọi là dân tộc học (Ethnology). Tựu trung lại, “văn hoá dưới góc độ nhân học được xem là tổng thể phức tạp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, các quy tắc đạo đức, luật lệ, phong tục và bất cứ kĩ năng hay thói quen do con người, với tư cách là động vật xã hội, tạo ra và lĩnh hội thông qua quá trình học” (Edward B. Tylor, 1871). Văn học là bộ phận của văn hoá, chịu sự chi phối và quyết định bởi văn hoá. Theo đó, văn học là sản phẩm và hiện thân của văn hoá. Bởi so với các thành tố khác, văn học luôn được coi là một trong những bộ phận quan trọng nhất của văn hoá. Văn học dân gian tựa như một tấm gương phản chiếu đời sống xã hội và văn hoá tộc người, dân tộc. Để xây dựng nên tác phẩm văn học dân gian, các nghệ nhân dân gian– người hát/ kể các câu chuyện truyền thống và quần chúng nhân dân có thể dựa vào nhưng tư liệu từ sử học, xã hội học... nhưng chủ yếu vẫn dựa vào những hiện tượng muôn hình muôn vẻ của đời sống. Văn học dân gian là bộ phận của văn hoá dân gian, không đơn thuần chỉ là mối quan hệ gắn kết tác động giữa hệ thống và thành tố, giữa toàn thể và bộ phận trong cấu trúc văn hoá mà nó còn là phương tiện lưu giữ và bảo lưu văn hoá tộc người, truyền thống của một cộng đồng người, một dân tộc. Mặt khác, quần chúng nhân dân – chủ thể sáng tạo của các câu chuyện truyền khẩu cũng chính là con đẻ của cộng đồng, do đó văn học dân gian còn tiếp nhận, dung chứa trong nó những thành tố văn hoá của tộc người nơi họ tồn tại. Đồng thời, lối tư duy, phương thức ứng xử cũng phản chiếu văn hoá thời đại mà họ sống. Xem văn học dân gian là bộ phận của văn hoá dân gian, đồng nghĩa với việc đặt ra những yêu cầu đối với người tiếp nhận cũng như người nghiên cứu. Đầu tiên là phải đặt văn học trong bối cảnh rộng lớn của văn hoá xã hội hoặc trong ảnh hưởng qua lại giữa văn học và các hiện tượng văn hoá khác. Thứ hai, xem văn học là bộ phận văn hoá thì văn bản văn học cũng là sản phẩm của văn hoá, vì thế cần giải mã nó trong ngữ cảnh văn hoá. Thứ ba, phải thấy được rằng văn học là một trong những loại hình nghệ thuật có khả năng bao quát, chạm tới những mạch ngầm sâu thẳm của đời sống văn hoá cũng như chiều sâu tư tưởng, tâm tư của người sáng tạo ra nó. Như vậy, tìm hiểu tác phẩm văn học cũng đồng thời là công cuộc khơi nguồn tình cảm, cảm hứng sáng tạo của người viết. 2. SO SÁNH SỰ TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT CỦA CÁC MOTIF TRONG TRUYỆN CÔ BÉ LỌ LEM VÀ TẤM CÁM TỪ GÓC NHÌN NHÂN HỌC VĂN HOÁ 2.1. Motif tương đồng trong truyện Cô bé Lọ Lem và Tấm Cám Qua khảo sát ta thấy được nét tương đồng giữa Type truyện về người mồ côi trong Cô bé Lọ Lem và Tấm Cám lần lượt theo các kết cấu như sau: a. Sự bạc đãi và trợ giúp thần
  3. 36 HỒ NGUYỄN BẢO NHI kỳ. b. Thay đổi thân phận bằng cuộc hôn nhân. d. Đoàn tụ và trừng phạt. Những nét tương đồng này được xuất phát từ nhiều điều kiện xã hội, lịch sử,... mà ta sẽ dễ dàng nhìn rõ hơn dưới góc nhìn nhân học văn hoá. Trong phần lớn bản kể của type truyện, cô bé Lọ Lem bị mụ dì ghẻ độc ác đối xử bất công, bị ngược đãi. Motif điển hình của tình huống này là Cô gái mồ côi bị đối xử bất công. Xung đột giữa dì ghẻ con chồng chính là mối xung đột nổi bật nhất trong type truyện Cô bé Lọ Lem. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học V.IA.Propp và E.Meletinsky: “hiện tượng “dì ghẻ” là sản phẩm của một xã hội đã chuyển sang chế độ tư hữu. Hiện tượng này cũng có mối quan hệ mật thiết với sự lạc hậu của ngành y học cổ đại, khi mà tỷ lệ người mẹ chết khi sinh nở quá cao và để có người phụ nữ trông nom gia đình, các ông bố thường nhanh chóng lấy thêm vợ kế”. Dù trong chế độ một chồng nhiều vợ, mối quan hệ trong gia đình do chế độ tư hữu tạo nên đã khiến cho xung đột giữa người vợ cả và vợ bé, dì ghẻ và con chồng ngày càng phổ biến hơn. Trong type truyện cô bé Lọ Lem, vai trò dì ghẻ hầu như tương đương với vai trò mụ phù thuỷ, việc áp dụng thủ pháp tương phản này càng làm nổi bật sự hiền lành đẹp đẽ của cô gái mồ côi. Chính vì thế nhiều tác phẩm văn học dân gian của phương Đông lẫn phương Tây đều phản ánh thực trạng này. Truyện cổ tích Tấm Cám của Việt Nam xuất hiện trong giai đoạn phong kiến là đặc trưng của chế độ tư hữu nên cũng lựa chọn motif sự bạc đãi này. Bên cạnh đó là motif người trợ giúp thần kỳ cũng mang nét tương đồng ở cả hai truyện. Như Truyện “con Tấm và con Cám” được sưu tầm ở Nghệ An công bố vào năm 1886 do Nguyễn Tấn Đắc dịch: “Đến ngày hội, mẹ con Cám lấy một đấu gạo trộn với một đấu thóc, bảo Tấm rằng: Phải nhặt cho xong mớ gạo lẫn thóc này mới được đi xem hội. Dặn xong, mụ tất tả đưa con gái đi ngay. Ngồi nhặt thóc được một lúc, Tấm bực dọc tủi nhục, oà lên khóc. Bụt lại hiện lên hỏi: Làm sao con khóc? Tấm thưa: Hôm nay là ngày hội, dì tôi đem trộn gạo với thóc, bắt nhặt cho xong mới được đi xem... Bụt bảo Tấm: Để ta sai một đàn chim sẻ xuống giúp con. Đàn chim sẻ bay xuống, kêu ríu rít, nhặt thóc ra đằng thóc, gạo ra đằng gạo. Chỉ trong chớp mắt, đàn chim đã nhặt xong”. Bởi vậy, chúng tôi cho rằng trong những mẩu truyện quen thuộc ấy ẩn chứa những ngụ ý sâu sắc về tâm lý nhân loại. Nhà tâm lý học Carl Gustav Jung chỉ ra rằng: “Ảo tưởng là một loại kinh nghiệm nguyên thuỷ thực sự, ảo tưởng trong cuộc sống hiện đại bắt nguồn từ nguyên mẫu thần thoại trong vô thức tập thể, đến nay chúng vẫn là một trong những phương pháp không thể thiếu để đạt được cân bằng về tâm lý và bù đắp tâm lý. Jung cho rằng, vô thức tập thể đã phản ánh kinh nghiệm tập thể trong quá trình tiến hoá lịch sử của toàn nhân loại. Con người từ lúc sinh ra, nội dung của vô thức tập thể đã cung cấp một mô thức được hình thành từ trước để chi phối hành vi của anh ta, nó đã quyết định tính lựa chọn của tri giác và hành vi của anh ta. Sở dĩ chúng ta có thể linh cảm tới một cái gì và luôn phản ứng một cách dễ dàng là bởi vì những thứ đó đã tồn tại sẵn trong vô thức tập thể của chúng ta (vô thức tập thể - tức là mô thức ban đầu, tất cả sự vật giống với nó đều bắt chước theo mô thức này)” [6, 378]. Khi chúng ta ở vào thế bế tắc hoặc mong muốn đạt được một ước mơ nào đó, và không thể toại nguyện bằng sức lực bình thường, vào lúc đấy, chúng ta sẽ mong ước nhận được sự trợ giúp từ một sức mạnh thần kỳ. Vì thế chúng ta có lý do tin rằng tình tiết khi cô Lọ Lem gặp phải khó
