Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
<br />
<br />
SỰ THAY ĐỔI TRONG CÔNG TÁC DÂN TỘC<br />
TỪ GIỮA THẾ KỶ XX ĐẾN NAY QUA TIẾP CẬN<br />
LÝ THUYẾT NHÂN HỌC<br />
Bế Trung Anh(1)<br />
<br />
C ông tác dân tộc là một lĩnh vực rất quan trọng trong đường lối, chính sách của<br />
Đảng và nhà nước Việt Nam. Trải qua các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, thời<br />
bao cấp và sang quá trình đổi mới đất nước, công tác dân tộc cũng có nhiều thay đổi. Trên<br />
bình diện chung, công tác dân tộc đã góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng vào bảo<br />
vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Để hiểu rõ hơn về thành<br />
tựu cũng như những hạn chế của công tác dân tộc từ giữa thế kỷ XX đến nay, bài viết này<br />
muốn qua các lăng kính của lý thuyết Nhân học để xem xét lại công tác dân tộc như là một<br />
đối tượng để nghiên cứu. Dù công tác dân tộc chưa là một lý thuyết hay lĩnh vực lý thuyết,<br />
nhưng ở một góc độ nào đó, nó cũng chịu ảnh hưởng của các lý thuyết khác nhau trong dân<br />
tộc học và nhân học. Và từ hướng tiếp cận các lý thuyết, phần nào đó sẽ cho chúng ta những<br />
lời giải thích về những tích cực cũng như hạn chế của công tác dân tộc.<br />
Từ khóa: Công tác dân tộc; dân tộc thiểu số; chính sách dân tộc; lý thuyết Nhân học.<br />
<br />
Công tác dân tộc (CTDT) là “những hoạt trọng để bảo vệ đất nước. Nhận thức rõ điều này<br />
động quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc nhằm nên từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt<br />
tác động và tạo điều kiện để đồng bào các DTTS Nam đã rất coi trọng vấn đề dân tộc. Tuy nhiên,<br />
cùng phát triển, đảm bảo sự tôn trọng, bảo vệ phải từ sau cách mạng tháng Tám 1945 và bắt đầu<br />
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”1.Tuy vào xây dựng chính quyền cách mạng, xây dựng<br />
nhiên, không phải từ khi cách mạng thành công chế độ mới thì CTDT mới được Đảng và nhà<br />
thì mới đặt ra vấn đề CTDT. Quay lại lịch sử, nước xây dựng có hệ thống hơn. Hiến pháp nước<br />
trong các triều đại phong kiến cũng đã thể hiện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946 đã nêu<br />
nhiều mối quan tâm với các mức độ khác nhau về rõ: “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất<br />
vấn đề dân tộc. Ngay từ khi giành quyền tự chủ từ Trung Nam Bắc không thể phân chia” (điều 2);<br />
sự đô hộ của phong kiến Trung Hoa, các triều đại “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc<br />
phong kiến Việt Nam luôn thể hiện sự coi trọng dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện<br />
đối với các vấn đề dân tộc. Liên tục các triều đại để chóng tiến kịp trình độ chung” (điều 8). Càng<br />
từ Lý, Trần, Hồ, Lê-Trịnh, Tây Sơn đến triều về sau, CTDT càng được đề cao với sự ra đời của<br />
Nguyễn đều ban hành các chính sách liên quan hệ thống các cơ quan chức năng ở nhiều cấp độ<br />
để giải quyết vấn đề dân tộc2. Điều đó chứng tỏ khác nhau. CTDT đã góp phần quan trọng tuyên<br />
rằng, với một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam truyền và tổ chức thực hiện các chính sách của<br />
thì chính sách dân tộc là một yếu tố quan trọng Đảng và Nhà nước đến với vùng dân tộc thiểu số<br />
trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ban (DTTS), vùng miền núi, góp phần quan trọng vào<br />
hành và tổ chức thực hiện các chính sách để xây công cuộc kháng chiến kiến quốc hay xây dựng<br />
dựng khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ quan chủ nghĩa xã hội.<br />
1.<br />
Chính phủ, Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/1/2011 Trong quá trình đổi mới, rồi hội nhập để<br />
về công tác dân tộc.<br />
2.<br />
Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam, Chính sách dân tộc của các<br />
phát triển, CTDT cũng đã góp phần to lớn vào<br />
chính quyền phong kiến Việt Nam. (X-XIX), NXB. Chính trị việc đưa các DTTS hội nhập với thế giới, với<br />
Quốc gia, Hà Nội, 2001. nhịp thở của đất nước. Tuy nhiên, cũng phải<br />
Ngày nhận bài: 3/8/2017; Ngày phản biện: 20/8/2017; Ngày duyệt đăng: 10/9/2017<br />
(1)<br />
Học viện Dân tộc; e-mail: betrunganh@cema.gov.vn<br />
25<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
nhìn nhận rằng, dù đã đạt được nhiều thành quả lợi và có những thành tựu nhất định. Nhưng khi<br />
to lớn, CTDT vẫn còn nhiều hạn chế. Và phần các diễn ngôn phát triển thiếu chính xác, không<br />
nhiều những hạn chế này xuất phát từ cái nhìn phù hợp sẽ đẩy lùi sự phát triển và gây ra nhiều<br />
chủ quan của những người xây dựng các chiến hậu quả khác nhau.<br />
lược và chính sách phát triển. Hệ quả là CTDT<br />
