ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM BÙI THỊ HẠNH SO SÁNH SÁCH GIÁO KHOA VĂN TUYỂN CẤP II TRONG CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC NĂM 1950 VÀ SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN TRUNG HỌC CƠ SỞ TRONG CUỘC CẢI CÁCH GIÁO DỤC NĂM 2000 Chuyên ngành: Lí luận và PPDH bộ môn Văn - Tiếng Việt Mã số: 60.14.01.11 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Mai Diễn

THÁI NGUYÊN - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và

được sự hướng dẫn khoa học của TS. Hoàng Mai Diễn. Các nội dung nghiên

cứu, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng được công bố dưới

bất kỳ hình thức nào. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin chịu hoàn

toàn trách nhiệm về nội dung luận văn của mình.

Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các

thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn

Bùi Thị Hạnh

i

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình nghiên cứu để triển khai luận văn này, tác giả luận văn

đã thực sự gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn tên luận văn, tài liệu nghiên

cứu, cách thức triển khai và trình bày một công trình nghiên cứu khoa học.

Nhưng được sự chỉ bảo, định hướng của các giáo sư, nhà khoa học về lĩnh vực

giáo dục Ngữ văn, đặc biệt là hướng dẫn tận tình, tỉ mỉ của TS Hoàng Mai

Diễn, bản thân đã nỗ lực hoàn thành luận văn đúng thời hạn và được bảo vệ

trước Hội đồng khoa học.

Chúng tôi trân trọng được gửi lời cảm ơn đến các nhà khoa học về giáo dục

Ngữ văn như GS.TS Lê A, PGS. TS Vũ Nho, PGS. TS Nguyễn Văn Lộc, PGS. TS

Nguyễn Huy Quát, PGS. TS Đỗ Ngọc Thống …các cán bộ, giảng viên Khoa Ngữ

văn, Phòng Đào tạo của Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã giúp đỡ tôi

trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu và các giáo viên dạy học

môn Ngữ văn Trường THCS Nguyễn Văn Cừ, thành phố Uông Bí tỉnh Quảng

Ninh đã giúp đỡ tôi, cảm ơn bạn bè đồng nghiệp và người thân trong gia đình

đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu.

Cuối cùng, như trên đã nói đề tài được thực hiện trong thời gian tương

đối ngắn và chúng tôi chưa thực sự có kinh nghiệm nên khó tránh khỏi các

sai sót. Vì vậy chúng tôi thực sự mong các độc giả thông cảm và gửi các ý

kiến đóng góp.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016

Tác giả

Bùi Thị Hạnh

ii

MỤC LỤC

Trang

Trang bìa phụ

Lời cam đoan ....................................................................................................i

Lời cảm ơn .......................................................................................................ii

Mục lục............................................................................................................iii

Danh mục các chữ viết tắt ..............................................................................iv

MỞ ĐẦU ..........................................................................................................1

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.........10

1.1. Quan niệm về sách giáo khoa................................................................... 10

1.2. Chức năng của sách giáo khoa ................................................................. 11

1.2.1. Chức năng thông tin kiến thức .............................................................. 13

1.2.2. Chức năng hướng dẫn chỉ đạo cho học sinh học tập .............................. 15

1.2.3. Chức năng kích thích hứng thú học tập ................................................. 16

1.2.4. Chức năng giáo dục nhân văn ............................................................... 16

1.3. Yêu cầu chung về sách giáo khoa ............................................................ 17

1.3.1. Yêu cầu về nội dung ............................................................................. 18

1.3.2. Yêu cầu về cấu trúc............................................................................... 21

1.3.3. Yêu cầu về hình thức ............................................................................ 25

1.4. Sơ lược về lịch sử phát triển sách giáo khoa Ngữ văn ở Việt Nam........... 26

Chương 2. SO SÁNH CẤU TRÚC, NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CỦA

SÁCH GIÁO KHOA VĂN TUYẾN VÀ SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN .34

2.1. So sánh cấu trúc của sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn .. 34

2.1.1. So sánh cấu trúc chung của sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa

Ngữ văn.......................................................................................................... 34

2.1.2. So sánh cấu trúc bài học trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo

khoa Ngữ văn ................................................................................................. 47

iii

2.2. So sánh nội dung dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách

giáo khoa Ngữ văn.......................................................................................... 50

2.2.1. So sánh mục tiêu dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển và

sách giáo khoa Ngữ văn.................................................................................. 50

2.2.2. So sánh hệ thống văn bản đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển và

sách giáo khoa Ngữ văn.................................................................................. 56

2.2.3. So sánh hệ thống phụ trợ dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn

tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn.................................................................... 63

2.3. So sánh hình thức trình bày trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo

khoa Ngữ văn ................................................................................................. 71

2.3.1. Hình thức trình bày trong sách giáo khoa Văn tuyển............................. 72

2.3.2. Hình thức trình bày trong sách giáo khoa Ngữ văn ............................... 73

2.3.3. Điểm giống nhau và khác nhau về hình thức trình bày trong sách giáo

khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn.................................................... 74

Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH VÀ

BIÊN SOẠN SÁCH GIÁO KHOA MÔN NGỮ VĂN TRONG TƯƠNG LAI76

3.1. Kiến nghị về việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn

Trung học cơ sở .............................................................................................. 76

3.1.1. Kiến nghị mục tiêu xây dựng chương trình ........................................... 76

3.1.2. Kiến nghị về xây dựng nội dung chương trình ...................................... 79

3.1.3. Kiến nghị về đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập....................... 82

3.2. Kiến nghị về việc biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở .... 83

3.2.1. Kiến nghị về cấu trúc của sách giáo khoa.............................................. 83

3.2.2. Kiến nghị về hình thức trình bày sách giáo khoa Ngữ văn .................... 88

KẾT LUẬN ....................................................................................................94

TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................95

PHỤ LỤC

iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Viết tắt Viết đầy đủ

SGK Sách giáo khoa

GV Giáo viên

HS Học sinh

iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Đối với giáo dục phổ thông, SGK có một vai trò quan trọng trong

quá trình dạy học.

SGK là nơi cung cấp kiến thức, tri thức bên cạnh đó còn nêu ra các ý

tưởng dạy học. SGK là tài liệu thể hiện một cách cụ thể nội dung và phương

pháp giáo dục của mỗi môn học trong nhà trường phổ thông. Theo quan điểm

biên soạn mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo hiện nay, SGK còn là công cụ tự

học tập, tự phát triển nhân cách của HS. SGK là một thành tựu khoa học, là

công trình khoa học sư phạm thể hiện những mục tiêu giáo dục. Tổ chức

UNESCO từng nhấn mạnh “SGK là một trong ba yếu tố quyết định nhất đến

chất lượng giáo dục của một quốc gia bên cạnh yếu tố giáo viên và hệ thống tổ

chức giáo dục, hệ thống chương trình” [54. tr 5].

Để làm việc với SGK, GV phải hiểu được những nội dung bài học cơ

bản, cấu trúc bài học và quan điểm biên soạn bộ sách qua từng thời kì. Đồng

thời bộ SGK mới cũng thể hiện sự tiến bộ hơn so với bộ SGK cũ. Mỗi bộ SGK

chứa đựng những kiến thức cơ bản thích hợp với nhận thức của HS, là bộ sách

dùng chung cho GV và HS. SGK có mục đích nhằm hình thành, phát triển

phương pháp tự học cho HS, nâng cao năng lực làm việc độc lập, hỗ trợ đổi

mới phương pháp dạy học ở từng cấp học theo hướng phát huy tính tích cực

chủ động của HS.

Như vậy SGK có vai trò quan trọng trong quá trình học tập và nghiên

cứu của GV và HS.

1.2. Để có thể dạy tốt bộ SGK mới GV phải có cái nhìn tổng thể, có sự

so sánh, phân tích đánh giá với bộ SGK cũ. Việc lựa chọn bộ SGK Văn

tuyển năm 1950 để so sánh vì đây là bộ SGK đầu tiên của Việt Nam trong

cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất sau năm 1945. Nghiên cứu, so sánh bộ

SGK Văn tuyển năm 1950 với bộ SGK Ngữ văn hiện nay giúp chúng ta thấy

1

được những ưu, nhược điểm của hai bộ sách. Qua đó rút kinh nghiệm để xây

dựng bộ SGK sắp tới.

Nghị quyết số 44- NQ – CP ngày 09/06/2014 Hội nghị Ban Chấp hành

Trung ương khóa XI có viết: “Khuyến khích cá nhân, tổ chức tham gia biên

soạn sách giáo khoa (sách in và sách điện tử) trên cơ sở chương trình giáo dục

phổ thông đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt, sử dụng thống nhất

trong toàn quốc. Xây dựng hệ thống ngân hàng bài giảng điện tử để giáo viên

có thể tham khảo trong quá trình dạy học”.

1.3. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị Trung ương 8

khoá XI đã xác định mục tiêu của giáo dục: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh

mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công

cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con

người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng

sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và

làm việc hiệu quả.

Xây dựng nền giáo dục mở, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo

dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao

chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc

tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản

sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên

tiến trong khu vực”.

Giáo dục là nhân tố hàng đầu cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Tiến hành

đổi mới giáo dục, vấn đề tự học giữ vai trò quan trọng. Để tiến hành việc tự học,

người học và người dạy không thể thiếu sự hỗ trợ của bộ sách giáo khoa .

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Sách giáo khoa là sách soạn theo chương

trình dùng để dạy và học trong nhà trường” [59. tr 924].

Điều lệ trường Trung học, điều 23 ghi “Sách giáo khoa Trung học bao

gồm sách bài học và sách bài tập theo danh mục được Bộ Giáo dục và Đào tạo

2

quy định để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở

trường Trung học” [11. tr 144].

Vì lí do trên chúng tôi chọn đề tài “So sánh sách giáo khoa Văn tuyển

cấp II trong cuộc cải các giáo dục năm 1950 và sách giáo khoa Ngữ Văn Trung

học cơ sở trong cuộc cải cách giáo dục năm 2000” để xem xét một cách tương

đối toàn diện về hai bộ SGK này. Đồng thời chúng tôi cũng có tiến hành đối

chiếu, so sánh hai bộ SGK để thấy được những điểm giống và khác nhau giữ

hai bộ sách. Chúng tôi hy vọng đề tài nghiên cứu này sẽ góp phần nhỏ bé vào

việc biên soạn bộ SGK Ngữ văn trong tương lai.

2. Lịch sử vấn đề

Những công trình nghiên cứu chuyên sâu về hai bộ SGK Văn tuyển cấp

II và SGK Ngữ văn không nhiều. Có thể nêu ra một số công trình của các nhà

nghiên cứu sau:

Bài viết “Một số vấn đề về đánh giá chương trình, SGK Ngữ văn hiện

hành và đề xuất định hướng biên soạn chương trình, SGK mới” của GS.

Nguyễn Minh Thuyết in trong “Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về dạy

học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam”, trong bài viết tác giả đề cập

đến vấn đề quan niệm đối tượng, tên gọi, ưu điểm và hạn chế của môn Ngữ

văn trong nhà trường phổ thông. Môn Ngữ văn là một môn học tích hợp

nhằm kết hợp năng lực phân tích với việc hình thành 4 kĩ năng nghe – nói –

đọc – viết vốn là hai quá trình gắn bó hữu cơ và hỗ trợ nhau hết sức tích

cực. Vấn đề biên soạn chương trình, SGK Ngữ văn mới cũng được tác giả

đề cập đến.

“Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông” tác giả Đỗ Ngọc

Thống đã nêu ra những vấn đề về phát triển chương trình môn học Ngữ

văn, nội dung chương trình môn Ngữ văn qua trong nhà trường phổ thông

qua các thời kì lịch sử, quan niệm dạy học tác phẩm văn chương qua

3

chương trình và phát triển chương trình giáo dục phổ thông và chương trình

môn Ngữ văn trong bối cảnh mới.

Cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách giáo

khoa” của Trần Bá Hoành. Tác giả nhận định CT phổ thông ở nước ta trải

qua ba lần thay đổi, mỗi lần thay đổi CT là mỗi lần biên soạn lại SGK. Bộ

SGK Ngữ văn được áp dụng “một chương trình - vài ba bộ SGK”. Theo tác

giả do những biến đổi bất lợi trong thực tế sử dụng ở từng địa phương thì

nên thống nhất một bộ SGK.

Tài liệu “Ngữ văn 6 sách giáo viên tập 1” do GS Nguyễn Khắc Phi làm

tổng chủ biên, tác giả đề cập đến chương trình Ngữ văn, cấu trúc nội dung và

mô hình SGK Ngữ văn Trung học cơ sở và một số vấn đề cần lưu ý trong việc

giảng dạy phân môn.

Nhan đề “Sách giáo khoa một số vấn đề lí luận và thực tiễn” là phần bốn

trong tài liệu “Nguyễn Khắc Phi tuyển tập”. GS. Nguyễn Khắc Phi giới thiệu

một số bài viết trao đổi về chương trình và SGK Ngữ văn bậc Trung học cơ sở,

nhấn mạnh một số điểm về phương pháp tiếp cận SGK mới nhằm phát huy ưu

thế của phương châm tích hợp trong quá trình dạy học bộ môn.

Trong cuốn “Những yêu cầu chủ yếu về nội dung và cấu trúc phương

pháp của sách giáo khoa phổ thông” (NXB Giáo dục – 1981) các tác giả có

nhận định SGK trên thế giới có nhiều chuyển biến cơ bản, từ những hình thức

sơ khai như viết trên đất sét, cuốn sách viết tay, cho đến những quyển SGK

hiện đại về mọi mặt nội dung và hình thức ra đời với những hình ảnh minh họa

màu sắc phong phú, tươi đẹp. Đáp ứng và phù hợp với những thành tựu văn

hóa, khoa học, kỹ thuật đặc biệt là những thành tựu về tâm lý, giáo dục học ở

các nước hiện đại trên thế giới. Chính vì vậy đối với nước ta trong giai đoạn

hiện nay cần gấp rút xây dựng một bộ SGK mới đáp ứng được yêu cầu cải cách

giáo dục. Bộ SGK Ngữ văn cũng cần có sự thay đổi phù hợp với hoàn cảnh đất

nước hiện nay.

4

“Giáo trình phương pháp dạy học văn Trung học cở sở” của GS. Nguyễn

Thanh Hùng, tác giả có nói đến những vấn đề về phương pháp dạy học môn

Ngữ văn, nguyên tắc tích hợp trong dạy học Ngữ văn ở Trung học cơ sở. Trong

chương 2 tác giả có nói về nguyên tắc tích hợp dạy học Ngữ văn ở nhà trường

phổ thông. Theo tác giả dạy học ba phân môn Văn học, Tiếng Việt và Tập làm

văn hòa trộn trong nhau, hợp nhất với nhau. Và “Việc sử dụng tích hợp ngang

và tích hợp dọc khi dạy học Ngữ văn cũng nên quan niệm một cách tương đối

linh hoạt không rập khuôn” [46. tr 23].

Tác giả Phan Trọng Luận trong cuốn “Văn học Giáo dục thế kỉ XXI” đưa

ra một số nhận xét về bộ SGK hiện nay. Theo tác giả bộ SGK hiện nay không

thể viết theo lối cũ. “Không ai lại cực đoan cho rằng những SGK chúng ta vừa

viết ra cho tiểu học và THCS hoàn toàn cũ kĩ nhưng thật sự nghiêm khắc và

khách quan thì không phải không còn những chỗ này, chỗ nọ, ở tác giả này hay

tác giả kia sự thay đổi vẫn còn manh mún chưa thực sự được hướng dẫn một

cách thật minh triết về yêu cầu hiện đại hóa phương pháp sự phạm trong từng

bài soạn SGK thế kỉ XXI. Một sự thay đổi có tính hệ hình về nguyên lí soạn

SGK hiện đại chưa thật định hình và thấu triệt” [49. tr 118].

Trong cuốn “Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông” tác

giả Đỗ Ngọc Thống đã tiến hành khảo sát SGK môn Văn từ Cách mạng tháng

Tám đến nay. Tác giả đưa ra nhận định “chúng tôi nhận thấy sự thay đổi, cải

cách chương trình, tên gọi môn học cũng có sự thay đổi” [67. tr 22]. Trước

đây bộ SGK Văn có tên là “Văn tuyển”, năm 1956 có tên gọi là “Quốc văn”,

đến năm 1979 bộ SGK lúc này có tên gọi ngắn gọn là “Văn”, hiện nay bộ

SGK có tên gọi là “Ngữ văn”. Bộ SGK Ngữ văn trung học chính thức đầu tiên

đã được biên có tên là “Văn tuyển” xuất bản từ lớp 5 đến lớp 9. Bậc trung học

cơ sở bao gồm sáu cuốn có tên đầy đủ là: Văn tuyển lớp 5 (tập 1, 2), Văn

tuyển lớp 6 (tập 1, 2), Văn tuyển lớp 7 (tập 1, 2). Bộ SGK Văn Tuyển được

xuất bản đầu tiên vào năm 1955.

5

Tác giả cũng đã so sánh chương trình, SGK Ngữ văn với các bản chương

trình SGK môn Văn ở Việt Nam thuộc những lần cải cách giáo dục trước đó.

Qua sự so sánh đó ta thấy có sự khác nhau căn bản trong việc xác định

mục tiêu dạy học. “Chương trình, SGK trước đây nhấn mạnh mục tiêu giáo dục

tư tưởng tình cảm của môn Văn, hoặc là tư tưởng, đạo đức chính trị, hoặc là

những tình cảm nhân văn cao đẹp và theo đó là sự coi trọng đặc biệt đến kiến

thức (cái cần dạy cho HS) thì chương trình, SGK lần này lại nhấn mạnh trước

hết đến mục tiêu rèn luyện năng lực văn học cho HS và cái nhấn mạnh hàng

đầu chính là kĩ năng (dạy như thế nào)” [54. tr 242].

Bộ SGK Ngữ văn bậc Trung học cơ sở được biên soạn theo chương trình

THCS ban hành kèm theo Quyết Định số 03/2002/QĐ- BCD & ĐT ngày 24

tháng 1 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào tạo, cụ thể theo hướng

“tích hợp” ba phân môn Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn gộp vào một bộ

sách có tên gọi là Ngữ văn.

Qua việc khảo sát các công trình nghiên cứu trên, có thể thấy vấn đề so

sánh hai bộ SGK chưa có công trình nào đi sâu vào tìm hiểu chi tiết và có hệ

thống. Tuy nhiên những đánh giá, ý kiến và nhận định nêu trên là cơ sở giúp

chúng tôi thực hiện luận văn này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích

Luận văn nhằm giúp giáo viên và học sinh hiểu rõ những vấn đề lí luận cơ

bản về SGK, đồng thời tiến hành so sánh hai bộ SGK “Văn tuyển” với bộ SGK

“Ngữ văn”. Luận văn còn chỉ ra những điểm khác nhau giữa hai bộ sách và ưu

nhược điểm của chúng, từ đó rút ra kinh nghiệm cho việc biên soạn bộ SGK sau

này. Qua đó, giúp GV và HS sử dụng tốt hơn, phát huy các chức năng cơ bản của

bộ SGK trong quá trình giảng dạy.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn so sánh hai bộ SGK “Văn tuyển” cấp II và “Ngữ văn” Trung

học cơ sở để thấy được điểm giống và khác nhau, ưu điểm và nhược điểm của

6

từng bộ SGK. Từ đó đưa ra đề xuất, kiến nghị trong việc xây dựng chương

trình và biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn trong thời gian tới phù hợp với định

hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Bộ SGK Văn tuyển cấp 2 bao gồm:

+ “Văn tuyển lớp 5” (tập 1, 2) do tác giả: Nguyễn Tiến Cường - Nguyễn

Đăng Châu - Nguyễn Đăng Ngọc - Nguyễn Nghĩa Dân - Hoàng Trọng Oanh,

Bộ Giáo dục phổ thông xuất bản lần thứ nhất năm 1955.

+ “Văn tuyển lớp 6” (tập 1, 2) Nguyễn Nghĩa Dân - Nguyễn Đăng Châu -

Nguyễn Đăng Ngọc, Bộ Giáo dục phổ thông xuất bản lần thứ nhất năm 1955.

+ “Văn tuyển lớp 7” (tập 1, 2) Nguyễn Đăng Ngọc - Hoàng Trọng Hanh

- Nguyễn Nghĩa Dân, Bộ Giáo dục phổ thông xuất bản lần thứ nhất năm 1955.

- Bộ SGK Ngữ văn bậc Trung học cơ sở bao gồm:

+ “Ngữ văn 6” (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn

Đình Chú (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng

Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Bùi Mạnh Nhị - Nguyễn

Quang Ninh – Đỗ Ngọc Thống biên soạn.

“Ngữ văn 6” (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn

Đình Chú (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng

Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Nguyễn Văn Long –

Nguyễn Quang Ninh – Đỗ Ngọc Thống biên soạn.

+ “Ngữ văn 7” (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) - Nguyễn

Đình Chú- Nguyễn Minh Thuyết- Đỗ Kim Hồi- Nguyễn Văn Long- Bùi Mạnh

Nhị- Lê Xuân Thại - Đỗ Ngọc Thống biên soạn.

“Ngữ văn 7” (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn

Đình Chú (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng

7

Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Đỗ Kim Hồi – Nguyễn

Văn Long – Bùi Mạnh Nhị - Đỗ Ngọc Thống biên soạn.

+ “Ngữ văn 8” (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) - Nguyễn

Hoàng Khung (Chủ biên phần Văn) - Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần

Tiếng Việt) - Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) - Lê A- Diệp Quang

Ban- Hồng Dân - Đỗ Kim Hồi - Bùi Mạnh Hùng - Lê Quang Hưng - Lê Xuân

Thại- Lã Nhâm Thìn - Đỗ Ngọc Thống - Phùng Văn Tửu biên soạn.

“Ngữ văn 8” (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn

Hoành Khung (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần

Tiếng Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Lê A – Diệp

Quang Ban – Hồng Dân – Đỗ Kim Hồi – Bùi Mạnh Hùng – Lê Quang Hưng –

Lê Xuân Thại – Lã Nhâm Thìn – Đỗ Ngọc Thống – Phùng Văn Tửu biên soạn.

+ “Ngữ văn 9” (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) - Nguyễn

Văn Long (Chủ biên phần Văn) - Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng

Việt) - Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) - Diệp Quang Ban - Hồng

Dân - Bùi Mạnh Hùng - Lê Quang Hưng - Lã Nhâm Thìn - Đỗ Ngọc Thống -

Trịnh Thị Thu Tiết - Phùng Văn Tửu biên soạn.

“Ngữ văn 9” (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn Văn

Long (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt)

– Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Lê A – Diệp Quang Ban – Lê

Quang Hưng – Lê Xuân Thại – Đỗ Ngọc Thống – Phùng Văn Tửu biên soạn.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu, tìm hiểu và so sánh hai bộ SGK “Văn tuyển

năm 1955” bao gồm: Văn tuyển lớp 5, 6 và 7 (tập 1 và 2). Bộ SGK “Ngữ văn năm

2002” bậc Trung học cơ sở bao gồm: Ngữ văn lớp 6, 7, 8 và 9 (tập 1 và 2).

5. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp sử dụng trong luận văn là:

+ Phương pháp nghiên cứu lí thuyết, nghiên cứu liên ngành, phân tích

tổng hợp các tài liệu có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài đang

được triển khai.

8

+ Phương pháp so sánh đối chiếu nhằm đưa ra những kết luận, những quan

điểm về bộ SGK từ đó đề xuất ý kiến cá nhân xây dựng bộ SGK mới sau 2015.

6. Đóng góp của đề tài

6.1. Luận văn hệ thống hóa về SGK nhằm giúp giáo viên và học sinh

hiểu những vấn đề cơ bản, khái quát về hai bộ sách.

6.2. Luận văn là cơ sở lí luận để giáo viên và học sinh phát huy vai trò

tích cực của bộ SGK, sử dụng trong giảng dạy thực tế một cách hiệu quả. Từ

việc phân tích, so sánh cấu trúc hai bộ SGK luận văn đề ra một số ý kiến đóng

góp thiết kế bộ SGK mới sau năm 2015.

7. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lí luận chung của đề tài.

1.1. Quan niệm về sách giáo khoa

1.2. Chức năng của sách giáo khoa

1.3. Yêu cầu chung về sách giáo khoa

1.4. Sơ lược về lịch sử phát triển sách giáo khoa Ngữ văn ở Việt Nam

Chương 2: So sánh cấu trúc, nội dung và hình thức của sách giáo

khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn.

2.1. So sánh cấu trúc của sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa

Ngữ văn

2.2. So sánh nội dung dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển

và sách giáo khoa Ngữ văn

2.3. So sánh hình thức trình bày trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách

giáo khoa Ngữ văn

Chương 3: Một số kiến nghị về xây dựng chương trình và biên soạn

sách giáo khoa môn Ngữ văn trong tương lai

3.1. Kiến nghị về việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông môn

Ngữ văn Trung học cơ sở

3.2. Kiến nghị về việc biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở

9

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Trong chương 1 này, tác giả luận văn sẽ tổng hợp một số vấn đề chung

liên quan đến đề tài như khái niệm, chức năng, yêu cầu của sách giáo khoa và

sơ lược về lịch sử phát triển SGK Ngữ văn ở Việt Nam.

1.1. Quan niệm về sách giáo khoa

SGK là một tài liệu dạy học quan trọng trong nhà trường phổ thông,

nhưng cho đến nay khái niệm về SGK chưa có sự thống nhất.

Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: “Sách giáo khoa là sách soạn theo

chương trình dùng để dạy và học trong nhà trường” [59. tr 924].

Luật Giáo dục, chương 2 mục 2 điều 29 quy định: “Sách giáo khoa cụ

thể hóa yêu cầu về nội dung kiến thức và kĩ năng quy định trong chương trình

giáo dục của các môn học ở những lớp của giáo dục phổ thông, đáp ứng yêu

cầu về phương pháp giảng dạy phổ thông. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo

ban hành chương trình phổ thông, duyệt sách giáo khoa để sử dụng chính thức,

ổn định của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thông và

sách giáo khoa” [10. tr 16].

Điều lệ trường Trung học, điều 23 ghi “Sách giáo khoa Trung học bao

gồm sách bài học và sách bài tập theo danh mục được Bộ Giáo dục và Đào tạo

quy định để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở

trường Trung học” [11. tr 144].

Tác giả Trần Bá Hoành đưa ra quan niệm về SGK như sau: “SGK theo

cách hiểu thông thường là sách viết cho học sinh, căn cứ và chương trình đã

được xác định chính thức” [43. tr 189].

Trong cuốn sách “Những yêu cầu chủ yếu về nội dung và cấu trúc

phương pháp của sách giáo khoa phổ thông”, tác giả…… đưa quan niệm về

SGK như sau: “Sách giáo khoa trường phổ thông là một loại hình sách dành

cho học sinh nghiên cứu học tập với sự chỉ đạo của giáo viên. Đó là cách học

tập chính thức, có tính tiêu chuẩn đối với học sinh, giúp các em nắm vững

10

kiến thức, rèn luyện kĩ năng và tư duy một cách tích cực, có ý thức để phát

triển nhân cách và đào luyện mình thành con người mới xã hội chủ nghĩa

Việt Nam” [55. tr 10].

TS Trần Đức Tuấn trong bài viết “Sách giáo khoa và vấn đề nghiên cứu

sách giáo khoa ở Việt Nam” đưa ra khái niệm về SGK (được hiểu là một bộ

SGK) “là loại sách dùng riêng cho các trường phổ thông, là phương tiện dạy

học đặc biệt do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn thẩm định, duyệt và

sử dụng chính thức, thống nhất ổn định trong giảng dạy, học tập ở nhà trường

và các cơ sở giáo dục khác nhằm thực hiện những mục tiêu cơ bản của giáo dục

phổ thông” [54.tr 37].

Mặc dù có nhiều cách diễn đạt khác nhau, nhưng các khái niệm trên đều

đề cập đến những nội dung cụ thể sau: SGK là sách soạn theo chương trình

trong nhà trường phổ thông, được biên soạn với mục đích dạy và học nhằm

cung cấp những kiến thức và kĩ năng cho HS.

1.2. Chức năng của sách giáo khoa

Chức năng của SGK đã được đề cập đến trong một số cuốn sách và bài

viết cụ thể sau:

Trong cuốn sách “Những yêu cầu chủ yếu vế nội dung và cấu trúc

phương pháp của sách giáo khoa phổ thông”, (NXB Giáo dục – 1981) các tác

giả đã đưa ra ba chức năng của SGK:

1. Chức năng thông tin: Đây là chức năng thông báo những nội dung:

khoa học, tài liệu, bao gồm phương pháp của bộ môn khoa học, phương pháp

tư duy và và phương pháp học tập bộ môn.

2. Chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập: SGK phải góp phần phát triển tư

duy, năng lực độc lập học tập và sáng tạo. Ngoài ra SGK còn phát triển kỹ năng và

năng khiếu, giúp HS có thể tự học, tự rèn luyện, và tự kiểm tra đánh giá.

3. Chức năng kích thích hứng thú học tập: Ngoài hai chức năng trên,

SGK phổ thông còn có nhiệm vụ kích thích HS lòng say mê học tập, yêu thích

bộ môn và thấy được vui, hạnh phúc trong lao động, học tập và khám phá.

11

Bài viết “Sách giáo khoa và vấn đề nghiên cứu sách giáo khoa ở Việt

Nam” trong cuốn “Sách giáo khoa trong xã hội hiện đại” TS. Trần Đức Tuấn đã

chỉ ra SGK có hai chức năng sau:

1. Chức năng trung tâm (định hướng và hỗ trợ phát triển bền vững): SGK

những kiến thức, những vấn đề, những kĩ năng, những viễn cảnh và những giá

trị phát triển bền vững về 3 phương diện: môi trường, kinh tế và xã hội phải

được thể hiện đầy đủ rõ nét trong chương trình SGK.

2. Các chức năng cơ bản gồm 4 chức năng: thông tin/ tái tạo, định hướng

tổ chức dạy học (Điều khiển), tạo động cơ, gây hứng thứ và kiểm tra, đánh giá.

Trong bài viết tác giả đã đưa ra một số ý kiến của các tác giả ở châu Âu

về chức năng của SGK: “Trong những thập kỉ cuối thế kỉ thứ XX, khi đề cập

các chức năng của SGK nhiều tác giả ở châu Âu thường nhấn mạnh đến các

chức năng sư phạm và lí luận dạy học và thống nhất khi cho rằng các chức

năng tái tạo (thông tin), chức năng điều khiển, chức năng luyện tập và kiểm

tra, chức năng tạo động cơ, gây hứng thú học tập là những chức năng rất cơ

bản của SGK” [54. tr 38].

Tuy nhiên, các tác giả còn đề cập đến một số chức năng khác nữa. Dưới

đây là kết quả nghiên cứu chức năng của SGK của một số tác giả:

Hacker Quan niệm Sujew (Liên Xô cũ, Sorina (Liên Xô (CHLB Đức, chung ở CHDC 1983) cũ, 1983) 1980, 1992) Đức (1980)

1. Tái hiện 1. Chuyển đạt thông 1. Thông tin 1. Thông tin/

2. Điều khiển tin 2. Điều khiển Chuyển đạt thông

3. Ôn tập, kiểm tra, 2. Củng cố, tự kiểm tra 3. Củng cố kết tin

đánh giá 3. Tự giáo dục, quả 2. Điều khiển

4. Cấu trúc Liên kết/ phối hợp 4. Kích thích 3. Tự giáo dục,

5. Tạo động cơ 4. Nghiên cứu 5. Hợp lí hóa tổ Liên kết/ phối hợp

6. Phân hóa giáo dục/ phát chức DH 4. Nghiên cứu giáo

triển dục/ phát triển

12

Trong cuốn sách “Các vấn đề sách giáo khoa” (NXB Giáo dục- 1998) tác

giả đưa ra hai chức năng của SGK:

1. Chức năng thông tin tức là chức năng cung cấp kiến thức cho HS.

2. Chức năng dạy học và phát triển. Là chức năng hướng dẫn phương pháp

học tập, nghiên cứu, trên cơ sở củng cố và phát triển năng lực tư duy của HS.

Trong luận văn này, tác giả luận văn quan niệm SGK gồm có bốn chức

năng sau: chức năng thông tin kiến thức, chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập,

chức năng kích thích hứng thú học tập và chức năng giáo dục nhân văn.

1.2.1. Chức năng thông tin kiến thức

Chức năng thông tin kiến thức là chức năng truyền thống, chức năng

quan trọng nhằm thông báo nội dung khoa học, nội dung tài liệu, phương pháp

dạy học. Một số quan điểm cho rằng chức năng thông tin kiến thức là chức

năng duy nhất còn các chức năng khác có thể không cần thiết, chỉ là sự kéo

theo. Trong quá trình giảng dạy, GV phải thực hiện được chức năng thông tin,

bản thân GV phải hướng dẫn HS kích thích hứng thú học tập cho HS. Vì vậy,

SGK cần được tổ chức tốt hệ thống thông tin kiến thức nhằm phục vụ cho việc

giảng dạy và học tập của GV và HS.

Chức năng thông tin thể hiện qua nội dung SGK, được trình bày dưới

dạng kênh hình (hình ảnh, sơ đồ, biểu đồ…) và kênh chữ. Thông thường, sách

giáo khoa bậc Tiểu học kênh hình và kênh chữ gần như tương đương nhau. Còn

SGK Trung học cơ sở và Trung học phổ thông kênh hình chiếm số lượng ít hơn

kênh chữ. Kênh chữ trong SGK giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện chức

năng thông tin. Lượng kênh hình trong SGK phải có sự tính toán phù hợp sao

cho HS lĩnh hội kiến thức một cách phù hợp và không để HS phân tán. Kênh

chữ và kênh hình là những thông tin được dùng chủ yếu trong SGK ở các cấp

học. Vì vậy, chúng cần phải được thể hiện chính xác, khoa học, hài hòa về mặt

thẩm mỹ, phù hợp với tâm lí từng cấp học và đặc biệt phải mang tính sư phạm.

Các thông tin trong SGK qua kênh chữ và kênh hình thường đa dạng, phong

13

phú được đưa ra dưới dạng gợi mở, đòi hỏi ở người học tư duy linh hoạt mới có

thể giải quyết vấn đề được đặt ra. Kênh hình bao gồm ảnh chụp, tranh ảnh, hình

vẽ, sơ đồ, các hình ảnh khá rõ nét chi tiết mang tính cân đối thẩm mỹ…phù hợp

với kênh chữ, thể hiện đúng đối tượng nghiên cứu, phù hợp với môi trường sư

phạm. Kênh hình có khả năng kích thích hứng thú học tập, tạo tâm thế học tập

cho HS, nó có giá trị rất lớn về vấn đề nhận thức của HS.

Nội dung và lượng thông tin trong SGK gồm những đơn vị kiến thức

môn học. Kiến thức không bao giờ đứng yên mà luôn vận động, kiến thức trong

SGK thì phải ổn định, lâu dài. Giải quyết vấn đề này chức năng thông tin phải

hướng đến tính khoa học, ổn định, tính vừa sức và tính hấp dẫn. SGK là bộ

sách được biên soạn phù hợp với từng cấp học, chính vì vậy lượng kiến thức

phải đảm bảo vừa sức với học sinh từng cấp học. Kiến thức được thể hiện ở

nhiều mức độ khác nhau như: khái niệm, quy luật, định lí, định nghĩa, quy

tắc…SGK cấp trên không thể dùng được cho cấp dưới và ngược lại. Đặc biệt

đơn vị kiến thức được đưa vào SGK phải phù hợp với từng lứa tuổi, đặc điểm

tâm lí của HS. Khác với những loại sách khác kiến thức trong SGK phải

được lựa chọn, đưa vào chương trình những kiến thức phổ thông cơ bản,

chuẩn mực và ổn định. Số lượng, chất lượng và sự bố trí, sắp xếp thông tin

trong mỗi bài học phải đảm bảo yêu cầu vừa sức với mỗi HS. Tiến trình

những kiến thức được chuyển tải qua nội dung các môn học ở các khối lớp

từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao.

SGK không những cung cấp thông tin kiến thức mà còn chỉ dẫn các cách

lĩnh hội những kiến thức đó, trang bị cho HS phương pháp tư duy, học tập, rèn

luyện kỹ năng thực hành. SGK trong nhà trường phổ thông đã trở thành tài liệu

định hướng, hỗ trợ phương pháp dạy và học cho GV và HS.

Hệ thống bài tập, câu hỏi trong SGK phải bám sát nội dung bài học, vừa

kích thích hứng thú học tập của HS, giúp HS tự nghiên cứu, tìm ra phương

pháp tự học. Qua đó tạo điều kiện cho HS khai thác kiến thức mới của bài học,

14

làm xuất hiện tình huống có vấn đề. GV hướng dẫn HS quan sát, tìm tòi, giải

thích và phân tích cách giải quyết vấn đề một cách hợp lí. Vì vậy nội dung

thông tin trong mỗi cuốn SGK phải được xây dựng theo một hệ thống, một

phương pháp nhất định.

1.2.2. Chức năng hướng dẫn chỉ đạo cho học sinh học tập

So với các loại sách khác, SGK thể hiện tương đối rõ chức năng hướng

dẫn chỉ đạo học tập.

SGK hiện đại cần tập trung giúp học sinh có được phương pháp tự học

để góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy, HS chuyển từ học tập thụ động

sang học tập chủ động tích cực. SGK cần chuyển trình bày kiểu thông báo, giải

thích sang cách tổ chức chỉ đạo hoạt động học tập. Việc đổi mới này giúp GV

phát triển các phương pháp dạy học tích cực, tạo hứng thú cho HS trong quá

trình học tập góp phần phát triển tư duy, năng lực học tập sáng tạo và phát triển

những kỹ năng cho HS.

Cấu trúc bài học trong SGK mới chủ yếu xoay quanh thiết kế các hoạt

động học tập khám phá. Hoạt động học tập khám phá thể hiện ở nhiều dạng

khác nhau như trả lời câu hỏi, điều vào phiếu học tập, lập bảng, lập sơ đồ, đóng

kịch, thảo luận về một vấn đề, các bảng đáp số, những bài đọc thêm… Tương

ứng với các hoạt động trên GV có các hình thức tố chức hoạt động: cá nhân,

theo cặp, theo nhóm, sắm vai…

GV là người dẫn dắt HS, đưa HS vào các tình huống cụ thể, buộc HS

phải làm việc, tư duy, tự mình tìm ra đáp án. Thông qua các hoạt động học tập

đó HS xây dựng được cho bản thân khả năng tìm tòi, khám phá, phát hiện các

tình huống có vấn đề, khả năng làm việc cá nhân và theo nhóm. Cách học tập

này kích thích khả năng tự học cho HS, thúc đẩy các em tự khám phá bài học,

tự trau dồi những kiến thức của bản thân. Nếu SGK đem kiến thức cho HS dưới

dạng sẵn có, HS sẽ khó nắm vững kiến thức, khả năng ghi nhớ chỉ là máy móc

theo công thức nhất định.

15

Chức năng hướng dẫn chỉ đạo học tập ở mỗi bài học trong SGK nhằm

hình thành kiến thức, kỹ năng, thái độ, mục tiêu học tập cho HS. Chức năng

hướng dẫn chỉ đạo học tập luôn đi cùng với chức năng thông tin kiến thức, qua

đó trang bị cho HS những phương pháp tư duy, phương pháp học tập và kỹ

năng vận dụng thực hành. Chính vì vậy, kiến thức trong SGK được xây dựng

theo những hệ thống về phương pháp và trình tự nhất định để HS sử dụng hệ

thống kiến thức làm tư liệu học tập dưới chỉ đạo, dẫn dắt của GV.

1.2.3. Chức năng kích thích hứng thú học tập

Bản thân SGK đã chứa đựng nhiều yếu tố kích thích hứng thú học tập,

tìm tòi, ham hiểu biết và tính tích cực tư duy cho HS. Trong cuốn sách huy tính

tích cực học tập của học sinh như thế nào” K.Đ.Usinxki có viết: “…môn học

phải giới thiệu cho chúng ta điều mới lạ có tác dụng hoặc bổ sung, hoặc xác

nhận, hoặc bác bỏ, hoặc phân tích cái đã có sẵn trong đầu óc chúng ta; tóm

lại, đó là cái mới lạ có thể làm thay đổi một cái gì đó trong các dấu vết đã hằn

sâu trong chúng ta” [76. tr 71].

Để thực hiện chức năng này, chương trình và SGK cần có sự ổn định

tương đối ở các cấp học. Nội dung SGK cần được gọn nhẹ, đảm bảo cho HS

nắm vững những kiến thức cơ bản, hiện đại, tiên tiến về phương pháp giảng

dạy. Nâng cao sức hấp dẫn của bộ SGK phổ thông sao cho HS dễ nhớ, dễ hiểu.

Hình ảnh minh họa phải hấp dẫn, màu sắc hài hòa phù hợp với tâm lí HS. Ngôn

ngữ trong sử dụng trong SGK đảm bảo sự chính xác, giàu hình ảnh, chuẩn mực,

chuẩn về chính tả, về viết hoa, phiên âm và phù hợp với lứa tuổi HS.

Như vậy mới tạo sự hứng thú, kích thích học tập, say mê sáng tạo và

nâng cao sự hiểu biết cho HS.

1.2.4. Chức năng giáo dục nhân văn

SGK thực hiện các nguyên tắc chung như đảm bảo mục tiêu giáo dục,

đặc trưng bộ môn, phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh. Một cuốn

SGK thông thường không chỉ nhằm truyền thụ kiến thức cơ bản, mà có thể còn

16

phát triển khả năng nhận biết cho HS. Nhận biết những vấn đề cơ bản trong xã

hội, gia đình, văn hóa, dân tộc…Chức năng giáo dục nhân văn được biểu hiện

rõ trong SGK các môn khoa học xã hội và nhân văn. Chức năng giáo dục tư

tưởng, tình cảm đạo đức không chỉ thông qua những bài học mà còn thông qua

những tranh ảnh minh họa trong SGK. Chức năng giáo dục thẩm mỹ của tranh

ảnh bao hàm cả chức năng giáo dục tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho HS.

SGK giáo dục HS về nhân cách, đạo đức, tình yêu quê hương đất nước, đem lại

cho HS tinh thần say mê học tập, khám phá thế giới, nó phải đồng bộ và phù

hợp với mục tiêu chương trình.

1.3. Yêu cầu chung về sách giáo khoa

Những yêu cầu đối với SGK đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến

trong nhiều tài liệu khác nhau:

Trong cuốn sách “Những yêu cầu chủ yếu về nội dung và cấu trúc phương

pháp của sách giáo khoa phổ thông”, tác giả đã đưa ra 3 yêu cầu của SGK:

1. Những yêu cầu về nội dung. Về nội dung SGK, cần quán triệt 5 yêu

cầu: biên soạn theo đúng yêu cầu của chương trình bộ môn, SGK phải đảm bảo

kiến thức khoa học cơ bản nhất, nội dung phải đảm bảo thấm nhuần thế giới

quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng, nội dung phải đảm bảo tính thực

tiễn và nội dung phải được viết theo quan điểm giáo dục kỹ thuật tổng hợp.

2. Các yêu cầu về cấu trúc phương pháp của SGK. Yêu cầu về cấu trúc và

phương pháp cần đảm bảo tính vừa sức, đảm bảo cách trình bày và phát triển tư

duy, rèn luyện con người thông minh, sáng tạo, đảm bảo cách trình bày nhất quán

đối với từng loại kiến thức trong một cuốn SGK, thuộc một bộ môn trong một cấp

học và phải đặc biệt quan tâm đến các thành phần ngoài bài học của SGK.

3. Một số yêu cầu về hình thức trình bày và minh họa đối với SGK mới:

về hình thức trình bày cần đảm bảo những yêu cầu sau: hình thức cân đối, hài

hòa, phải có tác dụng hướng dẫn tốt và phù hợp với yêu cầu vệ sinh về mắt. Về

hình ảnh minh họa cần đảm bảo các chức năng như: chức năng thông tin, chức

17

giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức và giáo dục thẩm mỹ. Ngoài ra còn đáp ứng

một số tiêu chuẩn cơ bản như: tính khoa học, tính sư phạm và tính thẩm mỹ.

Trong bài viết “Những yêu cầu đặt ra đối với sách giáo khoa” in trong

cuốn “Sách giáo khoa trong xã hội hiện đại”, ThS. Bùi Tất Tươm chỉ ra, SGK

cần phải đảm bảo 4 yêu cầu sau:

1. Nội dung tri thức truyền thụ phải cơ bản, chính xác và hiện đại. Những

tri thức đã trở thành không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại của xã hội văn

minh và không thể vắng mặt trong SGK phổ thông. Tốt nghiệp Trung học cơ

sở, HS không viết sai chính tả, không nói sai ngữ pháp, không dùng sai từ…

2. Về cách thức trình bày nội dung. Người biên soạn phải phát huy cao

độ những ưu điểm đã đạt được trong SGK mới hiện nay. Một bộ SGK viết đủ

rõ và một bộ sách giáo viên viết đủ cho GV thống nhất nội dung dạy là một

điều cần thiết.

3. Về hình thức sách giáo khoa. Hình thức cần đáp ứng yêu cầu như: bìa

cứng, trình bày đẹp, có màu sắc đường nét hợp với lứa tuổi HS. Giấy trắng hơn,

kênh hình được tăng cường, kiểu chữ và cỡ chữ cũng cần phải quan tâm đúng mức.

4. Khâu phát hành và tổ chức sử dụng sách giáo khoa phải đảm bảo

những yêu cầu đề ra.

Trong luận văn này, tác giả luận văn quan niệm SGK cần phải đảm

bảo được 3 yêu cầu sau: Yêu cầu về nội dung, yêu cầu về cấu trúc và yêu cầu

về hình thức.

1.3.1. Yêu cầu về nội dung

SGK là một phương tiện dạy học dùng trong trường phổ thông, cho một

đối tượng rộng lớn, đa dạng về các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội.

SGK trình bày những nội dung cơ bản, chính xác, khoa học và hiện đại, biên

soạn theo một chương trình giáo dục đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Trong cuốn “Sách giáo khoa trong xã hội hiện đại”, TS Vũ Văn Thành

có suy nghĩ như sau trong bài “Hiểu đúng vai trò của sách giáo khoa để soạn và

18

dạy cho tốt” có viết: “Sách giáo khoa là quyển sách quy định nội dung cơ bản

của môn học trong chương trình, dựa vào đấy giáo viên dạy cho học trò phương

pháp củng cố và phát triển kiến thức, tiếp tục học tập để làm việc có hiệu quả”

[54. tr 54]. Yêu cầu về nội dung được thể hiện cụ thể như sau:

1.3.1.1. Nội dung SGK phải được biên soạn theo đúng yêu cầu của

chương trình giáo dục phổ thông đã được ban hành

Đây là yêu cầu chung, có tính tất yếu. SGK không thể tách rời chương

trình giáo dục phổ thông của môn học

Nội dung cần phải đảm báo tính hệ thống: Tức là tuân theo hệ thống các

chương, các mục được sắp xếp hợp lí đảm bảo tính khoa học, sư phạm. Không

thể đảo lộn trật tự, hệ thống, cấu trúc theo quan điểm cá nhân. Đảm bảo quan

điểm khoa học, quan điểm học thuật do chương trình quy định. Không thể tự ý

đưa thêm vào chương trình những quan điểm học thuật trái với quy định, lạc

hậu, lỗi thời, không hợp với thuần phong mĩ tục, mang tính phản động.

SGK phải luôn bám sát các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng

và nhà nước trong cải cách giáo dục. Mục tiêu của việc đổi mới biên soạn SGK

phổ thông nhằm xây dựng chương trình, phương pháp giáo dục, nâng cao chất

lượng dạy và học. Đổi mới nội dung SGK phải được thực hiện đồng bộ theo

đúng tiêu chuẩn đặt ra.

1.3.1.2. Sách giáo khoa phải đảm bảo kiến thức khoa học cơ bản

Những kiến thức, phương pháp khi đưa vào SGK phải được chọn lọc,

sắp xếp hết sức cẩn thận theo một trình tự khoa học hợp lí.

Việc lựa chọn sắp xếp kiến thức phải đảm bảo các yêu cầu sau:

Cần phân biệt đơn vị và yếu tố kiến thức: đơn vị kiến thức được hiểu là

kiến thức cơ bản như khái niệm, qui tắc, qui luật, định lý, định luật…Đơn vị

kiến thức là do chương trình quy định. Cuốn “Những yêu cầu chủ yếu về nội

dung và cấu trúc phương pháp của sách giáo khoa phổ thông” các tác giả có

viết: “Có thể thống nhất với nhau rằng đơn vị kiến thức là một kiến thức cơ bản

19

có cấu trúc trọn vẹn và có thể hình thành cho học sinh qua một tiết giảng hoặc

vài tiết giảng là cùng” [55. tr 20].

Cấu trúc của kiến thức có thể nhiều tầng bậc, phụ thuộc vào các yếu tố

như: cấu trúc chương trình, học thuật, cách lựa chọn trình tự thông tin cần

chuyển tải đến HS…Chương trình không thể quy định cụ thể các đơn vị kiến

thức, nhiệm vụ của người biên soạn chính là sắp xếp, tổng hợp lại các đơn vị

kiến thức đó. Cuốn “Những yêu cầu chủ yếu về nội dung và cấu trúc phương

pháp của sách giáo khoa phổ thông” có định nghĩa về yếu tố kiến thức như sau:

“Yếu tố kiến thức là các bộ phận kiến thức nhỏ hơn kết hợp lại với nhau theo

một angorit nào đó để tạo thành một đơn vị kiến thức” [55. tr 20].

Việc lựa chọn các yếu tố kiến thức đưa và chương trình tuân thủ theo

các yêu cầu:

Thứ nhất: kiến thức được lựa chọn phải là những gì cơ bản, chọn lọc, có

tính ổn định lâu dài, phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi HS. Mạnh dạn gạt bỏ

những yếu tố kiến thức vụn vặt hoặc tính chất thời sự nhất thời.

Hai là: tránh tối thiểu hiện tượng trùng lặp kiến thức. Lượng kiến thức

được đưa vào SGK các môn học cần được kiểm duyệt kĩ lưỡng để tránh hiện

tượng xuất hiện đồng thời cùng một lúc.

Ba là: chọn các yếu tố kiến thức phù hợp với tâm sinh lí tuổi học trò, trên

hết là phù hợp với khả năng nhận thức, tiếp nhận của HS.

1.3.1.3. Nội dung phải đảm bảo tính khoa học và thực tiễn

Nội dung giáo dục trong SGK cần quán triệt đầy đủ các Nghị quyết của

Đảng, đảm bảo thực tiễn ở Việt Nam. Thực tiễn được đưa vào SGK phải có

tính cơ bản, tính hiện đại phù hợp với nhận thức của HS.

Hệ thống kiến thức khoa học được đưa vào SGK trước hết phải hình

thành cho HS thế giới quan khoa học. Chính vì vậy trong quá trình biên soạn

cần lựa chọn những kiến thức phù hợp, hợp lí về khoa học tự nhiên, khoa học

xã hội đây chính là nhiệm vụ của bộ SGK. SGK mới đòi hỏi phải phát huy

20

nguyên tắc lấy HS làm trung tâm, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo

của HS trong quá trình học tập ở tất cả các khâu.

Cuốn “Những yêu cầu chủ yếu về nội dung và cấu trúc phương pháp của

sách giáo khoa phổ thông”, tác giả có viết: “Quan điểm lịch sử cụ thể cũng tạo

điều kiện nâng cao tính khoa học của các kiến thức, làm cho các em nắm kiến

thức sâu sắc hơn. Đồng thời nó giúp học sinh thấy rằng nhận thức là một quá

trình lịch sử ngày càng đi sâu vào bản chất của sự vật, rằng khoa học phát triển

dưới ảnh hưởng của thực tiễn sản xuất xã hội và rồi tác động ngược lại, ảnh

hưởng tới sự phát triển của thực tiễn sản xuất” [55. tr 23].

Thế giới quan duy vật biện chứng đã được các nhà biên soạn SGK lựa

chọn đưa vào, hình thành cho HS những nhận biết từ đơn giản đến phức tạp. Để

HS nắm rõ được sức mạnh của khoa học trong thời đại hiện nay. Đồng thời

SGK cần chỉ rõ cho HS những tư tưởng yêu nước tiến bộ, cách mạng, lên án

những tư tưởng phản động ảnh hưởng xấu đến chủ nghĩa xã hội. Xây dựng và

hình thành cho HS tinh thần đoàn kết, yêu Tổ quốc, niềm tự hào dân tộc, bảo vệ

vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa.

1.3.2. Yêu cầu về cấu trúc

Cuốn “Những yêu cầu chủ yếu về nội dung và cấu trúc phương pháp của

sách giáo khoa phổ thông” tác giả đưa ra định nghĩa cấu trúc phương pháp của SGK

là: “Cấu tạo logic của sự trình bày các nội dung của sách” [55. tr 26]. Cấu trúc SGK

phải đáp ứng được đầy đủ những quan điểm của lý luận dạy học và phương pháp

dạy học bộ môn. Cấu trúc SGK cần đảm bảo những yêu cầu sau:

1.3.2.1. Cấu trúc chung của sách giáo khoa

Nghị quyết 40/2000/QH10 và chỉ thị 14/2001/CT-TTG về đổi mới

chương trình giáo dục phổ thông, SGK với tư cách là một văn bản được sử

dụng chính thức, ổn định trong dạy học ở trường phổ thông. Theo đó SGK vừa

cung cấp thông tin vừa hướng dẫn HS hình thành và phát triển phương pháp kĩ

năng học tập, nghiên cứu, giúp HS vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn

21

đề, các tình huống có vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập. SGK phải phù

hợp với tâm sinh lí từng lứa tuổi, phù hợp với khả năng nhận thức của từng HS

ở từng cấp học nhất định.

Nhìn chung, cấu trúc của SGK thường gồm ba phần: phần mở đầu, phần

giữa và phần cuối SGK.

Phần mở đầu SGK:

Trang bìa chính được in màu ghi tên môn học và nhà xuất bản, trang bìa

lót ghi tên Bộ Giáo dục và Đào tạo, tên các tác giả biên soạn, tên sách và tên

lớp, tập một hay tập hai, số lần tái bản, tên nhà xuất bản. Trang bìa chính được

tận dụng để chuyển tải nội dung một cách triệt để. Trang mở đầu thường nằm ở

tập một của bộ sách là “Lời nói đầu” về quyết định ban hành bộ SGK, giới

thiệu quan điểm biên soạn bộ môn, phương pháp học tập, cách thức học

tập…Trang mở đầu SGK chưa được chú trọng nhiều, phần hướng dẫn sử dụng

sách hầu như không có. Phương pháp học tập có được đề cập đến nhưng sơ

lược và chung chung chưa có sự cụ thể cho từng môn học, chưa tạo được hứng

thú cho HS khi cầm vào cuốn sách. Yêu cầu về phần mở đầu trong SGK cần

phải đáp ứng được về mặt thẩm mĩ, khoa học, sư phạm và sự hứng thú của HS.

Tùy theo đặc điểm mỗi môn học phần mở đầu mỗi cuốn sách có thể thêm một

số kí hiệu chú thích cách viết tắt, hoặc thuật ngữ khoa học được thống nhất sử

dụng trong bộ SGK.

Phần chính SGK:

Phần chính SGK bao gồm các chương, các mục, các bài học cụ thể được

phân chia theo đặc trưng bộ môn. Những đơn vị kiến thức được trình bày dưới

dạng kênh chữ và kênh hình, những câu hỏi bài tập chỉ dẫn cách tiến hành lĩnh

hội các đơn vị kiến thức.

Phần chính cần đảm bảo trình bày một cách khoa học, hợp lí và cân đối

với các chương, mục và những bài học.

22

Phần cuối SGK:

Tùy theo từng môn học nội dung phần cuối có sự khác nhau, nhưng cấu

trúc chung đảm bảo bao gồm những phần sau:

Phần mục lục: tùy theo từng môn học phần mục lục có thể là danh mục

các bài học, tác giả, tác phẩm, bảng tổng kết từ ngữ, các đơn vị kiến thức như

kí hiệu, công thức, đơn vị đo lường…

Phần tra cứu: tra cứu từ mới, bảng tên riêng, thuật ngữ khoa học của từng

chuyên ngành khác nhau…Được sắp xếp theo thứ tự ABC và ghi theo số thứ tự

từng trang trong SGK.

Phần câu hỏi thêm và trả lời bài tập: câu hỏi thêm và trả lời bài tập

thường ngắn gọn, tổng hợp các kiến thức của các bài học.

Bìa phụ: ghi tên nhà xuất bản, năm xuất bản, ban biên tập của bộ SGK.

1.3.3.2. Cấu trúc một chương sách giáo khoa

Tùy theo từng môn học mà SGK có thế được cấu trúc theo phần hay

chương. Một chương SGK có thể cấu trúc như sau:

Trang mở đầu của mỗi chương hay mỗi bài học bao gồm tên chương, số

thứ tự của chương. Mở đầu mỗi chương là những kiến thức khái quát toàn

chương, những vấn đề cần nghiên cứu, kết quả cần đạt.