  4. TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM VÀ CÔ BÉ LỌ LEM… 37 khăn là có người trợ giúp thần kỳ xuất hiện, giúp cô giải quyết mọi khó khăn, sự xuất hiện của “người trợ giúp” trong truyện cô bé Lọ Lem, Tấm Cám nói riêng và trong cả kho tàng truyện cổ tích nói chung là một nhu cầu tự nhiên của tâm lý loài người. Đó cũng là những phương pháp không thể thiếu để đạt được cân bằng tâm lý và bù đắp tâm lý. Nhưng người trợ giúp xuất hiện bộ mặt nào thì điều đó lại có quan hệ mật thiết với tôn giáo tín ngưỡng của nơi mà bản kể đó lưu truyền. Vì thế chúng tôi cho rằng, “người trợ giúp thần kỳ” là sự kết hợp giữa nhu cầu tâm lý chung và tôn giáo tín ngưỡng riêng của từng địa phương. Mặt khác hai truyện còn có chung sự tương đồng Motif thay đổi thân phận bằng cuộc hôn nhân. Như trong bản kể truyện Tấm Cám: “...Khi Tấm đặt chân và chiếc giầy thì vừa như in, Tấm lấy chiếc giầy còn lại trong chiếc khăn đi vào thì hai chiếc giầy giống nhau như đúc. Quân lính hò reo vui mừng, ngay lập tức nhà vua cho một đoàn tỳ nữ rước nàng vào cung. Hai mẹ con nhà Cám nhìn Tấm bước lên kiệu với vẻ mặt bàng hoàng và ánh mặt chất chứa sự ghen tị…” [5]. Chồng của cô gái thường là người có địa vị và giàu có như hoàng tử, vua, tú tài… và nhờ họ đã biến đổi cuộc đời các cô từ cảnh bị ngược đãi đi đến sung sướng, từ chỗ bơ vơ đến chỗ có nơi nương tựa. Ta thấy rằng trong bối cảnh văn hoá xã hội nam quyền, nam giới ở vào vị trị chi phối và quyết định, nữ giới trở thành đối tượng bị chi phối; Muốn thay đổi vị trí của mình, người phụ nữ chỉ có cách tuân theo giá trị quan và thẩm mỹ quan trong văn hoá nam quyền để cấu tạo thuộc tính văn hoá của mình. Thân phận của người chồng là hoàng tử, quốc vương hoặc là trạng nguyên… đều chỉ tượng trưng cho địa vụ và tiền bạc mà thôi. Nếu dì ghẻ là nguyên nhân khiến Lọ Lem bị bạc đãi trong gia đình thì sự thay đổi về địa vị xã hội của cô lại bắt nguồn từ bối cảnh văn hoá nam quyền trước đây. Việc kết đôi nhằm thay đổi số phận hoàn toàn cho nhân vật cũng đã thể hiện tình cảm mà nhân dân gửi gắm trong cốt truyện. 2.2. Motif khác biệt trong truyện Cô bé Lọ Lem và Tấm Cám 2.2.1. Tên tác phẩm Đối với cái tên của cô bé Lọ Lem, Cendrillon – Lọ Lem là tên gọi trên thực tế của nhân vật chính, được lấy cảm hứng từ việc nàng ngủ giữa đám tro khi kết thúc 1 ngày làm việc nặng nhọc, không ai biết tên thật của cô gái là gì. Tên gọi này đến từ sự tổ hợp của các từ “tro” (cendre), “người bẩn thỉu” (Souillon), 2 từ luôn luôn là biểu tượng của sự nhục nhã, khổ hạnh (hình phạt). Hơn thế tro là 1 chất liệu bụi và là hệ quả của sự đốt cháy. Điều này cũng nói đến khía cạnh bẩn thỉu và nhấn mạnh vào sự nghèo khổ. Cái tên ban đầu như tiên liệu về số phận của cô gái, nhưng đồng thời tro cũng lại là biểu tượng cho sự phong phú, màu mỡ, cho sự hồi sinh. Chẳng hạn như hình ảnh biểu tượng quen thuộc ở phương Tây “Phượng Hoàng hồi sinh từ đống tro tàn”. Điều này làm nên vẻ đẹp của cái tên Cendrillon, cũng như ước vọng của nhân dân về số phận của nhân vật chính [9]. Tuy vậy nếu như trong truyện Cô bé Lọ Lem, tên truyện chỉ đề cập đến nhân vật chính là Lọ Lem – nhân vật chính diện xuyên suốt tác phẩm - thì Tấm Cám lại là cái tên thể hiện đủ hai con người đối lập nhau trong một gia đình. Sự trái ngược nhau về con người, tính cách lẫn hành động thể hiện ngay trong nhan đề tạo ấn tượng cho