Các diễn ngôn phát triển liên quan đến<br />
cũng đã có những tác động tiêu cực nhiều đến sự<br />
CTDT ở Việt Nam luôn được đưa ra trong quá<br />
phát triển của các cộng đồng DTTS. Bên cạnh<br />
trình xây dựng và phát triển đất nước. Từ khi<br />
những thành tựu đạt được về kinh tế thì các truyền<br />
thành lập Đảng cho đến nay đều gắn CTDT với<br />
thống văn hóa lại bị đứt gãy, bị mai một, hệ sinh<br />
những diễn ngôn phát triển vùng dân tộc và miền<br />
thái tự nhiên và môi trường văn hóa xã hội bị<br />
núi. Những diễn ngôn này mang tính chỉ đạo, thể<br />
tàn phá không ít. Nhưng gần như trong hơn nửa<br />
hiện quan điểm và định hướng của Đảng và nhà<br />
thế kỷ xảy ra những vấn đề này, dù được nhiều<br />
nước trong các điều kiện thực tế. Điều đó không<br />
người nói đến song vẫn chưa đủ mạnh để tạo nên<br />
có gì sai. Tuy nhiên, những người làm CTDT quá<br />
những thay đổi. Phải đến đầu những năm 2000,<br />
thụ động và bị chi phối quá nhiều từ các diễn<br />
không chỉ các nhà nghiên cứu khoa học mà cả<br />
ngôn này thì tình hình lại khác. Sự thụ động trước<br />
những người hoạch định chính sách bắt đầu nhận<br />
các diễn ngôn phát triển để rồi đưa vào ý chỉ chủ<br />
thức lại. Những công trình tổng kết CTDT trong<br />
quan, xem CTDT có nhiệm vụ phải thực hiện các<br />
mấy chục năm qua bắt đầu xuất hiện3. Lúc này,<br />
diễn ngôn đó mà không căn cứ vào tình hình thực<br />
những vấn đề trong CTDT được mổ xẻ khách<br />
tiễn của vùng dân tộc sẽ gây nên những hệ lụy<br />
quan hơn để bắt đầu xây dựng hệ thống chính<br />
cho quá trình phát triển.<br />
sách và xây dựng các hoạt động trong CTDT sao<br />
cho phù hợp với sự thay đổi của đất nước và tiến Phải công nhận rằng trong hai cuộc kháng<br />
trình hội nhập với thế giới. Trong hơn một thập chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, CTDT<br />
kỷ qua, CTDT không ngừng thay đổi theo hướng đã đạt được nhiều kết quả to lớn, góp phần vào<br />
tích cực hơn. Nói vậy để thấy vấn đề CTDT vẫn việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát<br />
còn phải nhìn nhận lại theo nhiều chiều hướng huy sức mạnh của tất cả các thành phần, các dân<br />
khác nhau để đổi mới và phục vụ đắc lực cho quá tộc vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.<br />
trình phát triển của các DTTS nói riêng và của Tuy nhiên, trong quá trình hoạch định phát triển<br />
đất nước nói chung. vùng DTTS, chúng ta vẫn còn nhiều bất cập. Mà<br />
phần lớn các bất cập đều liên quan đến việc hoạch<br />
1.Công tác dân tộc dưới ảnh hưởng của<br />
định công tác hơi máy móc, cứng nhắc, quá thụ<br />
các diễn ngôn phát triển<br />
động trong việc thực hiện các chỉ đạo từ trên<br />
Công tác dân tộc là phương thức và quá xuống qua các diễn ngôn phát triển mang tầm vĩ<br />
trình tổ chức thực hiện các chính sách quản lý mô. Xin phân tích một ví dụ để nhìn nhận sâu hơn<br />
của nhà nước về vấn đề dân tộc với mục tiêu về vấn đề này:<br />
chung là đảm bảo sự ổn định và phát triển vùng<br />
Từ đầu những năm 1960, vấn đề CTDT<br />
dân tộc. Nhiều khi, CTDT cũng được thể hiện<br />
được Đảng và Nhà nước quan tâm, nhất là việc<br />
qua những diễn ngôn phát triển. Những diễn<br />
xây dựng đời sống mới ở vùng DTTS ở miền<br />
ngôn phát triển có nhiều mức độ tác động khác<br />
Bắc. Tại Đại hội Đảng lần thứ III năm 1960 đã<br />
nhau, có thể mang quy mô nhân loại, cũng có thể<br />
nhấn mạnh vấn đề CTDT là “Làm cho miền núi<br />
chỉ là một dự án nhỏ của một cộng đồng. Ở đây,<br />
tiến kịp miền xuôi, vùng cao và vùng biên giới<br />
CTDT liên quan đến các diễn ngôn phát triển về<br />
tiến kịp vùng nội địa, các DTTS tiếp kịp dân tộc<br />
vùng dân tộc, miền núi. Các diễn ngôn phát triển<br />
Kinh, giúp đỡ các dân tộc phát huy tinh thần cách<br />
sớm đóng vai trò quan trọng trong các quá trình<br />
mạng và năng lực to lớn của mình cùng nhau<br />
phát triển bởi nó truyền tải tư tưởng, mục tiêu<br />
đoàn kết chặt chẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội”4. Đây<br />
của nhà quản lý đối với sự phát triển. Khi những<br />
là một diễn ngôn mang tính vĩ mô, thiên hướng<br />
diễn ngôn phát triển được đưa ra là tiến bộ, hợp<br />
lãnh đạo từ trên xuống đối với quá trình phát triển<br />
lý thì quá trình phát triển của ngành đó sẽ thuận<br />
Hoàng Đức Nghi, Về công tác dân tộc trong 10 năm đổi<br />
3. 4.<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn<br />
mới (1990-2000), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. quốc lần thứ III, NXB. Sự thật, 1960, tr 125<br />
<br />
26 Số 19 - Tháng 9 năm 2017<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
