intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sử dụng vạt da cơ dưới móng trong tạo hình ung thư lưỡi và sàn miệng

Chia sẻ: ViJenchae ViJenchae | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

18
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vạt da cơ dưới móng được mô tả lần đầu tiên bởi tác giả Wang năm 1986. Đây là vạt tại vùng, được cung cấp máu bởi bó mạch giáp trên. Vạt da cơ dưới móng bao gồm các cơ ức móng, cơ ức giáp và bụng trên cơ vai móng). Vạt có độ dày tương đối, kích thước phần đảo da của vạt từ 4cm chiều rộng và 7cm chiều dài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sử dụng vạt da cơ dưới móng trong tạo hình ung thư lưỡi và sàn miệng

  1. ĐẦU VÀ CỔ SỬ DỤNG VẠT DA CƠ DƯỚI MÓNG TRONG TẠO HÌNH UNG THƯ LƯỠI VÀ SÀN MIỆNG HỒ THÁI TÍNH1, BÙI XUÂN TRƯỜNG2, NGUYỄN ANH KHÔI3 Vạt da cơ dưới móng được mô tả lần đầu tiên bởi tác giả Wang năm 1986. Đây là vạt tại vùng, được cung cấp máu bởi bó mạch giáp trên. Vạt da cơ dưới móng bao gồm các cơ ức móng, cơ ức giáp và bụng trên cơ vai móng). Vạt có độ dày tương đối, kích thước phần đảo da của vạt từ 4cm chiều rộng và 7cm chiều dài. Vạt dùng để tái tạo khuyết hổng nhỏ và trung bình của hốc miệng. Từ tháng 4 năm 2014 đến tháng 4 năm 2015, chúng tôi đã sử dụng vạt da cơ dưới móng tái tạo cho 44 bệnh nhân (25 trường hợp ung thư lưỡi và 19 trường hợp ung thư sàn miệng). Tỉ lệ sống của vạt da cơ dưới móng là 100%. Tỉ lệ hoại tử toàn bộ đảo da là 15,9% và hoại tử một phần đảo da là 34,1%. Do đó, chúng tôi tin rằng vạt da cơ dưới móng là một lựa chọn tin cậy và thích hợp, có thể thay thế tốt cho vạt tự do để tái tạo các khuyết hổng trung bình trong hốc miệng. Use of the infrahyoid myocutaneous flap in tongue and floor of the mouth reconstruction. The infrahyoid myocutaneous flap (IHMCF), as first described by Wang in 1986. This is regional flap, the IHMCF is a pedicled flap nourished by the superior thyroid vessels. The infrahyoid muscles used in this flap consist of the sternohyoid muscle, the sternothyroid muscle, the superior belly of the omohyoid. This thin flap, provides a skin paddle of about 4cm by 7cm. The IHMCF is used in the reconstruction of small and medium sized defects of the oral cavity. From April 2014 to April 2015, 44 IHMCF were used for reconstruction of the tongue and the floor of the mouth after cancer ablative surgery (cancer of the tongue 25, floor of mouth 19). The survival rate of IHMCF was 100%. The rate of total skin paddle necrosis was 15,9% and the rate of partial skin paddle necrosis was 34,1%. Therefore, we believe that IHMCF is a reliable and convenient flap that can serve as a good alternative to free flaps in the reconstruction of medium sized defects of the oral cavity. ĐẶT VẤN ĐỀ tổn thương lưỡi và sàn miệng lan rộng tại chỗ mà trước đây chưa thực hiện được. Phẫu thuật tạo hình Ung thư lưỡi và sàn miệng là 2 loại ung thư với việc che lấp khuyết hổng và phục hồi chức năng thường gặp nhất trong ung thư vùng đầu cổ, chiếm tỉ giúp cho phẫu thuật viên mạnh dạn hơn trong những lệ hơn 50% các ung thư vùng hốc miệng. Theo số trường hợp phải cắt rộng đúng mức tổn thương đảm liệu ghi nhận ung thư tại Bệnh viện Ung Bướu bảo về mặt ung bướu học, với mục đích cuối cùng là TP.HCM năm 2014 thì tỉ lệ ung thư lưỡi và sàn cải thiện chất lượng sống và tiên lượng sống của miệng ở TP.HCM lần lượt là 2,7/100.000 dân và bệnh nhân[7,10]. 