intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự thay đổi trong công tác dân tộc từ giữa thế kỷ XX đến nay qua tiếp cận lý thuyết Nhân học

Chia sẻ: ViSamurai2711 ViSamurai2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

45
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này muốn qua các lăng kính của lý thuyết Nhân học để xem xét lại công tác dân tộc như là một đối tượng để nghiên cứu. Dù công tác dân tộc chưa là một lý thuyết hay lĩnh vực lý thuyết, nhưng ở một góc độ nào đó, nó cũng chịu ảnh hưởng của các lý thuyết khác nhau trong dân tộc học và nhân học. Và từ hướng tiếp cận các lý thuyết, phần nào đó sẽ cho chúng ta những lời giải thích về những tích cực cũng như hạn chế của công tác dân tộc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự thay đổi trong công tác dân tộc từ giữa thế kỷ XX đến nay qua tiếp cận lý thuyết Nhân học

Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> <br /> <br /> SỰ THAY ĐỔI TRONG CÔNG TÁC DÂN TỘC<br /> TỪ GIỮA THẾ KỶ XX ĐẾN NAY QUA TIẾP CẬN<br /> LÝ THUYẾT NHÂN HỌC<br /> Bế Trung Anh(1)<br /> <br /> C ông tác dân tộc là một lĩnh vực rất quan trọng trong đường lối, chính sách của<br /> Đảng và nhà nước Việt Nam. Trải qua các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, thời<br /> bao cấp và sang quá trình đổi mới đất nước, công tác dân tộc cũng có nhiều thay đổi. Trên<br /> bình diện chung, công tác dân tộc đã góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng vào bảo<br /> vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Để hiểu rõ hơn về thành<br /> tựu cũng như những hạn chế của công tác dân tộc từ giữa thế kỷ XX đến nay, bài viết này<br /> muốn qua các lăng kính của lý thuyết Nhân học để xem xét lại công tác dân tộc như là một<br /> đối tượng để nghiên cứu. Dù công tác dân tộc chưa là một lý thuyết hay lĩnh vực lý thuyết,<br /> nhưng ở một góc độ nào đó, nó cũng chịu ảnh hưởng của các lý thuyết khác nhau trong dân<br /> tộc học và nhân học. Và từ hướng tiếp cận các lý thuyết, phần nào đó sẽ cho chúng ta những<br /> lời giải thích về những tích cực cũng như hạn chế của công tác dân tộc.<br /> Từ khóa: Công tác dân tộc; dân tộc thiểu số; chính sách dân tộc; lý thuyết Nhân học.<br /> <br /> Công tác dân tộc (CTDT) là “những hoạt trọng để bảo vệ đất nước. Nhận thức rõ điều này<br /> động quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc nhằm nên từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt<br /> tác động và tạo điều kiện để đồng bào các DTTS Nam đã rất coi trọng vấn đề dân tộc. Tuy nhiên,<br /> cùng phát triển, đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ phải từ sau cách mạng tháng Tám 1945 và bắt đầu<br /> quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”1.Tuy vào xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng<br /> nhiên, không phải từ khi cách mạng thành công chế độ mới thì CTDT mới được Đảng và nhà<br /> thì mới đặt ra vấn đề CTDT. Quay lại lịch sử, nước xây dựng có hệ thống hơn. Hiến pháp nước<br /> trong các triều đại phong kiến cũng đã thể hiện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 đã nêu<br /> nhiều mối quan tâm với các mức độ khác nhau về rõ: “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất<br /> vấn đề dân tộc. Ngay từ khi giành quyền tự chủ từ Trung Nam Bắc không thể phân chia” (điều 2);<br /> sự đô hộ của phong kiến Trung Hoa, các triều đại “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc<br /> phong kiến Việt Nam luôn thể hiện sự coi trọng dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện<br /> đối với các vấn đề dân tộc. Liên tục các triều đại để chóng tiến kịp trình độ chung” (điều 8). Càng<br /> từ Lý, Trần, Hồ, Lê-Trịnh, Tây Sơn đến triều về sau, CTDT càng được đề cao với sự ra đời của<br /> Nguyễn đều ban hành các chính sách liên quan hệ thống các cơ quan chức năng ở nhiều cấp độ<br /> để giải quyết vấn đề dân tộc2. Điều đó chứng tỏ khác nhau. CTDT đã góp phần quan trọng tuyên<br /> rằng, với một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam truyền và tổ chức thực hiện các chính sách của<br /> thì chính sách dân tộc là một yếu tố quan trọng Đảng và Nhà nước đến với vùng dân tộc thiểu số<br /> trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ban (DTTS), vùng miền núi, góp phần quan trọng vào<br /> hành và tổ chức thực hiện các chính sách để xây công cuộc kháng chiến kiến quốc hay xây dựng<br /> dựng khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ quan chủ nghĩa xã hội.<br /> 1.<br /> Chính phủ, Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/1/2011 Trong quá trình đổi mới, rồi hội nhập để<br /> về công tác dân tộc.<br /> 2.