Các bài học trong một chương được bố trí giảng dạy theo phân phối

chương trình đã đặt ra, cụ thể hóa kiến thức đặt ra trong chương.

Cuối mỗi chương có những phần như sau:

Tóm tắt nội dung kiến thức cơ bản của chương và phần bài tập củng cố thêm

cho HS. Phần nội dung kiến thức cơ bản là những kiến thức học sinh phải nắm chắc

sau khi kết thúc một chương. Phần bài tập củng cố dựa theo đặc trưng bộ môn có

thể là những bài tập thực hành thí nghiệm, bài tập trắc nghiệm, bài tập tự luận, dựa

vào đó có thể đánh giá khả năng tiếp thu bài học của HS.

Khác với các SGK khác SGK Ngữ Văn được chia thành các bài học Văn

bản, Tiếng Việt, Tập làm văn.

23

1.3.3.3. Cấu trúc bài học trong sách giáo khoa

Bài học là hình thức cơ bản, chủ yếu của việc tổ chức học tập và giảng

dạy trong nhà trường phổ thông. Bài học có liên quan đến chương trình và

biên soạn SGK.

Tác giả Trần Thanh Bình trong bài viết “Nghiên cứu cấu trúc đơn vị bài

học trong SGK Văn học PTTH Cộng hòa Liên bang Nga” có nhận xét về bài

học như sau: “Theo truyền thống của lí luận dạy học và phương pháp dạy học

bộ môn, bài học được xác định là hình thức cơ bản, chủ yếu nhất của việc tổ

chức các hoạt động dạy học trong nhà trường. Mỗi bài học là một đơn vị, đơn

vị đó vận dụng nhiều phương pháp, biện pháp sư phạm phong phú, đa dạng để

tổ chức các tập thể học sinh thực hiện hoạt động học tập trong một thời gian

nhất định và theo một thiết kế dạy học nhất định. Như một chỉnh thể kiến thức,

mỗi bài học đều có mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, hình thức, tiến trình, phương

pháp, biện pháp dạy học…của mình; đồng thời, như một mắt xích nhận thức,

mỗi bài học đều có những mối liên hệ logic, mật thiết với các bài học trước và

sau nó trong một chương trình dạy học- giáo dục thống nhất” [1. tr 63].

Cấu trúc bài học trong SGK có thể mô tả như sau:

Phần mở bài: nhằm xác định mục tiêu cần đạt (kết quả cần đạt) của bài

học. Phần này được trình bày ngắn gọn, súc tích, nêu lên các phương pháp

học tập của bài học nhằm hướng HS đến đích cuối cùng. Tùy theo đặc

trưng của môn học, phần mở bài có thể trình bày một thí nghiệm, một câu

đố vui hay một hiện tượng làm nảy sinh vấn đề nghiên cứu. Phần mở bài

nhằm tạo tâm thế cho HS hứng thú khi bước vào bài học. GV có thể sử

dụng phần này như lời vào bài.

Nội dung bài học: thường gồm 3 phần thông báo các kiến thức bài học,

xử lí kiến thức, kết quả cần đạt được. Kiến thức trong bài học được chuyển tải

dưới dạng kênh chữ và kênh hình. Kênh chữ có thể là các văn bản, các sự kiện,

các quy luật, kí hiệu…Kênh hình thường là những hình ảnh kèm theo để minh

24

họa cho kênh chữ được rõ ràng. Nội dung bài học thể hiện qua tên bài học

nhằm dẫn dắt HS đến vấn đề cần giải quyết được đặt ra. Xử lí kiến thức là cách

GV hướng dẫn HS lần lượt giải quyết các hoạt động, các câu hỏi của bài học,

GV có thể đặt ra các tình huống có vấn đề để HS tìm cách trả lời. GV có thể tổ

chức các hoạt động cho HS như học tập trao đổi thảo luận theo nhóm, thí

nghiệm thực hành, hay tổ chức các trò chơi nhằm dẫn dắt HS xử lí kiến thức

của bài học. Qua việc xử lí kiến thức dưới sự chỉ đạo của GV, HS phải tự mình

rút ra kết luận cho bài học. Đây chính là cái đích cuối cùng cần hướng tới.

Thành phần này yêu cầu HS phải chiếm lĩnh được ngay sau khi xử lí các kiến

thức. Hình thức trình bày của mục kết quả cần đạt thường là phần đóng khung,

hay chữ in nghiêng, tô đậm.

Phần bài tập: tùy theo đặc trưng từng môn học mà số lượng bài tập có thể

dao động ít hay nhiều. Đặc trưng truyền thống là các bài tập dưới dạng tự luận,

GV có thể ra thêm một số bài tập củng cố kiến thức bài học cho HS dưới

dạng câu hỏi trắc nghiệm nhiều đáp án. Nội dung câu hỏi hướng vào vận

dụng các kiến thức đã học ở bài học. Dựa vào mức độ bài tập có thể đánh

giá được sự tiếp thu bài học của HS. Tăng cường một số dạng bài tập tạo

lập, nhận biết cho HS.

Dựa vào cấu trúc bài học GV có thể xây dựng được phương pháp dạy

học, thiết kế bài học phù hợp.

1.3.3. Yêu cầu về hình thức

Yêu cầu về hình thức trình bày liên quan đến vấn đề tâm lý của HS phổ

thông, hình thức phải cân đối, hài hòa. Việc trình bày bộ SGK cần đảm bảo sự

cân đối giữa kênh chữ và kênh hình. Kênh chữ trong SGK có vai trò lớn đối với

việc phát triển năng lực của HS. Kênh hình có chức năng chủ yếu nhằm đa

dạng hóa nguồn kiến thức, là một phương tiện trực tiếp quan trọng góp phần

tích cực vào quá trình tiếp thu kiến thức của HS. Tạo hình ảnh, rèn luyện kĩ

năng, kỹ xảo giúp HS lĩnh hội kiến thức một cách sinh động, tạo hứng thú với

bài học. Ngoài ra lượng kênh hình trong SGK còn có vai trò quan trọng trong

25

việc giáo dục thái độ, tư tưởng, tình cảm và đạo đức cho HS. Lượng kênh hình

cần được chú trọng và được tăng cường nhiều hơn nữa trong bộ SGK, việc sử

dụng kênh hình là một biện pháp hữu hiệu nằm trong tổng thể những biện pháp

nhằm phát triển năng lực cho HS. Bài học trong SGK cần được sử dụng nhiều

hình ảnh minh họa hơn, màu sắc trong kênh hình được in màu hơn thay vì hai

màu trắng đen như hiện nay. Màu sắc sử dụng cần hài hòa, hợp lý phù hợp với

lứa tuổi HS Trung học cơ sở.

Kiểu chữ và cỡ chữ cần được trình bày theo đúng chuẩn mực được đề ra.

Sử dụng kiểu chữ và cỡ chữ làm nổi bật sự phân chia chương, mục, bài học, thể

loại, chú thích và bài tập. Mật độ chữ và chế độ dãn dòng, sử dụng phông chữ

cơ bản phải phù hợp với HS. Ví dụ như: Đầu đề của chương, mục được in đậm

bằng cỡ chữ lớn ở giữa trang giấy. Tên bài học được in bằng cỡ chữ bình

thường, chú thích in nghiêng bằng cỡ chữ nhỏ.

Màu sắc sử dụng để minh họa hình ảnh, phông chữ trong SGK đạt theo

chuẩn mực được đề ra. Màu sắc hài hòa phù hợp với từng cấp học. Ví dụ cấp

Tiểu học sử dụng những màu sắc tươi vui, dí dỏm, cấp Trung học cở sở và

Trung học phổ thông sử dụng những gam màu trầm. Những đường nét như nét

đậm, nét nhạt hoặc những đường nét đứt cần được chú ý đến độ đậm nhạt.

Sử dụng một số kí hiệu in ở phần lề trang SGK để báo cho HS biết đâu là

phần kết quả cần đạt, chú thích, câu hỏi đọc hiểu và phần luyện tập. Một số kí

hiệu trong SGK có tác dụng hướng dẫn HS.

Ví dụ: Chú thích về tác giả, thể loại của tác phẩm: ()

Ý chính: 

Bài tập nâng cao: *

1.4. Sơ lược về lịch sử phát triển sách giáo khoa Ngữ văn ở Việt Nam

Từ năm 1945 đến nay chúng ta đã trải qua bốn lần thay đổi SGK: lần

thứ nhất năm 1950, lần thứ hai năm 1954, lần thứ ba năm 1981 và lần thứ

tư năm 2002.

Lần thứ nhất năm 1950, Việt Nam tiến hành cuộc cải cách giáo dục với

việc thay đổi hệ thống giáo dục phổ thông từ 12 năm xuống còn 9 năm cho phù

26

hợp với điều kiện đất nước lúc bấy giờ. Chương trình giáo dục phổ thông môn

Văn được xây dựng theo nguyên tắc “dân tộc, khoa học, đại chúng”. Tài liệu

giảng dạy của môn Ngữ văn trong nhà trường chủ yếu dựa vào cuốn “Việt Nam

văn học sử yếu” của Dương Quảng Hàm được biên soạn trước năm 1945. Việc

biên soạn bộ SGK cũng được tiến hành nhanh chóng “Tháng 8 năm 1950, Bộ

tổ chức một Trại Tu ở Phú Thọ gồm 30 giáo viên có kinh nghiệm để viết sách,

sau vì tình hình chiến sự lại phải tạm ngừng. Đến năm 1951, Trại Tu thư được

tổ chức ở lại Tuyên Quang và đã hoàn thành viết sách giáo khoa về khoa học tự

nhiên” [64. tr 77]. Do tình hình chiến tranh đến năm 1956 bộ SGK Ngữ văn

đầu tiên mới được hoàn chỉnh và xuất bản.

Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc cuộc kháng chiến 9

năm chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Hòa bình được lập lại nhưng sau

hiệp định Giơ - ne - vơ Việt Nam bị chi cắt làm hai miền Nam - Bắc. Cuộc cải

cách giáo dục lần thứ hai được tiến hành năm 1956, miền Bắc Việt Nam quân

Pháp đã hoàn toàn rút khỏi nhưng miền Nam vẫn chịu sự đô hộ của đế quốc Mĩ

và chính quyền tay sai. Cách mạng Việt Nam xác định hai nhiệm vụ: Miền Bắc

xây dựng chủ nghĩa xã hội, Miền Nam tiếp tục cuộc các mạng dân tộc dân chủ

nhân dân. Ngay sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, hệ thống giáo dục phổ

thông được thay đổi 10 năm thay vì 9 năm như trước kia. Hệ thống giáo dục 10

năm gồm ba cấp: cấp 1 (4 năm), cấp 2 (3 năm), cấp 3 (3 năm). Công cuộc biên

soạn SGK được diễn ra nhanh chóng, khẩn trương. Cuộc cải cách giáo dục lần

này nhằm mục tiêu đào tạo, bỗi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những người công

dân có ích cho xã hội và đất nước.

Trong cuốn “Giáo trình Lịch sử Giáo dục học Việt Nam (từ thời phong

kiến đến năm 1975)” Vũ Văn Thái và Vũ Thị Huệ đã đưa ra dẫn chứng sau:

“Chỉ trong vòng một năm đã cho phát hành hơn sáu mươi loại sách giáo

khoa lớn nhỏ từ lớp 1 đến lớp 10, có nội dung tư tưởng và khoa học phong

phú”[64. tr 93]. Theo đó bộ SGK ở cấp 1 gồm hai phân môn “Tập đọc” và

“Tiếng Việt”, cấp 2 và cấp 3 gọi là môn “Quốc văn” được chia làm ba phân

môn rõ ràng: Giảng văn, Ngữ pháp và Tập làm văn, từ lớp 5 đến lớp 7. So

27

với hai bộ SGK trước đây, bộ SGK này cơ bản có nhiều điểm tương đồng về

cấu trúc bài học và nguyên tắc sắp xếp các bài học. SGK mới đã chính thức

có các bài đọc thêm cho HS, có các bài đọc dành riêng cho HS miền núi.

Phần văn học dành riêng cho HS miền núi sau này được biên soạn thành

chương trình văn học địa phương.

Trong cuốn “Chương trình phổ thông cấp II môn Quốc Văn” xuất bản

năm 1956 (trang 1 – 25) có nêu ra nhiệm vụ của môn Quốc Văn được xác định

rõ ở ba lĩnh vực đó là: lĩnh vực kiến thức, kĩ năng và tư tưởng. Cụ thể như sau:

“ - Về mặt kiến thức, việc dạy Quốc Văn cấp II nhằm mục đích:

1) Giới thiệu cho học sinh những thơ ca truyền miệng, những văn thơ

viết có giá trị tư tưởng và nghệ thuật của văn học Việt Nam từ xưa đến nay,

những khái niệm về các loại văn, những kiến thức sơ lược về những giai đoạn

lớn của văn học nước nhà.

2) Cung cấp cho học sinh một số vốn từ ngữ cần dùng cho việc học các

môn học khác, cho việc hoạt động sau này trong các ngành sản xuất, đồng thời

dạy cho các em cách cấu tạo và biến nghĩa của các từ, cách diễn đạt bóng bẩy,

cô đọng, chính xác của ngôn ngữ Việt Nam.

3) Đặc biệt dạy cho các em hiểu được nội dung tư tưởng và giá trị nghệ

thuật của một số tác phẩm dài qua đặc điểm của nhân vật, tình tiết, bố cục, hình

tượng, ngôn ngữ của tác phẩm ấy.

- Về mặt kỹ năng, việc dạy Quốc Văn ở cấp II nhằm mục đích giúp học

sinh biết đọc có ý nhị, gợi cảm, biết diễn đạt ý tưởng gọn gàng, chính xác trong

khi nói và viết.

- Về mặt tư tưởng, mục đích dạy văn học ở cấp II là lấy nghệ thuật văn

chương trong các loại tác phẩm nói trên để xây dựng cho học sinh một thế giới

quan tiến bộ và giáo dục các em theo tinh thần đạo đức cách mạng. Cụ thể là:

1) Giáo dục cho các em biết yêu đất nước Việt Nam giàu đẹp, tiếng nói

Việt Nam uyển chuyển, văn vẻ; văn học Việt Nam phong phú; nhân dân Việt

Nam cần cù, anh dũng…

28

2) Rèn luyện cho các em tinh thần tự tôn dân tộc kết hợp với tinh thần

quốc tế, lòng kính mến lãnh tụ, lòng thiết tha yêu mến chế độ dân chủ nhân dân

tiến lên xã hội chủ nghĩa và chí kiên quyết bảo vệ xây dựng chế độ ấy.

3) Giáo dục cho các em phẩm giá con người mới, có ý thức tập thể, tự

giác, có thái độ đúng đắn đối với lao động và sẵn sàng tham gia lao động để

thiết thực phục vụ nhân dân.

4) Giáo dục cho các em ghét cay ghét đắng xã hội người bóc lột người,

xã hội dưới chế độ thực dân phong kiến thối nát, căm thù sâu sắc bọn đế quốc

gây chiến, phá hoại hòa bình mà hiện nay đầu sỏ là đế quốc Mĩ và giai cấp địa

chủ đã hàng nghìn năm kìm hãm đàn áp nhân dân ta, cấu kết với giặc ngoại

xâm để phản lại dân tộc”.

Căn cứ vào chương trình Quốc Văn thì bộ SGK Ngữ Văn chính thức đầu

tiên được do Bộ giáo dục biên soạn và xuất bản từ lớp 5 đến lớp 7 có tên gọi là

Văn tuyển. Bộ SGK “Văn tuyển” được biên soạn chưa có sự thống nhất về cấu

trúc tổng thể như bộ SGK Ngữ văn hiện nay.

1. Văn tuyển lớp 5 (tập 1, 2) do Nguyễn Tiến Cường, Nguyễn Đăng Châu,

Nguyễn Đăng Ngọc, Nguyễn Nghĩa Dân và Hoàng Trọng Oanh biên soạn.

2. Văn tuyển lớp 6 (tập 1, 2) do Nguyễn Nghĩa Dân, Nguyễn Đăng Châu

và Nguyễn Đăng Ngọc biên soạn.

3. Văn tuyển lớp 7 (tập 1, 20 do Nguyễn Đăng Ngọc, Hoàng Trọng Oanh

và Nguyễn Nghĩa Dân biên soạn.

Theo đó SGK “Văn tuyển” lớp 5 (tập 1, 2) được biên soạn theo từng loại

bài học: loại miêu tả, loại kể chuyện, loại ca dao cổ. SGK “Văn tuyển” lớp 6

(tập 1, 2) và lớp 7 (tập 1, 2) được biên soạn theo từng phần: phần thứ nhất là

văn chương cách mạng và kháng chiến - văn dịch, phần thứ hai là cổ văn và ca

dao cổ. Bộ SGK Văn ban đầu còn sơ sài, được in trên giấy đen khá mộc mạc.

Lần thứ ba năm 1981, nhằm thống nhất nền giáo dục chung cho cả nước

chương trình giáo dục phổ thông được xây dựng 12 năm. Thực hiện nghị quyết của

Bộ Chính trị, Bộ Giáo dục Việt Nam cho tiến hành biên soạn bộ SGK mới. Bộ

SGK lúc này có tên ngắn gọn là “Văn” bao gồm: Văn 6, Văn 7, Văn 8 và Văn 9.

29

1. Văn 6 (Tập 1, 2) do Huỳnh Lý, Võ Phi Hồng, Nguyễn Quốc Túy

biên soạn.

2. Văn 7 (Tập 1, 2) do Vũ Ngọc Khánh, Tống Trần Ngọc, Nguyễn Ngọc

Hóa biên soạn.

3. Văn 8 (Tập 1) do Nguyễn Sĩ Cần, Nguyễn Quốc Túy biên soạn.

Văn 8 (Tập 2) do Nguyễn Sĩ Cần, Nguyễn Quốc Túy, Vũ Ngọc Khánh

biên soạn.

4. Văn 9 (Tập 1, 2) do Nguyễn Lộc và Đỗ Quang Lưu biên soạn.

Lần thứ tư năm 2002 chúng ta thay đổi bộ SGK nhằm đáp ứng nhu cầu

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bộ SGK được biên soạn theo hướng

tích hợp giữa các phân môn Văn- Tiếng Việt- Tập làm văn. Có tên gọi là “Ngữ

văn” bao gồm:

1. Ngữ văn 6 (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn

Đình Chú (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng

Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Bùi Mạnh Nhị - Nguyễn

Quang Ninh – Đỗ Ngọc Thống biên soạn.

Ngữ văn 6 (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn Đình

Chú (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt)

– Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Nguyễn Văn Long – Nguyễn

Quang Ninh – Đỗ Ngọc Thống biên soạn.

2. Ngữ văn 7 (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) - Nguyễn

Đình Chú- Nguyễn Minh Thuyết- Đỗ Kim Hồi- Nguyễn Văn Long- Bùi Mạnh

Nhị- Lê Xuân Thại - Đỗ Ngọc Thống biên soạn.

Ngữ văn 7 (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn Đình

Chú (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt)

– Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Đỗ Kim Hồi – Nguyễn Văn

Long – Bùi Mạnh Nhị - Đỗ Ngọc Thống biên soạn.

3. Ngữ văn 8 (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) - Nguyễn

Hoàng Khung (Chủ biên phần Văn) - Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần

Tiếng Việt) - Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) - Lê A- Diệp Quang

30

Ban- Hồng Dân - Đỗ Kim Hồi - Bùi Mạnh Hùng - Lê Quang Hưng - Lê Xuân

Thại- Lã Nhâm Thìn - Đỗ Ngọc Thống - Phùng Văn Tửu biên soạn.

Ngữ văn 8 (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn

Hoành Khung (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần

Tiếng Việt) – Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Lê A – Diệp

Quang Ban – Hồng Dân – Đỗ Kim Hồi – Bùi Mạnh Hùng – Lê Quang Hưng –

Lê Xuân Thại – Lã Nhâm Thìn – Đỗ Ngọc Thống – Phùng Văn Tửu biên soạn.

4. Ngữ văn 9 (tập 1) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) - Nguyễn Văn

Long (Chủ biên phần Văn) - Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt)

- Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) - Diệp Quang Ban - Hồng Dân -

Bùi Mạnh Hùng - Lê Quang Hưng - Lã Nhâm Thìn - Đỗ Ngọc Thống - Trịnh

Thị Thu Tiết - Phùng Văn Tửu biên soạn.

Ngữ văn 9 (tập 2) do Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) – Nguyễn Văn

Long (Chủ biên phần Văn) – Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên phần Tiếng Việt)

– Trần Đình Sử (Chủ biên phần Tập làm văn) – Lê A – Diệp Quang Ban – Lê

Quang Hưng – Lê Xuân Thại – Đỗ Ngọc Thống – Phùng Văn Tửu biên soạn.

Nếu như trước đây SGK Ngữ văn được biên soạn theo ba bộ sách: Văn

học, Tiếng Việt, Tập làm văn, hiện nay chỉ còn một bộ sách duy nhất là Ngữ

văn. Sự đổi mới rõ nét trong việc biên soạn đó là tích hợp theo chiều ngang ba

phân môn: Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn vào một chỉnh thể gọi là Ngữ văn.

Qua đó đã kế thừa những thành tựu các phân môn Văn – Tiếng Việt và Tập làm

văn trước đây đạt được. Lần cải cách này vừa kế thừa và phát triển các kinh

nghiệm sẵn có của những lần biên soạn, xuất bản SGK trước đó. SGK lần này

được biên soạn nhằm thực hiện các mục tiêu của cấp học, nhằm hình thành phát

triển năng lực tự học, nâng cao năng lực làm việc độc lập, tư duy sáng tạo của

HS. Việc sát nhập ba cuốn sách làm một không phải là sự sát nhập một cách

máy móc ba phân môn mà là sự đáp ứng yêu cầu tích hợp của chương trình

Ngữ văn mới. Nhằm hướng đến việc rèn luyện kỹ năng đọc văn làm văn và

củng cố phát triển kỹ năng tiếng Việt cho HS.

31

Sự tích hợp này thể hiện cụ thể trong từng bài học. Bao gồm phần Văn

bản, Tiếng Việt và Tập làm văn, tạo sự thuận lợi cho việc học tập của học sinh,

đảm bảo tính liên thông, đồng bộ nhất quán của hệ thống chương trình môn

học. Phần Văn bản bao gồm phần đọc hiểu, văn bản văn học cấu trúc theo thể

loại hoặc theo trục lịch sử. Phần Tiếng Việt có hai kiểu cấu trúc theo chủ điểm

nội dung và theo hệ thống kiến thức ngôn ngữ, nội dung bài Tập làm văn được

cấu trúc theo hệ thống kiểu bài làm văn. GV khi tiến hành dạy học đơn vị kiến

thức của một trong ba phần, đồng thời cũng tích hợp dạy học được hai phần

còn lại. Nguyên tắc tích hợp phát huy vai trò tích cực học tập, rèn luyện của

học sinh tạo theo quen tự học. Trong một hệ thống bài học có sự liên kết chặt

chẽ giữa ba phần với nhau tạo nên một hệ thống chỉnh thể. Bên cạnh việc tích

hợp theo chiều ngang thì SGK Ngữ văn mới còn được tích hợp theo chiều dọc

của nội dung chương trình. Theo đó kiến thức được học ở lớp trên bao giờ cũng

cao hơn và bao hàm kiến thức ở lớp dưới theo vòng đồng tâm. Hai vòng ở cấp

THCS lớp 6, 7 là vòng 1, lớp 8, 9 là vòng 2. Việc tích hợp SGK như vậy sẽ tiết

kiệm được nhiều mặt đặc biệt chương trình học trở nên khoa học, chặt chẽ hơn.

Phần đọc hiểu văn bản có thể lấy làm ngữ liệu minh họa cho phần Tiếng Việt

và Tập làm văn. Điểm tích cực của bộ SGK mới đó là sự kết hợp hài hòa giữa

kiến thức với phương pháp theo trình tự: thông tin – kỹ năng – thái độ. Nội

dung kiến thức có sự tinh giản, gãy gọn, chặt chẽ, vận dụng có chọn lọc các

nguyên tắc xây dựng chương trình Ngữ văn của các nước tiên tiến trên thế giới.

SGK Ngữ văn Trung học còn được biện soạn theo nguyên tắc tích cực. GS.VS

Nguyễn Cảnh Toàn trong cuốn “Đổi mới việc biên soạn trình bày và sử dụng

sách giáo khoa” đã viết như sau: “SGK Ngữ văn đã được biên soạn theo hướng

phát huy cao độ tính tự giác, chủ động của người học- của chủ thể học sinh-

trung tâm của quá trình dạy học Ngữ văn. Thật ra nguyên tắc này đã được ý

thức từ vài ba thế kỷ trước, và đã được thực hiện trong những bộ SGK Trích

giảng văn học, Văn, Văn học, Từ ngữ và Ngữ pháp, Tiếng Việt và Tập làm

văn… Thế nhưng đến bộ SGK Ngữ văn hiện nay, nguyên tắc này đã được thấu

32

triệt hơn nữa, thêm một bước quan trọng về nhận thức. Đây là bộ SGK dạy cho

học sinh có thể học và tự học chính là quan niệm tiên tiến và hiện đại của SGK

thế giới trong thời đại hiện nay. SGK hướng vào học sinh, giúp học sinh tự phát

triển. Sao cho SGK vừa khái quát sâu sắc, vừa tinh giản, nhẹ nhàng vừa định

hướng thiết thực” [71. tr 120].

Bộ SGK trong lần cải cách này đã đáp ứng được như cầu của đất nước ta

trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin hiện nay, phát huy vai trò tích cực

của học sinh, rèn luyện cho học sinh có thói quen tự học, thích hợp với tâm

sinh lí lứa tuổi. Một số cuốn SGK hiện đại hiện nay được biên soạn và thiết kế

theo lối mới như in màu, nhiều hình ảnh sinh động, hấp dẫn, nội dung bài học

đa dạng. Thời đại công nghệ thông tin như hiện nay người ta khó có thể chấp

nhận những cuốn SGK chỉ thiên về cung cấp kiến thức dưới dạng lý thuyết khô

cứng, không chú trọng việc thực hành, ứng dụng kiến thức và thực tiễn. Trong

thế kỉ XXI, SGK phải trở thành phương tiện, công cụ hữu ích cho sự phát triển

bền vững của giáo dục.

Mặc dù bộ SGK Ngữ văn được nhiều nhà khoa học biên soạn nhưng thực

tế vẫn còn một số hạn chế nhất định. Như phần học tập của học sinh, phần

hướng dẫn tự học, tự chiếm lĩnh của học sinh nói chung bị xem nhẹ. Hệ thống

câu hỏi và nội dung chưa phù hợp phương pháp giảng dạy trong nhà trường

phổ thông, thiếu định hướng cho GV.

GS.TS Đinh Quang Báo trong cuốn “Xã hội với sách giáo khoa - tập 2”

nhận xét: “So với khu vực và thế giới thì CT và SGK đổi mới lần này của

chúng ta tuy có cố gắng nhưng chưa kịp họ, chưa kịp cả về khối lượng kiến

thức và chất lượng nội dung” [12. tr 57]. Việc biên soạn SGK ở Việt Nam còn

nhiều hạn chế, nhưng qua đó đã để lại kinh nghiệm, lý luận khoa học thiết thực

cho lần biên soạn đổi mới SGK sau năm 2015.

Do khuôn khổ của luận văn, ở đây chúng tôi chỉ nghiên cứu về nội dung

dạy học đọc hiểu văn bản trong SGK Văn tuyển, và SGK Ngữ văn.

33

Chương 2

SO SÁNH CẤU TRÚC, NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CỦA SÁCH GIÁO

KHOA VĂN TUYẾN VÀ SÁCH GIÁO KHOA NGỮ VĂN

- So sánh cấu trúc của SGK Văn tuyển và SGK Ngữ văn

- So sánh nội dung dạy học đọc hiểu văn bản của SGK Văn tuyển và SGK Ngữ văn

- So sánh hình thức của SGK Văn tuyển và SGK Ngữ văn

2.1. So sánh cấu trúc của sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

Trong phần này, tác giả luận văn sẽ tập trung làm rõ hai nội dung nhỏ là so

sánh cấu trúc chung và cấu trúc bài học trong SGK Văn tuyển và SGK Ngữ văn.

2.1.1. So sánh cấu trúc chung của sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo

khoa Ngữ văn

2.1.1.1. Cấu trúc chung của sách giáo khoa Văn tuyển

Bộ SGK Văn tuyển cấp II (lớp 5, 6, 7) bao gồm 6 cuốn, mỗi lớp có 2

cuốn học trong hai học kỳ. Cấu trúc của các cuốn SGK Văn tuyển cơ bản là

giống nhau, có thể chia thành các phần sau: hệ thống trang bìa, lời giới thiệu,

hệ thống các bài học, mục lục và thông tin xuất bản.

