Đề bài: Sức hấp dẫn trong bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu.<br />
Bài làm<br />
Không phải ngẫu nhiên mà Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam (1941) đã nhận xét về <br />
thơ Xuân Diệu: Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn <br />
nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng <br />
cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, <br />
người đều nồng nàn tha thiết. Thật vậy, đọc Vội vàng chúng ta mới thấy hết được nguồn <br />
sống rào rạt chưa từng thấy đó và cũng chính nó tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ.<br />
Dựa theo nội dung hình tượng và lối chuyển đổi xưng hô, chúng ta có thể cảm nhận bài <br />
thơ theo bố cục hai phần rõ rệt: Phần đầu (Từ Tôi muôn tắt nắng đi cho đến Mùa chưa <br />
ngả chiều hôm): ở đây thi sĩ xưng tôi là muốn bộc bạch với mọi người, với cuộc đời. Nội <br />
dung cảm xúc ở đây là niềm ngất ngây trước cảnh sắc trần gian đang bày ra trước mắt <br />
như một bữa tiệc lớn dành cho giác quan và tâm hồn. Nội dung lí luận là việc tập thuyết <br />
trình bày những lí lẽ vì sao phải sống vội vàng mà chủ yếu là xuất phát từ nhận thức và <br />
quan niệm về hạnh phúc trần gian, thời gian, tuổi trẻ. Phần hai là phần còn lại. Thi sĩ <br />
xung ta là muốn đối diện với toàn thể sự sống trần gian đối tượng cần tận hưởng. Nội <br />
dung cảm xúc đó là những vồ vập chếnh choáng của một cái tôi đầy ham hố đang muốn <br />
tận hưởng cho thật nhiều, thật đã đầy những hương sắc của trần thế.<br />
Tuy vậy, hai phần thơ lại chuyển tiếp rất tự nhiên về cảm xúc, rất chặt chẽ về lí luận. <br />
Nó khiến cho bài thơ liền mạch và hoàn chỉnh cứ như một dòng chảy ào ạt. Ngỡ như thi <br />
sĩ không phải dụng công trong việc cấu tạo, thiết lập, sắp xếp gì vậy. Đây chính là thành <br />
công cũng như sức hấp dẫn của bài thơ. Đi vào phân tích cụ thể bài thơ ta sẽ thấy điều <br />
đó:<br />
Mở đầu bài Thơ, Xuân Diệu thể hiện một khát vọng kì lạ đến ngông cuồng:<br />
Tôi muốn tắt nắng đi<br />
Cho màu đừng nhạt mất<br />
Tôi mụốn buộc gió<br />
Cho hương đừng bay đi.<br />
Trong làng thơ mới, Chế Lan Viên thấy cuộc đời tất cả là vô nghĩa, là khổ đau. Không <br />
thích mùa xuân, người thanh niên này muốn ngăn bước chân nó bằng những gì sót lại từ <br />
mùa thu trước. Những lá và rơi, muôn cánh hoa tàn... với tất cả ý thu góp lại tạo nên một <br />
hàng rào tâm tưởng để chắn nẻo xuân sang. Ở bài Vội vàng, Xuân Diệu dường như lại có <br />
thái độ khác hẳn: thi sĩ cũng muốn đạt quyền của tạo hóa: muốn tắt nắng, muốn buộc gió <br />
để cho hương sắc của mùa xuân đừng bay đi.<br />
Bằng lối điệp ngữ, điệp cấu trúc câu, nhà thơ đã diễn tả điều này một cách thành công.<br />
Sở dĩ Xuân Diệu có khát vọng kì lạ đó là do dưới con mắt của ông mùa xuần đầy sức hấp <br />
dẫn, đầy sức quyến rũ:<br />
Của ong bướm này đây tuần tháng mật<br />
Này đây hoa của đồng nội xanh rì<br />
Này đây lá của cành tơ phơ phất<br />
Của yến anh này đây khúc tình si.<br />
Mùa xuân mùa của tình yêu, của sự sống đã đi vào trong thơ ca hàng nghìn năm, nhưng <br />
trước Xuân Diệu, có lẽ chưa ai có tứ thơ lời thơ tương tự. Đây là mùa xuân tươi đẹp, <br />
bướm ong dập dìu, chim chóc ca hát, lá non phơ phất trên cành, hoa nở trên đồng nội.... <br />
Đáng nói hơn là vạn vật như căng đầy sức sống, giao hòa vui sướng. Bằng cách sử dụng <br />
linh hoạt, dồn dập các điệp từ, điệp ngữ của này đây; những dòng thơ trên tạo cho cọn <br />
người đọc ấh tượng một mùa xuân viên mãn, thiên nhiên phong phú bất tận như chờ đợi, <br />
như chào mời sẵn sàng dâng hiến, trao tặng cho con người.<br />