<br /> Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam, Chính sách dân tộc của các<br /> phát triển, CTDT cũng đã góp phần to lớn vào<br /> chính quyền phong kiến Việt Nam. (X-XIX), NXB. Chính trị việc đưa các DTTS hội nhập với thế giới, với<br /> Quốc gia, Hà Nội, 2001. nhịp thở của đất nước. Tuy nhiên, cũng phải<br /> Ngày nhận bài: 3/8/2017; Ngày phản biện: 20/8/2017; Ngày duyệt đăng: 10/9/2017<br /> (1)<br /> Học viện Dân tộc; e-mail: betrunganh@cema.gov.vn<br /> 25<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> nhìn nhận rằng, dù đã đạt được nhiều thành quả lợi và có những thành tựu nhất định. Nhưng khi<br /> to lớn, CTDT vẫn còn nhiều hạn chế. Và phần các diễn ngôn phát triển thiếu chính xác, không<br /> nhiều những hạn chế này xuất phát từ cái nhìn phù hợp sẽ đẩy lùi sự phát triển và gây ra nhiều<br /> chủ quan của những người xây dựng các chiến hậu quả khác nhau.<br /> lược và chính sách phát triển. Hệ quả là CTDT<br /> Các diễn ngôn phát triển liên quan đến<br /> cũng đã có những tác động tiêu cực nhiều đến sự<br /> CTDT ở Việt Nam luôn được đưa ra trong quá<br /> phát triển của các cộng đồng DTTS. Bên cạnh<br /> trình xây dựng và phát triển đất nước. Từ khi<br /> những thành tựu đạt được về kinh tế thì các truyền<br /> thành lập Đảng cho đến nay đều gắn CTDT với<br /> thống văn hóa lại bị đứt gãy, bị mai một, hệ sinh<br /> những diễn ngôn phát triển vùng dân tộc và miền<br /> thái tự nhiên và môi trường văn hóa xã hội bị<br /> núi. Những diễn ngôn này mang tính chỉ đạo, thể<br /> tàn phá không ít. Nhưng gần như trong hơn nửa<br /> hiện quan điểm và định hướng của Đảng và nhà<br /> thế kỷ xảy ra những vấn đề này, dù được nhiều<br /> nước trong các điều kiện thực tế. Điều đó không<br /> người nói đến song vẫn chưa đủ mạnh để tạo nên<br /> có gì sai. Tuy nhiên, những người làm CTDT quá<br /> những thay đổi. Phải đến đầu những năm 2000,<br /> thụ động và bị chi phối quá nhiều từ các diễn<br /> không chỉ các nhà nghiên cứu khoa học mà cả<br /> ngôn này thì tình hình lại khác. Sự thụ động trước<br /> những người hoạch định chính sách bắt đầu nhận<br /> các diễn ngôn phát triển để rồi đưa vào ý chỉ chủ<br /> thức lại. Những công trình tổng kết CTDT trong<br /> quan, xem CTDT có nhiệm vụ phải thực hiện các<br /> mấy chục năm qua bắt đầu xuất hiện3. Lúc này,<br /> diễn ngôn đó mà không căn cứ vào tình hình thực<br /> những vấn đề trong CTDT được mổ xẻ khách<br /> tiễn của vùng dân tộc sẽ gây nên những hệ lụy<br /> quan hơn để bắt đầu xây dựng hệ thống chính<br /> cho quá trình phát triển.<br /> sách và xây dựng các hoạt động trong CTDT sao<br /> cho phù hợp với sự thay đổi của đất nước và tiến Phải công nhận rằng trong hai cuộc kháng<br /> trình hội nhập với thế giới. Trong hơn một thập chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, CTDT<br /> kỷ qua, CTDT không ngừng thay đổi theo hướng đã đạt được nhiều kết quả to lớn, góp phần vào<br /> tích cực hơn. Nói vậy để thấy vấn đề CTDT vẫn việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát<br /> còn phải nhìn nhận lại theo nhiều chiều hướng huy sức mạnh của tất cả các thành phần, các dân<br /> khác nhau để đổi mới và phục vụ đắc lực cho quá tộc vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.<br /> trình phát triển của các DTTS nói riêng và của Tuy nhiên, trong quá trình hoạch định phát triển<br /> đất nước nói chung. vùng DTTS, chúng ta vẫn còn nhiều bất cập. Mà<br /> phần lớn các bất cập đều liên quan đến việc hoạch<br /> 1.Công tác dân tộc dưới ảnh hưởng của<br /> định công tác hơi máy móc, cứng nhắc, quá thụ<br /> các diễn ngôn phát triển<br /> động trong việc thực hiện các chỉ đạo từ trên<br /> Công tác dân tộc là phương thức và quá xuống qua các diễn ngôn phát triển mang tầm vĩ<br /> trình tổ chức thực hiện các chính sách quản lý mô. Xin phân tích một ví dụ để nhìn nhận sâu hơn<br /> của nhà nước về vấn đề dân tộc với mục tiêu về vấn đề này:<br /> chung là đảm bảo sự ổn định và phát triển vùng<br /> Từ đầu những năm 1960, vấn đề CTDT<br /> dân tộc. Nhiều khi, CTDT cũng được thể hiện<br /> được Đảng và Nhà nước quan tâm, nhất là việc<br /> qua những diễn ngôn phát triển. Những diễn<br /> xây dựng đời sống mới ở vùng DTTS ở miền<br /> ngôn phát triển có nhiều mức độ tác động khác<br /> Bắc. Tại Đại hội Đảng lần thứ III năm 1960 đã<br /> nhau, có thể mang quy mô nhân loại, cũng có thể<br /> nhấn mạnh vấn đề CTDT là “Làm cho miền núi<br /> chỉ là một dự án nhỏ của một cộng đồng. Ở đây,<br /> tiến kịp miền xuôi, vùng cao và vùng biên giới<br /> CTDT liên quan đến các diễn ngôn phát triển về<br /> tiến kịp vùng nội địa, các DTTS tiếp kịp dân tộc<br /> vùng dân tộc, miền núi. Các diễn ngôn phát triển<br /> Kinh, giúp đỡ các dân tộc phát huy tinh thần cách<br /> sớm đóng vai trò quan trọng trong các quá trình<br /> mạng và năng lực to lớn của mình cùng nhau<br /> phát triển bởi nó truyền tải tư tưởng, mục tiêu<br /> đoàn kết chặt chẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội”4. Đây<br /> của nhà quản lý đối với sự phát triển. Khi những<br /> là một diễn ngôn mang tính vĩ mô, thiên hướng<br /> diễn ngôn phát triển được đưa ra là tiến bộ, hợp<br /> lãnh đạo từ trên xuống đối với quá trình phát triển<br /> lý thì quá trình phát triển của ngành đó sẽ thuận<br /> Hoàng Đức Nghi, Về công tác dân tộc trong 10 năm đổi<br /> 3. 