1,3/100.000 dân. Sinh thiết là phương tiện chẩn đoán xác định ung thư lưỡi và sàn miệng. Loại mô Đối với những tổn thương lưỡi và sàn miệng học thường gặp nhất trong ung thư lưỡi và sàn lan rộng T2-3 theo UICC thì việc điều trị phẫu thuật miệng là carcinôm. Bệnh do tăng sinh ác tính của cắt rộng đúng mức sẽ để lại khuyết hổng lớn, do đó niêm mạc hoặc mô liên kết của lưỡi và sàn miệng. chúng ta không thể may khép hoặc dùng vạt tại chỗ. Biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất là một vết loét Lựa chọn hàng đầu hiện nay là dùng vạt tự do để tái đau hay một khối sùi ở lưỡi hoặc sàn miệng. Yếu tố tạo lại những khuyết hổng này[4,7,12]. Tuy nhiên kỹ nguy cơ thường gặp là hút thuốc lá, uống rượu và thuật dùng vạt tự do là một kỹ thuật phức tạp đòi hỏi vệ sinh răng miệng kém. Gần đây người ta còn đưa cơ sở y tế phải có đầy đủ trang thiết bị (kính hiển vi, ra vai trò của nhiễm virus HPV. Phẫu thuật và xạ trị máy chụp mạch máu, máy siêu âm mạch máu, thuốc là hai mô thức điều trị chủ yếu đơn thuần hoặc phối chống đông…) và phẫu thuật viên phải nắm rõ kỹ hợp với mục đích chữa lành[4,6,12]. thuật vi phẫu để có thể tiến hành nối mạch máu và thần kinh. Một lựa chọn có thể thay thế vạt tự do là Phẫu thuật tạo hình những thập niên gần đây dùng vạt tại vùng, trong đó vạt da cơ dưới móng là cho thấy có vai trò quan trọng sau cắt rộng những một lựa chọn tương đối tốt[2,5,8]. 1 BSCKII-P.KHTH - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 2 TS.BS Trưởng Khoa Ngoại 5 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 3 TS.BS. Khoa Ngoại 5 - Bộ Môn Ung Bướu ĐHYK Phạm Ngọc Thạch 58 TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
  2. ĐẦU VÀ CỔ Kỹ thuật sử dụng vạt da cơ dưới móng trong Trong 44 bệnh nhân có 19 trường hợp ung thư tạo hình khuyết hổng lưỡi và sàn miệng được mô tả sàn miệng (43,2%) và 25 trường hợp ung thư lưỡi lần đầu bởi tác giả Wang và cộng sự 1986. Đây là (56,8%). Vị trí thường gặp nhất của ung thư lưỡi là một vạt tại vùng và được cấp máu bởi bó mạch giáp bờ bên, trong đó vị trí thường gặp nhất của sàn trên. Vạt da cơ dưới móng được chỉ định cho các miệng là sàn miệng trước. Kích thước trung bình khuyết hổng trong hốc miệng có kích thước trung của bướu là 2,7cm. Bướu có kích thước lớn nhất là bình. Vạt da cơ dưới móng khá linh hoạt, có độ dày 4cm và nhỏ nhất là 1,5cm. Đa số đại thể ghi nhận tương đối, thuận lợi khi đưa về phía trên các khuyết hình dạng bưới dạng sùi là 35 trường hợp chiếm hổng trong hốc miệng, không cần thay đổi tư thế (79,5%). Thời gian khởi phát bệnh trung bình là 3,5 bệnh nhân, vị trí lấy vạt nằm trên đường nạo hạch tháng ± 2,5 tháng. cổ do đó bệnh nhân không phải chịu thêm đường Trong 19 trường hợp ung thư sàn miệng, có 7 mổ thứ hai[3,5,11]. trường hợp được cắt bờ xương hàm dưới (36,8%). ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 25 trường hợp ung thư lưỡi, có 23 trường hợp cắt nửa lưỡi (92%). Tất cả 44 trường hợp đều được nạo Từ 04/2014 đến tháng 04/2015, chúng tôi đã hạch cổ dự phòng một bên hoặc hai bên. dùng vạt da cơ dưới móng để tái tạo khuyết hổng cho 44 bệnh nhân sau phẫu thuật ung thư lưỡi và Bảng 1. Đặc điểm bệnh nhân sàn miệng. Đây là một nghiên cứu hồi cứu loạt bệnh. Nam 34 Chúng tôi ghi nhận dữ liệu của bệnh nhân bao Giới tính gồm tuổi, giới, thời gian khởi phát bệnh, vị trí bướu Nữ 10 nguyên phát, giai đoạn bệnh, độ rộng phẫu thuật, Tuổi Trung bình 53,4 kích thước vạt và các biến chứng của phẫu thuật. Nhỏ nhất 25, lớn nhất 78 Tiến hành phẫu thuật nạo hạch cổ dự phòng Kích thước bướu Trung bình 2,7 một bên hoặc hai bên tùy vị trí sang thương (nếu không có hạch di căn với đánh giá trước phẫu Nhỏ nhất 1,5, lớn nhất là 4cm thuật), hoặc nạo hạch cổ tận gốc biến đổi (nếu có hạch di căn). Chú ý bảo tồn tĩnh mạch cảnh trong, Giai đoạn bệnh trước phẫu thuật các nhánh thần kinh quai cổ và bó mạch giáp trên ở Bướu cT1 1 bên vị trí lấy vạt da cơ dưới móng. Cắt rộng sang cT2 41 thương lưỡi với diện cắt tối thiểu là 1cm, đối với sàn miệng là 2cm ± cắt bờ xương hàm dưới. cT3 2 Hạch cN0 44 Tùy thuộc vào kích thước khuyết hổng, tiến hành lấy vạt da cơ dưới móng ở cùng bên nạo hạch Giai đoạn bệnh sau phẫu thuật cổ dự phòng (nếu nạo hạch cổ dự phòng hai bên thì Bướu pT2 29 vạt da cơ dưới móng thường được lấy ở bên sang pT3 13 thương sàn miệng chiếm ưu thế). Sau khi cắt rộng sang thương trong miệng thì chúng tôi sẽ tạo một pT4 2 đường hầm thông từ hốc miệng xuống cổ. Chúng tôi Hạch pN0 35 sẽ đưa toàn bộ vạt da cơ dưới móng lên hốc miệng, pN1 8 vạt da cơ dưới móng sẽ được may với khuyết hổng bằng monosilk 3.0. Chúng tôi tiến hành đặt dẫn lưu pN2b 1 áp lực âm vào vùng cổ, đường mổ nạo hạch và cho Thời gian phẫu thuật trung bình là 165 ± 34,3 vạt sẽ được đóng từng lớp, may khép da lại bằng phút, trong đó thời gian phẫu thuật ngắn nhất là 95 nylon 4.0. phút và dài nhất là 230 phút. Theo dõi các biến chứng nơi nhận vạt như chảy Kích thước vạt nhỏ nhất là 18cm2, kích thước máu, nhiễm trùng, tụ dịch, bung đầu vạt, dò vết mổ lớn nhất là 30cm2, kích thước trung bình là 22 ± và hoại tử vạt. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng theo dõi 2,4cm2, với chiều ngang là 3cm, chiều dài trung bình các biến chứng sớm nơi cho vạt như chảy máu. là 7,3cm ± 0,8cm. KẾT QUẢ Chúng tôi có 44 bệnh nhân trong nghiên cứu, trong đó các bệnh nhân nam chiếm đa số (77%). Bệnh nhân lớn tuổi nhất 78 tuổi, còn trẻ tuổi nhất chỉ có 25 tuổi. TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 59
  3. ĐẦU VÀ CỔ Bảng 2. Biến chứng phẫu thuật Theo ghi nhận của nhiều tác giả vạt da cơ dưới móng có thể thay thế cho vạt tự do khi bệnh nhân có Nơi nhận vạt chống chỉ định vi phẫu, vạt này khá linh hoạt và có Biến chứng nặng độ dày tương đối, thuận lợi khi đưa vạt về phía trên Hoại tử vạt toàn bộ 0 các khuyết hổng trong hốc miệng[2]. Thời gian lấy vạt ngắn hơn nhiều so với kỹ thuật lấy vạt tự do. Đảm Biến chứng nhẹ bảo độ rộng của phẫu thuật nạo hạch cổ hơn so với Chảy máu 0 vạt dưới cằm[1,5,10]. Chúng tôi đã tiến hành sử dụng Dò vết mổ 0 vạt da cơ dưới móng cho 44 trường hợp bệnh nhân bị ung thư lưỡi và sàn miệng với thời gian phẫu Bung đầu vạt 9 (20,4%) thuật trung bình là 165 ± 34,3 phút, trong đó thời Tụ dịch 0 gian phẫu thuật ngắn nhất là 95 phút và dài nhất là Nhiễm trùng 0 230 phút. Trong khi đó theo nghiên cứu của tác giả Joseph A. Paydarfar và cs