Hệ thống trang bìa bao gồm bìa chính và bìa phụ. Bìa chính và bìa phụ

của SGK Văn tuyển thống nhất với nhau, bao gồm các thông tin sau: quốc hiệu,

tên tác giả, tên cuốn sách, lớp, cấp học, số tập sách, cơ quan ban hành, nhà xuất

bản, địa điểm và năm xuất bản. Phần quốc hiệu ghi trên trang bìa bao gồm hai

dòng chữ “VIỆT – NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA” và “Độc lập – Tự do –

Hạnh phúc”. Phần thông tin về tác giả ghi đầy đủ họ tên của tất cả các tác giả

biên soạn sách. Tên sách “VĂN TUYỂN” được viết in hoa cỡ chữ to ở chính

giữ trang bìa. Tiếp theo là thông tin về lớp và cấp học. Ví dụ ghi rõ “LỚP

NĂM” hoặc “LỚP SÁU” hoặc “LỚP BẢY” và thông tin “TRƯỜNG PHỔ

THÔNG CẤP II”. Bên dưới trang bìa ghi rõ cơ quan “BỘ GIÁO DỤC”.

34

Ví dụ: Trang bìa của SGK Văn tuyển lớp 5, 6, 7

Lời giới thiệu bao gồm hai nội dung là “Lời nói đầu” và giới thiệu

chương trình dạy học. Hệ thống lời giới thiệu chỉ có ở tập 1 của SGK. Lời nói

đầu ở SGK Văn tuyển lớp 5, 6, 7 giống nhau, giới thiệu về những thay đổi

trong chương trình môn học, phương pháp dạy học và nguyên tắc biên soạn

SGK, cụ thể như sau:

“Năm nay, với yêu cầu của giai đoạn mới và những điều kiện thuận

lợi do hòa bình đem lại, để nâng cao chất lượng của nền giáo dục. Bộ đã

đề ra một vài sự sửa đổi trong chương trình và vạch rõ đường lối giảng

dạy môn Quốc văn ở các trường phổ thông.

1- Về chương trình Quốc văn ở cấp II, Bộ chủ trương tăng cường

các phần cổ văn, văn chương bình dân, (ca dao, truyện cổ, truyện nôm) và

văn chương yêu nước, cách mạng của các nhà ái quốc từ khi Pháp xâm

lược cho đến Cách mạng tháng 8.

Ngoài ra một số tác phẩm văn chương Hán Việt có một nội dung yêu

nước dồi dào cũng được đặt vào loại văn dịch trong chương trình lớp VII.

Mục đích của sự sửa đổi này là để cho học sinh tiếp thu được nhiều

hơn những di sản quý báu trong kho tàng văn học cổ truyền và văn học

cách mạng của dân tộc, có như thế mới xây dựng được cho họ một nền

tảng kiến thức dồi dào, có hệ thống, đồng thời chuẩn bị cho họ những điều

kiện cần thiết để chuyển lên cấp III được một cách dễ dàng.

35

2 – Về đường lối giảng dạy, cần tránh khuynh hướng “thời sự hóa”

môn Quốc văn một cách giản đơn, hẹp hòi, không đưa lại những kết quả

sâu sắc, có hệ thống về kiến thức cũng như về tư tưởng, tình cảm.

Trái lại, phải quan niệm thật đúng đắn tính chất và mục đích chủ

yếu của môn Quốc văn là giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học sinh, qua

ngôn ngữ văn tự và nghệ thuật văn chương, là làm cho học sinh quý tiếng

nói và văn chương nước nhà và biết sử dụng nó một cách thành thạo trong

đời sống xã hội cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Chúng tôi được Bộ chỉ thị cho biên soạn tập Văn tuyển này theo

chương trình và đường lối giảng dạy đã nói ở trên, nhằm mục đích cung

cấp một số tài liệu giảng dạy cho các bạn giáo viên và làm sách học cho

anh chị em học sinh ở các trường.

Tài liệu này đã được biên soạn theo mấy nguyên tắc dưới đây:

1) Lấy giá trị nghệ thuật văn chương làm tiêu chuẩn chủ yếu cho

việc lựa chọn các bài văn, kết hợp cả giá trị nội dung tư tưởng và tình

cảm. Như thế nghĩa là về nghệ thuật các bài được lựa chọn phải có một

giá trị tương đối có thể làm mẫu mực cho một loại văn ở một trình độ nào

đó, về nội dung nó phải có tác dụng giáo dục những tư tưởng, tình cảm

lành mạnh cho học sinh nhưng với tính cách rộng rãi, không gò bó.

2) Đặc biệt chú ý tới một số tác phẩm đã được nhiều người công

nhận là có giá trị của một số nhà văn có tiếng nhất và của các lãnh tụ,

đồng thời vẫn không quên sưu tầm và sử dụng những áng văn, thơ ca xuất

sắc nẩy nở trong phong trào văn nghệ nhân dân.

3) Dưới mỗi bài văn, có phần chú thích vắn tắt để giới thiệu xuất xứ và

tác giả, nếu cần, giải thích một số tiếng địa phương hoặc chữ khó để giúp học

sinh hiểu bài được dễ dàng. Bên cạnh những bài được chọn làm bài giảng

chính thức, có một số bài tương đối có giá trị để học sinh đọc thêm.

4) Trong tập Văn tuyển này, cũng có kèm theo một vài bài giảng

trình bày tóm tắt, có mục đích giới thiệu một vài phương pháp giảng về

các loại vấn đề các bạn giáo viên tham khảo và rút kinh nghiệm.

36

5) Cách sắp xếp thì về kim văn đã cố gắng phối hợp một cách tương đối

có hệ thống cả hai mặt nội dung và trình tự diễn tiến về kỹ thuật, về cổ văn ở lớp

VII trong toàn niên và ở lớp VI trong học kỳ thứ hai, đã tách ra thành một phần

riêng cho có hệ thống theo cách bố trí giảng dạy ở các trường.

Mặc dầu hoàn cảnh biên soạn có phần gấp rút, chúng tôi cũng hy

vọng rằng tập Văn tuyển này có thể đem lại một vài ích lợi thiết thực cho

các bạn giáo viên và học sinh ở các trường.

Để giúp cho việc biên soạn tài liệu giáo khoa càng ngày càng tiến

bộ, chúng tôi yêu cầu các bạn giáo viên góp nhiều ý kiến nhận xét lên Bộ

về tập Văn tuyển này.

Hà – nội, ngày 1 tháng 1 năm 1954”

Ngoài “lời nói đầu” SGK Văn tuyển lớp 5, 6, 7 (tập 1) còn có nội dung

giới thiệu về chương trình dạy học. Ví dụ 1: “CHƯƠNG TRÌNH Giảng văn

năm thứ 5 phổ thông” trong SGK Văn tuyển lớp 5, tâp 1 :

“I. - Văn chương sau Cách mạng tháng Tám: Thơ, ca dao

mới, những đoạn văn miêu tả và kể chuyện trích trong sách báo của

những nhà văn hiện đại có liên quan đến học đường, đến kháng chiến,

đến tăng gia và phục hồi sản xuất, kiến quốc, đấu tranh củng cố hòa

bình, đến phong trào phát động quần chúng nông dân, phong trào bảo vệ

hòa bình thế giới.

II. - Cổ văn: Ca dao cổ nói về sản xuất, lao động, cảnh vật thiên

nhiên, chuyện cổ tích.

III. - Văn dịch dễ: Giới thiệu một vài cảnh trí, hình ảnh sinh

hoạt của nước bạn.”

Ví dụ 2: “Chương trình Giảng văn năm thứ 6 phổ thông” trong SGK Văn

tuyển lớp 6, tập 1:

“I.- Văn chương sau cách mạng tháng 8: Thơ, ca dao, những

đoạn văn xuôi miêu tả và kể chuyện cổ trích trong sách báo của các nhà văn

37

hiện đại có liên quan đến học đường, đến kháng chiến, đến việc tăng gia

phục hồi sản xuất kiến quốc, đấu tranh củng cố hòa bình dân chủ thế giới.

II. - Cổ văn: Ca dao cổ nói về sản xuất, lao động, cảnh vật thiên

nhiên, thêm một số bài có tính chất phản phong. Chuyện cổ tích. Trích Lục

súc tranh công, Trê cóc, Thạch – Sanh, và Đại nam quốc sử diễn ca.

III. - Văn dịch: Những đoạn văn tả cảnh hoặc kể chuyện viết

bằng văn xuôi trích ở tác phẩm các nhà văn tiến bộ ngoại quốc.”

Ví dụ 3: “Chương trình quốc văn năm thứ VII phổ thông” trong SGK

Văn tuyển lớp 7, tập 1 bao gồm những nội dung sau:

“I) VĂN CHƯƠNG SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM:

- Thơ ca về sự tham lam tàn ác của địa chủ và đời sống cơ cực của

nông dân lao động.

- Những đoạn văn xuôi miêu tả và kể chuyện trích ở các tác phẩm

của các nhà văn hiện đại nói về công cuộc kháng chiến kiến quốc, đấu

tranh củng cố hòa bình.

- Văn nghị luận: về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.

II) CỔ VĂN:

- Hồ - xuân – hương, trích Đoạn trường tân thanh, Nguyễn – Khuyến, Trần

– tế - Xương. Thơ văn các nhà chí sĩ cách mạng: Phan Sào – Nam, Phan – chu –

Trinh, thơ văn nhóm Đông – kinh nghĩa – thục… thơ văn Tố - Hữu, Tú – Mỡ.

III) VĂN DỊCH:

- Trích những đoạn văn tả cảnh hoặc kể chuyện viết bằng văn xuôi

trích ở tác phẩm của các nhà văn tiến bộ ngoại quốc – Thêm những đoạn

văn cách mạng chống phong kiến và tư bản chủ nghĩa.

- Văn dịch chữ Hán ra chữ nôm: Hịch tướng sĩ của Trần Hưng –

Đạo, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi…”

Về hệ thống bài học: SGK Văn tuyển bao gồm các bài học. Mỗi bài học

chỉ bao gồm một văn bản đọc hiểu. Tổng số bài học trong SGK Văn tuyển lớp

5, 6, 7 là 262 bài, cụ thể ở các lớp như sau:

38

Văn tuyển lớp 5 Văn tuyển lớp 6 Văn tuyển lớp 7

Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2

Tổng số bài học 47 37 49 69 61 62

Hệ thống bài học trong SGK Văn tuyển được sắp xếp theo phương thức

biểu đạt như: nghị luận, miêu tả, tự sự, hoặc theo thể loại như: ca dao, thơ, truyện…

SGK Văn tuyển lớp 5 bao gồm 84 bài được các tác giả biên soạn sách chia ra làm 4

loại: tập 1 gồm các bài văn miêu tả, tập 2 gồm “LOẠI MIÊU TẢ”, “LOẠI KỂ

CHUYỆN”, “LOẠI CA DAO CỔ”. Nội dung các bài học trong SGK Văn tuyển

lớp 5 tập 1 được trình bày trong 58 trang với 47 bài học gồm:

Thơ Thơ mới Lục bát Tường thuật Miêu tả Kể chuyện Tả cảnh Chuyện cổ tích

3 1 1 1 1 12 15 2 Thơ năm chữ 1 Ca dao mới 4 Ca dao cổ 6

Tổng số bài học

Ví dụ: Bài số 1 trong SGK Văn tuyển lớp 5 là một bài thơ viết về Bác Hồ:

CHÚC BÁC

Bác Hồ ơi!

Cháu là em bé phương xa

Theo anh Vệ quốc xa nhà từ lâu. Cháu qua sông Đuống, sông Cầu Phủ Thông, đèo Khánh, An – châu, Lũng – vải. Qua bao vực thẳm núi dài,

Giúp anh Vệ quốc đánh loài thực dân.

Cháu là thiếu sinh quân.

Nhân ngày sinh nhật Bác,

Có vài lời chất phác

Kính chúc Bác sống lâu

Không bao giờ bạc đầu

NGUYỄN – BÁ – DẬU

(Thiếu sinh quân)

Để lái thuyền chiến thắng.

39

SGK Văn tuyển tập 2 được trình bày trong 53 trang với 37 bài học gồm:

Ca Miêu Tả Tả Kể Tự Ký Tường Thơ thư dao tả cảnh người chuyện sự sự thuật cổ

Tổng

4 9 5 1 9 1 1 1 1 5 số bài

học

SGK Văn tuyển lớp 6 gồm 118 bài được các tác giả biên soạn sách chia

ra làm hai phần: phần thứ nhất “VĂN CHƯƠNG CÁCH MẠNG VÀ KHÁNG

CHIẾN – VĂN DỊCH”, phần thứ hai “CỔ VĂN VÀ CA DAO CỔ”. Nội dung

các bài học trong SGK Văn tuyển lớp 6 tập 1 được trình bày trong 74 trang với

49 bài học gồm:

Ca Ca Tả Miêu Kể Tả Chuyện Tường Văn Ký Thơ dao dao cảnh tả chuyện tình cổ tích thuật dịch sự mới cổ

Tổng

số bài 7 6 5 3 15 1 8 3 2 1 1

học

Tập 2 được trình bày trong 98 trang với 69 bài học.

Ca Ca Kể Miêu Thư Văn Tường Tả Ký Cổ Thư Thơ dao dao chuyện tả dịch dịch thuật cảnh sự văn cổ mới

Tổng

4 12 7 3 4 4 5 4 2 1 1 26 số bài

học

SGK Văn tuyển lớp 7 gồm 123 bài học được các tác giả biên soạn sách

chia ra làm 4 phần: tập 1 gồm phần I “Văn chương sau Cách mạng tháng Tám

40

– Văn dịch”, phần II “Cổ văn”. Tập 2 gồm phần I “VĂN CHƯƠNG SAU

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM”, phần II “VĂN CHƯƠNG CHỐNG THỰC

DÂN VÀ PHONG KIẾN TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM”. Nội dung

các bài học trong SGK Văn tuyển lớp 7 tập 1 được trình bày trong 104 trang

với 61 bài học:

Thơ

Ca

Tự

Nghị

Miêu

Tùy

Văn

Cổ

Thơ

trào

dao

sự

luận

tả

bút

dịch

sự

văn

phúng

mới

Tổng

5

7

11

1

1

1

3

2

1

39

số

bài

học

Tập 2 được trình bày trong 108 trang với 62 bài học:

Nghị

Kể

Tùy

Cảm

Hát

Ca

Thơ

Ký sự

Thư

luận

chuyện

bút

tưởng

dặm

dao

Tổng

số bài

33

15

6

2

1

1

1

1

1

học

Mục lục ghi tên bài học và số trang, phần này SGK Văn tuyển ở các lớp

được trình bày khác nhau:

Lớp 5 được trình bày theo thể loại bao gồm: loại miêu tả, loại kể chuyện và

loại ca dao cổ. Lớp 6 và lớp 7 được chia thành từng phần. Lớp 6 bao gồm hai phần:

phần thứ nhất văn chương Cách mạng và kháng chiến – văn dịch, phần thứ là cổ

văn và ca dao cổ. Lớp 7 tập 1 được chia làm hai phần: phần một là văn chương sau

Cách mạng tháng Tám – Văn dịch và phần hai cổ văn, tập 2 được chia thành hai

phần: phần một văn chương sau Cách mạng tháng Tám, phần hai văn chương

chống thực dân và phong kiến trước Cách mạng tháng Tám.

Thông tin xuất bản ghi rõ tên người sản xuất, ngày tháng năm xuất bản

cuốn sách, tên người in và chỗ ở người in.

41

2.1.1.2. Cấu trúc chung sách giáo khoa Ngữ văn

Bộ SGK Ngữ văn bậc trung học cơ sở (lớp 6, 7, 8, 9) bao gồm 8 cuốn,

mỗi lớp có hai cuốn học trong hai học kỳ. Cấu trúc SGK Ngữ văn cơ bản là

giống nhau, có thể chia thành các phần sau: hệ thống trang bìa, lời nói đầu, hệ

thống bài học và mục lục.

Hệ thống trang bìa bao gồm bìa chính và bìa phụ: Trang bìa chính in màu

và bao gồm những nội dung sau: tên cơ quan ban hành, tên cuốn sách, lớp, tập,

nhà xuất bản.

Cơ quan ban hành là “BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO”, tên cuốn sách là

“Ngữ văn” được viết hoa chữ đầu và in to. Tiếp đến là số tập và lớp, bên dưới

trang bìa ghi nhà xuất bản “NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM”.

Ví dụ: trang bìa SGK Ngữ văn lớp 6, 7, 8, 9

42

Trang bìa phụ trong SGK Ngữ văn về cơ bản bao gồm những thông tin trong

trang bìa chính như: cơ quan ban hành, tên môn học, lớp, tập, lần tái bản và nhà

xuất bản nhưng có thêm thông tin về tên tất cả tác giả biên soạn cuốn sách.

Ví dụ: trang bìa phụ SGK Ngữ văn lớp 6 tập 1 được trình bày như sau:

Lời nói đầu chỉ có ở tập 1 của SGK Ngữ văn các lớp. Lời nói đầu thường

giới thiệu nguyên tắc biên soạn, chương trình học và nội dung chính ba phần Văn

học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Ở mỗi lớp lời nói đầu có sự khác nhau.

Ví dụ lời mở đầu trong SGK Ngữ văn lớp 6 như sau:

“Bộ sách giáo khoa Ngữ văn bậc Trung học cơ sở được biên soạn

theo Chương trình Trung học cơ sở ban hành kèm theo Quyết định số

03/2002/ QĐ – BGD & ĐT, ngày 24 tháng 1 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ

Giáo dục và Đào tạo. Bên cạnh những hướng cải tiến nổi bật nhất của

Chương trình như giảm tải, tăng thực hành, gắn đời sống, nét cải tiến và

nổi bật nhất của chương trình và sách giáo khoa môn Ngữ văn là hướng

tích hợp. Biểu hiện rõ nhất của hướng đó là việc sáp nhập ba phần lâu

nay vẫn thường được gọi là ba phân môn (Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn)

vào một chỉnh thể là Ngữ văn và do đó, từ chỗ có ba bộ sách Văn học,

Tiếng Việt, Tập làm văn, nay chỉ còn có một bộ sách duy nhất là Ngữ văn.

Việc thay đổi cấu tạo và tên gọi môn học ảnh hưởng không nhỏ đến cấu

trúc sách giáo khoa, tổ chức bài học cũng như nhiều mặt của nội dung và

phương pháp học tập, giảng dạy. Mỗi bài học, đơn vị của sách giáo khoa,

nói chung đều gồm đủ ba phần: Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Mục “Kết

43

quả cần đạt” đặt ở đầu nêu mục tiêu mà học sinh cần đạt tới ở mỗi bài,

nói chung cũng gồm đủ ba phần ứng với ba phân môn. Trừ phần Văn bản

và Chú thích dùng chung cho cả ba phần, các mục còn lại đều thống nhất

sắp xếp theo trình tự Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Các văn bản được bố

trí theo hệ thống thể loại và phần nào theo tiến trình văn học sử. Trong

phần Chú thích, các yếu tố Hán Việt khi được giải thích riêng đều in

nghiêng; phần lớn những yếu tố này sẽ được tập hợp lại một cách có hệ

thống ở cuối sách giáo khoa tập hai của mỗi lớp. Ngoài số lớn văn bản

được hướng dẫn tìm hiểu tại lớp, còn một số văn bản “tự học có hướng

dẫn” mang tính chất bắt buộc nhằm hình thành, phát triển thói quen và

khả năng tự học, tìm tòi nghiên cứu; số lượng loại văn bản này sẽ được

nâng dần lên ở những lớp trên. Ở từng phân môn, còn một số văn bản phụ

và văn bản “đọc thêm” có tính chất tư liệu nhằm giúp học sinh hiểu rõ

hơn một vài phương diện của văn bản chính, nắm vững hơn các vấn đề lí

thuyết hay có thêm chất liệu để làm tốt hơn các bài tập.

Để học tốt môn Ngữ văn theo tinh thần mới, điều mà học sinh cần

lưu ý nhất trong phương pháp học tập là kết hợp chặt chẽ việc học tập,

rèn luyện các kiến thức, kĩ năng của ba phân môn. Dĩ nhiên, mỗi phân

môn đều có một số yêu cầu riêng cần nắm vững. Để đạt được điều đó, cần

chú ý các bài Tổng kết, Ôn tập và riêng ở phần Văn, cần đọc kĩ những chú

thích dấu sao () nói về đặc trưng các thể loại văn học.

Sách giáo khoa là công cụ để thầy (cô) giáo tổ chức hoạt động học

tập của học sinh trên lớp cũng như ở nhà. Bởi vậy, điều quyết định kết quả

học tập là sự quán triệt mục tiêu, yêu cầu của môn học, của từng bài học

cụ thể cũng như quyết tâm thực hiện các yêu cầu đó của mỗi người.

Rất mong và tin rằng tất cả các em học sinh đều có đầy đủ nhận thức

và quyết tâm ấy.

TM. Nhóm biên soạn

Tổng Chủ biên

NGUYỄN KHẮC PHI”

44

Hệ thống bài học trong SGK Ngữ văn không chia thành các chương như

ở một số cuốn SGK Văn tuyển, mà được chia thành từng bài học. Mỗi bài học

bao gồm ba phần: Văn bản, nội dung dạy học Tiếng Việt và Tập làm văn. Số

lượng bài học trong mỗi cuốn sách giáo khoa giống nhau, đều có 34 bài học.

Trong mỗi bài học được chia ra thành từng văn bản đọc hiểu, số lượng văn bản

đọc hiểu ở mỗi khối lớp có sự khác nhau, cụ thể như sau:

Ngữ văn lớp 6 Ngữ văn lớp 7 Ngữ văn lớp 8 Ngữ văn lớp 9

Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2

Tổng số văn

19

15

25

10

15

14

25

17

bản đọc hiểu

Bài học trong SGK Ngữ văn được sắp xếp theo đặc trưng thể loại: văn

học dân gian, văn học trung đại, văn học hiện đại…

Phần văn học dân gian tập trung chủ yếu ở lớp 6 với các thể loại: truyền

thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười. Lớp 7 văn học dân gian có

thể loại ca dao, tục ngữ.

Phần văn học trung đại tập trung chủ yếu ở lớp 7 kì 1 với những bài thơ

chữ hán và chữ nôm. Lớp 8 có thêm thể loại chiếu và hịch.

Phần văn học hiện đại tập trung ở kì 2 lớp 7, lớp 8 và lớp 9.

Phần mục lục SGK Ngữ văn bao gồm: phụ lục bảng tra cứu yếu tố Hán

Việt giúp GV và HS thuận lợi trong việc tra cứu nghĩa của các từ, tiếp đến là

phần mục lục ghi tên bài học và số trang tương ứng. Trang cuối ghi tên nhà

xuất bản, ngày tháng năm xuất bản cuốn sách.

2.1.1.3. Điểm giống và khác nhau về cấu trúc chung của sách giáo khoa

Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

2.1.1.3.1. Điểm giống nhau về cấu trúc chung của sách giáo khoa Văn

tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

Qua việc trình bày bên trên ta có thấy hai bộ SGK Văn tuyển và Ngữ

văn đều có những điểm giống và khác nhau về cấu trúc chung.

45

Điểm giống nhau giữa hai bộ SGK: Về cấu trúc chung mỗi lớp đều bao

gồm hai cuốn, học trong hai học kỳ. Về tổng thể hai bộ SGK đều gồm các phần

sau: hệ thống trang bìa, lời nói đầu, hệ thống các bài học và mục lục.

Hệ thống trang bìa bao gồm bìa chính và bìa phụ. Bìa chính hai bộ SGK

đều có các phần sau: cơ quan ban hành, tên cuốn sách, lớp, tập và nhà xuất bản.

Lời nói đầu: cả hai bộ SGK lời nói đầu đều nằm ở tập 1 của các khối lớp.

Hệ thống các bài học: hai bộ SGK đều gồm hệ thống các bài học.

Phần mục lục: đều ghi thông tin xuất bản, ngày tháng năm xuất bản và

nhà xuất bản cuốn sách.

2.1.1.3.2. Điểm khác nhau về cấu trúc chung của sách giáo khoa Văn

tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

SGK Văn tuyển gồm 6 cuốn, bộ SGK Ngữ văn bao gồm 8 cuốn.

Về hệ thống trang bìa Bộ SGK Văn tuyển trang bìa chính có thêm phần

quốc hiệu, tên tác giả, cấp học, địa điểm và năm xuất bản. Trang bìa chính và

bìa phụ trong SGK Văn tuyển thống nhất với nhau. Trang bìa phụ của SGK

Ngữ văn được trình bày khác với trang bìa chính bao gồm: cơ quan ban hành,

tên các tác giả biên soạn, tên cuốn sách, lớp, tập, lần tái bản và nhà xuất bản.

Về “Lời nói đầu”: SGK Văn tuyển gồm có 02 nội dung tách bạch với

nhau là lời nói đầu và phần giới thiệu chương trình dạy học. Lời nói đầu trong

SGK Văn tuyển ở 3 lớp 5, 6, 7 đều giống nhau, còn trong SGK Ngữ văn lời nói

đầu ở 4 lớp 6, 7, 8, 9 đều khác nhau. Phần giới thiệu chương trình học trong

SGK Văn tuyển giới thiệu ngắn gọn nội dung chương trình học dạy học của các

khối lớp. Nội dung này không có trong SGK Ngữ văn.

Hệ thống bài học trong SGK Văn tuyển được sắp xếp theo phương thức

biểu đạt như: nghị luận, miêu tả, tự sự…hoặc theo thể loại: thơ, ca dao cổ, ca

dao mới… Mỗi bài học chỉ bao gồm một văn bản đọc hiểu. SGK Ngữ văn được

chia thành từng bài học, mỗi bài học bao gồm 3 phần: Văn bản, nội dung dạy

46

học Tiếng Việt và Tập làm văn. Những bài học được sắp xếp theo thể loại: văn

học dân gian, văn học trung đại và văn học hiện đại.

Phần cuối bộ SGK Văn tuyển có mục thông tin xuất bản ghi rõ tên người

sản xuất, ngày tháng năm xuất bản cuốn sách, tên người in và chỗ ở người in.

SGK Ngữ văn phần cuối ở một số cuốn sách có thêm phần phụ lục tra cứu yếu

tố Hán Việt.

2.1.2. So sánh cấu trúc bài học trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách

giáo khoa Ngữ văn

2.1.2.1. Cấu trúc bài học trong sách giáo khoa Văn tuyển

Cấu trúc mỗi bài học trong SGK Văn tuyển thường gồm có 5 phần:

phương thức biểu đạt hoặc thể loại, số thự tự bài học, văn bản, hình ảnh minh

họa, chú thích.

Mỗi bài học là một văn bản đọc hiểu, thường được trình bày trong một

trang giấy, tên bài học được in chữ to và kiểu chữ đậm. Kết thúc mỗi bài học là

tên tác giả và nguồn trích, tên tác giả được in bằng chữ in hoa.

Ví dụ:

Mục phía trên bên trái có thể là phương thức biểu đạt như sau: nghị luận,

tự sự, miêu tả… cũng có thể là thể loại như: thơ, kể chuyện, ca dao cổ, ca dao

mới, tùy bút, bút ký.... Ngoài ra có một số bài không ghi phương thức biểu đạt

hoặc thể loại.

47

Hình ảnh minh họa cho bài học chủ yếu liên quan đến nội dung bài học, có

một số bài có chân dung tác giả. Hình ảnh minh họa có thể in ở đầu văn bản,

giữa văn bản hoặc cuối của mỗi văn bản.

Mục chú thích được in bằng chữ nhỏ, thường chú thích thêm về tác giả, về

bài học và giải thích một số từ ngữ khó trong bài học, có một số bài học không

có mục này.

Bên cạnh đó trong mỗi cuốn sách đều có một bài hướng dẫn bình giảng ở

tập 1, các bài học này có cấu trúc như sau:

Bình giảng

I. GIỚI THIỆU

II. ĐẠI Ý

III. PHÂN TÍCH

IV. TỔNG KẾT

(1) Giá trị nội dung

(2) Giá trị nghệ thuật

Ví dụ: Bài “Con trâu” trong SGK Văn tuyển lớp 5 tập 1:

2.1.2.2. Cấu trúc bài học trong sách giáo khoa Ngữ văn

Cấu trúc mỗi văn bản đọc hiểu được trình bày như sau: số thự tự bài học,

kết quả cần đạt, tên văn bản, văn bản, hình ảnh minh họa, chú thích, hướng dẫn

bài học, ghi nhớ, luyện tập.