4.<br /> Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn<br /> mới (1990-2000), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. quốc lần thứ III, NXB. Sự thật, 1960, tr 125<br /> <br /> 26 Số 19 - Tháng 9 năm 2017<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> của vùng miền núi, vùng DTTS. Quan điểm và CTDT. Đến thời kỳ bao cấp, khi cả nước lâm<br /> mục tiêu của Đảng trong vấn đề này không có gì vào điều kiện khó khăn do nền sản xuất trì trệ<br /> sai, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thì những thì CTDT cũng gặp nhiều khó khăn trước những<br /> người làm CTDT lại nhìn vấn đề theo nhận thức thay đổi trong ứng xử của đồng bào với quá trình<br /> tiến hóa luận giản đơn, bỏ qua sự khác biệt, sự đa phát triển cũng như sự vận động, biến đổi của đời<br /> dạng giữa các vùng miền, các dân tộc và cả các sống kinh tế xã hội vùng dân tộc. Lúc này, người<br /> cộng đồng dân cư khác nhau. Nó góp phần tạo ta mới bắt đầu nhìn nhận lại quá trình hoạch định<br /> nên sự mặc định trong nhận thức của các nhà phát CTDT. Các diễn ngôn phát triển thể hiện quan<br /> triển: Miền núi, vùng DTTS, là vùng nghèo nàn, điểm và định hướng của Đảng và Nhà nước về<br /> lạc hậu, kém phát triển. Người DTTS là những vấn đề dân tộc vẫn là kim chỉ nam của CTDT.<br /> tộc người đang ở ngưỡng cửa văn minh và người Tuy nhiên, những người thực hiện đã bắt đầu linh<br /> Kinh từ đồng bằng có nhiệm vụ giúp đỡ người động, tiếp cận hợp lý hơn với điều kiện thực tế.<br /> DTTS phát triển để họ “tiến” theo kịp và bước Đó cũng là quá trình đổi mới CTDT trong hơn<br /> vào nền văn minh. Quan điểm đó đã dẫn đến việc một thập kỷ cuối của thế kỷ XX.<br /> lấy người Kinh làm chuẩn cho quá trình phát<br /> 2.Tiếp cận “từ khách thể” đến tiếp cận<br /> triển. Quan điểm “đưa miền núi tiến kịp miền<br /> “từ chủ thể” và sự thay đổi trong công tác dân<br /> xuôi” cũng thể hiện tư duy cào bằng trong phát<br /> tộc thời kỳ đổi mới<br /> triển vùng mà trung tâm là các chỉ tiêu, thước đo<br /> về kinh tế. “Các nhà phát triển” đã xem tiêu chí Tiếp cận “từ khách thể” (Etic) và tiếp cận<br /> kinh tế làm trung tâm, là mục tiêu của quá trình “từ chủ thể” (Emic) là những phương pháp tiếp<br /> phát triển. Đầu tư cơ sở vật chất để đẩy mạnh tăng cận trong nghiên cứu nhân học khá phổ biến trên<br /> trưởng kinh tế ở miền núi là con đường để ‘tiến thế giới trong nửa sau thế kỷ XX. Các tiếp cận này<br /> kịp miền xuôi” trong quá trình công nghiệp hóa, do nhà ngôn ngữ học và nhân học Mỹ, Kenneth<br /> hiện đại hóa đất nước. Nhưng kết quả, khoảng Pike đưa ra vào giữa những năm 1950 trong các<br /> cách kinh tế giữa miền xuôi và miền núi ngày nghiên cứu về âm vị học. Sau đó, nó được nhiều<br /> càng lớn thêm như một minh chứng hùng hồn cho nhà nghiên cứu dân tộc học-nhân học vận dụng<br /> một thực tế là kinh tế miền núi không thể theo khá rộng rãi, nhất là trong nghiên cứu văn hóa.<br /> kịp miền xuôi theo các tiêu chí của các nhà phát Công tác dân tộc trước thời kỳ đổi mới chủ<br /> triển đưa ra. yếu thể hiện cách tiếp cận “từ khách thể”, tức là<br /> Công tác dân tộc trong giai đoạn kháng chịu sự chi phối của những nhà làm CTDT, từ<br /> chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những người đưa ra quan điểm đến những người<br /> nhìn chung là thụ động. Các nhà CTDT chủ yếu hoạch định và thực thi chính sách. Những người<br /> trở thành những người đi làm công tác tuyên làm CTDT, một mặt bị chi phối từ các diễn ngôn<br /> truyền các chính sách của Đảng và nhà nước đến phát triển của những nhà lãnh đạo như phân tích<br /> với người dân. Họ cũng là những người góp phần ở trên. Mặt khác, những người làm CTDT cũng<br /> quan trọng trong việc xây dựng và thực thi hệ đưa cái nhìn chủ quan của mình vào để hoạch<br /> thống chính sách phát triển vùng dân tộc, miền định CTDT, trong khi những cơ sở dữ liệu từ<br /> núi. Tuy đạt được nhiều kết quả trong việc vận thực tế cuộc sống của những cộng đồng dân tộc<br /> động đồng bào ủng hộ và giúp đỡ cách mạng để chưa đầy đủ để giúp cho việc hoạch định CTDT<br /> bảo vệ Tổ quốc cũng như hăng hái tham gia vào được khách quan hơn. Bên cạnh đó, quan điểm<br /> công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, của những người làm CTDT cũng chịu nhiều ảnh<br /> cái nhìn mang tính giản đơn về sự phát triển của hưởng của thuyết trung tâm-ngoại vi. Dù họ cố ý<br /> vùng dân tộc cũng như sự cứng nhắc, máy móc, vận dụng vào hoặc vô tình nhận thức như vậy thì<br /> lệ thuộc quá nhiều vào các diễn ngôn phát triển những quan điểm này cũng đã ảnh hưởng mạnh<br /> đã làm cho CTDT gặp phải nhiều hạn chế và chưa đến CTDT. Những người làm CTDT đã lấy người<br /> đạt được hiệu quả nhất định. Bên cạnh đó, các Kinh, lấy miền xuôi làm trung tâm, là khu vực<br /> công trình nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực phát triển và coi vùng miền núi, vùng DTTS là<br /> này hay ý kiến của các nhà dân tộc học-nhân học vùng ngoại vi, vùng kém phát triển và cần phải hỗ<br /> cũng ít được quan tâm trong quá trình xây dựng trợ, giúp đỡ. Họ cũng lấy người Kinh làm trung<br /> <br /> <br /> Số 19 - Tháng 9 năm 2017 27<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> tâm, coi đây là khuôn mẫu, là điển hình của sự miền núi khoảng gần 300 nghìn người và chiếm<br /> phát triển, là hệ giá trị chuẩn mực và xem các gần 50% dân số miền núi, và đến năm 2009 đã<br /> DTTS là lạc hậu, kém phát triển và phải được hơn 700 nghìn người, chiếm 62% dân số miền<br /> khai sáng. Nó khá giống với quan điểm của một núi. Như vậy, từ ý chỉ chủ quan của những người<br /> số nhà dân tộc học thực dân sang nghiên cứu ở hoạch định chính sách, những người làm CTDT<br /> Việt Nam cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. đã không căn cứ vào tình hình thực tiễn mà vội<br /> Tuy nhiên, mục đích thì hoàn toàn khác nhau. vàng đưa một lượng dân cư miền xuôi lên cư trú<br /> Trong khi dân tộc học thực dân nghiên cứu để mở bên cạnh các cộng đồng DTTS tạo nên sự cư trú<br /> đường cho sự xâm lược và cai trị của đế quốc thì xen kẽ nhiều tộc người với nhau. Nhưng phương<br /> các nhà làm CTDT của ta chỉ vì sốt sắng, mong thức sản xuất, vị thế xã hội cũng như bản sắc văn<br /> muốn giúp đỡ, hỗ trợ cho vùng miền núi, vùng hóa của người Kinh khác nhiều so với các cộng<br /> đồng bào DTTS phát triển và tiến lên chủ nghĩa đồng còn lại nên đã có ảnh hưởng lớn đến quá<br /> xã hội nhanh hơn. Mong muốn đó, vào thời đoạn trình phát triển miền núi. Hệ quả trực tiếp của vấn<br /> đó là chính đáng, lại thêm điều kiện chiến tranh đề này là sự biến đổi văn hóa không mong muốn<br /> nên công tác nghiên cứu, thu thập thông tin cũng của các cộng đồng DTTS. Đó là một ví dụ về tác<br /> không dễ dàng, thêm vào tâm lý nóng ruột đã làm động của CTDT theo sự tiếp cận chủ quan của<br /> cho hoạch định về CTDT lại mang tính chủ quan, người hoạch định chính sách.<br /> duy ý chí hơn. Hệ quả là nhiều truyền thống văn<br /> Từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi<br /> hóa của người DTTS bị coi là lạc hậu, không phù<br /> hợp và bị tìm cách để xóa bỏ (lễ hội “cầu Mường mới 1986, CTDT cũng bắt đầu có những thay đổi<br /> của đồng bào Thái ở Mường Chiềng, Đà Bắc, để phù hợp với tình hình hiện tại của đất nước,<br /> Hòa Bình vừa được khôi phục lại). Đồng thời nhất là thực hiện nhiệm vụ đưa các vùng DTTS<br /> cũng đưa nhiều yếu tố văn hóa lên vùng DTTS hội nhập và phát triển. Liên tiếp có các quan điểm<br /> theo lối áp đặt khiến nền văn hóa xã hội của các chỉ đạo mới về liên quan đến CTDT kể từ sau Đại<br /> dân tộc bị đứt đoạn. hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986). Năm 1989,<br /> Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 22-NQTƯ và<br /> Để cụ thể hơn vấn đề này, xin phân tích năm 1990 Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định<br /> một ví dụ về CTDT và chính sách phát triển miền 72-HĐBT là những văn bản chỉ đạo trực tiếp về<br /> núi ở Nghệ An từ đầu những năm 1950 đến cuối CTDT và miền núi lúc này. “Đây là hai văn bản<br /> thế kỷ. Ngay sau khi hòa bình lập lại ở miền quan trọng bậc nhất thể hiện cho sự đổi mới trong<br /> Bắc năm 1954, Nghệ An bắt đầu công cuộc khôi CTDT của Đảng và Nhà nước”5. Đây là quãng<br /> phục và phát triển kinh tế, cải tạo xã hội. Những thời gian mở đầu cho việc nhìn nhận lại và đổi<br /> người làm CTDT dù chưa nắm rõ được tình hình mới CTDT. Một trong những điểm nhấn của sự<br /> phát triển của vùng dân tộc ở miền núi Nghệ An đổi mới CTDT lúc này là chuyển từ tiếp cận “từ<br /> nhưng đã tiến hành đưa hàng vạn người Kinh từ khách thể” sang tiếp cận “từ chủ thể” và sau đó<br /> miền xuôi lên để xây dựng các lâm trường, nông là sự nhấn mạnh kết hợp cả hai phương pháp tiếp<br /> trường quốc doanh. Họ coi đây là điều quan trọng cận này để xây dựng cơ sở dữ liệu và hoạch định<br /> để phát triển miền núi và giúp đồng bào dân tộc chính sách, CTDT. Các cơ quan phụ trách CTDT<br /> phát triển theo kịp miền xuôi. Từ năm 1954 đến đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến tiếng nói của<br /> năm 1955, các lâm trường mới như Khe Kiền, những người trong cuộc, chính là những người<br /> Trịnh Môn, Bãi Phủ, Đông Hiếu, Tây Hiếu, Sông dân ở miền núi, là các đồng bào DTTS. Một mặt,<br /> Con... đi vào hoạt động thu hút một số lượng công người dân được thể hiện nhiều ý kiến của mình<br /> nhân từ miền xuôi lên. Từ đầu những năm 1960, hơn trong việc góp ý về các chính sách liên quan<br /> NghệAn tiếp tục di dân từ miền xuôi lên miền đến sự phát triển của cộng đồng mình. Mặt khác,<br /> ngược. Tính đến năm 1978, chính quyền Nghệ trong quá trình thực hiện các chính sách dân tộc<br /> Tĩnh đã đưa hơn 30 vạn người miền xuôi đi khai thì những người liên quan cũng được thể hiện ý<br /> hoang, xây dựng các vùng kinh tế mới ở miền núi kiến góp ý để làm cho CTDT ngày càng tốt hơn và<br /> Nghệ An (và một số địa phương ở miền núi Hà<br /> Tĩnh sau khi nhập tỉnh năm 1975). Theo thống 5.