của vùng miền núi, vùng DTTS. Quan điểm và CTDT. Đến thời kỳ bao cấp, khi cả nước lâm<br />
mục tiêu của Đảng trong vấn đề này không có gì vào điều kiện khó khăn do nền sản xuất trì trệ<br />
sai, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện thì những thì CTDT cũng gặp nhiều khó khăn trước những<br />
người làm CTDT lại nhìn vấn đề theo nhận thức thay đổi trong ứng xử của đồng bào với quá trình<br />
tiến hóa luận giản đơn, bỏ qua sự khác biệt, sự đa phát triển cũng như sự vận động, biến đổi của đời<br />
dạng giữa các vùng miền, các dân tộc và cả các sống kinh tế xã hội vùng dân tộc. Lúc này, người<br />
cộng đồng dân cư khác nhau. Nó góp phần tạo ta mới bắt đầu nhìn nhận lại quá trình hoạch định<br />
nên sự mặc định trong nhận thức của các nhà phát CTDT. Các diễn ngôn phát triển thể hiện quan<br />
triển: Miền núi, vùng DTTS, là vùng nghèo nàn, điểm và định hướng của Đảng và Nhà nước về<br />
lạc hậu, kém phát triển. Người DTTS là những vấn đề dân tộc vẫn là kim chỉ nam của CTDT.<br />
tộc người đang ở ngưỡng cửa văn minh và người Tuy nhiên, những người thực hiện đã bắt đầu linh<br />
Kinh từ đồng bằng có nhiệm vụ giúp đỡ người động, tiếp cận hợp lý hơn với điều kiện thực tế.<br />
DTTS phát triển để họ “tiến” theo kịp và bước Đó cũng là quá trình đổi mới CTDT trong hơn<br />
vào nền văn minh. Quan điểm đó đã dẫn đến việc một thập kỷ cuối của thế kỷ XX.<br />
lấy người Kinh làm chuẩn cho quá trình phát<br />
2.Tiếp cận “từ khách thể” đến tiếp cận<br />
triển. Quan điểm “đưa miền núi tiến kịp miền<br />
“từ chủ thể” và sự thay đổi trong công tác dân<br />
xuôi” cũng thể hiện tư duy cào bằng trong phát<br />
tộc thời kỳ đổi mới<br />
triển vùng mà trung tâm là các chỉ tiêu, thước đo<br />
về kinh tế. “Các nhà phát triển” đã xem tiêu chí Tiếp cận “từ khách thể” (Etic) và tiếp cận<br />
kinh tế làm trung tâm, là mục tiêu của quá trình “từ chủ thể” (Emic) là những phương pháp tiếp<br />
phát triển. Đầu tư cơ sở vật chất để đẩy mạnh tăng cận trong nghiên cứu nhân học khá phổ biến trên<br />
trưởng kinh tế ở miền núi là con đường để ‘tiến thế giới trong nửa sau thế kỷ XX. Các tiếp cận này<br />
kịp miền xuôi” trong quá trình công nghiệp hóa, do nhà ngôn ngữ học và nhân học Mỹ, Kenneth<br />
hiện đại hóa đất nước. Nhưng kết quả, khoảng Pike đưa ra vào giữa những năm 1950 trong các<br />
cách kinh tế giữa miền xuôi và miền núi ngày nghiên cứu về âm vị học. Sau đó, nó được nhiều<br />
càng lớn thêm như một minh chứng hùng hồn cho nhà nghiên cứu dân tộc học-nhân học vận dụng<br />
một thực tế là kinh tế miền núi không thể theo khá rộng rãi, nhất là trong nghiên cứu văn hóa.<br />
kịp miền xuôi theo các tiêu chí của các nhà phát Công tác dân tộc trước thời kỳ đổi mới chủ<br />
triển đưa ra. yếu thể hiện cách tiếp cận “từ khách thể”, tức là<br />
Công tác dân tộc trong giai đoạn kháng chịu sự chi phối của những nhà làm CTDT, từ<br />
chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc những người đưa ra quan điểm đến những người<br />
nhìn chung là thụ động. Các nhà CTDT chủ yếu hoạch định và thực thi chính sách. Những người<br />
trở thành những người đi làm công tác tuyên làm CTDT, một mặt bị chi phối từ các diễn ngôn<br />
truyền các chính sách của Đảng và nhà nước đến phát triển của những nhà lãnh đạo như phân tích<br />
với người dân. Họ cũng là những người góp phần ở trên. Mặt khác, những người làm CTDT cũng<br />
quan trọng trong việc xây dựng và thực thi hệ đưa cái nhìn chủ quan của mình vào để hoạch<br />
thống chính sách phát triển vùng dân tộc, miền định CTDT, trong khi những cơ sở dữ liệu từ<br />
núi. Tuy đạt được nhiều kết quả trong việc vận thực tế cuộc sống của những cộng đồng dân tộc<br />
động đồng bào ủng hộ và giúp đỡ cách mạng để chưa đầy đủ để giúp cho việc hoạch định CTDT<br />
bảo vệ Tổ quốc cũng như hăng hái tham gia vào được khách quan hơn. Bên cạnh đó, quan điểm<br />
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, của những người làm CTDT cũng chịu nhiều ảnh<br />
cái nhìn mang tính giản đơn về sự phát triển của hưởng của thuyết trung tâm-ngoại vi. Dù họ cố ý<br />
vùng dân tộc cũng như sự cứng nhắc, máy móc, vận dụng vào hoặc vô tình nhận thức như vậy thì<br />
lệ thuộc quá nhiều vào các diễn ngôn phát triển những quan điểm này cũng đã ảnh hưởng mạnh<br />
đã làm cho CTDT gặp phải nhiều hạn chế và chưa đến CTDT. Những người làm CTDT đã lấy người<br />
đạt được hiệu quả nhất định. Bên cạnh đó, các Kinh, lấy miền xuôi làm trung tâm, là khu vực<br />
công trình nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực phát triển và coi vùng miền núi, vùng DTTS là<br />
này hay ý kiến của các nhà dân tộc học-nhân học vùng ngoại vi, vùng kém phát triển và cần phải hỗ<br />