Tạo bạo nhất, mới mẻ nhất có lẽ chính là mấy câu thơ tiếp:<br />
Và này đây ánh sáng chớp hàng mĩ,<br />
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa,<br />
Tháng riêng như một cặp môi gần.<br />
Mỗi buổi sáng, thi sĩ thức dậy, mở mắt ra là được chứng kiến một cảnh tượng mới mẻ, <br />
diễm lệ: ánh bình minh rực rỡ chiếu sáng thế giới. Nguồn ánh sáng ấy như phát ra từ đôi <br />
mắt xinh đẹp của người thiếu nữ, mỗi lần nàng chớp chớp hàng mi. Trong một bài thơ <br />
khác, Xuân Diệu đã lấy lại hình ảnh gợi cảm này:<br />
Tà áo mới cũng say màu gió nước;<br />
Rặng mi dài sao động ánh dương vui<br />
(Xuân đầu)<br />
Thơ Xuân Diệu câu nào cũng xanh non, biếc rờn. Song ấn tượng nhất, tươi đẹp nhất vẫn <br />
là câu: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Ở đây, nhà thơ có sự so sánh thật táo bạo, <br />
thiên về cảm giác, gây được ấn tượng mạnh cho người đọc. Dưới con mắt của thi sĩ, mùa <br />
xuân tựa hồ như một cô gái kiều diễm, hồng hào, tình tứ, đầy hấp dẫn... Ở đây, con <br />
người là một thiếu nữ sản phẩm kì diệu của tạo hóa, được Xuân Diệu coi là chuẩn mực <br />
cho một vẻ đẹp trên thế gian này. Xuất phát từ quan niệm thẩm mĩ ấy, Xuân Diệu sáng <br />
tạo ra nhiều câu thơ khỏe khoắn, mới lạ đầy sức hấp dẫn:<br />
... Lá liễu dài như một nét mi<br />
... Hơi gió thở như ngực người yêu dấu...<br />
Như vậy, bằng cặp mắt xanh non, biếc rờn, Xuân Diệu đã nhìn cuộc đời, vạn vật có <br />
nhiều điểm khác lạ so với các nhà thơ cũ, ông phát hiện ra ở thiên nhiên, ở con người gần <br />
gũi bình dị quanh ta đây biết bao điều mới lạ thật dáng yêu đáng quý.<br />
Cuộc đời là thế! Thật đẹp và hấp dẫn nhưng không ai có thể sổng mãi mãi để tận hưởng <br />
mọi lạc thú. Năm tháng chảy trôi tuổi xuân một đi không bao giờ trở lại, đúng là thời gian <br />
ăn cuộc đời.<br />
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua<br />
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.<br />
Cách thức trình bày của Xuân Diệu là chống lại quan niệm của thơ cũ. Trong thơ xưa, <br />
quan niệm thời gian là tuần hoàn. Nghĩa là thời gian được hình dung như một vòng liên <br />
tục tái diễn, hết vòng này phát từ cái nhìn tĩnh, có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ <br />
làm thước đo thời gian. Bác bỏ quan niệm khác là thời gian tuyến tính. Nghĩa là thời gian <br />
được hình dung như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại. Vì thế mỗi khoảnh <br />
khắc trôi qua là vĩnh viễn mất đi. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn động, biện chứng <br />
vể thời gian:<br />
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua<br />
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.<br />
Cho nên, thi sĩ đã không chờ nắng hạ mới hoài xuân.<br />
Thực ra, thơ xưa không ít bài than thở về sự hạn hữu của tiếp người. Cổ nhân từng coi <br />
đời người trôi qua nhanh chóng chẳng khác gì bóng ngựa qua cửa sổ. Nhưng người xưa <br />
không vì thế mà hoảng hốt. Họ quan niệm vũ trụ sẽ nhập thêm vào cái vĩnh cửu của đất <br />
trời. Người của thời đại, của Thơ mới, Xuân Diệu chỉ thấy thời gian một đi không trở lại <br />
và vũ trụ là thế giới khách thể độc lập với con người. Với sự thức tỉnh ý thức cá nhân, <br />
nhà thơ cảm nhận thấm thía hơn ai hết sự thật đáng buồn: Tuổi trẻ chẳng hai lần thắm <br />
lại; cho dù mùa xuân của đất trời vẫn cứ tuần hoàn, vũ trụ có thể vĩnh hằng.<br />
Đến đây, cái tươi vui rạo rực ở phần trên dường như đã tan biến, nhường chỗ cho một <br />
nỗi u buồn nuối tiếc không nguôi cuộc sống tươi đẹp trên thế gian này. Nỗi buồn ở đây <br />