<br /> Lâm Bá Nam, Chính sách dân tộc của Đảng trong thời kỳ đổi<br /> kê của Ban Dân tộc và Miền núi Nghệ An, thì mới, in trong “Đảng Cộng sản Việt Nam: 80 năm xây dựng và<br /> đến đầu những năm 1990, số lượng người Kinh ở trưởng thành”, NBX. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010<br /> <br /> 28 Số 19 - Tháng 9 năm 2017<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> đảm bảo được sự ổn định, phát triển ở vùng dân Tiếp nối những kết quả đạt được trong thời<br /> tộc. Sự đổi mới trong CTDT đã ảnh hưởng tích kỳ đầu đổi mới, bước sang thế kỷ mới, CTDT lại<br /> cực đến sự phát triển của vùng dân tộc và miền tiếp tục thay đổi và hòa nhập với sự phát triển trên<br /> núi, nó góp phần quan trọng “tạo được những thế giới khi nhân loại đi vào kỷ nguyên phát triển<br /> chuyển biến đáng kể về phát triển kinh tế xã hội, bền vững. CTDT trong giai đoạn hiện nay dựa<br /> xây dựng cơ sở hạ tầng và giải quyết những vấn trên quan điểm, định hướng phát triển bền vững<br /> đề xã hội bức xúc ở miền núi. Nhiều mô hình và cách tiếp cận đa chiều cả về lý thuyết cũng<br /> sản xuất kinh doanh có hiệu quả đã được hình như thực tiễn. Tiếp cận đa chiều ở đây không phải<br /> thành và phát triển. Cơ cấu kinh tế miền núi đã có là một lý thuyết mà là một hệ thống quan điểm<br /> chuyển biến tích cực, tạo đà phát triển mới theo và phương pháp tiếp cận phức hợp, cho chúng<br /> hướng sản xuất hàng hóa và từng bước chuyển ta cái nhìn từ nhiều chiều hướng khác nhau, tiến<br /> dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”6. tới nhận thức toàn diện và khách quan hơn về các<br /> Để đạt được kết quả đó, những người làm CTDT vấn đề trên. Trong khi đó, phát triển bền vững<br /> đã thay đổi từ quan điểm chủ quan, tiếp cận “từ đang là chiến lược, là định hướng phát triển của<br /> khách thể” sang kết hợp hai cách tiếp cận, tôn nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.<br /> trọng ý kiến của đồng bào dân tộc, lắng nghe ý<br /> Xuất hiện trên diễn đàn thế giới từ đầu<br /> kiến của các nhà khoa học trong và ngoài nước.<br /> những năm 1970, thuật ngữ phát triển bền vững<br /> Nói đúng hơn, CTDT trong giai đoạn này đã tiếp<br /> (Sustainable Development) ngày càng được phổ<br /> nhận được những luồng gió mới trong nghiên<br /> biến và được xem là một khái niệm mang tính<br /> cứu dân tộc học và các ngành khác dưới ánh sáng<br /> thời đại. Chiến lược phát triển bền vững toàn cầu<br /> của đổi mới. Bởi lúc đó, nhiều nhà nghiên cứu<br /> trải qua 3 hội nghị lớn của Liên Hợp quốc, từ<br /> nước ngoài và trong nước đã có nhiều công trình<br /> Hội nghị Thượng đỉnh Rio de Janeiro (1992) đến<br /> phân tích về tác động của các chính sách cũng<br /> Hội nghị Thượng đỉnh Johannesburg (2002) và<br /> như sự biến đổi của các dân tộc trong nhiều năm<br /> gần nhất là Hội nghị Thượng đỉnh Rio de Janeiro<br /> trước đó. Trong đó, các học giả nước ngoài như<br /> (2012), mục tiêu và nội dung của phát triển được<br /> Gerald Hickey (Mỹ), Futura Moto (Nhật Bản),<br /> hoàn thiện hơn, sâu sắc hơn và cụ thể hơn. Khái<br /> Orcar Salemink (Hà Lan) hay Patricia Pelly (Mỹ)<br /> niệm phát triển bền vững hiện nay được hiểu là:<br /> thường tập trung vào việc phân tích thực trạng và<br /> Quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp<br /> các chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với<br /> lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển. Đó là<br /> các dân tộc cũng như tác động của các chính sách<br /> phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi<br /> ấy lên tình hình phát triển vùng dân tộc. Trong<br /> trường... Ngoài ra còn phải quan tâm đến các khía<br /> khi các nhà khoa học Việt Nam lại tập trung vào<br /> cạnh khác của sự phát triển bền vững như chính<br /> ba vấn đề chính: Thực trạng kinh tế - xã hội ở<br /> trị, văn hóa, tinh thần, dân tộc.... Một vấn đề quan<br /> miền núi; Chính sách của Nhà nước đối với vùng<br /> trọng mà gần đây mới được nhắc đến nhiều hơn<br /> miền núi, đồng bào DTTS; Đề xuất giải pháp đào<br /> là phát triển bền vững con người trong toàn thế<br /> tạo nguồn nhân lực cho vùng miền núi.