cũng ít được quan tâm trong quá trình xây dựng trợ, giúp đỡ. Họ cũng lấy người Kinh làm trung<br />
<br />
<br />
Số 19 - Tháng 9 năm 2017 27<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
tâm, coi đây là khuôn mẫu, là điển hình của sự miền núi khoảng gần 300 nghìn người và chiếm<br />
phát triển, là hệ giá trị chuẩn mực và xem các gần 50% dân số miền núi, và đến năm 2009 đã<br />
DTTS là lạc hậu, kém phát triển và phải được hơn 700 nghìn người, chiếm 62% dân số miền<br />
khai sáng. Nó khá giống với quan điểm của một núi. Như vậy, từ ý chỉ chủ quan của những người<br />
số nhà dân tộc học thực dân sang nghiên cứu ở hoạch định chính sách, những người làm CTDT<br />
Việt Nam cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. đã không căn cứ vào tình hình thực tiễn mà vội<br />
Tuy nhiên, mục đích thì hoàn toàn khác nhau. vàng đưa một lượng dân cư miền xuôi lên cư trú<br />
Trong khi dân tộc học thực dân nghiên cứu để mở bên cạnh các cộng đồng DTTS tạo nên sự cư trú<br />
đường cho sự xâm lược và cai trị của đế quốc thì xen kẽ nhiều tộc người với nhau. Nhưng phương<br />
các nhà làm CTDT của ta chỉ vì sốt sắng, mong thức sản xuất, vị thế xã hội cũng như bản sắc văn<br />
muốn giúp đỡ, hỗ trợ cho vùng miền núi, vùng hóa của người Kinh khác nhiều so với các cộng<br />
đồng bào DTTS phát triển và tiến lên chủ nghĩa đồng còn lại nên đã có ảnh hưởng lớn đến quá<br />
xã hội nhanh hơn. Mong muốn đó, vào thời đoạn trình phát triển miền núi. Hệ quả trực tiếp của vấn<br />
đó là chính đáng, lại thêm điều kiện chiến tranh đề này là sự biến đổi văn hóa không mong muốn<br />
nên công tác nghiên cứu, thu thập thông tin cũng của các cộng đồng DTTS. Đó là một ví dụ về tác<br />
không dễ dàng, thêm vào tâm lý nóng ruột đã làm động của CTDT theo sự tiếp cận chủ quan của<br />
cho hoạch định về CTDT lại mang tính chủ quan, người hoạch định chính sách.<br />
duy ý chí hơn. Hệ quả là nhiều truyền thống văn<br />
Từ khi đất nước bước vào công cuộc đổi<br />
hóa của người DTTS bị coi là lạc hậu, không phù<br />
hợp và bị tìm cách để xóa bỏ (lễ hội “cầu Mường mới 1986, CTDT cũng bắt đầu có những thay đổi<br />
của đồng bào Thái ở Mường Chiềng, Đà Bắc, để phù hợp với tình hình hiện tại của đất nước,<br />
Hòa Bình vừa được khôi phục lại). Đồng thời nhất là thực hiện nhiệm vụ đưa các vùng DTTS<br />
cũng đưa nhiều yếu tố văn hóa lên vùng DTTS hội nhập và phát triển. Liên tiếp có các quan điểm<br />
theo lối áp đặt khiến nền văn hóa xã hội của các chỉ đạo mới về liên quan đến CTDT kể từ sau Đại<br />
dân tộc bị đứt đoạn. hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986). Năm 1989,<br />
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 22-NQTƯ và<br />
Để cụ thể hơn vấn đề này, xin phân tích năm 1990 Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định<br />
một ví dụ về CTDT và chính sách phát triển miền 72-HĐBT là những văn bản chỉ đạo trực tiếp về<br />
núi ở Nghệ An từ đầu những năm 1950 đến cuối CTDT và miền núi lúc này. “Đây là hai văn bản<br />
thế kỷ. Ngay sau khi hòa bình lập lại ở miền quan trọng bậc nhất thể hiện cho sự đổi mới trong<br />
Bắc năm 1954, Nghệ An bắt đầu công cuộc khôi CTDT của Đảng và Nhà nước”5. Đây là quãng<br />
phục và phát triển kinh tế, cải tạo xã hội. Những thời gian mở đầu cho việc nhìn nhận lại và đổi<br />
người làm CTDT dù chưa nắm rõ được tình hình mới CTDT. Một trong những điểm nhấn của sự<br />
phát triển của vùng dân tộc ở miền núi Nghệ An đổi mới CTDT lúc này là chuyển từ tiếp cận “từ<br />
nhưng đã tiến hành đưa hàng vạn người Kinh từ khách thể” sang tiếp cận “từ chủ thể” và sau đó<br />
miền xuôi lên để xây dựng các lâm trường, nông là sự nhấn mạnh kết hợp cả hai phương pháp tiếp<br />
trường quốc doanh. Họ coi đây là điều quan trọng cận này để xây dựng cơ sở dữ liệu và hoạch định<br />
để phát triển miền núi và giúp đồng bào dân tộc chính sách, CTDT. Các cơ quan phụ trách CTDT<br />
phát triển theo kịp miền xuôi. Từ năm 1954 đến đã bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến tiếng nói của<br />
năm 1955, các lâm trường mới như Khe Kiền, những người trong cuộc, chính là những người<br />
Trịnh Môn, Bãi Phủ, Đông Hiếu, Tây Hiếu, Sông dân ở miền núi, là các đồng bào DTTS. Một mặt,<br />
Con... đi vào hoạt động thu hút một số lượng công người dân được thể hiện nhiều ý kiến của mình<br />
nhân từ miền xuôi lên. Từ đầu những năm 1960, hơn trong việc góp ý về các chính sách liên quan<br />
NghệAn tiếp tục di dân từ miền xuôi lên miền đến sự phát triển của cộng đồng mình. Mặt khác,<br />
ngược. Tính đến năm 1978, chính quyền Nghệ trong quá trình thực hiện các chính sách dân tộc<br />
Tĩnh đã đưa hơn 30 vạn người miền xuôi đi khai thì những người liên quan cũng được thể hiện ý<br />