ghi nhận thời gian phẫu Hoại tử toàn bộ đảo da 7 (15,9%) thuật trung bình khi sử dụng vạt cẳng tay quay để tái Hoại tử một phần đảo da 7 (15,9%) tạo khuyết hổng lưỡi - sàn miệng là 780 phút. Nơi cho vạt Theo tác giả Peng và cs, vạt da cơ dưới móng Chảy máu 0 là một lựa chọn thích hợp cho những khuyết hổng trung bình, kích thước vạt da trung bình chiều ngang Khi tiến hành tạo hình bằng vạt da cơ dưới là 4,8cm và chiều dài trung bình là 7,55cm. Còn theo móng cho 44 trường hợp ung thư lưỡi và sàn miệng. bài báo tổng kết của tác giả Deganello và cs tổng Chúng tôi có 7 trường hợp vạt da cơ dưới móng bị hợp gần 1400 bệnh nhân sử dụng vạt da cơ dưới hoại tử toàn bộ đảo da. 15 trường hợp hoại tử một móng trong 28 năm từ 1986 đến 2014, kích thước phần đảo da. Tuy nhiên, 11 trường hợp hoại tử một trung bình chiều ngang của vạt là 4cm và chiều dài phần đảo da và 3 trường hợp hoại tử toàn bộ đảo trung bình là 7cm [3]. Trong nghiên cứu của chúng tôi da, chúng tôi ghi nhận các phần hoại tử này tự bong cũng ghi nhận kích thước tương tự với chiều ngang tróc và biểu mô hoá sau 8 tuần phẫu thuật. 8 trường trung bình là 3cm và chiều dài trung bình là 7,3cm ± hợp hoại tử còn lại, sau thời gian theo dõi 4 tuần, 0,8cm. Với kích thước này thì vạt sẽ có diện tích chúng tôi tiến hành cắt lọc bỏ đi phần da hoại tử bề trung bình từ 18cm2 đến 30cm2 rất thích hợp cho các mặt này. Chúng tôi ghi nhận về biến chứng nặng là khuyết hổng trung bình của lưỡi và sàn miệng. hoại tử toàn bộ vạt da cơ không có trường hợp nào. Tình trạng sống của vạt là 100% theo dõi sau 8 tuần Vạt da cơ dưới móng là một vạt có cuống mạch phẫu thuật. và nguồn cung cấp máu để nuôi vạt là động mạch giáp trên, là phân nhánh đầu tiên của động mạch Có 9 trường hợp chiếm (20,4%) phần bề mặt cảnh ngoài. Dẫn lưu tĩnh mạch của vạt chủ yếu về vạt da cơ dưới móng bị bung ở bề mặt vị trí chỗ dính tĩnh mạch giáp trên đổ vào tĩnh mạch cảnh trong. vào bề mặt khuyết hổng lưỡi sau 5 tuần phẫu thuật. Theo tác giả Peng và cs, đối với phần đảo da của Các trường hợp này đều được chúng tôi tiến hành vạt da cơ dưới móng việc dẫn lưu máu còn được may khép sau đó. thông qua nhánh nền sọ là nhánh nối với tĩnh mạch BÀN LUẬN hầu trước và tĩnh mạch mặt đổ về tĩnh mạch cảnh trong hoặc dẫn lưu từ những nhánh xuyên qua cơ Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc xác bám da cổ đến tĩnh mạch hầu ngoài, tuy nhiên định chọn lựa các phương pháp tạo hình trong ung nhánh nối này rất thay đổi và không hằng định[5], do thư hốc miệng, bao gồm các yếu tố quan trọng sau: đó để tránh tình trạng hoại tử phần đảo da của vạt thể tích và kích thước khuyết hổng, sự tương thích da cơ dưới móng tác giả đề nghị nên bảo tồn nhánh mô của vạt cho với phần mô còn lại trong hốc miệng, nối này trong quá trình lấy vạt. Còn theo tác giả Dian sự thuận lợi trong việc di chuyển vạt tới khuyết Ouyang và cs thì phần đảo da của vạt da cơ dưới hổng, độ tin cậy của vạt và tổng trạng của bệnh móng được cung cấp bởi các nhánh xuyên của cơ nhân. Trong những thập niên gần đây, phương pháp bám da cổ tới tĩnh mạch hầu trước hoặc hầu ngoài tạo hình được đa số các tác giả ủng hộ trong việc tái hoặc cả hai[9], do đó theo tác giả thì để tránh tình tạo lại khuyết hổng lớn sau phẫu thuật ung thư