<br /> giới để vượt qua các ngăn cách chủng tộc, quốc<br /> Dù đạt được những kết quả quan trọng gia, dân tộc và tôn giáo... Tóm lại, khung mẫu<br /> trong quá trình đổi mới CTDT, chính sách dân phát triển bền vững phải bao gồm 6 thành tố:<br /> tộc, nhưng sự phát triển kinh tế-xã hội của đất i- Phát triển bền vững kinh tế, ii- Phát triển bền<br /> nước ngày càng nhanh chóng, sự hội nhập với vững chính trị, iii- Phát triển bền vững văn hóa,<br /> thế giới dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa iv- Phát triển bền vững xã hội, v- Phát triển bền<br /> ngày càng mạnh mẽ thì CTDT, muốn đạt hiệu quả vững con người, vi- Bảo vệ môi trường bền vững.<br /> cao hơn lại phải tiếp tục đổi mới hơn nữa.<br /> Việt Nam là một trong những quốc gia<br /> 3.Công tác dân tộc trong định hướng tham gia chương trình phát triển bền vững khá<br /> phát triển bền vững, giai đoạn hiện nay sớm. Từ Hội nghị Thượng đỉnh ở Rio de Janeiro<br /> (1992) Chính phủ Việt Nam đã ký Tuyên bố<br /> Ủy ban Dân tộc và Miền núi, 55 năm công tác dân tộc và<br /> 6. chung của Liên hợp quốc về phát triển bền vững.<br /> miền núi (1946-2001), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Năm 1993, Quốc hội ban hành luật Bảo vệ môi<br /> 2001, tr. 125 trường. Năm 1996, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ<br /> <br /> Số 19 - Tháng 9 năm 2017 29<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> thị số 36-CT/TW về “Tăng cường công tác bảo nhân hợp lý từ nhiều phía liên quan trong một vấn<br /> vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, đề để xử lý mọi việc một cách hiệu quả nhất.<br /> hiện đại hóa đất nước”. Năm 2004, Chính phủ Dựa trên quan điểm và định hướng phát<br /> ban hành Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam triển bền vững, lấy tiếp cận đa chiều làm nền<br /> với tên gọi “Định hướng chiến lược phát triển bền tảng nên CTDT ở Việt Nam hiện nay được xác<br /> vững ở Việt Nam”. Chương trình phát triển bền lập và thực hiện trên 4 nguyên tắc cơ bản được<br /> vững ở Việt Nam được tiến hành trên ba phương Chính phủ quy định (Theo Nghị định 05/2011/<br /> diện: i- Thành lập các tổ chức từ trung ương đến NĐ-CP của Chính phủ về CTDT):1- Thực hiện<br /> địa phương để quản lý các chương trình phát chính sách dân tộc theo nguyên tắc bình đẳng,<br /> triển bền vững; ii- Phổ biến nội dung, xây dựng đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển.2-<br /> kế hoạch và tuyên truyền các yêu cầu phát triển Đảm bảo và thực hiện chính sách phát triển toàn<br /> bền vững đến các cơ quan, đoàn thể và toàn dân; diện, từng bước nâng cao đời sống vật chất và<br /> iii- Tổ chức nghiên cứu, đánh giá để bổ sung các tinh thần của đồng bào DTTS.3- Đảm bảo việc<br /> nội dung cụ thể và xây dựng các mô hình phát giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc, phát<br /> triển bền vững cho các đối tượng khác nhau ở các huy những phong tục, tập quán, truyền thống và<br /> địa phương. Quyết định số 432/QĐ-TTg của Thủ văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc.4- Các dân tộc<br /> tướng Chính phủ về Phê duyệt Chiến lược phát có trách nhiệm tôn trọng phong tục, tập quán của<br /> triển bền vững Việt Nam, ngày 12 tháng 4 năm nhau, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam<br /> 2012, nhấn mạnh quan điểm phát triển bền vững tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.<br /> lấy con người làm trung tâm, lấy khoa học làm<br /> nền tảng. Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên Các nguyên tắc này dựa trên nền tảng quan<br /> suốt và toàn diện trong quá trình phát triển đất điểm của Đảng về vấn đề dân tộc và CTDT được<br /> nước, và là sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn khẳng định qua các kỳ Đại hội gần đây. Và nó<br /> Dân, các Cơ quan nhà nước và ngoài nhà nước. cũng thể hiện được định hướng phát triển CTDT<br /> Như vậy, CTDT trong kỷ nguyên phát triển bền trong kỷ nguyên phát triển bền vững và toàn cầu<br /> vững cũng phải thay đổi cả về nhận thức và cách hóa hiện nay. Đây cũng là điều kiện để có thể<br /> tiếp cận. thực hiện được nhiệm vụ về CTDT đã được thông<br /> qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006)<br /> Tiếp cận đa chiều trong CTDT là kết hợp và khẳng định lại trong các Đại hội lần thứ XI và<br /> sử dụng nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau XII: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam<br /> sao cho hợp lý và hiệu quả. CTDT hiện nay có bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau<br /> sự tham gia của nhiều bên, trong đó có nhiều nhà cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự<br /> lãnh đạo, nhà quản lý, các nhà hoạch định chính nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,<br /> sách dân tộc, các nhà nghiên cứu khoa học, các xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ<br /> nhà doanh nghiệp và người dân. Trong hoạch nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật<br /> định CTDT cần phải tranh thủ được ý kiến của chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao<br /> nhiều người cùng tham gia bàn luận, trao đổi và trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn<br /> tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả của CTDT. hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp<br /> Các vấn đề dân tộc hiện tại không còn là một vấn của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát<br /> đề riêng biệt mà luôn tồn tại nhiều mối quan hệ triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng<br /> chặt chẽ với các vấn đề khác, nên cần phải có cái xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm<br /> nhìn toàn diện hơn để đi đến hoạch định chính tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng<br /> sách phát triển vùng dân tộc hiện nay. Nói tóm lại, kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân<br /> CTDT hiện tại phải tiếp cận từ nhiều phía, cả chủ cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh,<br /> thể và khách thể, của các nhà quản lý, nhà nghiên quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ<br /> cứu, nhà doanh nghiệp và người dân; đồng thời thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào các DTTS;<br /> phải nhìn từ nhiều mối quan hệ với nhau: Từ tự động viên, phát huy vai trò của những người tiêu<br /> nhiên, con người, văn hóa, xã hội, chính trị…. biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu<br /> Điều đó đòi hỏi người làm CTDT phải luôn biết tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là<br /> lắng nghe, biết trao đổi và biết tích hợp các hạt người DTTS. Cán bộ công tác ở vùng DTTS và<br /> <br /> 30 Số 19 - Tháng 9 năm 2017<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, thể các nền văn hóa. Cùng với đó là tiếng nói<br /> tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác của các nhà nghiên cứu dân tộc học-nhân học và<br /> dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia nhiều ngành khác cũng được tôn trọng hơn. Đó là<br /> rẽ dân tộc”7. quá trình đổi mới CTDT và nó tạo cơ sở cho việc<br /> CTDT ngày càng đổi mới, hiệu quả hơn.<br /> Những phân tích trên về CTDT từ giữa<br /> thế kỷ XX đến nay xuất phát từ việc tiếp cận các Trong giai đoạn hiện nay, CTDT được<br /> hướng lý thuyết nhằm để nhận thức lại một góc hoạch định và xây dựng theo hướng phát triển<br /> nào đó về CTDT. Những thảo luận trên không bền vững và tiếp cận đa chiều. Vẫn giữ vững<br /> nhằm mục đích khẳng định rằng CTDT vận dụng quan điểm lãnh đạo của Đảng về vấn đề dân tộc<br /> các lý thuyết đã trình bày vào quá trình hoạch và tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước<br /> định chính sách hay thực thi các chính sách dân về CTDT, nhưng những người làm CTDT đã trở<br /> tộc, mà nó chỉ là một khung lý thuyết giúp cho nên chuyên nghiệp hơn. Họ biết tranh thủ ý kiến<br /> chúng ta tiếp cận với CTDT với tư cách là một của các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu, các<br /> đối tượng nghiên cứu. Theo đó, CTDT trong các nhà doanh nghiệp và tôn trọng ý kiến của người<br /> giai đoạn của những năm qua có những vấn đề dân-là những người chủ thể, trực tiếp nhận tác<br /> khác nhau. Tiến trình phát triển của CTDT theo động từ CTDT. Sự nhìn nhận sâu sắc, tiếp cận đa<br /> hướng từ chủ quan duy ý chí đến việc ngày càng phương, đa chiều hơn là nền tảng cho quá trình<br /> tiếp cận khách quan hơn và đạt được nhiều kết hoạch định CTDT hiện nay. Các nghiên cứu về<br /> quả hơn, góp phần vào quá trình xây dựng và dân tộc, CTDT được thực hiện với các tiếp cận<br /> phát triển đất nước nhiều hơn. liên ngành, dựa trên các dữ liệu, cơ sở dữ liệu<br /> về DTTS. Điều này cũng đặt ra một nhiệm vụ<br /> Về cơ bản, CTDT trước thời kỳ đổi mới<br /> rất lớn, đó là phải tiến hành không chậm trễ, xây<br /> chịu nhiều ảnh hưởng của những diễn ngôn phát<br /> dựng hệ thống cơ sở dữ liệu Quốc gia về DTTS,<br /> triển từ trên xuống, mang tính chủ quan. Đây là<br /> làm luận cứ minh chứng cho những giả thuyết đặt<br /> giai đoạn CTDT mang tính chính trị và tập trung<br /> ra trong các nghiên cứu. Với những điều kiện cơ<br /> vào việc tập hợp lực lượng, xây dựng khối đoàn<br /> bản như vậy, có thể tin tưởng rằng CTDT sẽ ngày<br /> kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc để chống giặc<br /> càng hiệu quả và có nhiều đóng góp trong quá<br /> ngoại xâm, giải phóng đất nước. Và bên cạnh đó<br /> trình xây dựng và phát triển đất nước.<br /> là việc xây dựng và phát triển cơ sở kinh tế xã hội<br /> chủ nghĩa ở vùng DTTS và miền núi. Kết quả là Tài liệu tham khảo<br /> chúng ta đã huy động được sức mạnh để giành<br /> [1] Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam (2001),<br /> thắng lợi trong các cuộc chiến tranh vệ quốc.