hoang, xây dựng các vùng kinh tế mới ở miền núi kiến góp ý để làm cho CTDT ngày càng tốt hơn và<br />
Nghệ An (và một số địa phương ở miền núi Hà<br />
Tĩnh sau khi nhập tỉnh năm 1975). Theo thống 5.<br />
Lâm Bá Nam, Chính sách dân tộc của Đảng trong thời kỳ đổi<br />
kê của Ban Dân tộc và Miền núi Nghệ An, thì mới, in trong “Đảng Cộng sản Việt Nam: 80 năm xây dựng và<br />
đến đầu những năm 1990, số lượng người Kinh ở trưởng thành”, NBX. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010<br />
<br />
28 Số 19 - Tháng 9 năm 2017<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
đảm bảo được sự ổn định, phát triển ở vùng dân Tiếp nối những kết quả đạt được trong thời<br />
tộc. Sự đổi mới trong CTDT đã ảnh hưởng tích kỳ đầu đổi mới, bước sang thế kỷ mới, CTDT lại<br />
cực đến sự phát triển của vùng dân tộc và miền tiếp tục thay đổi và hòa nhập với sự phát triển trên<br />
núi, nó góp phần quan trọng “tạo được những thế giới khi nhân loại đi vào kỷ nguyên phát triển<br />
chuyển biến đáng kể về phát triển kinh tế xã hội, bền vững. CTDT trong giai đoạn hiện nay dựa<br />
xây dựng cơ sở hạ tầng và giải quyết những vấn trên quan điểm, định hướng phát triển bền vững<br />
đề xã hội bức xúc ở miền núi. Nhiều mô hình và cách tiếp cận đa chiều cả về lý thuyết cũng<br />
sản xuất kinh doanh có hiệu quả đã được hình như thực tiễn. Tiếp cận đa chiều ở đây không phải<br />
thành và phát triển. Cơ cấu kinh tế miền núi đã có là một lý thuyết mà là một hệ thống quan điểm<br />
chuyển biến tích cực, tạo đà phát triển mới theo và phương pháp tiếp cận phức hợp, cho chúng<br />
hướng sản xuất hàng hóa và từng bước chuyển ta cái nhìn từ nhiều chiều hướng khác nhau, tiến<br />
dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa”6. tới nhận thức toàn diện và khách quan hơn về các<br />
Để đạt được kết quả đó, những người làm CTDT vấn đề trên. Trong khi đó, phát triển bền vững<br />
đã thay đổi từ quan điểm chủ quan, tiếp cận “từ đang là chiến lược, là định hướng phát triển của<br />
khách thể” sang kết hợp hai cách tiếp cận, tôn nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam.<br />
trọng ý kiến của đồng bào dân tộc, lắng nghe ý<br />
Xuất hiện trên diễn đàn thế giới từ đầu<br />
kiến của các nhà khoa học trong và ngoài nước.<br />
những năm 1970, thuật ngữ phát triển bền vững<br />
Nói đúng hơn, CTDT trong giai đoạn này đã tiếp<br />
(Sustainable Development) ngày càng được phổ<br />
nhận được những luồng gió mới trong nghiên<br />
biến và được xem là một khái niệm mang tính<br />
cứu dân tộc học và các ngành khác dưới ánh sáng<br />
thời đại. Chiến lược phát triển bền vững toàn cầu<br />
của đổi mới. Bởi lúc đó, nhiều nhà nghiên cứu<br />
trải qua 3 hội nghị lớn của Liên Hợp quốc, từ<br />
nước ngoài và trong nước đã có nhiều công trình<br />
Hội nghị Thượng đỉnh Rio de Janeiro (1992) đến<br />
phân tích về tác động của các chính sách cũng<br />
Hội nghị Thượng đỉnh Johannesburg (2002) và<br />
như sự biến đổi của các dân tộc trong nhiều năm<br />
gần nhất là Hội nghị Thượng đỉnh Rio de Janeiro<br />
trước đó. Trong đó, các học giả nước ngoài như<br />
(2012), mục tiêu và nội dung của phát triển được<br />
Gerald Hickey (Mỹ), Futura Moto (Nhật Bản),<br />
hoàn thiện hơn, sâu sắc hơn và cụ thể hơn. Khái<br />
Orcar Salemink (Hà Lan) hay Patricia Pelly (Mỹ)<br />
niệm phát triển bền vững hiện nay được hiểu là:<br />
thường tập trung vào việc phân tích thực trạng và<br />
Quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp<br />
các chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với<br />
lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển. Đó là<br />
các dân tộc cũng như tác động của các chính sách<br />
phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi<br />
ấy lên tình hình phát triển vùng dân tộc. Trong<br />
trường... Ngoài ra còn phải quan tâm đến các khía<br />
khi các nhà khoa học Việt Nam lại tập trung vào<br />
cạnh khác của sự phát triển bền vững như chính<br />
ba vấn đề chính: Thực trạng kinh tế - xã hội ở<br />
trị, văn hóa, tinh thần, dân tộc.... Một vấn đề quan<br />
miền núi; Chính sách của Nhà nước đối với vùng<br />
trọng mà gần đây mới được nhắc đến nhiều hơn<br />
miền núi, đồng bào DTTS; Đề xuất giải pháp đào<br />
là phát triển bền vững con người trong toàn thế<br />
tạo nguồn nhân lực cho vùng miền núi.<br />
giới để vượt qua các ngăn cách chủng tộc, quốc<br />
Dù đạt được những kết quả quan trọng gia, dân tộc và tôn giáo... Tóm lại, khung mẫu<br />
trong quá trình đổi mới CTDT, chính sách dân phát triển bền vững phải bao gồm 6 thành tố:<br />
tộc, nhưng sự phát triển kinh tế-xã hội của đất i- Phát triển bền vững kinh tế, ii- Phát triển bền<br />