chẳng qua là một cách biểu hiện khác của lòng ham sống, lòng yêu đời thiết tha, say đắm. <br />
Tình cảm mãnh liệt này đã được diễn đạt một cách tài hoa bằng chính những hình ảnh, <br />
màu sắc đầy quyến rũ của mùa xuân, mà ít nhiều ta đã gặp ở phần đầu bài thơ:<br />
Con gió xinh thì thào trong lá biếc<br />
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi<br />
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi<br />
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?<br />
Cách cảm nhận về thời gian như vậy xét đến cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị <br />
của sự sống cá thể; Mỗi khoảnh khắc trong đời sống cá thể đều vô cùng quý giá. Phải <br />
chăng vì ý thức rất rõ không có gì ngăn cản được bước đi của mùa xuân của đời người, <br />
nên trong tâm tưởng thi sĩ: Cảnh xuân càng trở nên lộng lẫy cuộc đời càng đáng sống <br />
đáng yêu bội phần?<br />
Điều này giải thích thái độ ngông cuồng của tác giả muốn đoạt quyền của tạo hóa để tắt <br />
nắng, buộc gió ở đầu bài thơ.<br />
Và đương nhiên, khát vọng này không bao giờ có thể thành hiện thực. Nhà thơ ham sống <br />
cũng phải tuân theo quy luật khắc nghiệt của đất trời. Do đó, chỉ còn một cách duy nhất là <br />
phải sống vội vàng sống cuống quýt, tận dụng cao độ từng giây, từng phút của tuổi thanh <br />
xuân. Ý tưởng táo bạo này được diễn tả một cách thật mới mẻ qua đoạn thơ cuối bài:<br />
Ta muốn ôm<br />
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn<br />
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn<br />
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu<br />
...<br />
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!<br />
Có thể thấy cảm xúc tràn trề ào ạt đã khiến Xuân Diệu tìm đến một phép sử dụng ngôn <br />
từ khá đặc biệt. Đó là tạo ra những làn sóng ngôn từ đan xen nhau, cộng hưởng nhau theo <br />
chiều tăng tiến, càng lúc càng dâng lên cao trào. Trong đó việc phối hợp các hệ thống <br />
trùng điệp, lối vắt câu đã tạo nên giá trị thẩm mĩ độc đáo cho bài thơ.<br />
Toàn bộ phần thơ cuối này được tổ chức thành tiếng lòng của nỗi khao khát mãnh liệt. <br />
Tiếng lòng ấy là một chuồi điệp cú, hình thái thì điệp nguyên vẹn, còn động thái và cảm <br />
xúc thì điệp lối tăng tiếng: Ta muốn ôm, Ta muốn riết, Ta muốn say, Ta muốn thâu và <br />
cuối cùng Ta muốn cắn, vì vậy tính cao trào thể hiện khá rõ.<br />
Bên cạnh đó, sự hỗ trợ của hệ thống điệp từ khác: liên từ — và non nước, và cây, và cỏ <br />
rạng; giới từ điệp nguyên vẹn, gắn với những trạng thái càng lúc càng mãnh liệt: cho <br />
chếnh choáng, cho đã đầy, cho no nê…<br />
Ngoài ra, phải để đến hệ thống những tính từ chỉ xuân sắc, động từ chỉ động thái đắm <br />
say, những danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tân tươi trẻ tạo ra những hình ảnh từ, quyến rũ: bắt <br />
đầu mơn mởn, mây đưa gió lượn, cái hôn nhiều, cỏ rạng, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, <br />
thời tươi, xuân hồng...<br />
Tất cả những phương tiện ngôn ngữ và phương diện ngôn từ ấy được dùng thuần thục <br />
tinh vi, chuyển tải được nhuần nhuyễn những tình ý mãnh liệt và táo bạo của cái tôi thi sĩ, <br />
chứng tỏ một Xuân Diệu ngay từ khi còn trẻ đã là một bậc thầy về tiếng Việt.<br />
Vội vàng đúng là bài thơ tiêu biểu của một thi sĩ lớn luôn khao khát được giao cảm với <br />
đời. Tuy có thể còn những cách cảm nhận tác phẩm khác nhau nhưng nhìn chung, bài thơ <br />
đã giúp phần đông người đọc thêm yêu cuộc sống, biết tận hưởng niềm hạnh phúc trần <br />
thế và thêm quý trọng tuổi thanh xuân một đi không trở lại. Có lẽ chính điều này đã tạo <br />
nên tính hấp dẫn của bài thơ.<br />