  5. 38 HỒ NGUYỄN BẢO NHI người đọc. Tấm là cô con gái mồ côi hiền lành, nhân hậu còn Cám lại là người em khác mẹ độc ác, nham hiểm, luôn tìm đủ mọi cách để hãm hại Tấm. Nhan đề xuất hiện cả hai nhân vật góp phần dự báo cuộc đấu tranh sẽ diễn ra trong suốt tác phẩm giữa họ. Người đọc vì thế cũng sẽ để tâm theo dõi hai tuyến nhân vật để nhận thấy sự thay đổi bên trong con người Tấm. Đồng thời, Tấm và Cám cũng chính là tên gọi các thành phẩm trong quá trình biến cây lúa thành hạt gạo. Trong quá trình xay giã, hột mầm tróc ra khỏi hột gạo được gọi là tấm, cùng với một thứ bột mịn gọi là cám. Tuy nhiên nếu Tấm thường được dành để nấu riêng cho các bậc hương chức, lý hộ… thì Cám lại chỉ dùng cho gia súc, gia cầm trong chăn nuôi. Tấm ngon vì đó là hột mầm gạo – kết tinh của cả hột gạo để tạo ra một chồi sống khác, dù lẫn chung với Cám nhưng giá trị lại khác hoàn toàn. Cách đặt tên này mang đậm màu sắc về nguồn gốc của nền văn minh Lúa nước Việt Nam đồng thời mang tính dự báo về con người, phẩm chất và số phận của mỗi nhân vật. 2.2.2. Phát triển motif “biến hình – tranh đấu” Khi đọc Tấm Cám và Cô bé Lọ Lem, người đọc không khó để nhận thấy được ở cốt truyện Tấm Cám có nhiều chi tiết phức tạp hơn, đẩy lên cao trào hơn. Đặc biệt trong đó chính là motif “biến hình – tranh đấu” được sử dụng rất thành công, thể hiện nét đặc sắc riêng của truyện cổ tích Việt Nam. Motif “biến hình” hay còn gọi là motif “hoá thân” đã đưa mâu thuẫn dì ghẻ - con chồng lên đỉnh điểm của nó, đòi hỏi phải được giải quyết. Đồng thời, motif này cũng thể hiện sức sống và sự đấu tranh từng bước để dành lấy sự sống, giành lấy hạnh phúc của nhân vật bất hạnh. Sự hoá thân nhiều lần rồi trở về với cuộc đời của Tấm là biểu hiện sinh động của quan niệm về công bằng và hạnh phúc. Motif hoá thân, cùng với motif đánh tráo cho thấy mẹ con Cám đã nhiều lần hãm hại Tấm, mâu thuẫn gia đình đã được nâng lên thành mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giữa thiện và ác. Cái thiện càng bị o ép, áp bức, cái ác càng lộng hành tác oai, tác quái thì mâu thuẫn thiện – ác càng sâu sắc, không thể dung hoà, tạo nên không khí căng thẳng, buộc phải thay đổi. Phân tích sự hoá thân của Tấm, có người cho rằng, việc Tấm trải qua nhiều kiếp sống và trong mỗi kiếp sống ấy lại luôn bị đày đoạ là có liên quan đến thuyết luân hồi của Phật giáo. Theo chúng tôi, luận điểm này có chỗ chưa thỏa đáng, bởi vì thuyết luân hồi của Phật giáo gắn với thuyết quả báo, cho rằng nếu người ta sống đau khổ thì đó là do bản thân đã gây tội ác trong kiếp trước; nguồn gốc của sự đau khổ không phải do sự bất công trong xã hội. Trong Tấm Cám, nhân vật Tấm chết đi sống lại nhiều lần chỉ có ý nghĩa như một phương pháp xây dựng hình tượng. Chúng ta cần thấy rằng, mỗi lần bị quật ngã là mỗi lần Tấm đứng dậy, mỗi lần bị giết là mỗi lần Tấm sống lại, mạnh mẽ hơn để đấu tranh chứ không phải cứ mãi chịu đau khổ như trước nữa. Truyện kể Tấm Cám ở Việt Nam phát triển cao hơn và phức tạp hơn truyện Cô bé Lọ Lem của Châu Âu chính là ở điểm này. Nếu như Lọ Lem chỉ thử đúng giày và trở thành vợ vua là kết thúc thì Tấm phải đấu tranh cho sự sống của mình đến bốn lần. Vì vậy, ở đây phảng phất nét tính cách của người dân Việt Nam, muốn được hạnh phúc thì con người phải mạnh mẽ đấu tranh, không hề khuất phục trước kẻ xấu thì mới có được cuộc sống trọn vẹn.