<br /> Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà<br /> Nhưng mặt khác, CTDT bị ảnh hưởng bởi các<br /> nước phong kiến Việt Nam (X-XIX), NXB. Chính<br /> diễn ngôn phát triển mang tính chính trị đã gây<br /> trị Quốc gia, Hà Nội;<br /> đứt gãy đối với các nền văn hóa truyền thống của<br /> các DTTS. Cùng với đó là gây ra sự xáo trộn giữa [2] Khổng Diễn (2003), Tổng quan về dân<br /> địa bàn cư trú của các dân tộc làm cho sự tiếp xúc tộc học Việt Nam trong một thế kỷ qua. In trong<br /> văn hóa càng mạnh mẽ hơn. “Dân tộc học Việt Nam thế kỷ XX và những năm<br /> đầu thế kỷ XXI”, NXB. Khoa học Xã hội;<br /> Công tác dân tộc trước và trong giai đoạn<br /> đầu của công cuộc đổi mới cũng chủ yếu theo lối [3] Bế Viết Đẳng (1977), Nghị quyết đại<br /> tiếp cận “từ khách thể”. Những người làm CTDT học Đảng toàn quốc lần thứ IV và công tác nghiên<br /> đã quá chủ quan, duy ý chí khi quá nhấn mạnh cứu dân tộc học hiện nay. Tạp chí Dân tộc học<br /> quan điểm của mình vào trong hoạch định CTDT số 1-1977. In trong Dân tộc học Việt Nam: Định<br /> mà thiếu cơ sở dữ liệu về thực tế ở vùng dân tộc hướng và thành tựu nghiên cứu (1973-1998),<br /> và miền núi. Tuy nhiên, từ khi đổi mới, nhận thức NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006;<br /> về CTDT cũng thay đổi, từ nhấn mạnh ý kiến của [4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), Văn<br /> khách thể chuyển sang coi trọng ý kiến của chủ kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, NXB.<br /> Sự thật, Hà Nội;<br /> 7.<br /> Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn<br /> quốc lần thứ X, 2006, tr 121-122 [5] Nguyễn Hữu Hải, Nguyễn Xuân Thu,<br /> <br /> Số 19 - Tháng 9 năm 2017 31<br /> Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br /> <br /> Lưu Minh Thiệu, Lê Vui, Trịnh Quang Cảnh [10] Giàng Seo Phử (chủ biên) (2016), Một<br /> (1997), 50 năm Công tác dân tộc (1946-1996), số vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước<br /> NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; về công tác dân tộc qua 30 năm đổi mới, NXB.<br /> [6] Trần Tiến Hoà, Nguyễn Mạnh Hiền Chính trị Quốc gia, Hà Nội;<br /> (2004), Một số vấn đề cần biết về dân tộc và [11] Jean Olivier De Sardan (2008), Ba lối<br /> chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, tiếp cận trong ngành nhân học về sự phát triển.<br /> NXB. Lao Động, Hà Nội; In trong “Nhân học phát triển: Lý thuyết, phương<br /> [7] Phan Văn Hùng (chủ biên) (2015), Một pháp và công cụ thực hành”, NXB. Khoa học Xã<br /> số vấn đề mới trong quan hệ dân tộc và chính hội, Hà Nội;<br /> sách dân tộc ở nước ta hiện nay, NXB. Chính trị [12] Ủy ban Dân tộc và Miền núi (2001),<br /> Quốc gia, Hà Nội; 55 năm công tác dân tộc và miền núi (1946-<br /> [8] Lâm Bá Nam (2010), Chính sách dân 2001), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội;<br /> tộc của Đảng trong thời kỳ đổi mới. In trong [13] Bế Trường Thành, Phan Hữu Dật, Lê<br /> “Đảng Cộng sản Việt Nam: 80 năm xây dựng và Ngọc Thắng , Dương Xuân Ngọc, Đặng Nghiêm<br /> trưởng thành”, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Vạn (2002), Vấn đề dân tộc và định hướng xây<br /> [9] Hoàng Đức Nghi (2001), Về công tác dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công<br /> dân tộc trong 10 năm đổi mới (1990-2000), NXB. nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB. Chính trị Quốc<br /> Chính trị Quốc gia, Hà Nội; gia, Hà Nội.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> CHANGES IN ETHNIC WORK FROM THE MID- 20th CENTURY TO NOW<br /> FROM STUDYING ANTHROPOLOGICAL THEORY<br /> <br /> Abstract: Ethnic affairs are a very important field in the directions and policies of the<br /> Party and the State of Vietnam. Through the national defense war, the subsidy period and<br /> the process of national renewal, the work of ethnic minorities also has many changes. On<br /> the general level, ethnic work has contributed significantly to the construction of national<br /> defense. However, there are still many shortcomings. To better understand the achievements<br /> and limitations of ethnic work from the mid-twentieth century, this article emphasizes on<br /> adopting the lens of Anthropological Theory to review ethnic work as a statue to study.<br /> Although ethnographic work is not a theoretical or theoretical field, it is, to some extent,<br /> influenced by different theories used in ethnography and anthropology.<br /> Keywords: Ethnic affairs; ethnic minorities; national policy; Anthropological theory.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 32 Số 19 - Tháng 9 năm 2017<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2