nước ngày càng nhanh chóng, sự hội nhập với vững chính trị, iii- Phát triển bền vững văn hóa,<br />
thế giới dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa iv- Phát triển bền vững xã hội, v- Phát triển bền<br />
ngày càng mạnh mẽ thì CTDT, muốn đạt hiệu quả vững con người, vi- Bảo vệ môi trường bền vững.<br />
cao hơn lại phải tiếp tục đổi mới hơn nữa.<br />
Việt Nam là một trong những quốc gia<br />
3.Công tác dân tộc trong định hướng tham gia chương trình phát triển bền vững khá<br />
phát triển bền vững, giai đoạn hiện nay sớm. Từ Hội nghị Thượng đỉnh ở Rio de Janeiro<br />
(1992) Chính phủ Việt Nam đã ký Tuyên bố<br />
Ủy ban Dân tộc và Miền núi, 55 năm công tác dân tộc và<br />
6. chung của Liên hợp quốc về phát triển bền vững.<br />
miền núi (1946-2001), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Năm 1993, Quốc hội ban hành luật Bảo vệ môi<br />
2001, tr. 125 trường. Năm 1996, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ<br />
<br />
Số 19 - Tháng 9 năm 2017 29<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
thị số 36-CT/TW về “Tăng cường công tác bảo nhân hợp lý từ nhiều phía liên quan trong một vấn<br />
vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, đề để xử lý mọi việc một cách hiệu quả nhất.<br />
hiện đại hóa đất nước”. Năm 2004, Chính phủ Dựa trên quan điểm và định hướng phát<br />
ban hành Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam triển bền vững, lấy tiếp cận đa chiều làm nền<br />
với tên gọi “Định hướng chiến lược phát triển bền tảng nên CTDT ở Việt Nam hiện nay được xác<br />
vững ở Việt Nam”. Chương trình phát triển bền lập và thực hiện trên 4 nguyên tắc cơ bản được<br />
vững ở Việt Nam được tiến hành trên ba phương Chính phủ quy định (Theo Nghị định 05/2011/<br />
diện: i- Thành lập các tổ chức từ trung ương đến NĐ-CP của Chính phủ về CTDT):1- Thực hiện<br />
địa phương để quản lý các chương trình phát chính sách dân tộc theo nguyên tắc bình đẳng,<br />
triển bền vững; ii- Phổ biến nội dung, xây dựng đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển.2-<br />
kế hoạch và tuyên truyền các yêu cầu phát triển Đảm bảo và thực hiện chính sách phát triển toàn<br />
bền vững đến các cơ quan, đoàn thể và toàn dân; diện, từng bước nâng cao đời sống vật chất và<br />
iii- Tổ chức nghiên cứu, đánh giá để bổ sung các tinh thần của đồng bào DTTS.3- Đảm bảo việc<br />
nội dung cụ thể và xây dựng các mô hình phát giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc, phát<br />
triển bền vững cho các đối tượng khác nhau ở các huy những phong tục, tập quán, truyền thống và<br />
địa phương. Quyết định số 432/QĐ-TTg của Thủ văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc.4- Các dân tộc<br />
tướng Chính phủ về Phê duyệt Chiến lược phát có trách nhiệm tôn trọng phong tục, tập quán của<br />
triển bền vững Việt Nam, ngày 12 tháng 4 năm nhau, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam<br />
2012, nhấn mạnh quan điểm phát triển bền vững tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.<br />
lấy con người làm trung tâm, lấy khoa học làm<br />
nền tảng. Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên Các nguyên tắc này dựa trên nền tảng quan<br />
suốt và toàn diện trong quá trình phát triển đất điểm của Đảng về vấn đề dân tộc và CTDT được<br />
nước, và là sự nghiệp chung của toàn Đảng, toàn khẳng định qua các kỳ Đại hội gần đây. Và nó<br />
Dân, các Cơ quan nhà nước và ngoài nhà nước. cũng thể hiện được định hướng phát triển CTDT<br />
Như vậy, CTDT trong kỷ nguyên phát triển bền trong kỷ nguyên phát triển bền vững và toàn cầu<br />
vững cũng phải thay đổi cả về nhận thức và cách hóa hiện nay. Đây cũng là điều kiện để có thể<br />
tiếp cận. thực hiện được nhiệm vụ về CTDT đã được thông<br />
qua tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006)<br />
Tiếp cận đa chiều trong CTDT là kết hợp và khẳng định lại trong các Đại hội lần thứ XI và<br />
sử dụng nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau XII: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam<br />
sao cho hợp lý và hiệu quả. CTDT hiện nay có bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau<br />
sự tham gia của nhiều bên, trong đó có nhiều nhà cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự<br />
lãnh đạo, nhà quản lý, các nhà hoạch định chính nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,<br />
sách dân tộc, các nhà nghiên cứu khoa học, các xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ<br />
nhà doanh nghiệp và người dân. Trong hoạch nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật<br />