  6. TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM VÀ CÔ BÉ LỌ LEM… 39 3. TRUYỆN CÔ BÉ LỌ LEM VÀ TẤM CÁM – NHỮNG KIẾN GIẢI TỪ VĂN HOÁ TỘC NGƯỜI THÔNG QUA DẤU ẤN TÍN NGƯỠNG VÀ PHONG TỤC TẬP QUÁN 3.1. Tục cưới chị em Trong bản kể Tấm Cám ta thấy tình tiết chị chết em thay chị làm vợ: “Mụ dì ghẻ lột hết quần áo của Tấm mặc vào cho Cám và đưa con gái mình vào cung vua, nói dối là Tấm không may bị ngộ cảm chết, nên đưa em vào thay chị” [5]. Đây là dấu ấn về tục cưới chị em xưa. Trong tục cưới xưa, trước khi luật pháp hôn nhân được thiết lập, những hiện tượng như anh chết, em lấy chị dâu; chị chết em gái thay chị làm vợ anh rể hoặc là hai chị em cùng lấy một chồng vẫn được chấp nhận và tồn tại dai dẳng ở một số vùng. Tục cưới chị em xuất hiện rất sớm, là hình thức quá độ từ hôn nhân ngoại tộc phát triển lên hôn nhân đối ngẫu, tức là “một người đàn ông đã cưới người chị, khi người em đến tuổi thành niên thì người đàn ông này cũng có quyền lấy người em làm vợ”. Vào thời Xuân Thu ở Trung Quốc cổ đại, các nước chư hầu đều phổ biến tục cưới chị em này. Mãi đến thời cận đại, trong một số dân tộc thiểu số tục cưới chị em vẫn còn tồn tại. 3.2. Tục ăn trầu ở Việt Nam Trong nhiều bản kể của người Việt Nam, hai vợ chồng trùng phùng lại nhờ vào miếng trầu: “Khi ăn xong, Thái tử thấy bà lão têm trầu khéo quá, bèn hỏi: Thư bà, trầu bà têm sao khéo quá, giống kiểu của vợ tôi ngày xưa... hay là... Bà lão ngắt lời: Để tôi têm cho Thái tử xem! Trong lúc bà têm trầu, Tấm hoá thành con ruồi đậu làm dấu trên lá trầu. Hễ ruồi đậu chỗ nào thì bà lão quệt vôi đúng chỗ đó, cho nên bà têm miếng trầu thật khéo. Thái tử ý thấy, lấy quạt quạt đuổi ruồi đi. Bà lão têm không được, bà bèn tỏ hết câu chuyện nuôi đứa con gái tên Tấm cho Thái tử nghe. Thái tử mừng rỡ. Tấm từ trong phòng bà lão bước ra. Thái tử và Tấm liền dắt nhau về đền”. Miếng trầu ở Việt Nam có ý nghĩa lớn trong sinh hoạt xã hội xưa. “Miếng trầu không thể thiếu được trong các nghi tiết lớn của xã hôị và gia đình: từ việc cúng cho thần cho đến việc cúng gia tiên, có thể thiếu thịt, thiếu xôi, có thể không oản không chuối, nhưng không thể thiếu hương hoa và trầu cau. Miếng trầu không thể thiếu được trong việc giao tế: “Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Miếng trầu lại cũng không thể thiếu được trong lễ vật đem biếu ai để cầu xin một việc gì: muốn được ra làng, cũng phải “biện cơi trầu”, muốn đến xin học thầy đồ, cũng phải có “cơi trầu”, muốn xin chữ “đề chủ” trong đám ma, hoặc xin đôi câu đối thờ thì cũng phải có “cơi trầu”... Miếng trầu còn là vật giao duyên nam nữ, các bậc cha mẹ thường dặn dò con gái chớ nên nhẹ dạ mà nhận miếng trầu của chàng trai đưa tặng: “Thưa rằng: bác mẹ em răn, làm thân con gái chớ ăn trầu người”. Cầm miếng trầu do người bạn trai trao, người con gái hiểu rõ đó không chỉ đơn giản là trầu: “Miếng trầu ăn nặng bằng chì, ăn rồi em biết lấy gì đền ơn.” Một khi người con gái nhận miếng trầu chàng trai tặng là đã nồng nàn say đắm lắm với quyết tâm: “Mười yêu em chỉ lấy chàng mà thôi”. Trong việc cưới xin, miếng trầu cũng có vị trí quan trọng, từ lễ chạm ngõ đến lễ lại mặt bao giờ cũng phải có cơi trầu. Đối với người Việt Nam, trầu cau là biểu tượng cho sự kính trọng, cho lòng biết ơn, cho sự tạ lỗi và tình cảm đằm thắm, là một yếu tố quan trọng trong nền văn hoá