48

Mỗi bài học trong SGK Ngữ văn được chia làm 3 phần: văn bản, nội

dung đọc hiểu Tiếng Việt và Tập làm văn. Mục kết quả cần đạt đóng khung và

trình bày đầu tiên ở mỗi bài học, bao gồm nội dung của 3 phần văn bản, Tiếng

Việt và Tập làm văn. Phần văn bản được trình bày đầu tiên, mỗi văn bản có độ

dài ngắn khác nhau. Góc bên trái ghi chữ “VĂN BẢN” được in đậm và viết

hoa, tên văn bản viết in hoa ở giữa văn bản đọc hiểu. Tiếp đến là hình ảnh minh

họa, hình ảnh minh họa cho bài học thì được trình bày ở giữa văn bản, còn chân

dung tác giả được trình bày ở phần chú thích sau mỗi văn bản đọc hiểu. Kết

thúc văn bản là tên tác giả và nguồn trích. Phần chú thích cung cấp thông tin về

tác giả, tác phẩm và giải thích những từ ngữ khó trong văn bản. Mỗi văn bản có

mục đọc – hiểu văn bản bao gồm những câu hỏi liên quan đến bài học. Phần

ghi nhớ tổng hợp những kiến thúc chính của bài học, được trình bày ngắn gọn

và đóng khung. Sau mỗi bài học có mục luyện tập thường bao gồm một câu hỏi

để củng cố kiến thúc bài học cho HS.

2.1.2.3. Điểm giống và khác nhau về cấu trúc bài học trong sách giáo

khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

2.1.2.3.1. Điểm giống nhau về cấu trúc bài học của sách giáo khoa Văn

tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

Điểm giống nhau về cấu trúc bài học của hai bộ SGK bài học đều được

chia thành các phần như: số thứ tự bài học, văn bản, hình ảnh minh họa, chú

thích và kết thúc văn bản là tên tác giả và nguồn trích.

Số thứ tự bài học của hai bộ SGK đều được viết in hoa và trình bày ở

giữa trang giấy.

Hình ảnh minh họa cho bài học trong hai bộ SGK đều được in ở đầu

hoặc cuối văn bản đọc hiểu và in bằng hai màu trắng đen. Mục chú thích đều

được in sau mỗi văn bản đọc hiểu, những từ chú thích được in nghiêng.

2.1.2.3.1. Điểm khác nhau về cấu trúc bài học của sách giáo khoa Văn

tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

Cấu trúc bài học trong SGK Văn tuyển gồm 5 phần: phương thức biểu

đạt hoặc thể loại, số thứ tự bài học, văn bản, hình ảnh minh họa và chú thích.

49

SGK Ngữ văn gồm 9 phần: số thự tự văn bản, kết quả cần đạt, văn bản, hình

ảnh minh họa, chú thích, hướng dẫn bài học, ghi nhớ và luyện tập.

Mỗi bài học trong SGK Văn tuyển là một bài đọc hiểu, SGK Ngữ văn

mỗi bài học được chia làm 3 phần: Văn bản, nội dung đọc hiểu Tiếng Việt và

Tập làm văn.

Ngoài ra SGK Văn tuyển trong mỗi cuốn đều có một bài hướng dẫn bình

giảng ở tập 1, các bài học có cấu trúc như sau:

Bình giảng

I. GIỚI THIỆU

II. ĐẠI Ý

III. PHÂN TÍCH

IV. TỔNG KẾT

(1) Giá trị nội dung

(2) Giá trị nghệ thuật

2.2. So sánh nội dung dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển và

sách giáo khoa Ngữ văn

Trong SGK Văn tuyển phần đọc hiểu là chính, nên luận văn chúng tôi

chỉ tập trung vào phần so sánh nội dung đọc hiểu trong hai bộ SGK. Dạy học

đọc hiểu tập trung so sánh những phần như sau:

2.2.1. So sánh mục tiêu dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển

và sách giáo khoa Ngữ văn

Ngay từ thời trung đại môn Ngữ văn đã giữ một vai trò quan trọng trong

nhà nước phong kiến Việt Nam. Dạy Văn chính là dạy cái hay cái đẹp, dạy đạo

đức, năng lực thưởng thức văn chương. Thời Pháp thuộc, trong nhà trường

Pháp môn Văn có mục tiêu rèn luyện năng lực nghe, nói, đọc, viết, khả năng

cảm thụ nghệ thuật, giáo dục tư tưởng. Năm 1945, nước Việt Nam mới ra đời

đứng trước muôn vàn khó khăn và thử thách về mọi mặt: giặc đói, giặc dốt,

giặc ngoại xâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí liền ba sắc lệnh về Bình dân học

50

vụ. Phong trào bình dân học vụ chính là phong trào dạy học bằng chữ Quốc

ngữ cho người Việt Nam. Tài liệu giảng dạy là cuốn “Vần quốc ngữ” kỹ năng

đọc - viết được xác định là mục tiêu chính của môn Ngữ văn thời kỳ này. Sau

1945, mục tiêu giáo dục được xác định là đào tạo con người mới Xã hội chủ

nghĩa, môn Văn giữa một vai trò quan trọng. Năm 1954, ở Miền Bắc môn Ngữ

văn với chức năng là tuyên truyền, hướng tới những mục tiêu về chính trị. Giai

đoạn 1955 - 1975, ở Miền Nam mục tiêu môn Ngữ văn chỉ định hướng HS

phân tích những vấn đề luân lý và nghệ thuật, xoay quanh những vấn đề đạo

đức truyền thống. Năm 1975, đất nước thống nhất dạy học Ngữ văn đi vào mục

tiêu chung giáo dục tư tưởng cách mạng, lòng yêu nước cho thế hệ trẻ. Những

năm 90 trở đi môn Ngữ văn được biên soạn với ba phân môn: Văn học, Tiếng

Việt và Tập làm văn. Mục tiêu nhân văn của môn Ngữ văn được hình thành.

Sau năm 2000, bộ SGK Ngữ văn ra đời theo nguyên tắc tích hợp đánh dấu sự

phát triển của bộ môn. Từ đây mục tiêu dạy học Ngữ văn ở Việt Nam đã bắt

nhịp với mục tiêu dạy học môn Ngữ văn trên thế giới.

2.2.1.1. Mục tiêu dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển

“Chương trình trường phổ thông cấp II môn Quốc Văn” xuất bản năm

1956 đưa ra ba mục tiêu dạy học môn Quốc Văn:

1. Về kiến thức: giới thiệu cho HS những bài thơ truyền miệng, những

bài thơ có giá trị tư tưởng và nghệ thuật của văn học Việt Nam, cung cấp cho

HS một số vốn từ ngữ cần dùng cho việc học, cho hoạt động các ngành sản

xuất, dạy cho HS hiểu được những nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của

một số tác phẩm.

2. Về kỹ năng: giúp HS biết đọc có ý nhị, gợi cảm, biết diễn đạt ý tưởng

gọn gàng, chính xác trong khi nói và viết.

3. Về tư tưởng: giáo dục cho các em biết yêu đất nước Việt Nam, tiếng

nói Việt Nam uyển chuyển, rèn luyện cho các em tinh thần tự tôn dân tộc kết

51

hợp với tinh thần quốc tế, lòng kính mến lãnh tụ, giáo dục HS phẩm giá con

người mới, giáo dục HS ghét cay ghét đắng xã hội người bóc lột người.

Mục tiêu dạy học môn Văn tuyển bao gồm:

Thứ nhất về kiến thức nhằm cung cấp kiến thức về những tác phẩm thơ

ca truyền miệng: ca dao, truyện cổ tích…Văn thơ hiện đại và văn nghị luận,

kiến thức sơ lược về lí luận văn học. Giới thiệu cho HS những kiến thức về

những giai đoạn lịch sử lớn của nền văn học nước nhà. Dạy cho HS hiểu được

nội dung tư tưởng nghệ thuật của mỗi tác phẩm văn học. Cung cấp cho HS vốn

từ ngữ cần dùng cho việc học tập những môn học khác. Nắm được một số đặc

điểm về nhân vật, bố cục, và ngôn ngữ của tác phẩm.

Thứ hai về tư tưởng dạy học môn Văn tuyển còn nhằm tuyên truyền

những đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước. Đề cao tinh thần

yêu nước, giáo dục cho HS tình yêu đất nước Việt Nam, yêu Tiếng Việt. Cổ vũ

cách mạng, rèn luyện tinh thần tự hào dân tộc kết hợp với tình đoàn kết quốc tế,

lòng kính yêu lãnh tụ. Giáo dục HS niềm hăng say lao động đón chào cuộc

sống mới, ý thức tập thể tinh thần tự giác trong lao động. Thái độ căm ghét đế

quốc gây chiến tranh phá hoại hòa bình, chế độ người bóc lột người dưới xã hội

thực dân phong kiến.

Ví dụ như những tác phẩm: “Lãnh tụ của chúng ta”, “Tết giải phóng ở một

bản Mèo”, “Đại hội Đảng”… Những bài nghị luận thường gắn liền với chính trị và

lịch sử : “Chúng ta đánh ai”, “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta”....

2.2.1.2. Mục tiêu dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Ngữ văn

Mục tiêu môn học được thể hiện ở tên gọi của môn học. Ở Việt Nam tên

gọi môn Văn đã được thay đổi nhiều lần với các tên gọi như: Văn tuyển, Quốc

Văn, Văn. Hiện nay có tên là Ngữ Văn tức là ghép của hai phân môn Ngôn ngữ

và Văn học. Theo GS Đỗ Ngọc Thống môn Ngữ văn gồm ba mục tiêu sau:

“Chương trình Ngữ văn hiện hành nêu lên 03 mục tiêu, trong đó mục tiêu đầu

tiên là “cung cấp cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính

52

hệ thống về ngôn ngữ (trọng tâm là Tiếng Việt) và văn học (trọng tâm là văn

học Việt Nam), phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo

nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [2]. Mục

tiêu thứ hai hình thành và phát triển năng lực sử dụng Tiếng Việt, tiếp nhận văn

học, cảm thụ thẩm mĩ…Mục tiêu thứ ba là bồi dưỡng tinh thần, tình cảm như

tình yêu Tiếng Việt, yêu thiên nhiên, gia đình, lòng tự hào dân tộc…” [68].

GS. Trần Đình Sử có nhận xét như sau về mục tiêu dạy học Ngữ văn:

“Dạy văn là dạy cho học sinh năng lực đọc, kỹ năng đọc để học sinh có thể

đọc - hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại” [61]. Mục tiêu dạy học đọc hiểu

môn Ngữ văn hiện nay là sự cụ thể hóa mục tiêu dạy học nói chung, chú

trọng dạy chữ, dạy người. Rèn luyện bốn kĩ năng nghe - nói - đọc - viết cho

HS. Phát triển năng lực của người học và hướng nghiệp cho HS với phương

châm lấy HS làm trung tâm. Mục tiêu dạy học đọc hiểu Ngữ văn còn được

cụ thể hóa ở từng cấp học, lớp học và ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt và

Tập làm văn. Với ba mục tiêu chính:

Thứ nhất trang bị những kiến thức phổ thông cơ bản và hiện đại về Văn

học, Tiếng Việt và Tập làm văn phù hợp với trình độ phát triển tâm lí lứa tuổi

của từng cấp học.

Thứ hai hình thành cho HS những năng lực đọc hiểu, tiếp nhận và cảm

thụ thẩm mỹ các tác phẩm văn học. Năng lực sử dụng Tiếng Việt, năng lực ứng

dụng vào thực tế.

Thứ ba bồi dưỡng cho HS tình yêu văn học, yêu tiếng mẹ đẻ, yêu thiên

nhiên, đất nước và con người Việt Nam. Giúp HS nắm được phương pháp học

tập biết tìm tòi, phát hiện giải quyết những vấn đề, say sưa hứng thú với môn

Ngữ văn. Bồi dưỡng năng lực Ngữ văn cho HS đọc - hiểu những văn bản thông

dụng, năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp, năng lực viết một số văn bản

thông dụng. Dạy học Ngữ văn còn tạo cơ sở cho HS học tốt những môn học

53

khác như: Lịch sử, Địa lí…mặt khác còn phát huy tinh thần yêu nước, truyền

thống dân tộc, tiếp thu những thành tựu tinh hoa văn hóa nước ngoài. Ngoài ra

còn giáo dục tư tưởng tình cảm cho HS.

Phần Văn học có chức năng cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản về

văn học Việt Nam từ văn học dân gian, văn học trung đại, văn học hiện đại, văn

học nước ngoài, lí luận văn học, lịch sử văn học và năng lực cảm thụ thẩm mỹ.

Cung cấp khối lượng tri thức phổ thông về tác giả, tác phẩm, thể loại văn học

Việt Nam, thơ, văn, kịch, kí…Bồi dưỡng những giá trị về chân - thiện - mỹ cho

HS, cung cấp những nét chính của phần văn học Việt Nam về các tác gia văn

học lớn, các khái niệm lí luận văn học. Giáo dục tư tưởng chính trị, tình cảm

tâm hồn, khơi dậy ở HS tình yêu cái đẹp, lòng nhân ái, khát khao lý tưởng.

Thông qua đó HS được rèn luyện những kĩ năng như phân tích tác phẩm, phân

tích nhân vật, cảm thụ nghệ thuật, ở đó HS được trải nghiệm cuộc sống. Với

mục tiêu dạy Văn không phải là dạy lịch sử Văn học, dạy ghi nhớ về tác giả,

tác phẩm mà là khơi dậy ở HS những rung động thẩm mỹ, những hình tượng

nghệ thuật, phát triển khả năng sáng tạo, tưởng tượng, nhập vai.

Phân môn Tiếng Việt, cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản về Tiếng

Việt. Mục tiêu của phân môn hình thành và rèn luyện cho HS năng lực giao

tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, kĩ năng thực hành về cấu trúc ngữ âm, từ vựng và ngữ

pháp Tiếng Việt. Giúp HS có vốn hiểu biết nhất định về hệ thống ngôn ngữ

Tiếng Việt. Qua đó rèn luyện bốn kĩ năng cơ bản: nghe - nói - đọc - viết, giúp

HS biết yêu quý, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.

Phân môn Làm văn trang bị cho HS những kĩ năng về tạo lập văn bản, kĩ

năng phân tích, giải thích, chứng minh…Nhiệm vụ của phần này là cung cấp

kiến thức về các bài văn tự sự, miêu tả, thao tác lập luận trong làm văn rèn

luyện tư duy và kĩ năng làm văn cho HS.

54

2.2.1.3. Điểm giống nhau và khác nhau về mục tiêu dạy học đọc hiểu

trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

2.2.1.3.1. Điểm giống nhau về mục tiêu dạy học đọc hiểu trong sách giáo

khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

Mục tiêu dạy học của cả hai bộ SGK là đều cung cấp cho HS những kiến

thức cơ bản về văn học Việt Nam và văn học nước ngoài, những tri thức phổ

thông về tác giả và tác phẩm phù hợp với trình độ tâm lí của HS. Hướng cho

HS đến những cái hay, cái đẹp của tác phẩm, giáo dục tư tưởng tình cảm tâm

hồn khơi dậy cho HS tình yêu cái đẹp, lòng nhân ái, khát khao lí tưởng. Cung

cấp cho HS những vốn từ ngữ cần dùng trong giao tiếp, sinh hoạt hằng ngày.

Về tư tưởng: giáo dục tư tưởng chính trị cho HS, tuyên truyền những đường lối

đúng đắn của Đảng và nhà nước.

2.2.1.3.2. Điểm khác nhau về mục tiêu dạy học đọc hiểu trong sách giáo

khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

SGK Văn tuyển bao gồm 02 mục tiêu dạy học đọc hiểu, SGK Ngữ văn

bao gồm 03 mục tiêu dạy học đọc hiểu.

Mục tiêu dạy học đọc hiểu trong SGK Ngữ văn ngoài mục tiêu chung

còn được chia ra thành 03 mục tiêu cụ thể cho ba phân môn: Văn học, Tiếng

Việt và Tập làm văn.

Cụ thể phân môn Văn học, ngoài những mục tiêu trên SGK Ngữ văn đề

ra những mục tiêu sau: bồi dưỡng cho HS những giá trị về chân – thiện – mỹ,

cung cấp cho HS những nét chính về các tác gia văn học lớn, các khái niệm về

lí luận văn học. Ngoài ra HS còn được rèn luyện những kĩ năng như phân tích

tác phẩm, phân tích nhân vật, cảm thụ nghệ thuật.

Phân môn Tiếng Việt ngoài mục tiêu cung cấp cho HS những kiến

thức cơ bản về Tiếng Việt, phân môn còn có mục tiêu rèn luyện năng lực

giao tiếp cho HS bằng tiếng mẹ đẻ, rèn luyện kĩ năng, bổ sung cấu trúc ngữ

âm, từ vững và ngữ pháp Tiếng Việt. Rèn luyện cho HS bốn kĩ năng cơ bản

về nghe – nói – đọc – viết.

55

Phân môn Làm văn với mục tiêu trang bị cho HS những kĩ năng về tạo

lập văn bản rèn luyện tư duy cho HS.

Như vậy, mục tiêu dạy học đọc hiểu trong SGK Ngữ văn được xác định rõ

ràng, cụ thể cho từng phân môn về kiến thức, kĩ năng cũng như mặt tư tưởng.

2.2.2. So sánh hệ thống văn bản đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn tuyển

và sách giáo khoa Ngữ văn

“Từ điển thuật ngữ văn học” định nghĩa văn bản như sau: “Văn bản là

khái niệm được dùng để chỉ văn bản trong ý nghĩa rộng nhất. Văn bản là bất

cứ chuỗi kí hiệu nào có khả năng tiềm tàng có thể đọc ra nghĩa được, bất kể là

có do kí hiệu ngôn ngữ tạo thành hay không. Do đó một nghi thức, một điệu

múa, một nét mặt, một bài thơ…đều là văn bản. Còn văn bản theo nghĩa hẹp

truyền thống, như tác phẩm của một nhà văn, một văn kiện thì được gọi là tác

phẩm” [37. tr 394].

Theo tác giả Huỳnh Bá Học định nghĩa văn bản: “Theo nghĩa rộng văn

bản được hiểu là vật mang tín hiệu hay bằng ngôn ngữ, nghĩa là bất cứ phương

tiện nào dùng để ghi nhận và truyền đạt thông tin từ chủ thể này đến chủ thế

khác. Theo nghĩa hẹp văn bản được hiểu là các tài liệu, giấy tờ, hồ sơ được

hình thành trong quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã

hội, các tổ chức kinh tế” [44].

Văn bản đọc hiểu trong SGK được trình bày theo hệ thống, có sự chọn

lọc và kế thừa, phát huy cao độ những ưu điểm đạt được. Số lượng văn bản đọc

hiểu trong hai bộ SGK Văn tuyển và Ngữ văn có sự khác nhau.

2.2.2.1. Bộ sách giáo khoa Văn tuyển

Tổng số bài học trong bộ SGK Văn tuyển:

Văn tuyển lớp 5 Văn tuyển lớp 6 Văn tuyển lớp 7

Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2

Tổng số bài học 47 37 49 69 61 62

56

Tổng số bài học trong bộ SGK Văn tuyển gồm có 325 bài học, trong đó

số lượng văn bản tập trung nhiều ở lớp 7 (123 văn bản), lớp 6 (115 văn bản),

lớp 5 số lượng văn bản ít hơn (84 văn bản).

Văn tuyển Văn tuyển Văn tuyển

lớp 5 lớp 6 lớp 7

Tập Tập Tập Tập Tập Tập

1 2 1 2 1 2

Bài học về văn học Việt Nam 44 34 47 64 59 53

Bài học về Văn học truyền miệng 12 7 13 33 4 0 nhân dân Việt Nam.

Bài học về văn học cổ điển và cận 32 27 34 0 0 0 đại Việt Nam.

Văn chương yêu nước chống xâm 0 0 0 31 0 23 lược trong thời Pháp thuộc

Bài học về văn học Việt Nam sau 0 0 0 0 55 30 cách mạng tháng 8 năm 1945.

Tổng số vài học về văn học Việt Nam lớp 5 bao gồm: 78 bài (≈ 93%) ,

lớp 6 gồm 106 bài (≈ 92%) , lớp 7 gồm 106 bài học (≈ 86%). Như vậy tổng số

văn bản trong chương trình cấp II là 322 văn bản thì văn học Việt Nam là 290

văn bản (≈ 90%)

57

Tổng số bài học văn học nước ngoài trong bộ SGK Văn tuyển:

Văn tuyển lớp 5

Văn tuyển lớp 6

Văn tuyển lớp 7

Tập 1

Tập 2

Tập 1

Tập 2

Tập 1

Tập 2

Tổng số bài học về

văn học nước

3

3

2

9

4

13

ngoài

9

(Liên Xô

3

2

Bài học văn học

2

5

6, Hung

(Liên Xô

(Liên

nước ngoài ở Châu

0

(Liên

(Liên Xô

- ga - ri

2, Đức

Xô 1,

Âu

Xô 2)

5)

1, Pháp

1)

Pháp 1)

1, Nam

Tư 1)

4

Bài học văn học

1

(Trung

2

4

nước ngoài ở Châu

0

(Trung

0

(Trung

(Trung

Quốc 3,

Quốc 1)

Triều

Quốc 2)

Quốc 4)

Á

Tiên 1)

SGK Văn tuyển gồm có 28 văn bản đọc hiểu văn học nước ngoài, chiếm

khoảng 10% chương trình học. Lớp 5 gồm có 6 bài, lớp 6 gồm có 11 bài, lớp 7

gồm có 11 bài.

Tác phẩm văn học nước ngoài trong SGK Văn tuyển chủ yếu là những

tác phẩm văn học Liên Xô. Ngoài ra có một số ít những bài văn học Triều Tiên,

Nam Tư, Trung Quốc, Pháp…. Các tác phẩm văn học nước ngoài được đưa vào

chương trình nhằm mục đích giới thiệu một vài cảnh trí và hình ảnh sinh hoạt

của nước bạn, đề cao tinh thần đoàn kết dân tộc, tinh thần đấu tranh yêu chuộng

hòa bình.

Tổng số bài học giới thiệu về tác giả và tác phẩm trong bộ SGK Văn

tuyển có 43 bài trên tổng số 325 bài học (≈13,2 %). Mỗi lớp có một bài hướng

dẫn bình giảng bài học cụ thể:

58

Văn tuyển lớp 5 Văn tuyển lớp 6 Văn tuyển lớp 7

Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2

1 0 0 1 1 0

(Ca dao (Kể (Nghị

Hướng dẫn bình cổ: Con chuyện: luận:

giảng trâu) Bó nứa) Tinh

thần

đoàn kết)

Tổng số văn bản đọc thêm trong SGK Văn tuyển:

Văn tuyển lớp 5

Văn tuyển lớp 6

Văn tuyển lớp 7

Tập 1

Tập 2

Tập 1

Tập 2

Tập 1

Tập 2

Tổng số văn bản

47

37

49

69

61

62

Tổng số văn bản

3

5

1

3

14

5

đọc thêm

Cụ thể như sau trong bộ SGK Văn tuyển bao gồm 25 bài đọc thêm. Trong

đó lớp 5 có 8 bài (≈ 9,5%), lớp 6 có 4 bài (≈ 3,4%), lớp 7 có 19 bài (≈ 15,4%).

2.2.2.2. Bộ sách giáo khoa Ngữ văn

Tổng số bài học trong bộ SGK Ngữ văn:

Ngữ văn lớp 6 Ngữ văn lớp 7 Ngữ văn lớp 8 Ngữ văn lớp 9

Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2

Tổng số bài

19

15

25

10

15

14

25

17

học

Tổng số văn bản trong SGK Ngữ văn bao gồm 140 văn bản đọc hiểu,

trong đó mỗi lớp đều có 34 bài. Cấu trúc mỗi bài bao gồm phần văn bản, Tiếng

Việt và Tập làm văn. Số lượng văn bản tập trung nhiều nhất ở lớp 9 (42 văn

bản), lớp 7 (35 văn bản) và lớp 6 (34 văn bản), cuối cùng là lớp 8 (29 văn bản).

59

Ngữ văn lớp 6 Ngữ văn lớp 7 Ngữ văn lớp 8 Ngữ văn lớp 9

Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2

Văn bản văn

17

13

20

10

11

12

22

12

học Việt Nam

Văn học

17

0

4

2

0

0

0

0

dân gian

Văn học

0

0

10

2

3

6

11

0

trung đại

Văn học

0

13

6

6

8

6

11

12

hiện đại

SGK Ngữ văn bao gồm 140 văn bản, trong đó số lượng văn bản tập trung

nhiều nhất ở lớp 9 (42 văn bản), lớp 7 (35 văn bản) và lớp 6 (34 văn bản), cuối

cùng là lớp 8 (29 văn bản). Tổng số bài học về văn học Việt Nam lớp 6 gồm 30

bài (≈ 88%), lớp 7 gồm có 29 bài (≈ 85%), lớp 8 gồm có 23 bài (≈ 79%), lớp 9

gồm có 34 bài học (≈ 81%). Tổng số văn bản trong SGK Ngữ văn gồm có 140

văn bản Văn học Việt Nam là 117 (≈ 83%).

Ngữ văn lớp 6 Ngữ văn lớp 7 Ngữ văn lớp 8 Ngữ văn lớp 9

Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2

2

2

5

4

2

3

5

0

Văn bản văn học nước ngoài

0

1 (Nga)

1 (Pháp)

2 (Pháp

1 (Nga)

1 (I- ta - lia- a)

2 (Pháp, Anh)

Bài học văn học nước ngoài ở Châu Âu

3 (Đan Mạch, Tây Ban Nha, Nga) 0

0

0

0

1 (Trung Quốc)

4 (Trung Quốc)

1 (Trung Quốc)

Bài học văn học nước ngoài ở Châu Á

0

0

1 (Mỹ)

1 (Mỹ)

2 (Trung Quốc, Ấn Độ) 1 (Mỹ)

Bài học văn học nước ngoài ở Châu Mỹ

1 (Cô- lôm-bi - a)

60

SGK Ngữ văn gồm có 23 văn bản văn học nước ngoài, chiếm khoảng

17%. Lớp 6 gồm 4 văn bản, lớp 7 gồm có 5 văn bản, lớp 8 gồm có 6 văn

bản, lớp 9 gồm có 8 văn bản.

Văn học nước ngoài trong chương trình học đã có sự phong phú, đa

dạng hơn hẳn so với SGK Văn tuyển. Số bài học văn học nước ngoài đã có sự

tăng lên so với trước kia. HS không chỉ học văn học Hi Lạp, Trung Quốc, Pháp,

Anh, Nga mà còn được học văn học Ấn Độ, Đức, Hoa Kì, Nhật, Mĩ …Trong

nền văn học quen thuộc Trung Quốc HS được đi sâu tìm hiểu về thơ Đường,

tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc.

Bài đọc thêm trong SGK Ngữ văn:

Ngữ văn lớp 6 Ngữ văn lớp 7 Ngữ văn lớp 8 Ngữ văn lớp 9

Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2

Tổng số

19

15

25

10

15

14

25

17

bài học

Tổng số bài

3

1

2

1

0

2

2

0

đọc thêm

Bộ SGK Ngữ văn bao gồm có 9 bài học thêm. Cụ thể lớp 6 gồm có 4 bài

đọc thêm (≈ 11,7%), lớp 7 có 2 bài (≈ 8,6%), lớp 8 có 2 bài đọc thêm (≈ 6,9%),

lớp 9 có 2 bài (≈ 4,8%).

Hệ thống bài đọc thêm trong SGK Ngữ văn hiện nay đã giảm đi khá

nhiều trong chương trình. Trước kia vì điều kiện hoàn cảnh đất nước, HS chỉ

học một buổi trên một ngày chính vì vậy số lượng bài đọc thêm nhiều hơn so

với SGK Ngữ văn hiện nay và nhu cầu tự học của HS được chú trọng hơn.

Điểm này SGK Ngữ văn sau 2015 cần chú ý đưa thêm một số bài đọc thêm hơn

nữa tăng nhu cầu tự học của HS.

SGK Ngữ văn được trình bày dưới hai hình thức chữ nhỏ là phần HS đọc ở

nhà không cần phân tích và phần chữ lớn để dạy đọc - hiểu trên lớp. Ví dụ: Văn

61

bản “Lặng lẽ Sa Pa”, SGK Ngữ văn lớp 9 tập 1 (trang 180) có một đoạn in chữ

nhỏ: “Phải, người họa sĩ già vừa nói chuyện…lo nghĩ như vậy cho đất nước”.

Nếu là văn bản chữ Nôm, chữ Hán gặp những chữ có nhiều cách phiên

âm, người biên soạn chọn cách phiên âm phù hợp với nội dung toàn văn bản.

Những bài thơ chữ Hán, SGK cung cấp phần phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ

của toàn văn bản. Bên dưới phần dịch nghĩa là phần giải thích các từ ngữ ở

phần phiên âm, nhằm đối chiếu với văn bản dịch có sát nghĩa từng chữ, từng

câu, và giữ đúng niêm luật hay không.