vùng trạng hoại tử phần đảo da của vạt chúng ta cần bóc đầu cổ là sử dụng vạt tự do. Đây là vạt có độ tin cậy tách cẩn thận và chừa lại lớp cân cơ bám da cổ phủ cao và rất linh động[1]. Tuy nhiên, kỹ thuật vi phẫu lên trên bề mặt xung quanh bó mạch giáp trên. Tuy đòi hỏi thời gian cuộc phẫu thuật kéo dài và là kỹ nhiên nếu chúng ta chừa quá nhiều thì sẽ làm hạn thuật rất tinh tế và phức tạp, và việc chọn lựa bệnh chế việc di chuyển vạt lên trên và góc quay của vạt nhân cũng khắt khe. vào hốc miệng che khuyết hổng. Trong nghiên cứu 60 TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
  4. ĐẦU VÀ CỔ chúng tôi khi tiến hành lấy vạt da cơ dưới móng, A chúng tôi nhận thấy có mối tương quan có ý nghĩa thống kê (P
  5. ĐẦU VÀ CỔ Chống chỉ định của vạt da cơ dưới móng là 6. Kampman E, Boeing H, Gonzalez CA, et al những bệnh nhân đã phẫu thuật tuyến giáp, bệnh (2008) “Gastrointestinal Cancer: Epidemiology” nhân đã xạ trị, nạo hạch cổ và hạch xâm nhiễm vỏ in Principles and Practice of Gastrointestinal bao, xâm lấn các cấu trúc xung quanh. Oncology edited by David P. Kelsen, 2nd ed, Lippincott Williams Wilkins, pp 3-14 TÀI LIỆU THAM KHẢO 7. Martin T, Webster K (2012) “Lip and oral cavity” 1. Avery CM (2010). “Review of the radial free flap: in Stell and Maran’s Textbook of Head and Neck is it still evolving, or is it facing extinction? Part Surgery and Oncology edited by John C two: osteocutaneous radial free flap”. British Watkinson, Ralph W Gilbert, 5th ed, Hodder & Journal of Oral and Maxillofacial Surgery 48: pp Stoughton Ltd, pp 549-587. 253-260. 8. Minni A, Mascelli A, Suriano M (2010) “The 2. Deganello A, Manciocco V, Dolivet G, Leemans infrahyoid myocutaneous flap in intra-oral CR, Spriano G (2007) “Infrahyoid fascio- reconstruction as an alternative to free flaps”. myocutaneous flap as an alternative to free Acta Otolaryngol; 130, pp 733-738. radial forearm flap in head and neck reconstruction”. Head Neck;29 pp 285-291. 9. Ouyang Dian, Su Xuan et al. (2012). "Anatomical study and modified incision of the infrahyoid 3. Deganello A et al (2014). "Review the infrahyoid myocutaneous" Eur Arch Otorhinolaryngol, pp flap: A comprehensive review of an often 675-680. overlooked reconstruction method". Elsevier Oral oncology, pp 1-6. 10. Trần Thanh Phương (2012) "Nghiên cứu phẫu thuật và tạo hình trong điều trị ung thư lưỡi", 4. Deschler DG, Erman AB (2014). “Oral Cavity luận văn tiến sĩ y học, Chuyên ngành ung thư Cancer” in Bailey’s Head and Neck Surgery – học. ĐHYD TP.HCM, tr. 4-6. Otolaryngology edited by Jonas T. Johnson, 5th Edition, Lippincott Williams & Wilkins, pp 1849- 11. Wang H, Shen J, et al (1986) "The Infrahyoid 1874. Myocutaneous Flap for Reconstruction After Resection of Head and Neck Cancer", Cancer 5. Hanwei Peng, Steven J.Wang et al (2012) 57, pp 663-668. “Infrahyoid Myocutaneous Flap for Medium- Sized Head and Neck Defects: Surgical 12. Wein RO, Weber RS (2015). “Malignant Outcome and Technique Modification” in neoplasms of the oral cavity” in Cummings American Academy of Otolaryngology- Head and Otolaryngology-Head & Neck Surgery edited by Neck Surgery. Paul W. Flint, 6th ed, Elsevier, pp 1359-1387. 62 TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2