  7. 40 HỒ NGUYỄN BẢO NHI Việt Nam. Cũng từ nguyên nhân sâu xa đó, miếng trầu trong nhiều bản kể của type truyện Tấm Cám ở Việt Nam đã dẫn dắt cho hai vợ chồng gặp lại, nối tiếp nhân duyên của đôi uyên ương. 3.3. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Ta biết rằng chức năng thờ tổ tiên vào thời kỳ nguyên thuỷ là cầu xin phù hộ, ban phúc và tăng cường sự đoàn kết trong tập thể có quan hệ huyết thống. Trong quá trình phát triển, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của Việt Nam đã chịu sự ảnh hưởng to lớn của Nho giáo và mang một số nội hàm đạo đức, ví dụ như thể hiện lòng biết ơn, hiếu thảo của người đời sau với tổ tiên. Tín ngưỡng thờ tổ tiên là sản phẩm của xã hôị thị tộc, quan hệ thân tộc huyết thống là cơ sở tâm lý của nó. Đồng thời, tín ngưỡng thờ tổ tiên hợp với quan niệm hôn nhân huyết thống đã phát triển thành tín ngưỡng thờ tổ tiên. Tín ngưỡng thờ tổ tiên sớm nhất là thờ tổ tiên chung của thị tộc, rồi sau đó là tổ tiên chung của bộ tộc, dần dần, cùng với sự xuất hiện của gia đình thì thờ cúng tổ tiên gia đình cũng ra đời. Đối tượng của tín ngưỡng thờ tổ tiên xét về bản chất là linh hồn, nhưng nó lại có quan hệ huyết thống với người thờ, người thờ có nghĩa vụ tế lễ hồn ma, hồn ma được tế lễ như thần bảo hộ của người thờ. Người nguyên thuỷ thờ cúng hồn ma tổ tiên như những vị thần linh phù trợ cho con cháu. Trong bản kể truyện Tấm Cám tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được thể hiện trong truyện qua những tình tiết như “làm ngày giỗ”, “chôn xương cá 100 ngày”. Tất nhiên, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong truyện cũng đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, chức năng thể hiện lòng biết ơn, báo hiếu với tổ tiên của tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên đã được đặc biệt tô đậm. 3.4. Ý nghĩa tín ngưỡng của Biểu tượng quả bí ngô Ta chú ý đến trong truyện Cô bé Lọ Lem chi tiết chiếc xe bí ngô - một chi tiết nổi bật mang tính đặc trưng của truyện: “bà tiên nhẹ nhàng nói, “Thời gian rất gấp rồi, bây giờ con hãy nhanh kiếm cho ta một quả bí ngô mang lại đây.” Lọ Lem không hiểu gì, nhưng cô cũng chạy đi kiếm một trái bí thật bự. Bà tiên vẫy chiếc đũa thần và lầm rầm nói những lời làm phép. “Salagadoola, Manchaca bula, bibidi-bobbed-boo.” Quả bí ngô từ từ leo lên trên cành dây, những cọng râu trở thành những bánh xe và phút chốc cả quả bí biến thành một chiếc xe ngựa kéo.”” Về cơ bản tính biểu tượng phổ quát của quả bí ngô trong nên văn hoá chung khá đa dạng và mang nhiều ý nghĩa. Nó xuất hiện ở “văn hoá Anh và trong Đạo Lão mang hàm ý liên quan đến sự hồi sinh, là biểu tượng của sự thịnh vượng, sức sống mạnh mẽ”[9]. Chính vì thế chi tiết quả bí ngô chuyển đổi, lớn dần lên như một hàm ý về sự hồi sinh, dẫn đường cho Lọ Lem đến sự thịnh vượng, đến với một cuộc sống tốt đẹp khác hẳn hoàn cảnh thực tại của cô. Việc quả bí biến thành một cỗ xe có chức năng mang vác và di chuyển cũng góp phần dẫn đường đưa Lọ Lem đến với cuộc sống mới. Đây là một biểu tượng văn hoá dường như được nhân dân ẩn dụ thể hiện niềm hy vọng cũng như sự ủng hộ của nhân dân dành cho nhân vật chính. 