định CTDT cần phải tranh thủ được ý kiến của chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao<br />
nhiều người cùng tham gia bàn luận, trao đổi và trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn<br />
tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả của CTDT. hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp<br />
Các vấn đề dân tộc hiện tại không còn là một vấn của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát<br />
đề riêng biệt mà luôn tồn tại nhiều mối quan hệ triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng<br />
chặt chẽ với các vấn đề khác, nên cần phải có cái xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm<br />
nhìn toàn diện hơn để đi đến hoạch định chính tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng<br />
sách phát triển vùng dân tộc hiện nay. Nói tóm lại, kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân<br />
CTDT hiện tại phải tiếp cận từ nhiều phía, cả chủ cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh,<br />
thể và khách thể, của các nhà quản lý, nhà nghiên quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ<br />
cứu, nhà doanh nghiệp và người dân; đồng thời thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào các DTTS;<br />
phải nhìn từ nhiều mối quan hệ với nhau: Từ tự động viên, phát huy vai trò của những người tiêu<br />
nhiên, con người, văn hóa, xã hội, chính trị…. biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu<br />
Điều đó đòi hỏi người làm CTDT phải luôn biết tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là<br />
lắng nghe, biết trao đổi và biết tích hợp các hạt người DTTS. Cán bộ công tác ở vùng DTTS và<br />
<br />
30 Số 19 - Tháng 9 năm 2017<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, thể các nền văn hóa. Cùng với đó là tiếng nói<br />
tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác của các nhà nghiên cứu dân tộc học-nhân học và<br />
dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia nhiều ngành khác cũng được tôn trọng hơn. Đó là<br />
rẽ dân tộc”7. quá trình đổi mới CTDT và nó tạo cơ sở cho việc<br />
CTDT ngày càng đổi mới, hiệu quả hơn.<br />
Những phân tích trên về CTDT từ giữa<br />
thế kỷ XX đến nay xuất phát từ việc tiếp cận các Trong giai đoạn hiện nay, CTDT được<br />
hướng lý thuyết nhằm để nhận thức lại một góc hoạch định và xây dựng theo hướng phát triển<br />
nào đó về CTDT. Những thảo luận trên không bền vững và tiếp cận đa chiều. Vẫn giữ vững<br />
nhằm mục đích khẳng định rằng CTDT vận dụng quan điểm lãnh đạo của Đảng về vấn đề dân tộc<br />
các lý thuyết đã trình bày vào quá trình hoạch và tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của Nhà nước<br />
định chính sách hay thực thi các chính sách dân về CTDT, nhưng những người làm CTDT đã trở<br />
tộc, mà nó chỉ là một khung lý thuyết giúp cho nên chuyên nghiệp hơn. Họ biết tranh thủ ý kiến<br />
chúng ta tiếp cận với CTDT với tư cách là một của các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu, các<br />
đối tượng nghiên cứu. Theo đó, CTDT trong các nhà doanh nghiệp và tôn trọng ý kiến của người<br />
giai đoạn của những năm qua có những vấn đề dân-là những người chủ thể, trực tiếp nhận tác<br />
khác nhau. Tiến trình phát triển của CTDT theo động từ CTDT. Sự nhìn nhận sâu sắc, tiếp cận đa<br />
hướng từ chủ quan duy ý chí đến việc ngày càng phương, đa chiều hơn là nền tảng cho quá trình<br />
tiếp cận khách quan hơn và đạt được nhiều kết hoạch định CTDT hiện nay. Các nghiên cứu về<br />
quả hơn, góp phần vào quá trình xây dựng và dân tộc, CTDT được thực hiện với các tiếp cận<br />
phát triển đất nước nhiều hơn. liên ngành, dựa trên các dữ liệu, cơ sở dữ liệu<br />
về DTTS. Điều này cũng đặt ra một nhiệm vụ<br />
Về cơ bản, CTDT trước thời kỳ đổi mới<br />
rất lớn, đó là phải tiến hành không chậm trễ, xây<br />
chịu nhiều ảnh hưởng của những diễn ngôn phát<br />
dựng hệ thống cơ sở dữ liệu Quốc gia về DTTS,<br />
triển từ trên xuống, mang tính chủ quan. Đây là<br />
làm luận cứ minh chứng cho những giả thuyết đặt<br />
giai đoạn CTDT mang tính chính trị và tập trung<br />
ra trong các nghiên cứu. Với những điều kiện cơ<br />
vào việc tập hợp lực lượng, xây dựng khối đoàn<br />
bản như vậy, có thể tin tưởng rằng CTDT sẽ ngày<br />
kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc để chống giặc<br />
càng hiệu quả và có nhiều đóng góp trong quá<br />
ngoại xâm, giải phóng đất nước. Và bên cạnh đó<br />
trình xây dựng và phát triển đất nước.<br />
là việc xây dựng và phát triển cơ sở kinh tế xã hội<br />
chủ nghĩa ở vùng DTTS và miền núi. Kết quả là Tài liệu tham khảo<br />
chúng ta đã huy động được sức mạnh để giành<br />
[1] Phan Hữu Dật, Lâm Bá Nam (2001),<br />