Khi dạy những bài thơ chữ Hán GV cần ra hệ thống câu hỏi cho HS so

sánh đối chiếu bản dịch thơ với bản phiên âm và bản dịch nghĩa để hiểu sâu

hơn văn bản gốc. Đồng thời cảm nhận được những nét hay, nét riêng của văn

bản dịch, thành công, hạn chế riêng của từng bản dịch so với bản phiên âm.

Những bài biền văn hoặc văn xuôi như thể Phú, Cáo, Hịch, Văn bia, Tựa, Sử kí

SGK chỉ đưa phần dịch không đưa phần phiên âm vào.

2.2.2.3. Điểm giống và khác nhau về hệ thống văn bản đọc hiểu trong

sách giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

2.2.2.3.1. Điểm giống nhau về hệ thống văn bản đọc hiểu trong sách giáo

khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

Hai bộ SGK Văn tuyển và Ngữ văn đều bao gồm những văn bản đọc

hiểu về văn học Việt Nam và văn học nước ngoài, trong đó văn học Việt Nam

chiếm số lượng khá lớn trong chương trình học. Tác phẩm văn học nước ngoài

đưa vào chương trình học ở các nước như: Trung Quốc, Liên Xô, Đức…

Số lượng các văn bản đọc hiểu phân bố ở các lớp đều có sự khác nhau,

ngoài ra hai bộ SGK đều có những bài đọc thêm.

2.2.2.3.2. Điểm khác nhau về hệ thống văn bản đọc hiểu trong sách giáo

khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

Số lượng văn bản trong SGK Văn tuyển (325 bài) nhiều hơn số lượng

văn bản trong SGK Ngữ văn (140 bài). SGK Văn tuyển mỗi bài học là một văn

62

bản đọc hiểu, còn trong SGK Ngữ văn mỗi bài học gồm ba phần: Văn bản,

Tiếng Việt và Tập làm văn.

SGK Văn tuyển bài học được chia thành: bài học về văn học truyền

miệng nhân dân Việt Nam, bài học về văn học cổ điển và cận đại Việt Nam,

văn chương yêu nước chống xâm lược trong thời Pháp thuộc và bài học về văn

học Việt Nam sau cách mạng tháng 8 năm 1945. SGK Ngữ văn văn bản được

chia thành: văn học dân gian, văn học trung đại và văn học hiện đại.

Văn bản văn học nước ngoài trong SGK Ngữ văn có sự phong phú đa

dạng hơn so với SGK Văn tuyển. Số lượng văn bản văn học nước ngoài được

tăng lên, HS được học các nền văn học như: Hi Lạp, Pháp, Anh, Ấn Độ, Hoa

Kì và Mĩ…

Số lượng văn bản đọc thêm trong SGK Văn tuyển (25 bài) nhiều hơn so

với SGK Ngữ văn (9 bài).

2.2.3. So sánh hệ thống phụ trợ dạy học đọc hiểu trong sách giáo khoa Văn

tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

2.2.3.1. So sánh hệ thống câu hỏi, bài tập về đọc hiểu trong sách giáo

khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

Dạy và học môn văn là một quá trình nhận thức trải qua nhiều công đoạn

khác nhau. GV là người dẫn dắt HS trải qua những công đoạn đó bằng một hệ

thống câu hỏi hướng dẫn học bài. Câu hỏi hướng dẫn bài học có vai trò quan

trọng tạo tâm thế cho HS khi bước vào tìm hiểu, phân tích và cảm nhận tác

phẩm, sự thành công của một bài học hay một giờ dạy cũng được quyết định

một phần vào hệ thống câu hỏi. Trong “Phương pháp giảng dạy văn học ở nhà

trường phổ thông”, tác giả Nhikônxki nhấn mạnh “Các câu hỏi đặt ra cho học

sinh phải tạo ra cho các em khả năng trả lời câu hỏi tương đối tự do và có để

khả năng các em thảo luận, bàn bạc” [53]. Đối với môn Ngữ văn phần đọc -

hiểu văn bản là phần quan trọng và trực tiếp giúp HS đạt kết quả cao với mục

tiêu tích hợp nói chung khi học một văn bản. Vì vậy câu hỏi hướng dẫn đọc

63

hiểu có vai trò quan trọng trong tiết dạy học tác phẩm văn học. Hệ thống câu

hỏi trong một giờ dạy đọc hiểu tác phẩm văn học phải phù hợp với phương

pháp dạy học, phù hợp với trình độ của HS. Câu hỏi hướng dẫn bài học với

phương châm đề cao hoạt động học tập của HS nhằm phát huy tính tích cực,

gây được hứng thú học tập, thực hiện tốt mục tiêu của bài học.

Phần hướng dẫn học bài chính là phần câu hỏi chuẩn bị sau mỗi văn

bản. Phần này dành cho HS soạn bài và trả lời các câu hỏi ở nhà. SGK Văn

tuyển không có hệ thống câu hỏi chuẩn bị, SGK Ngữ văn có những câu hỏi

chuẩn bị bài sau mỗi văn bản đọc hiểu. Đây chính là điểm khác biệt nữa

của hai bộ SGK.

Câu hỏi hướng dẫn học bài mang tính hệ thống và bám sát mục kết quả

cần đạt. Hệ thống câu hỏi hướng dẫn HS đọc - hiểu, trung bình khoảng bốn câu

hỏi với bài đọc 1 tiết và 5 câu với văn bản từ 2 - 3 tiết.

Thống kê hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài trong SGK Ngữ văn:

Ngữ văn lớp 6 Ngữ văn lớp 7 Ngữ văn lớp 8 Ngữ văn lớp 9

Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2

Tổng số

19

15

25

10

15

14

25

17

bài học

Tổng số câu

hỏi hướng dẫn

78

73

115

50

67

66

107

81

học bài

Tổng số câu

33

23

41

16

14

9

31

19

hỏi luyện tập

Hệ thống câu hỏi đa dạng phong phú, có câu hỏi gợi mở, câu hỏi nhận

biết, hay chỉ đơn giản yêu cầu tái hiện kiến thức. Có những câu hỏi nhận biết,

phát hiện những hiện tượng văn học, câu hỏi mang tính định hướng cho quá

trình đọc hiểu, câu hỏi tưởng tượng, câu hỏi cảm xúc và câu hỏi nên quan điểm.

Đây là loại câu hỏi phổ biến trong SGK Ngữ văn.

64

Ví dụ bài thơ “Lượm” trong SGK Ngữ văn lớp 6 tập 2 câu hỏi đọc - hiểu

văn bản của câu sau: “Hình ảnh Lượm trong đoạn thơ từ khổ thứ hai đến khổ

thứ năm đã được miêu tả như thế nào qua cái nhìn của người kể (trang phục,

hình dáng, cử chỉ, lời nói?) Sự miêu tả đó đã làm nổi bật ở hình ảnh Lượm

những nét gì đáng yêu, đáng mến?” [16. tr 76]

Thông qua câu hỏi này HS tìm ra được cái hay, cái đẹp cũng như nghệ

thuật, tìm ra những chi tiết thể hiện nhân vật, cốt truyện, thời gian và không

gian nghệ thuật…

Mức độ tăng dần như câu hỏi phân tích, câu hỏi tìm hiểu nội dung và

nghệ thuật, câu hỏi tìm mối quan hệ nhân quả, so sánh, chứng minh, quy nạp,

diễn dịch, câu hỏi kích thích tư duy liên tưởng, có những câu hỏi được đánh

dấu sao nhằm phân loại khả năng học tập HS.

Ví dụ như văn bản “Vượt thác”- SGK lớp 6, tập 2 ngoài những câu hỏi

soạn bài có thêm một câu hỏi được đánh dấu sao “Ở đoạn đầu và đoạn cuối của

bài có hai hình ảnh miêu tả những cây cổ thụ trên bờ sông. Em hãy chỉ ra hai

hình ảnh ấy và cho biết tác giả đã sử dụng cách chuyển nghĩa nào ở mỗi hình

ảnh. Nêu ý nghĩa của từng trường hợp?” [16. tr 40].

Có những câu hỏi đòi hỏi HS tìm hiểu, lựa chọn các chi tiết tiêu biểu,

cách miêu tả nhân vật trong văn bản tự sự.

Ví dụ: SGK Ngữ văn 8, tập 1, bài Lão Hạc câu 1 “Phân tích diễn biến

tâm trạng của lão Hạc xung quanh việc bán chó. Qua đó, em thấy lão Hạc là

người thế nào?” [18. tr 48]. Muốn trả lời được câu hỏi này bắt buộc HS phải

đọc kĩ văn bản, sau đó lựa chọn các chi tiết tiêu biểu miêu tả tâm trạng của lão

Hạc, và bày tỏ được ý kiến cá nhân của bản thân.

Ngoài ra câu hỏi trắc nghiệm nhiều đáp án cũng là một hình thức câu hỏi

mới giúp HS khắc sâu, ghi nhớ bài học. GV cần đầu tư thêm một số câu hỏi

trong quá trình soạn bài phù hợp với nhận thức của HS.

65

Phần luyện tập là phần cuối cùng trong cấu trúc bài học. SGK Văn tuyển

không có phần này. Trong SGK Ngữ văn có tổng số 186 câu hỏi luyện tập. Các

bài tập của phần luyện tập khá đa dạng: thuộc lòng một phần văn bản, sưu tầm,

tóm tắt truyện, nêu và phát biểu cảm nghĩ, trình bày ý kiến cá nhân về một vấn

đề của văn học hoặc của đời sống…Phần lớn các dạng bài tập này nhằm phát

huy tính tích cực, chủ động trong học tập của HS, rèn luyện tư duy, nâng cao

năng lực sáng tạo cho HS.

Hệ thống câu hỏi trong SGK giúp GV xây dựng cho mình phương án dạy

học tối ưu, đạt hiệu quả cao, giúp HS hình thành và rèn luyện phương pháp tự

tìm hiểu, tự khám phá và cảm nhận tác phẩm văn học.

2.2.3.2. Kết quả cần đạt

Mục kết quả cần đạt nêu những yêu cầu HS cần đạt về kiến thức, kĩ năng

qua bài học. Đó là chuẩn chung mà mỗi HS cần đạt được qua mỗi bài học cụ

thể. Trong SGK Văn tuyển mục kết quả cần đạt là phần tổng kết của bài học.

Được chia làm hai ý rõ ràng: giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. Tuy nhiên

mục này trong SGK Văn Tuyển mỗi tập chỉ có một bài có phần tổng kết về nội

dung và nghệ thuật, được trình bày bằng chữ in nghiêng. Mục kết quả cần đạt

trình bày chưa ngắn gọn, súc tích.

Mục này trong SGK Ngữ văn trình bày rõ sau tên văn bản, được đóng

khung, chữ in nghiêng. Mục kết quả cần đạt viết ngắn gọn, súc tích đó là đích

mà người dạy và người học cần đạt tới. Trong mục này có hai điểm cần đạt là

nội dung và nghệ thuật.

Khi soạn bài người GV cần nghiên cứu kĩ phần này để xác định rõ nội

dung và nghệ thuật của văn bản. Về nội dung nắm được ý nghĩa của văn bản,

về nghệ thuật bám sát đặc trưng thể loại. Cấu trúc bài đọc thêm không có mục

kết quả cần đạt. Mục kết quả cần đạt có vai trò như là sự chỉ dẫn giúp HS và

GV đến con đường tiếp nhận tác phẩm văn chương một cách khoa học. Khi

giảng dạy GV nên hướng HS đến yêu cầu cần đạt của bài học.

66

2.2.3.3. Chú thích

Phần chú thích trong hai bộ SGK bao gồm hai mục: chú thích về tác giả,

tác phẩm và chú thích về những từ ngữ trong bài.

Chú thích về tác và tác phẩm: nêu ngắn gọn về cuộc đời, sự nghiệp của

mỗi tác giả, xuất xứ đoạn trích hoặc tác phẩm, thể loại tác phẩm.

SGK Văn tuyển có một số bài học chú thích về tác giả và tác phẩm:

Văn tuyển lớp 5

Văn tuyển lớp 6

Văn tuyển lớp 7

Tập 1

Tập 2

Tập 1

Tập 2

Tập 1

Tập 2

Tổng số bài học

6

5

6

7

13

6

giới thiệu về tác

giả và tác phẩm

SGK Ngữ văn mục này được trình bày sau văn bản đọc hiểu phần chú

thích. Phần chú thích về tác giả và tác phẩm như là một sự mở rộng thêm

cho HS trước khi bước vào tìm hiểu và phân tích tác phẩm. Đó là những tư

liệu liên quan đến tác phẩm, trang bị cho HS những kiến thức cơ bản về tác

giả và tác phẩm.

Phần chú thích giải nghĩa những từ khó trong bài, được trình bày sau mỗi

văn bản đọc hiểu. Đối với văn bản đọc hiểu trung đại có thể giải thích về những

điển cố, điển tích trong bài. Như vậy cả hai bộ SGK Văn tuyển và Ngữ văn đều

có phần chú thích và được trình bày cuối văn bản đọc hiểu. Cách trình bày phần

chú thích cả hai bộ SGK đều có sự giống nhau, từ chú thích được in nghiêng và

phần giải thích từ được in thẳng.

2.2.3.4. Tranh ảnh minh họa

Hệ thống tranh ảnh minh họa trong SGK là những cơ sở trực quan cho

tư duy quan trọng đối với HS. Hầu hết các văn bản trong SGK đều có kênh

hình minh họa kèm theo. Cuốn “Những yêu cầu chủ yếu về nội dung và cấu

trúc phương pháp của sách giáo khoa phổ thông” nêu ra hai chức năng về

hình ảnh minh họa:

67

1. Chức năng thông tin: trong nhiều trường hợp, hình ảnh giáo khoa có

tác dụng hộ trợ cho kênh chữ, giúp HS hiểu rõ hơn nội dung của kênh chữ.

Trong trường hợp này ngôn ngữ miêu tả nội dung đã tạm đủ, có thêm hình ảnh

minh họa nội dung sẽ sáng rõ.

2. Chức năng giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức và giáo dục thẩm mỹ:

tranh ảnh tô điểm cho SGK, làm cho SGK thêm đẹp và do đó trở nên hấp dẫn

đối với các em HS. Quan niệm về giáo dục thẩm mỹ là cái đẹp hình thức hòa

quyện với cái đẹp về nội dung tư tưởng, tình cảm và đạo đức. Như vậy, chức

năng giáo dục thẩm mỹ của tranh ảnh giáo khoa cần được hiểu bao hàm cả

chức năng giáo dục tư tưởng, tình cảm.

Hình ảnh minh họa trong SGK gồm 2 chức năng sau đây:

Chức năng thông tin: trong nhiều trường hợp, hình ảnh minh họa có tác

dụng hỗ trợ cho kênh chữ, giúp HS hiểu rõ, hiểu sâu hơn nội dung kênh chữ

muốn diễn đạt. Trong trường hợp này nội dung kênh chữ đã đủ, hình ảnh minh

họa nhằm mục đích giúp nội dung sáng rõ, đầy đủ, chi tiết hơn.

Trong bộ SGK Văn tuyển và Ngữ văn đều có những hình ảnh minh họa

này. Ví dụ SGK Văn Tuyển lớp 7 tập 2 (trang 83) bài thơ “Việt Bắc” có hình

ảnh minh họa là cảnh Tây Bắc với ruộng lúa nước. SGK Ngữ văn lớp 7 tập 2

(trang 100) bài “Ca Huế trên sông Hương” có hai hình ảnh minh họa cho bài

đọc hiểu này là hình ảnh thuyền rồng trên sông Hương và Đại Nội- Huế.

Những hình ảnh minh họa này có chức năng chủ yếu là phục vụ cho

kênh chữ. Hình ảnh khá rõ ràng về đường nét, mang tính cân đối và thẩm

mỹ cao. Kênh hình mang một giá trị lớn trong việc phát triển nhận thức và

tiếp thu của HS. Có một số trường hợp, những hình ảnh minh họa buộc phải

kèm theo kênh chữ. Thiếu kênh chữ sẽ không hiểu được hình ảnh và ngược lại.

Một số trường hợp khác tranh ảnh minh họa là phương tiện chủ yếu để truyền

tải thông tin đến HS, còn kênh chữ chỉ là phần phụ.

68

Chức năng giáo dục, tư tưởng, tình cảm đạo đức cho HS: tranh ảnh minh

họa giúp SGK thêm đẹp, tô điểm cho SGK tạo sự hấp dẫn hứng thú cho HS khi

mở ra những trang sách đầu tiên.

Thống kê ảnh minh họa trong bộ SGK Văn tuyển:

Văn tuyển lớp 5

Văn tuyển lớp 6

Văn tuyển lớp 7

Tập 1

Tập 2

Tập 1

Tập 2

Tập 1

Tập 2

Tổng số hình ảnh

4

5

9

6

8

5

minh họa

Ảnh chân dung tác

0

2

0

0

0

0

giả

Ảnh minh họa cho

4

3

9

6

8

5

bài học

SGK Văn tuyển có 37 ảnh minh họa cho những văn bản đọc hiểu. Cụ thể

là lớp 5 gồm có 9 hình ảnh, lớp 6 có 15 hình ảnh, lớp 7 có 13 hình ảnh. Những

ảnh minh họa trong SGK Văn tuyển chủ yếu là hình ảnh liên quan đến bài học.

Trong SGK Văn tuyển những văn bản đọc hiểu có ảnh tác chỉ có khoảng hai

văn bản. Ví dụ: Bài “Nhủ học sinh” tác giả Hồ Chí Minh, SGK Văn tuyển 6,

tập 2 (trang 5) có hình ảnh chân dung tác giả minh họa cho bài học.

Thống kê ảnh minh họa trong bộ SGK Ngữ văn:

Ngữ văn 6

Ngữ văn 7

Ngữ văn 8

Ngữ văn 9

Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2 Tập 1 Tập 2

Tổng số hình

20

12

16

5

5

9

9

8

ảnh minh họa

Ảnh chân

0

0

0

0

0

1

3

4

dung tác giả

Ảnh minh họa

20

12

16

5

5

8

6

4

cho bài học

SGK Ngữ văn có 84 ảnh minh họa cho những văn bản đọc hiểu. Cụ thể

là lớp 6 có 32 ảnh minh họa, lớp 7 có 21 ảnh minh họa, lớp 8 có 14 ảnh, lớp 9

69

có 17 ảnh. SGK Ngữ văn gồm cả ảnh minh họa cho bài học và ảnh chân dung

tác giả. Ảnh chân dung tác giả trong chương trình SGK Ngữ văn gồm có 8 ảnh

thường ở sau văn bản nằm trong phần chú thích về cuộc đời, sự nghiệp của tác

giả. Trong đó tập trung chủ yếu ở lớp 9, có 2 ảnh tác giả Việt Nam là Nguyễn

Du và Nguyễn Đình Chiểu, 4 ảnh chân dung tác giả nước ngoài đó là Ta - go,

Đi - phô, G. Đơ Mô - Pa - Xăng và G. Lân - Đơn. Lớp 8 có 1 ảnh tác giả Việt

Nam là Trần Hưng Đạo.

SGK Văn tuyển và Ngữ văn đều có ảnh tác giả và tư liệu về tác giả. Ảnh

tư liệu chủ yếu minh họa cho văn bản đọc- hiểu. Hình ảnh minh họa trong hai

bộ SGK đều được in đen trắng. Nếu là ảnh tác giả hoặc cảnh thiên nhiên có chữ

chú giải bên dưới. Ảnh minh họa trong SGK cần đảm bảo tính khoa học. Nghĩa

là hình ảnh minh họa phải chính xác với nội dung kiến thức trong bài học. Hình

ảnh phải tuân thủ theo các yêu cầu kĩ thuật, trung thực.

Ví dụ văn bản “Ca Huế trên sông Hương” sách Ngữ văn lớp 7, tập 2

(trang 100) hình ảnh minh họa cho bài học phải là những địa danh ở Huế.

Không thể lấy địa danh của tỉnh khác minh họa cho bài học.

Ảnh minh họa phải tuân theo đúng tỷ lệ về kích thước. Tranh ảnh dùng

trong SGK phải có độ bền vững cao, không mang tính thời sự. Ảnh minh họa

trong SGK cần đảm bảo tính sư phạm. Hình ảnh đơn giản dễ hiểu, phù hợp với

tâm lý lứa tuổi. Trong một bài học có thể sử dụng nhiều hình ảnh minh họa để

làm rõ kiến thức hơn. Hình ảnh minh họa trong SGK cần chú trọng tính thẩm

mỹ, cái đẹp về hình thức cần kết hợp chặt với cái đẹp về nội dung giáo dục tư

tưởng, tình cảm, đạo đức, giúp HS nắm được nội dung và ham thích học tập.

Cách trình bày ảnh minh họa trong SGK phải mang nét dân tộc Việt Nam trong

thời hiện đại, có sự kế thừa tinh hoa truyền thống văn hóa.

Tranh ảnh là một trong những điều kiện đổi mới phương pháp học tập,

phương pháp dạy học làm tăng tính hấp dẫn, tạo hứng thú cho HS. Quá trình

nhận thức của HS theo đúng quy luật từ trực quan sinh động đến tư duy

trừu tượng. Tranh ảnh minh họa là công cụ giúp HS phát huy tính tích cực,

70

chủ động, sáng tạo trong giờ học. Cấu trúc SGK Ngữ văn 6 ta thấy chủ yếu

là phần văn học dân gian, trong đó truyện truyền thuyết và truyện cổ tích

chiếm số lượng khá lớn trong chương trình học (khoảng 18 tiết). Đặc điểm

của thể loại truyện này là được sáng tạo, xây dựng bằng trí tưởng tượng của

nhân dân, sử dụng nhiều yếu tố tưởng tượng hoang đường, kì ảo. Việc nắm

được nội dung, chủ đề của văn bản đòi hỏi HS phải tư duy, sử dụng trí

tưởng tượng để hình dung tác phẩm. Theo thống kê thì hầu hết các tác

phẩm truyện truyền thuyết, truyện cổ tích trong SGK Ngữ văn lớp 6 đều có

tranh ảnh minh họa cho bài học.

Ví dụ truyện truyền thuyết “Con rồng cháu tiên” SGK Ngữ văn 6 tập 1

(trang 5) ảnh minh họa là hình Lạc Long Quân và Âu Cơ chia con. 50 người con

theo cha xuống biển, 50 người theo mẹ lên núi. GV có thể cho HS quan sát bức

ảnh đó để miêu tả, tường thuật lại cảnh chia con của Lạc Long Quân và Âu Cơ.

Ngược lại với SGK Văn tuyển phần truyện cổ tích và truyền thuyết không

có hình ảnh minh họa cho bài học. Những hình ảnh minh họa chủ yếu trong Văn

tuyển chủ yếu trong những văn bản thơ mới, tường thuật, tả cảnh, kể chuyện.

GS Nguyễn Khắc Phi, tác giả viết SGK Ngữ văn, cho rằng ngữ liệu văn

học phải có tác dụng giáo dục về tình cảm và thẩm mỹ: “Với môn văn ngoài tác

phẩm văn học, còn phải có những loại văn bản khác thường dùng trong cuộc

sống hằng ngày và có thể có cả tranh ảnh, đồ thị, ký hiệu biểu tượng...” [69].

Như vậy, về phần hệ thống phụ trợ dạy học đọc hiểu trong SGK Ngữ

văn đầy đủ và bao quát hơn so với SGK Văn tuyển.

2.3. So sánh hình thức trình bày trong sách giáo khoa Văn tuyển và sách

giáo khoa Ngữ văn

Hình thức trình bày SGK bao gồm những vấn đề về khổ sách, bìa sách,

cỡ chữ, trình bày các chương mục, kí hiệu, cách thức bố trí hài hòa giữa kênh

chữ và kênh hình…Cách trình bày cần phải chú ý các yêu cầu sau đây:

Hình thức cân đối, hài hòa với nội dung SGK. Tức là lượng kênh chữ

và kênh hình trong SGK phải có sự phân bố hợp lí. Yêu cầu này dựa theo

71

khía cạnh tâm lý lứa tuổi HS. Đối với SGK bậc trung học cơ sở không cần

nhiều màu sắc như SGK bậc tiểu học. Sử dụng màu sắc cũng cần hợp lý, tiết

kiệm và hài hòa.

2.3.1. Hình thức trình bày trong sách giáo khoa Văn tuyển

Trước hết là bìa sách, bìa cứng trình bày đẹp, màu sắc hài hòa cân đối

phù hợp với lứa tuổi HS. Bìa cuốn SGK Văn tuyển chỉ được trình bày một cách

đơn giản chỉ có hai màu trắng đen.

Ví dụ: Bìa sách SGK Văn tuyển lớp 5

SGK Văn tuyển màu sắc minh họa được sử dụng là gam màu đen trắng,

phù hợp và cân đối với lứa tuổi. Khuôn khổ SGK, độ trắng sáng của giấy, kiểu

chữ đều tham gia và hình thức của bộ SGK.

SGK Văn tuyển sử dụng kiểu chữ và cỡ chữ khác nhau để làm nổi sự phân

chia phần, mục, bài học, thể loại. Trong SGK Văn tuyển có sử dụng năm kiểu chữ

một là chữ to in đậm thường để ghi tên bài học. Kiểu chữ thứ hai là chữ nhỏ, in nhạt

thường để ghi tên bài học, thể loại. Kiểu thứ ba là kiểu chữ nhỏ, in đậm dùng để ghi

tên bài học. Kiểu chữ thứ tư là kiểu chữ nhỏ, dùng để ghi nội dung văn bản đọc

hiểu. Kiểu thứ năm là kiểu chữ nhỏ in nghiêng dùng để chú thích từ ngữ khó trong

bài và phần bài giảng và các phần chú thích thêm.

Trong bộ SGK Văn tuyển việc trình bày và bố trí chưa thực sự khoa

học, cỡ chữ chưa phù hợp (có cỡ chữ quá to, có cỡ chữ quá nhỏ). Màu giấy

chưa hợp về vệ sinh mắt.

72

2.3.2. Hình thức trình bày trong sách giáo khoa Ngữ văn

Bộ SGK Ngữ văn bìa được sử dụng là bìa cứng có nhiều màu sắc khác

nhau và đi kèm theo là hình vẽ. Tác giả, người biên tập, họa sĩ cùng đóng góp

một phần không nhỏ trong việc trình bày bộ SGK. Cần chọn những hình ảnh

đẹp, hình ảnh cần có sự cân nhắc cho phù hợp với nội dung bên trong SGK.

Cần có những nét đặc trưng, nổi bật của SGK Ngữ văn.

Ví dụ bộ SGK Ngữ văn lớp 6 tập 1 bìa sách có vẽ hình ảnh cây chuối và

hoa chuối màu sắc chủ đạo là màu xanh dương. Tập 2 là hình ảnh giàn hoa

mướp màu sắc chủ đạo của tập sách là màu tím nhạt. Bề ngoài cuốn SGK giúp

HS thấy hứng thú hơn trong học tập, lôi cuốn HS nhiều hơn.

Phần hướng dẫn sử dụng SGK có tác dụng định hướng tốt. Các công cụ

định hướng như cách dùng kiểu chữ, kí hiệu, hình vẽ minh họa. SGK Ngữ văn

cũng sử dụng kiểu chữ và cỡ chữ khác nhau để làm nổi sự phân chia chương,

mục, bài học, thể loại. Kiểu chữ và cỡ chữ SGK cần có sự quan tâm đúng mức,

kiểu chữ trình bày trong SGK phải đạt chuẩn mực. Mật độ chữ và chế độ giãn

dòng cơ bản với HS, sử dụng phông chữ phải phù hợp. Trong SGK Ngữ văn có

sử dụng 4 kiểu chữ sau: kiểu thứ nhất chữ to, in đậm dùng để ghi số bài học.

Kiểu thứ hai là kiểu chữ to, in nhạt để tên ghi văn bản. Kiểu thứ ba kiểu chữ

nhỏ in nhạt dùng để ghi nội dung văn bản. Kiểu thứ tư là kiểu chữ nhỏ in

73

nghiêng dùng để chú thích từ ngữ khó trong bài học và các mục chú thích thêm

của văn bản.

SGK Ngữ văn còn dùng một số kí hiệu thêm để báo hiệu cho HS biết

đâu là chú thích thêm, đâu là phần giải thích thêm về tác giả, về từ ngữ…

Giải thích thêm về thể loại văn bản, chú thích thêm về tác giả: ()

Phần trình bày cầu chú ý đến yêu cầu vệ sinh về mắt tức là về cỡ chữ,

màu sắc, cách phân bố màu sắc, màu giấy, khoảng cách giữa các dòng sao cho

phù hợp, đẹp mắt. Nếu cỡ chữ in nhỏ hoặc dòng chữ quá sát vào nhau HS rất

khó đọc và dễ mỏi mắt. Chữ to sẽ tốn giấy, giảm tốc độ đọc. Sự thay đổi kiểu

chữ (phù hợp với SGK) tạo vẻ hấp dẫn cho bộ sách. Màu sắc cần sự kết hợp hài

hòa, tránh bố trí những màu sắc tương phản, hai bộ SGK đều sử dụng màu chủ

yếu là trắng và đen.