4. KẾT LUẬN Từ sự lý giải các vấn đề tương đồng và khác biệt trong type và motif của các truyện Tấm Cám và Cô bé lọ lem, bài viết đã cố gắng làm sáng rõ những điểm điểm nổi bật
  8. TRUYỆN CỔ TÍCH TẤM CÁM VÀ CÔ BÉ LỌ LEM… 41 của truyện kể dưới góc nhìn nhân học văn hoá từ. Từ đó, phát lộ ra những khía cạnh thuộc về chiều sâu về lịch sử, địa lý tộc người cuả mỗi dân tộc cũng như điểm sáng tạo, phát triển của nhân dân. Trên các phân tích về motif như: motif sự bạc đãi và trợ giúp thần kỳ, motif thay đổi thân phận bằng cuộc hôn nhân,… chúng ta phần nào tìm được điểm gặp gỡ về văn hoá, tư tưởng, ước mơ về cuộc sống hạnh phúc, xã hội công bằng của nhân dân Việt Nam – Đức nói riêng và nhân loại nói chung. Không chỉ vậy ta còn thấy những nét văn hoá tộc người rất riêng, mang đậm màu sắc dân tộc của mỗi truyện. Đặc biệt motif “biến hình – tranh đấu” đã tạo nên dấu ấn riêng cho truyện cổ tích Việt Nam, cho tư tưởng của nhân dân ta khi muốn được hạnh phúc thì phải có đấu tranh. Hay những phong tục tín ngưỡng phản phất trong mỗi câu chuyện cổ tích như: tục thờ cúng tổ tiên, tục ăn trầu, biểu tượng quả bí ngô…Tất cả những phân tích nói trên điều hướng đến một vấn đề, dù ở cách xa nhau về địa lý, văn hoá nhưng các quốc gia nơi câu chuyện Tấm Cám và Cô bé Lọ Lem ra đời có cùng chung một thế giới ước mơ về thế giới tốt đẹp hơn và ngầm khẳng định vinh quang luôn thuộc về những con người với đức tính đẹp đẽ. Đấy chính là thông điệp cốt lõi nhất mà truyện kể dân gian muốn chuyển tải đến thế hệ sau thông qua những câu chuyện thật giản dị. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Cô bé Lọ Lem, Wikipedia.org. [2] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007). Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục. [3] La Mai Thi Gia (2009). Nguồn gốc dân tộc học của motif tái sinh trong truyện kể dân gian Việt Nam, khoavanhoc-ngonngu.edu.vn. [4] La Mai Thi Gia (2012). Trường phái Phần Lan và phương pháp địa lý – lịch sử trong nghiên cứu truyện kể dân gian, khoavanhoc-ngonngu.edu.vn. [5] Tấm Cám, Wikipedia.org. [6] Jean Chevlier, Alain Gheerbrant (1997). Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới: Huyền thoại, chiêm mộng, phong tục, cử chỉ, dạng thể, các hình, màu sắc con số, NXB Đà Nẵng. [7] Chu Xuân Diên (1999). Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB TP. Hồ Chí Minh. [8] Trương Thìn (2007). 101 điều cần biết về tín ngưỡng và phong tục Việt Nam, NXB Hà Nội. [9] http://contes-et-symboles.e-monsite.com/pages/cendrillon.html. HỒ NGUYỄN BẢO NHI SV lớp Văn 3D, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế ĐT: 0903 515 536, Email: honguyenbaonhii@gmail.com
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2