thắng lợi trong các cuộc chiến tranh vệ quốc.<br />
Chính sách dân tộc của các chính quyền nhà<br />
Nhưng mặt khác, CTDT bị ảnh hưởng bởi các<br />
nước phong kiến Việt Nam (X-XIX), NXB. Chính<br />
diễn ngôn phát triển mang tính chính trị đã gây<br />
trị Quốc gia, Hà Nội;<br />
đứt gãy đối với các nền văn hóa truyền thống của<br />
các DTTS. Cùng với đó là gây ra sự xáo trộn giữa [2] Khổng Diễn (2003), Tổng quan về dân<br />
địa bàn cư trú của các dân tộc làm cho sự tiếp xúc tộc học Việt Nam trong một thế kỷ qua. In trong<br />
văn hóa càng mạnh mẽ hơn. “Dân tộc học Việt Nam thế kỷ XX và những năm<br />
đầu thế kỷ XXI”, NXB. Khoa học Xã hội;<br />
Công tác dân tộc trước và trong giai đoạn<br />
đầu của công cuộc đổi mới cũng chủ yếu theo lối [3] Bế Viết Đẳng (1977), Nghị quyết đại<br />
tiếp cận “từ khách thể”. Những người làm CTDT học Đảng toàn quốc lần thứ IV và công tác nghiên<br />
đã quá chủ quan, duy ý chí khi quá nhấn mạnh cứu dân tộc học hiện nay. Tạp chí Dân tộc học<br />
quan điểm của mình vào trong hoạch định CTDT số 1-1977. In trong Dân tộc học Việt Nam: Định<br />
mà thiếu cơ sở dữ liệu về thực tế ở vùng dân tộc hướng và thành tựu nghiên cứu (1973-1998),<br />
và miền núi. Tuy nhiên, từ khi đổi mới, nhận thức NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006;<br />
về CTDT cũng thay đổi, từ nhấn mạnh ý kiến của [4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1960), Văn<br />
khách thể chuyển sang coi trọng ý kiến của chủ kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, NXB.<br />
Sự thật, Hà Nội;<br />
7.<br />
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn<br />
quốc lần thứ X, 2006, tr 121-122 [5] Nguyễn Hữu Hải, Nguyễn Xuân Thu,<br />
<br />
Số 19 - Tháng 9 năm 2017 31<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC<br />
<br />
Lưu Minh Thiệu, Lê Vui, Trịnh Quang Cảnh [10] Giàng Seo Phử (chủ biên) (2016), Một<br />
(1997), 50 năm Công tác dân tộc (1946-1996), số vấn đề lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước<br />
NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; về công tác dân tộc qua 30 năm đổi mới, NXB.<br />
[6] Trần Tiến Hoà, Nguyễn Mạnh Hiền Chính trị Quốc gia, Hà Nội;<br />
(2004), Một số vấn đề cần biết về dân tộc và [11] Jean Olivier De Sardan (2008), Ba lối<br />
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, tiếp cận trong ngành nhân học về sự phát triển.<br />
NXB. Lao Động, Hà Nội; In trong “Nhân học phát triển: Lý thuyết, phương<br />
[7] Phan Văn Hùng (chủ biên) (2015), Một pháp và công cụ thực hành”, NXB. Khoa học Xã<br />
số vấn đề mới trong quan hệ dân tộc và chính hội, Hà Nội;<br />
sách dân tộc ở nước ta hiện nay, NXB. Chính trị [12] Ủy ban Dân tộc và Miền núi (2001),<br />
Quốc gia, Hà Nội; 55 năm công tác dân tộc và miền núi (1946-<br />
[8] Lâm Bá Nam (2010), Chính sách dân 2001), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội;<br />
tộc của Đảng trong thời kỳ đổi mới. In trong [13] Bế Trường Thành, Phan Hữu Dật, Lê<br />
“Đảng Cộng sản Việt Nam: 80 năm xây dựng và Ngọc Thắng , Dương Xuân Ngọc, Đặng Nghiêm<br />
trưởng thành”, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Vạn (2002), Vấn đề dân tộc và định hướng xây<br />
[9] Hoàng Đức Nghi (2001), Về công tác dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công<br />
dân tộc trong 10 năm đổi mới (1990-2000), NXB. nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB. Chính trị Quốc<br />
Chính trị Quốc gia, Hà Nội; gia, Hà Nội.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
CHANGES IN ETHNIC WORK FROM THE MID- 20th CENTURY TO NOW<br />
FROM STUDYING ANTHROPOLOGICAL THEORY<br />
<br />
Abstract: Ethnic affairs are a very important field in the directions and policies of the<br />
Party and the State of Vietnam. Through the national defense war, the subsidy period and<br />
the process of national renewal, the work of ethnic minorities also has many changes. On<br />
the general level, ethnic work has contributed significantly to the construction of national<br />
defense. However, there are still many shortcomings. To better understand the achievements<br />
and limitations of ethnic work from the mid-twentieth century, this article emphasizes on<br />
adopting the lens of Anthropological Theory to review ethnic work as a statue to study.<br />
Although ethnographic work is not a theoretical or theoretical field, it is, to some extent,<br />
influenced by different theories used in ethnography and anthropology.<br />
Keywords: Ethnic affairs; ethnic minorities; national policy; Anthropological theory.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
32 Số 19 - Tháng 9 năm 2017<br />