2.3.3. Điểm giống nhau và khác nhau về hình thức trình bày trong sách

giáo khoa Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

2.3.3.1. Điểm giống nhau về hình thức trình bày trong sách giáo khoa

Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

Về tranh ảnh minh họa hai bộ SGK Văn tuyển và SGK Ngữ văn đều sử

dụng hai gam màu đen trắng, và sử dụng kiểu chữ, cỡ chữ rõ ràng để phân chia

các chương, mục, bài học, thể loại và văn bản.

2.3.3.2. Điểm khác nhau về hình thức trình bày trong sách giáo khoa

Văn tuyển và sách giáo khoa Ngữ văn

Bìa sách SGK Văn tuyển chỉ có hai màu trắng đen, SGK Ngữ văn bìa

sách được in bằng giấy cứng và có nhiều màu sắc đi kèm hình vẽ.

SGK Văn tuyển sử dụng 5 kiểu cỡ chữ: chữ to in đậm, chữ nhỏ in nhạt,

chữ nhỏ in đậm và chữ nhỏ in nghiêng. SGK Ngữ văn sử dụng 4 kiểu cỡ chữ:

chữ to in đậm, chữ to in nhạt, chữ nhỏ in nhạt và chữ nhỏ in nghiêng.

Ngoài ra bộ SGK Ngữ văn còn sử dụng một số kí hiệu để chỉ dẫn cho

HS biết đâu là phần chú thích, giải thích về tác giả và từ ngữ khó…

74

Như vậy, hình thức trình bày bộ SGK cần chú trọng đến vấn đề tâm lý

lứa tuổi, đạt theo các tiêu chuẩn thẩm mỹ. SGK là tài liệu không thể thiếu trong

quá trình học tập của HS, hình thức trình bày SGK có tác động đến đầu óc thẩm

mỹ của các em tạo hứng thú học tập, khám phá bài học. Tính khoa học và dân

tộc cũng là một trong những yêu cầu về hình thức SGK. Tranh ảnh trình bày

trong SGK cần có tính chuẩn mực, cách trình bày khoa học, hợp lí với bài học

và đặc biệt mang đậm nét văn hóa bản sắc Việt Nam. Hạn chế tối đa in tranh

ảnh nước ngoài.

75

Chương 3

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH VÀ BIÊN

- Kiến nghị về việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn

Trung học cơ sở

- Kiến nghị về việc biên soạn bộ sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở

SOẠN SÁCH GIÁO KHOA MÔN NGỮ VĂN TRONG TƯƠNG LAI

3.1. Kiến nghị về việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ

văn Trung học cơ sở

Dựa trên cơ sở lí luận, thực tiễn ở chương 1 và kết quả so sánh hai bộ

SGK Văn tuyển và Ngữ văn ở chương 2, chúng tôi có đưa ra một số kiến nghị

như sau về chương trình SGK Ngữ văn trong tương lai.

3.1.1. Mục tiêu của chương trình

Hiện nay, các nhà khoa học đầu ngành và các nhà nghiên cứu đã chỉ ra

những mục tiêu của chương trình Ngữ văn. Trong luận văn này, chúng tôi đề

xuất thêm một số mục tiêu về xây dựng chương trình như sau:

Xây dựng chương trình Ngữ văn mới sau 2015 cần bảo đảm tính thống

nhất giữa các chương trình học, những nguyên tắc về tính khoa học và sư

phạm. Xác định rõ ràng mục tiêu dạy học môn Ngữ văn trong trường phổ

thông, chú trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp. Chương trình Ngữ văn

Trung học cơ sở sau 2015 bao gồm ba mục tiêu chung:

Mục tiêu thứ nhất: Trang bị những kiến thức phổ thông cơ bản, cơ bản,

hiện đại về ngôn ngữ và văn học, trọng tâm là Tiếng Việt và văn học Việt Nam

nhằm hình thành và phát triển năng lực giao tiếp cho HS bằng tiếng mẹ đẻ. Dạy

Văn phải bắt đầu bằng việc dạy Tiếng, trong dạy Tiếng cần rèn luyện kĩ năng

viết và nói cho HS. Theo mục tiêu hình thành và phát triển năng lực Ngữ văn

ưu tiên năng lực giao tiếp bao gồm các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết thông qua

các hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Chương trình chú ý phát triển các kỹ năng

76

nghe, nói, đọc, viết cho người học, HS đóng vai trò trung tâm trong những hoạt

động học tập.

Mục tiêu thứ hai: Bồi dưỡng và phát triển năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho

HS. Coi trọng dạy người với dạy chữ, rèn luyện, phát triển phẩm chất và năng

lực thẩm mỹ của HS. Hình thành ở HS cách cảm, cách nghĩ mang đậm tính

sáng tạo, dấu ấn cá nhân trong từng bài viết.

Mục tiêu thứ ba: Bồi dưỡng tâm hồn, phát triển nhân cách cho HS. Tác

phẩm văn chương là kết quả của sự sáng tác, nó chứa đựng những giá trị Chân –

Thiện – Mỹ. Thông qua việc dạy học tác phẩm văn chương, GV có thể khơi dậy ở

HS tình yêu đối cái đẹp, lòng nhân ái, những lí tưởng cao đẹp. Bồi dưỡng cho HS

tình yêu Tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia đình, yêu thiên nhiên đất nước.

Tăng cường năng lực ngoại ngữ, tin học và những kỹ sống cho HS trong quá trình

hội nhập quốc tế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Tạo điều

kiện thuận lợi và động lực cho người dạy nghiên cứu, khai thác những tư liệu giáo

dục, tìm hiểu thực tiễn trong quá trình soạn bài lên lớp.

Mục tiêu cụ thể của môn học như sau:

Đối với phân môn Văn học: Xác định mục tiêu dạy học tác phẩm văn

chương nhằm giúp người học tiếp nhận một loại hình ngôn ngữ nghệ thuật

đặc biệt, tồn tại song song với những loại hình ngôn ngữ khác như khoa

học, báo chí, hành chính công vụ…để hoàn thiện những kĩ năng giao tiếp

bằng ngôn ngữ của bản thân. Chính vì vậy dạy học tác phẩm văn chương

luôn đi kèm với việc dạy học các loại văn bản khác. Mặt khác chương trình

Ngữ văn phần Văn học chú trọng phần đọc - hiểu chính vì vậy tăng số lượng

bài đọc thêm trong chương trình học cho HS là điều hoàn toàn hợp lí. Những

tác phẩm đọc thêm trong chương trình được chọn lựa kĩ lưỡng, phù hợp với

tâm lí, sở thích của HS Trung học cơ sở. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS sẽ về

nhà tìm hiểu và rút ra kiến thức trọng tâm của bài học. Dạy học tác phẩm văn

chương hướng tới những phẩm chất sau đây cho HS: yêu gia đình, yêu quê

77

hương, đất nước, có tinh thần nhân ái, trung thực và dũng cảm, tự tin, có trách

nhiệm với gia đình, bản thân và xã hội. Thông qua dạy học những tác phẩm văn

chương nhằm góp phần bồi dưỡng những giá trị Chân – Thiện – Mỹ cho HS.

Đối với phân môn Tiếng Việt: nhiệm vụ của phân môn Tiếng Việt là

cung cấp những kiến thức về ngôn ngữ, khả năng giao tiếp và cách tạo lập một

số văn bản. Mục đích của phân môn hướng tới phát triển những năng lực chung

cho HS. Đó là những năng lực: đọc – hiểu, năng lực nhận thức, năng lực sáng

tạo, năng lực hợp tác, và hướng HS đến năng lực chuyên biệt. Năng lực giao

tiếp được xác định là đích mà HS cần hướng tới. Chương trình Ngữ văn sau

2015 hướng tới mục tiêu trang bị cho HS kĩ năng sử dụng thành tạo ngôn ngữ

Tiếng Việt, bởi ngôn ngữ là công cụ quan trọng để giao tiếp và tư duy, nhiệm

vụ của môn Ngữ văn giúp HS biết đọc, biết viết. Dạy học ngôn ngữ theo quan

điểm giao tiếp thực chất là giúp HS có năng lực giao tiếp, rèn luyện kĩ năng sử

dụng ngôn ngữ giao tiếp trong những tình huống, mục đích, nhân vật, hoàn

cảnh và phương tiện…Năng lực sử dụng ngôn ngữ do môn Ngữ văn hình thành

và phát triển cho HS. Năng lực này đóng một vai trò quan trọng bởi ngôn ngữ

quyết định các môn học khác.

Đối với phân môn Làm văn: mục tiêu của phân môn là rèn luyện cho HS

những kĩ năng sản sinh ra văn bản, giúp HS vận dụng những hiểu biết và kĩ

năng về Tiếng Việt. Nói cách khác phân môn Làm văn góp phần thực hiện hóa

mục tiêu quan trọng của việc dạy học Tiếng Việt.

Bộ SGK Ngữ văn Hàn Quốc tập trung trau dồi khả năng diễn tả và hiểu

chính xác tiếng Hàn thúc đẩy khả năng tư duy và quan điểm thẩm mĩ của người

học. Với mục tiêu góp phần hình thành năng lực sử dụng ngôn ngữ tiếng Hàn

có hiệu quả. Mục tiêu này có sự nhất quán, có sự phát triển từ thấp đến cao

(Tiểu học đến Trung học cơ sở, Trung học phổ thông). Chương trình bồi

dưỡng cho HS khả năng, thái độ, quan điểm cần thiết để sử dụng tiếng Hàn

một cách hiệu quả và sáng tạo. Mục tiêu ở các khối lớp tập trung vào việc

78

làm cho HS quan tâm và hứng thú với các hoạt động ngôn ngữ, có thái độ

tôn trọng tiếng Hàn, tăng sự yêu thích văn hóa Hàn Quốc góp phần phát

triển ngôn ngữ tiếng Hàn. Chương trình Ngữ văn của Việt Nam và Hàn Quốc

đề có những nét giống nhau đều hướng đến việc hình thành và phát triển ngôn

ngữ cho HS, đều coi việc hình thành và phát triển kĩ năng đọc hiểu văn bản. Cả

hai chương trình đều hướng đến tiếp cận ngôn ngữ theo quan điểm giao tiếp,

cung cấp những hiểu biết về tự nhiên, xã hội, văn hóa, con người, văn học, bồi

dưỡng nhân cách và tâm hồn cho người học. Mặt khác hai chương trình cũng

có sự khác nhau đó là chương trình Việt Nam chú trọng mục tiêu hình thành

năng lực tiếp nhận văn học, còn chương trình ở Hàn Quốc hướng tới việc hình

thành năng lực đọc hiểu văn bản. Đây chính là điểm mới mà bộ SGK Ngữ văn

sau 2015 nên chú trọng và cân nhắc khi biên soạn bộ SGK mới.

3.1.2. Kiến nghị về xây dựng nội dung chương trình

Chương trình Ngữ văn hiện nay quy định toàn bộ nội dung trong SGK, vì

vậy chương trình cũng quy định cụ thể đến từng văn bản đọc hiểu. Ví dụ như:

lớp 6 dạy tác phẩm “Bài học đường đời đầu tiên”, lớp 7 dạy tác phẩm “Sống

chết mặc bay”, lớp 8 dạy tác phẩm “Lão Hạc”, lớp 9 dạy tác phẩm “Bến quê”…

Thực tế khi tiến hành so sánh hệ thống văn bản đọc hiểu trong hai bộ

SGK Văn tuyển và SGK Ngữ văn thấy rằng hệ thống văn bản đọc hiểu trong

hai bộ sách không trùng nhau.

Trên cơ sở đó tác giả luận văn đề xuất để đảm bảo tính lâu dài của

chương trình học thì SGK sẽ không đưa quy định cụ thể những văn bản đọc

hiểu vào. Để giải quyết vấn đề này, hướng giải quyết như sau: đưa những văn

bản vào phần mục lục giới thiệu một số tác phẩm tiêu biểu cho các nhà biên

soạn sách lựa chọn và đưa vào SGK.

Chương trình tuyển chọn những văn bản tiêu biểu, cơ bản và hiện đại,

đặc sắc tạo hứng thú cho HS, tránh những văn bản khó hiểu, mang tính chất lý

luận khô khan không phù hợp với lứa tuổi của HS. Mặt khác chương trình SGK

79

cần đáp ứng yêu cầu cơ bản của từng giai đoạn giáo dục. Sắp xếp văn bản cần

có sự chọn lọc kĩ lưỡng tránh tình trạng kiến thức lớp trên trùng lặp với kiến

thức ở lớp dưới và hướng tới phục vụ cho nhu cầu phát triển năng lực cho HS.

Vừa chú ý đến mục tiêu giáo dục theo yêu cầu của xã hội mặt khác còn chú ý

đến nhu cầu của người học và người dạy, mặt khác người biên soạn phải phát

huy cao độ những ưu điểm đạt được trong bộ SGK hiện nay. Chương trình sẽ

lấy HS làm trung tâm nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo cho

HS, tăng cường tính tương tác, tạo động lực đổi mới phương pháp giảng dạy,

thi kiểm tra đánh giá năng lực học tập của người học. Đảm bảo tính khách

quan, trung thực trong kiểm tra đánh giá chất lượng học tập của HS. Chương

trình chú trọng đề cao việc phát triển năng lực của người học. Trong đó

năng lực giao tiếp đặt lên hàng đầu. Ưu tiên thực hành, vận dụng vào thực

tế cuộc sống gắn với nội dung học tập, trải nghiệm của HS. Tạo điều kiện

cho HS nâng cao năng lực, rèn luyện kĩ năng, thúc đẩy việc ứng dụng công

nghệ thông tin vào quá trình dạy và học.

Tăng cường số bài thực hành ở mỗi khối lớp, giảm kiến thức lý thuyết.

Nên đưa vào một số bài học về văn hóa, đời sống và xã hội phù hợp với nhận

thức của HS Trung học cơ sở. Xây dựng thêm một số tiết học thực tế ngoài trời,

đi thăm những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử có liên quan đến bài học.

Qua đó hình thành những kĩ năng, thái độ, lối sống, đạo đức cho HS. Thời

lượng mỗi bài học cần có sự phân bố hợp lí, mỗi tiết lý thuyết nên có một tiết

thực hành giúp HS củng cố kiến thức của bài học. Lựa chọn những văn bản đọc

hiểu phù hợp với tâm lí lứa tuổi của HS, hạn chế đưa những văn bản nhật dụng

và những văn bản văn học trung đại như thơ Đường, thơ chữ Hán vào chương

trình học. Nội dung trong mỗi bài học phù hợp với trình độ, khả năng tiếp nhận

của HS cả thành thị và nông thôn, đảm bảo tính vừa sức, có tính liên môn, logic

cho HS trong quá trình nhận thức. Chương trình cần có sự giảm tải hơn nữa để

tập trung vào những kiến thức cơ bản, trọng tâm.

80

Chú trọng đến khả năng tự học của HS, đặc biệt chú ý đến kĩ năng nghe -

nói. Việc lựa chọn các tác phẩm văn học đưa vào chương trình cần có sự chọn

lọc hơn nữa. Tách bạch phần văn học Việt Nam và văn học nước ngoài ra từng

phần rõ ràng. Phần văn học địa phương cần được chú trọng và tăng thêm số tiết

học ngoài trời, như đi thăm quan những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử

của địa phương, hay những tiết hoạt động ngoại khóa. Văn bản nhật dụng đưa

vào chương trình cần có sự chọn lọc kĩ lưỡng hơn, tránh tình trạng tràn lan như

bộ SGK hiện nay. Tác phẩm văn học khi đưa vào chương trình giảng dạy cần

được đặt trong mối quan hệ giữa những tác phẩm khác, giữa nó với phần Tiếng

Việt và Tập làm văn.

Hệ thống câu hỏi bài tập trong SGK cần có sự đổi mới, bổ sung thêm

một số dạng bài tập tư duy, suy luận và trắc nghiệm có nhiều phương án chọn

lựa. Tăng cường dạng bài tập liên hệ thực tế liên quan đến đời sống, xã hội. Có

những câu hỏi định hướng tiếp cận văn bản giúp HS chuẩn bị bài sau mỗi đề

mục cụ thể hơn. Qua đó kích thích tư duy sáng tạo, khả năng tự học của HS.

Phương pháp dạy học mang lại cho HS sự đam mê, hứng thú, kích thích khả

năng tìm tòi, tìm hiểu cái hay cái đẹp của môn Ngữ văn. Ngoài việc tận dụng

những câu hỏi sẵn có trong SGK, ở mỗi bài học GV có thể đầu tư, xây dựng

một số hệ thống câu hỏi dẫn dắt HS tìm hiểu bài sao cho phù hợp với bài học,

phù hợp với trình độ nhận thức của HS. Nguồn câu hỏi có thể lấy từ chính

những HS, bằng việc phát động cuộc thi, thiết kế câu hỏi cho từng bài học

trong SGK. Những tác giả biên soạn SGK sẽ tập hợp thành từng ngân hàng câu

hỏi, câu hỏi nào phù hợp đạt được những tiêu chuẩn đề ra sẽ được lựa chọn cho

bộ SGK mới. Để tránh trùng lặp với những dạng câu hỏi đã cho trong SGK,

GV có thể sáng tạo riêng những bài tập, câu hỏi cho HS. Dưới những hình thức

như trò chơi, tổ chức hoạt động ngoại khóa…Trong những tiết học nên đa dạng

hóa phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của HS

như dạy học theo nhóm nhỏ tăng cường khả năng hợp tác, phương pháp đóng

81

vai, đổi mới hình thức kiểm tra đánh giá trong những giờ học. Phương pháp tự

học phải tạo cho HS tính tò mò, hiếu kỳ để HS tự tìm cách lí giải, cắt nghĩa

những hình tượng nghệ thuật trong văn bản. Đổi mới phương pháp dạy học của

GV đồng thời cũng thay đổi thói quen học tập thụ động, đối phó của HS. Đó là

hàng rào lớn đối với phương pháp dạy học.

Chương trình địa phương nên chú trọng hơn trong bộ SGK mới tăng số

lượng tiết học thay vì một tiết trong một kỳ học như hiện nay. GV có thể tổ

chức cho HS những buổi tham quan, ngoại khóa, tăng cường những tiết học trải

nghiệm thực tế sau tiết học đó GV đặt câu hỏi cho HS. Những câu hỏi mang

tính gợi mở, định hướng giúp HS phát triển được những năng lực đã định ra.

SGK sau 2015 theo định hướng phát triển năng lực, vừa đảm bảo tính thống

nhất trong toàn quốc, vừa phù hợp đặc thù mỗi địa phương.

3.1.3. Kiến nghị về đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập

Đổi mới kết quả kiểm tra theo hướng đánh giá năng lực của người học.

Kiểm tra là khâu cuối cùng, đồng thời cũng là khâu mở đầu cho một bài học

mới. Đánh giá năng lực của HS nhằm giúp GV nắm được năng lực, khả năng

tiếp thu của HS, phát hiện những thiếu sót trong kiến thức, kĩ năng của HS.

Việc đánh giá nhằm cung cấp những thông tin chính xác, khách quan về kiến

thức HS tiếp thu được trong quá trình học tập. Do vậy kiểm tra đánh giá môn

Ngữ văn không chỉ nhằm đánh giá HS ở mức độ hiểu và tiếp thu kiến thức như

thế nào mà còn phải đạt những yêu cầu như diễn đạt trong sáng, rõ ràng thuyết

phục người nghe. Vì vậy chương trình Ngữ văn mới nên sử dụng đa dạng

những phương pháp kiểm tra đánh giá. Thực hiện những hình thức kiểm tra

như vấn đáp, kiểm tra viết. Ngân hàng câu hỏi kiểm tra đánh giá được ra ở

nhiều hình thức khác nhau: câu hỏi trắc nghiệm nhiều phương án lựa chọn, câu

hỏi nhận biết, thông hiểu, câu hỏi vận dụng gắn với thực tế đời sống hằng

ngày, kĩ năng đọc hiểu văn bản và kĩ năng viết văn bản. Câu hỏi nhận biết ở

những mức độ nhắc lại những kiến thức cũ đã được học, hoặc mô tả kiến

82

thức mới. Thông hiểu là diễn đạt, mô tả đúng kiến thức, kĩ năng đã được

học bằng ngôn ngữ theo cách hiểu, cách cảm thụ của HS kết hợp với những

hoạt động so sánh, phân tích, giải thích hoặc áp dụng kiến thức, kĩ năng để

giải quyết tình huống hoặc vấn đề trong học tập. Vận dụng kết nối, sắp xếp

lại những kiến thức, kĩ năng đã được học nhằm giải quyết những vấn đề,

tình huống mới trong thực tế. Kết hợp đánh giá HS trong quá trình dạy học,

giáo dục. Nâng cao yêu cầu vận dụng kiến thức và thực tiễn, tăng cường

câu hỏi mở gắn với thực tiễn đời sống, xã hội. Kiểm tra đánh giá kết quả

học tập còn dựa trên các hoạt động học tập trên lớp, qua những bài thu

hoạch tìm hiểu thực tế, tham quan của HS. Đánh giá kết quả học tập của HS

kết hợp với từng tiết học trên lớp. Hình thức đánh giá như: phiếu học tập,

sản phẩm làm việc theo nhóm, bài thuyết trình, tranh vẽ hay những hoạt

động tái hiện những tác phẩm văn học. Bài viết của HS dựa trên những tiêu

chí từng thể loại bài luận. Tiêu chí được công bố trước khi HS viết bài và

sử dụng để HS tự đánh giá lẫn nhau, HS tự đánh giá và GV đánh giá HS.

3.2. Kiến nghị về việc biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn Trung học cơ sở

3.2.1. Kiến nghị về cấu trúc của sách giáo khoa

3.2.1.1 Cấu trúc chung

Chương trình mới, SGK mới với mục tiêu lấy HS làm trung tâm, phát

huy tính tích cực chủ động, sáng tạo khả năng tự học, tự khám phá của HS.

Thay đổi chương trình dẫn đến thay đổi về cấu trúc chung của bộ SGK.

Ngoài cấu trúc truyền thống của SGK hiện hành bộ SGK mới cần bổ

sung thêm những phần như sau:

Trang bìa chính: đưa quốc hiệu hoặc quốc huy lên phần đầu của bìa sách,

tiếp đến là tên các tác giả biên soạn. Mục đích của việc đưa quốc hiệu hoặc

quốc huy vào từng cuốn SGK nhằm cho HS thấy được sự trang trọng của biểu

tượng quốc gia dân tộc qua đó giúp HS có thêm lòng tự tôn, tự hào về truyền

thống tốt đẹp của dân tộc. Mặt khác HS sẽ thấy được trách nhiệm của mình với

83

quê hương đất nước qua đó HS sẽ cố gắng học tập chăm chỉ, rèn luyện bản

thân. Đưa tên các tác giả biên soạn ra bên ngoài trang bìa chính mục đích giúp

HS ghi nhớ dễ dàng tên các tác giả biên soạn, giúp HS ghi nhận những người

có công và tâm huyết biên soạn ra bộ SGK. Trang bìa chính được in bằng giấy

cứng hơn và in màu.

Trang bìa phụ: đưa quốc hiệu lên phần đầu. Ví dụ trang bìa phụ có thể

thiết kế như sau:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

Ngữ văn 6

TẬP MỘT

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM

(Tái bản lần thứ bẩy)

Hệ thống lời mở đầu: những trang đầu thêm phần giới thiệu ngắn gọn mục

đích nội dung của cả cuốn sách giúp HS dễ dàng nắm được toàn bộ chương

trình học. Phần lời nói đầu được trình bày dưới hình thức một bức thư nhắn nhủ

gửi cho HS sẽ kích thích hứng thú học tập, sự tò mò của HS ngay từ những

trang đầu tiên của cuốn SGK.

Hệ thống bài học trong bộ SGK được sắp xếp theo chương, mỗi chương

chia thành từng bài học. Những bài học đọc hiểu được sắp xếp theo thể loại:

văn học dân gian, văn học trung đại, văn học hiện đại. Việc sắp xếp vẫn dựa

84

theo nguyên tắc tích hợp với hai phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn và những

phân môn khác như Lịch sử, Địa lí…Bổ sung phần đầu chương trình bày khái

quát những nội dung chương và giới thiệu phương pháp học tập chủ yếu cho

HS. Cuối mỗi chương có phần bài tập vận dụng những kiến thức đã học ở trong

chương cho HS, chú ý đến những bài tập vận dụng.

Những trang cuối sách cần có thêm trang tổng hợp những khái niệm về

các thuật ngữ trong bài học. Có thêm trang ghi thông tin liên lạc như số điện

thoại, địa chỉ của các nhà biên soạn bộ SGK để HS hay GV có những kiến nghị

về bộ SGK thì có thể dễ dàng liên lạc với các nhà biên soạn, ngoài ra có thêm

trang ghi ngày xuất bản, năm xuất bản cuốn sách.

Phần cuối bộ SGK có thêm mục lục bảng biểu thống kê về những tác phẩm,

giai đoạn văn học và thể loại mà HS được học trong chương. Ví dụ như sau:

Giai đoạn

Tác phẩm

Tác giả

Nội dung chính

Thể loại

văn học

Truyện kể về cuộc đời người

dũng sĩ Thạch Sanh trải qua nhiều

1.Thạch

Khuyết

Văn học

Truyện

thử thách lớn lao.Truyện thể hiện

Sanh

danh

dân gian

cổ tích

ước mơ, niềm tin, công lí xã hội,

yêu hòa bình của nhân dân ta.

2. Truyện

Đoạn trích ca ngợi vẻ đẹp, tài

Kiều

Văn học

năng của chị em Thúy Kiều và dự

Truyện

(đoạn trích:

Nguyễn Du

cảm về kiếp người tài hoa bạc

trung đại

Nôm

Chị em

mệnh.

Thúy Kiều)

Truyện thể hiện một cách chân

thực, cảm động số phận đau

Truyện

Văn học

3. Lão Hạc Nam Cao

thương của người nông dân trong

ngắn

hiện đại

xã hội cũ và phẩm chất cao quý

tiềm tàng của họ.

85

Sau khi kết thúc mỗi bài học, GV yêu cầu HS điền thông tin vào từng cột

của bảng. Phần giai đoạn văn học trong quá trình giảng dạy GV cần nhấn mạnh về

hoàn cảnh lịch sử xã hội khi sáng tác tác phẩm. Dựa vào hoàn cảnh xã hội mà GV

mở rộng trong bài HS sẽ hiểu rõ hơn, sâu hơn về tác phẩm. Nội dung ngắn gọn

giúp HS dễ ghi nhớ, khắc sâu về bài học. Qua đó HS có thể so sánh các tác phẩm

khác nhau trong cùng một giai đoạn văn học để thấy được những đặc điểm chung,

đặc điểm riêng của từng giai đoạn văn học khác nhau. Giúp HS có cái nhìn tổng

thể về tiến trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc.

3.2.1.2. Cấu trúc bài học

Cấu trúc bài học hướng dẫn, định hướng HS phải học, phải ghi nhớ kiến thức

nào trước, kiến thức nào sau, tìm hiểu những gì trong mỗi bài học. Do đó việc thiết

kế cấu trúc mỗi bài học phù hợp với nhận thức của HS không phải là điều dễ dàng.

Văn bản là đặc trưng cấu tạo của ba phân môn, có thể hiểu văn bản dưới góc độ

phân môn Văn là văn bản sáng tạo, dưới góc độ phân môn Tiếng Việt là phân môn

khai thác, phân môn Làm văn là văn bản rèn luyện kĩ năng. Việc thay đổi cấu trúc

bài học trong bộ SGK Ngữ văn sau 2015 là một vấn đề cần thiết. SGK cần chuyển

cách trình bày theo kiểu truyền thống đó là thông báo - giải thích - minh họa sang

cách tổ chức các hoạt động học tập sáng tạo, khám phá và tìm tòi, phát hiện vấn đề.

Nguyên tắc biên soạn môn Ngữ văn theo hướng tích hợp vì vậy sách được thiết kế

theo hướng giữ nội dung chính của từng bài học và sắp xếp và một số chương đồng

thời có một số chủ đề liên phân môn. Chính vì vậy cấu trúc bài học trong SGK cũng

phải thay đổi.

Cấu trúc bài học đọc văn SGK Ngữ văn sau 2015 như sau:

Mục kết quả cần đạt hiện nay thường được sử dụng cho cả bài học bao gồm

phần Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn với những yêu cầu về kiến thức, kĩ

năng và thái độ. SGK mới mục kết quả cần đạt nên thiết kế riêng cho từng phần

Văn học, Tiếng Việt và Tập làm văn. Những yêu cầu ở từng phần sẽ có sự khác

nhau như đối với phần Văn học hướng HS đến kĩ năng nghe - đọc, hình thành kiến

86

thức tư tưởng, kĩ năng, tích hợp… Phần kiến thức cần đạt được thiết kế riêng cho

từng phần như vậy nhằm định hướng cho GV trong quá trình chuẩn bị bài lên lớp,

giúp HS xác định được những kiến thức cơ bản của bài học.

Mục văn bản nên lấy nguyên tắc vừa kế thừa vừa đổi mới trong việc

chọn lựa những văn bản đọc hiểu để xây dựng chương trình và SGK Ngữ văn.

Nội dung chương trình tập trung hình thành kĩ năng nghe - nói - đọc - viết cho

HS đặc biệt là kĩ năng nghe - nói. Hướng đến việc hình thành phát triển năng

lực chung, năng lực chuyên biệt cho HS ở từng cấp học. Tránh đưa những kiến

thức trùng lặp gây tâm lí chủ quan cho HS. Thiết kế những bài học đọc - hiểu

dưới dạng những bài học về cuộc sống, về hiện tượng tự nhiên của xã hội về

những vấn đề của đời sống hằng ngày xung quanh HS. Số lượng văn bản HS

tìm hiểu ở nhà nên tăng số lượng so với SGK Ngữ văn hiện nay. Mỗi kì học

nên có khoảng 6 bài đọc thêm ở nhà dưới sự hướng dẫn của GV.

Mục chú thích cần chú thích chuẩn hơn, tỉ mỉ hơn. Phần chú thích về tác

giả, tác phẩm nên đặt trên đầu văn bản thay vì cuối phần văn bản như hiện nay.

Hình ảnh minh họa thay vì là chân dung tác giả thì nên thay thế bằng những

bức ảnh đời thường giúp HS hiểu thêm về tác giả, hoàn cảnh sáng tác tác phẩm.

Phần chú thích từ ngữ khó trong bài được trình bày dưới văn bản đọc hiểu giúp

HS thuận tiện trong việc tra cứu.

Phần hướng dẫn đọc hiểu tức là hướng dẫn cách đọc cho HS. Giáo sư

Trần Đình Sử có nhận xét “Đọc hiểu văn bản như một khâu đột phá trong việc

đổi mới dạy học và thi môn Ngữ văn, là yêu cầu bức thiết đối với việc đào tạo

nguồn nhân lực mới cho đất nước tiến theo các nước tiên tiến” [61]. Chính vì

vậy đọc không chỉ rèn luyện năng lực đọc đúng, đọc chính xác văn bản mà còn

là hoạt động có tính sáng tạo trên cơ sở vốn có của người đọc.

Hướng dẫn cách hiểu, cách tiếp cận tác phẩm từ nông đến sâu, từ khái

quát đến cụ thể, từ nội dung đến hình thức bằng một loạt hệ thống câu hỏi, bài

tập, nên đưa một số dạng câu hỏi tự luận như so sánh, phân tích, nêu ý kiến cá

87

nhân. Câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài ở nhà cần bổ sung kiểu câu trắc nghiệm

nhiều đáp án lựa chọn. Kiểu câu trắc nghiệm có hiệu quả cao trong những tác

phẩm có nhiều sự tranh luận. Qua những câu hỏi đó HS có quyền tự do lựa

chọn phương án mình cho là đúng, và phát biểu và bảo vệ được ý kiến cá nhân

mà không bị áp đặt.

Mục ghi nhớ trong SGK Ngữ văn nên trình bày ngắn gọn súc tích hơn

nữa, giúp HS dễ ghi nhớ, dễ khắc sâu hơn nội dung bài học.

Sau phần câu hỏi hướng dẫn bài học nên có thêm mục “Trọng tâm bài

học”. Mục này để ghi chép những kiến thức chính của bài sau khi tìm hiểu phân

tích. Yêu cầu mục này ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thuộc đi đúng trọng tâm của bài

học. Mục này có thể bỏ trống, sau khi kết thúc tiết học HS sẽ tự rút ra những

kiến thức trọng tâm cần ghi nhớ của bài học.

3.2.2. Kiến nghị về hình thức trình bày sách giáo khoa Ngữ văn

SGK là loại sách cung cấp những kiến thức cơ bản cho HS phổ thông.

Tùy từng môn học, SGK được biên soạn, thiết kế và trình bày dưới những hình

thức khác nhau. Vậy hình thức trình bày của bộ SGK Ngữ văn Trung học cở sở

hiện nay đã đáp ứng được yêu cầu của GV và HS hay chưa?

Khảo sát 20 GV trên trang facebook cá nhân với câu hỏi “Theo bạn hình

thức bộ SGK Ngữ văn Trung học cơ sở hiện nay có hấp dẫn không?”. Kết quả

thu về 100% giáo viên đều trả lời hình thức bộ SGK Ngữ văn Trung học cơ sở

hiện nay chưa hấp dẫn.

Tiến hành khảo sát 20 HS của trường Trung học cơ sở Nguyễn Văn Cừ

với hai câu hỏi như sau:

Câu 1: Theo em hình thức bộ SGK Ngữ văn Trung học cơ sở hiện nay có

hấp dẫn hay không?

 Có  Không

Câu 2: Em mong muốn hình thức bộ SGK Ngữ văn Trung học cơ sở

trong tương lai như thế nào?

Kết quả thu về 19 em có câu trả lời về hình thức bộ SGK Ngữ văn Trung

học cơ sở hiện nay không hấp dẫn. Các em đều có mong muốn hình thức bộ

88

SGK Ngữ văn trong tương lai có nhiều hình ảnh minh họa có nhiều màu sắc và

sinh động để hiểu bài hơn, bìa sách đẹp hơn, dày hơn để tránh bị rách…

Vì vậy hình thức trình bày SGK Ngữ văn tương lai cần được chú trọng

hơn nữa. Thay vì được in bằng giấy bình thường thì có thể thay bằng giấy bìa

cứng, tăng lượng kênh hình trong bài học. Trình bày những bài học trong SGK

cần có sự đổi mới, bài học được trình bày giữa trang giấy, xung quanh là kết

quả cần đạt, câu hỏi đọc hiểu, chú thích, luyện tập…

Bài số:

Kết quả cần đạt

Văn bản

Chú

Câu

thích

hỏi

hướng

dẫn

đọc

hiểu

Trôt Trọng tâm bài

Ghi nhớ

Luyện tập

học

Ví dụ: trình bày bài học đọc học phần Văn

Hình ảnh minh họa trong bộ SGK mới nên thay bằng những hình ảnh có

màu sắc thay vì hai màu đen trắng như hiện nay. Hình ảnh đạt yêu cầu về giá trị

thẩm mĩ, khoa học, có độ lớn phù hợp với văn bản. Nội dung ảnh phù hợp với

nội dung văn bản, dễ hiểu, dễ nhận biết, phối hợp màu sắc hợp lí và phù hợp

89

với tâm lí lứa tuổi HS Trung học cơ sở. Trong quá trình dạy học hình ảnh minh

họa có thể sử dụng làm lời vào bài.

Ví dụ: Khi dạy bài “Sông nước Cà Mau” giáo viên có thể sử dụng một

bức tranh về vùng sông nước Cà Mau làm hình ảnh minh họa cho bài học.

Đặt câu hỏi: sau khi quan sát bức tranh các em có cảm nhận gì về vùng

sông nước này? HS sẽ có những ấn tượng ban đầu về vùng sông nước với cảnh

thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ, đầy sức sống, bao trùm toàn bộ là một màu

xanh…

Ví dụ: Khi dạy bài “Phong cách Hồ Chí Minh” GV có thể cho HS quan

sát một bức ảnh đời thường của Chủ tịch Hồ Chí Minh

90

Sau khi HS quan sát hình ảnh xong GV có thể đặt câu hỏi: “Sau khi

quan sát hình ảnh trên về việc làm đó của một vị lãnh tụ, em có suy nghĩ gì về

Bác?” Qua câu hỏi đó HS sẽ nói lên những cảm nhận ban đầu của mình về sự

giản dị trong lối sống của Bác, tuy là một vị lãnh tụ nhưng Bác vẫn làm những

công việc như bao người dân lao động khác.

Như vậy sử dụng hình ảnh minh họa làm lời mở đầu giúp HS hứng thú

hơn với bài học, HS có ấn tượng ban đầu về khung cảnh, con người, sự vật và

sự việc trong bài học. HS có hứng thú hơn qua việc xem tranh, quan sát tranh trả

lời câu hỏi để khám phá văn bản. Hướng dẫn HS phân tích, tìm hiểu văn bản, chiếm

lĩnh văn bản, kết hợp với câu hỏi đọc hiểu GV gợi cho HS những liên tưởng đến

hình ảnh minh họa trong tranh. Hướng dẫn HS học tổng kết rút ra trọng tâm bài học

và luyện tập, đối với những tranh ảnh mang tính ẩn dụ, biểu trưng gợi cho HS giá trị

tư tưởng, giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

Lựa chọn ngữ liệu làm ví dụ minh họa cho phần Tiếng Việt cần dựa

trên những tiêu chí về sự hấp dẫn, tạo sự hứng thú phù hợp với tâm lí lứa tuổi

HS Trung học cơ sở. Ngữ liệu có hình thức sinh động, hình thức luôn đi kèm

với nội dung lí thú thể hiện những nét độc đáo của Tiếng Việt, có thể sử dụng

hình ảnh minh họa làm ngữ liệu. Ngữ liệu càng sát với cuộc sống, sinh hoạt và

giao tiếp của HS thì càng tạo thêm sự quan tâm của HS đối với bài học.

Kiểu chữ, cỡ chữ, cách phân bố màu sắc, chiều dài dòng chữ hay

khoảng cách giữa các dòng phải phù hợp với các yêu cầu và đạt chuẩn.

Đổi mới chương trình và SGK, bên cạnh việc bắt kịp xu thế quốc tế và

dạy học Ngữ văn để hình thành những năng lực chung cho HS. Đổi mới luôn

đề cao nhiệm vụ giữ gìn bản sắc của dân tộc, phát triển nền văn hóa dân tộc

trong việc hình thành và bồi dưỡng những năng lực chuyên biệt. Với định

hướng lấy người học làm trung tâm được thực hiện đồng bộ ngay từ việc lựa

chọn những tác phẩm, ngữ liệu phù hợp với lứa tuổi, tâm lí của HS. Chương

trình Ngữ văn được xây dựng theo hướng phát triển năng lực, tập trung vào

91

năng lực giao tiếp của người học nhằm phát huy khả năng tự học, khả năng

sáng tạo của HS. Có sự cân bằng hợp lí giữa lí thuyết, thực hành và vận dụng.

Qua quá trình học HS sẽ rèn luyện được bốn kĩ năng cơ bản: nghe – nói – đọc –

viết. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, văn học, tình yêu gia đình quê hương, giáo

dục tư tưởng nhân cách, trách nhiệm công dân cho HS. Chương trình đảm bảo

tính khoa học, chính xác, hiện đại, tiếp cận được một số chương trình của các

nước phát triển trên thế giới. Việc điều chỉnh bộ SGK Ngữ văn mới sau 2015

cần đáp ứng nhu cầu của xu thế hội nhập quốc tế, mặt khác tiếp thu những ưu

điểm, khắc phục được những nhược điểm của chương trình Ngữ văn truyền

thống trước đây.

Chương trình và SGK luôn giữ một vai trò quan trọng trong hệ thống.

Chương trình mới được xây dựng trên nguyên tắc đảm bảo tính đồng bộ giữa

các chương trình khác. Bảo đảm tính nối tiếp với các cấp học, liên thông giữa

các môn học với các hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Để đổi mới bộ SGK Ngữ

văn sau 2015 trước tiên phải đổi mới từ khâu biên soạn bộ sách đến hình thức

trình bày. Việc viết SGK trước đây là do một tập thể các giáo sư, tiến sĩ biên

soạn lựa chọn xây dựng chương trình. Đối với SGK Ngữ văn trong tương lai

nên tổ chức một cuộc thi phát động viết SGK trên toàn quốc. Những bộ SGK

được tập hợp lại, bộ sách nào phù hợp với tiêu chí đề ra sẽ được những giáo sư,

tiến sĩ có nhiều kinh nghiệm xem xét, lựa chọn cân nhắc kĩ lưỡng để lựa chọn

làm bộ SGK chính thức cho HS Trung học cơ sở. Khâu biên soạn SGK cần

được tổ chức công khai, minh bạch, thực hiện theo đúng quy trình. Bộ SGK

Ngữ văn tương lai cần được viết ngắn gọn, có sức hấp dẫn và dành thời gian

cho các hoạt động tìm tòi, sáng tạo của HS, tránh viết theo lối diễn giảng,

truyền thụ một chiều.

Xây dựng chương trình Ngữ văn mới sau 2015 cần bảo đảm tính

thống nhất giữa các chương trình học, những nguyên tắc về tính khoa học và sư

phạm. Coi trọng dạy người với dạy chữ, rèn luyện, phát triển phẩm chất và

92

năng lực, phát hiện bồi dưỡng năng lực cho HS. Tăng cường năng lực ngoại

ngữ, tin học và những kỹ sống cho HS trong quá trình hội nhập quốc tế, đẩy

mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Tạo điều kiện thuận lợi và

động lực cho người dạy nghiên cứu, khai thác những tư liệu giáo dục, tìm hiểu

thực tiễn trong quá trình soạn bài lên lớp. Xác định rõ ràng mục tiêu dạy học

môn Ngữ văn trong trường phổ thông, đáp ứng được những yêu cầu đổi mới về

phương pháp dạy học. Chương trình vẫn lấy nguyên tắc tích hợp ba phân môn

Văn, Tiếng Việt và Tập làm văn làm cơ sở cho bộ SGK sau 2015. Tăng tính

tương tác giữa thầy và trò trong mỗi tiết học. Theo mục tiêu hình thành và phát

triển năng lực Ngữ văn ưu tiên năng lực giao tiếp bao gồm các kĩ năng: nghe,

nói, đọc, viết thông qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Chương trình chú ý

phát triển các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho người học.

93

KẾT LUẬN

Trong luận văn này, chúng tôi đã hệ thống hóa một số lí luận cơ bản về

SGK và tìm hiểu một số vấn đề về hai bộ SGK Văn tuyển và Ngữ văn. Từ

những nội dung đã trình bày có thể rút ra một số kết luận như sau:

Nghiên cứu, tìm hiểu một số vấn đề chung như quan niệm, chức năng

và yêu cầu của SGK để hiểu rõ về SGK một công cụ giảng dạy và học tập cần

thiết của GV và HS. GV biết cách khai thác và phát huy những ưu điểm của HS

trong quá trình dạy và học.

Thông qua việc so sánh hai bộ SGK Văn tuyển và Ngữ văn trên những

phương diện về cấu trúc, nội dung dạy học đọc hiểu và hình thức trình bày giúp

chúng ta thấy rõ những ưu, nhược điểm của hai bộ SGK. Qua việc so sánh đó

tạo tiền đề cho việc biên soạn bộ SGK Ngữ văn mới sau 2015.

Tự học là mục tiêu của giáo dục ngày nay, giúp HS tự học là một quan

điểm quan trọng trong quá trình biên soạn bộ SGK mới sau 2015. Mặt khác bộ

SGK mới phải hình thành và phát triển năng lực giao tiếp cho HS bao gồm

những kỹ năng: nghe – nói – đọc – viết thông qua những hoạt động trải nghiệm

sáng tạo. Dạy cho HS phương pháp tự học, tự làm việc với SGK để tự chiếm

lĩnh kiến thức là một điều quan trọng đối với GV. Xây dựng chương trình Ngữ

văn mới sau 2015 cần đảm bảo tính thống nhất, khoa học và sư phạm. Xác

định rõ mục tiêu đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học. Chương

trình sẽ lấy HS làm trung tâm tăng cường tính tương tác, tạo động lực đổi

mới phương pháp giảng dạy, thi kiểm tra đánh giá năng lực học tập của

người học. GV sẽ là người hướng dẫn HS cách thức làm việc với SGK để

HS phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, từ đó tìm ra cách giải quyết

vấn đề theo hướng riêng của mình.

Hướng tiếp theo của đề tài là đưa ra một số ý kiến cá nhân về việc

biên soạn bộ SGK Ngữ văn sau 2015. Chúng tôi mong muốn đề tài này sẽ

được triển khai rộng rãi trong GV nhằm giúp GV hiểu rõ những vấn đề lí

luận về SGK nói chung và hai bộ SGK Văn tuyển và Ngữ văn nói riêng để

sử dụng tốt hơn, phát huy mọi chức năng của SGK trong quá trình giảng

dạy trong nhà trường phổ thông.

94

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. Trần Thanh Bình (2007), Nghiên cứu cấu trúc đơn vị bài học trong SGK Văn

học PTTH Cộng hòa Liên bang Nga, Kỷ yếu Hội nghiên cứu khoa học,

NXB Giáo dục.

2. Bộ giáo dục và đào tạo (1955), Văn Tuyển lớp 5 (tập 1), NXB Giáo dục

phổ thông.

3. Bộ giáo dục và đào tạo (1955), Văn Tuyển lớp 5 (tập 2), NXB Giáo dục

phổ thông.

4. Bộ giáo dục và đào tạo (1955), Văn Tuyển lớp 6 (tập 1), NXB Giáo dục

phổ thông.

5. Bộ giáo dục và đào tạo (1955), Văn Tuyển lớp 6 (tập 2), NXB Giáo dục

phổ thông.

6. Bộ giáo dục và đào tạo (1955), Văn Tuyển lớp 7 (tập 1), NXB Giáo dục

phổ thông.

7. Bộ giáo dục và đào tạo (1955), Văn Tuyển lớp 7 (tập 2), NXB Giáo dục

phổ thông.

8. Bộ giáo dục và đào tạo (1981), Những yêu cầu chủ yếu về nội dung và cấu

trúc phương pháp của SGK phổ thông, NXB Giáo dục.

9. Bộ giáo dục và đào tạo (1998), Các vấn đề sách giáo khoa, tập 13, NXB

Giáo dục.

10. Bộ giáo dục và đào tạo (2001), Tìm hiểu những quy định mới về giáo dục,

NXB Lao động.

11. Bộ giáo dục và đào tạo (2001), Các văn bản pháp luật hiện hành về Giáo

dục- Đào tạo, NXB Thống kê.

12. Bộ giáo dục và đào tạo (2003), Xã hội với SGK, tập 2, NXB Giáo dục.

13. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ

văn, NXB Giáo dục.

95

14. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Ngữ văn 6 (tập 1), NXB Giáo dục.

15. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Ngữ văn 6 (tập 2), NXB Giáo dục.

16. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Ngữ văn 7 (tập 1), NXB Giáo dục.

17. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Ngữ văn 7 (tập 2), NXB Giáo dục.

18. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Ngữ văn 8 (tập 1), NXB Giáo dục.

19. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Ngữ văn 8 (tập 2), NXB Giáo dục.

20. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Ngữ văn 9 (tập 1), NXB Giáo dục.

21. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Ngữ văn 9 (tập 2), NXB Giáo dục.

22. Bộ giáo dục và đào tạo (2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương

trình, sách giáo khoa lớp 12 Trung học phổ thông môn Ngữ văn, Hà Nội.

23. Bộ giáo dục và đào tạo (2007), Xã hội với SGK, tập 3, NXB Giáo dục.

24. Bộ giáo dục và đào tạo (2007), Xã hội với SGK, tập 5, NXB Giáo dục.

25. Bộ giáo dục và đào tạo (2012), Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về dạy

học Ngữ văn ở trường phổ thông Việt Nam, NXB Giáo dục.

26. Nguyễn Tài Cẩn (1995), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (sơ thảo),

NXB Giáo dục.

27. Nguyễn Hữu Châu (2006), Những vấn đề cơ bản về chương trình và quá

trình dạy học, NXB Giáo dục.

28. Nguyễn Hữu Châu (2007), Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI,

NXB Giáo dục.

29. Nguyễn Viết Chữ (2001), Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương,

NXB Đại học quốc gia Hà Nội.

30. Nguyễn Viết Chữ (2007), “Về việc bồi dưỡng kĩ năng đọc, nói, nghe, viết

cho học sinh trong dạy học Ngữ văn”, Tạp chí Giáo dục, số 172.

31. Hoàng Mai Diễn (2010), “Vài nét khái quát về chương trình và sách giáo

khoa Ngữ văn cấp II cải cách giáo dục năm 1956”, Tạp chí Giáo dục Việt

Nam, số 251, 2010.

96

32. Hoàng Mai Diễn (2011), So sánh sách giáo khoa THCS của Việt Nam và

Trung Quốc (中越两国初中语文教科书比较), Luận án tiến sĩ Trường

Đại học Sư phạm Hoa Đông, Trung Quốc.

33. Hoàng Mai Diễn (2013), “Giới thiệu vài nét khái quát về con đường thiết kế

chương trình chuẩn THPT môn Ngữ văn của Trung Quốc hiện nay”, Kỷ

yếu hội thảo quốc gia về dạy học Ngữ Văn trong nhà trường phổ thông,

NXB Giáo dục.

34. Đỗ Thu Hà (2011), “Tầm quan trọng của việc phát triển kĩ năng nói cho

sinh viên sư phạm”, Kỷ yếu Hội thảo nghiên cứu sinh, Viện KHGDVN.

35. Đỗ Thu Hà (2012), “Đề xuất một số nội dung dạy học nhằm phát triển kĩ

năng nghe - nói cho sinh viên sư phạm”, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia về Phát

triển kĩ năng nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm, NXB Giáo dục.

36. Đỗ Thu Hà (2013), “Rèn luyện kĩ năng nghe- nói cho học sinh trong dạy

học Ngữ văn ở bậc THPT”, Kỉ yếu Hội thảo quốc gia về dạy học Ngữ văn

trong nhà trường phổ thông, NXB Giáo dục.

37. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn

học, NXB Giáo dục.

38. Trần Bá Hành (2001), “Những đặc trưng của phương pháp dạy học tích

cực”, Tạp chí Giáo dục số 32.

39. Trần Bá Hành (2003), Dạy học lấy người học làm trung tâm - Nguồn gốc,

bản chất, đặc điểm Thông tin khoa học Giáo dục số 96.

40. Phạm Thị Thu Hiền (2010), “Việc rèn luyện kĩ năng nghe và nói cho học

sinh tiểu học ở Cafolia- Mĩ”, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 52

41. Đặng Hiển (2005), Dạy văn, học văn, NXB Đại học Sư phạm.

42. Nguyễn Trọng Hoàn, Nguyễn Trí (2001), Đổi mới phương pháp dạy học

Văn trong nhà trường phổ thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

43. Trần Bá Hoành (2007), Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và

sách giáo khoa, NXB Đại học Sư phạm.

97

44. Huỳnh Bá Học (2012), Khái quát chung về văn bản,

http://www.slideshare.net/huynhbahoc/khi-qut-chung-v-vn-bn, ngày

13/11/2012.

45. Nguyễn Thúy Hồng (2006), “Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh Trung học

cơ sở”, Tạp chí Giáo dục, số 131.

46. Nguyễn Thanh Hùng (2008), Giáo trình phương pháp dạy học Ngữ văn

Trung học cơ sở, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

47. Đặng Thành Hưng (2005), Tương tác hoạt động thầy- trò trên lớp, NXB

Giáo dục.

48. Vũ Ngọc Khánh (2004), Để dạy và học tốt môn Văn, NXB Đại học Sư phạm.

49. Phan Trọng Luận (2006), Văn học giáo dục thế kỉ XXI, NXB Đại học Quốc

gia Hà Nội.

50. Phan Trọng Luận (2006), Về chương trình Ngữ văn và sách giáo khoa lớp

(chuẩn), Dạy và học ngày nay, (6), tr 10-14.

51. Phan Trọng Luận (2007), Văn học trong nhà trường nhận diện và tiếp cận

đổi mới, NXB Đại học Sư phạm.

52. Nguyễn Công Lý (2013), Chương trình và sách giáo khoa môn Văn bậc trung

học và Miền Nam trước 1975, in trong kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia về

dạy học Ngữ văn ở phổ thông Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm.

53. Kiều Mai (2007), Đọc hiểu - vấn đề cơ bản trong đổi mới nội dung và

phương pháp dạy học văn, http://kieumai.vnweblogs.com/a37965/doc-

hieu-van-de-co-ban-trong-doi-moi-noi-dung-va-phuong-phap-day-hoc-

van.html, ngày 19/ 11/ 2007

54. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội (2004), Sách giáo khoa và vấn đề

nghiên cứu sách giáo khoa ở Việt Nam, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học

quốc tế, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

55. Nhà xuất bản giáo dục (1981), Những yêu cầu chủ yếu về nội dung và cấu

trúc phương pháp của sách giáo khoa phổ thông.

98

56. Nhà xuất bản Giáo dục (1992), Các vấn đề sách giáo khoa, NXB Giáo dục.

57. Nhà xuất bản Giáo dục (2002), Các vấn đề sách giáo dục- Tuyển tập, NXB

Giáo dục.

58. Nhà xuất bản Giáo dục (2006), Nguyễn Khắc Phi tuyển tập, NXB Giáo dục.

59. Nhà xuất bản Thanh Niên (2000), Từ điển Tiếng Việt.

60. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) (2002), Ngữ văn 6 sách giáo viên tập 1,

2, NXB Giáo dục.

61 . Trần Đình Sử (2013), Đọc hiểu văn bản khâu đột phá trong dạy học văn

hiện nay, https://trandinhsu.wordpress.com/2013/08/30/doc-hieu-van-ban-

khau-dot-pha-trong-day-hoc-van-hien-nay/, ngày 30/8/2013.

62. Đường Vinh Sường, Đào Trọng Quang, Cẩm Anh (1999), Thông tin sách

giáo dục, NXB Giáo dục.

63. Tạp chí Khoa học Giáo dục (2008), Chuyên đề đánh giá chương trình và

sách giáo khoa.

64. Vũ Văn Thái, Vũ Thị Huệ (1981), Giáo trình Lịch sử giáo dục học Việt

Nam, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

65. Vũ Văn Thành (2013), “Hiểu đúng vai trò của sách giáo khoa để soạn và

dạy cho tốt”, in trong Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, NXB Đại học Sư

phạm Hà Nội.

66. V.Thắng (2013), Dạy học Ngữ văn phổ thông - ngổn ngang những bất cập,

http://sggp.org.vn/giaoduc/2013/1/308516/, ngày 6/01/2013.

67. Đỗ Ngọc Thống (2011), Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông

Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam.

68. Đỗ Ngọc Thống (2012), Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông

Việt Nam và hướng phát triển sau 2015, http://nico-paris.com/tin-tuc-

304/chuong-trinh-ngu-van-trong-nha-truong--pho-thong-viet-nam-va-

huong-phat-trien-sau-2015.vhtm, ngày 1/12/2012.

99

69. Tạ Xuân Thủy (2013), Nâng cao chất lượng sách giáo khoa: Hình thức phải

đẹp, http://th-phandinhphung-

hochiminh.violet.vn/entry/showprint/entry_id/9517276 , ngày 17/08/2013

70. Nguyễn Minh Thuyết (2012), Sách giáo khoa phổ thông nước ngoài và một

số kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Khoa học Giáo dục (số 80- 81).

71. Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường (1998), Quá

trình dạy tự học, NXB Giáo dục

72. Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) (2007), Giáo trình tâm lý học đại cương,

NXB Đại học Sư phạm.

73. Thái Quang Vinh, Thái Bảo Ni (2006), Bồi dưỡng nâng cao Ngữ văn, NXB

Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.

Tài liệu nước ngoài

74. Chu Tác Nhân, Chúc Tân Hoa (2001), Thảo luận về tâm lý học Ngữ văn

tiểu học, NXB Giáo dục Thượng Hải, trang 114.

75. Chuyên san Tạp chí số 9 của Hội Ngôn ngữ ứng dụng thế giới (AILA) Cui

Yonghua, Yang Jizhou, (2006), Kĩ năng giảng dạy ngoại ngữ, NXB Đại

học Bắc Kinh.

76. I.F.Kharlamôp (1978), Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế

nào, NXB Giáo dục.

100

PHỤ LỤC

PHIẾU KHẢO SÁT

Câu 1: Theo em hình thức bộ SGK Ngữ văn Trung học cơ sở hiện nay có hấp

dẫn hay không?

 Có  Không

Câu 2: Em mong muốn hình thức bộ SGK Ngữ văn Trung học cơ sở trong

tương lai như thế nào?

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………

Cảm ơn em đã tham gia khảo sát.