intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tác động ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế - xã hội đối với tình hình tội phạm xuyên quốc gia ở vùng Tây Bắc

Chia sẻ: Trương Tiên | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:17

110
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết nghiên cứu những tác động, ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế - xã hội đến việc phát sinh và phát triển của các loại tội phạm xuyên quốc gia ở vùng Tây Bắc góp phần nhận diện, làm rõ những đặc điểm, yêu cầu, thuận lợi và thách thức trong công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trên địa bàn chiến lược Tây Bắc nói riêng và cả nước nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tác động ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế - xã hội đối với tình hình tội phạm xuyên quốc gia ở vùng Tây Bắc

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33<br /> ̣ , Sô ́1 (2017) 50­65<br /> <br /> <br /> <br /> TRAO ĐỔI             <br /> Tác động ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế­xã hội<br /> đối với tình hình tội phạm xuyên quốc gia ở vùng Tây Bắc<br /> <br /> Đỗ Đức Minh*<br /> Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam<br /> <br /> Nhận ngày 05 tháng 01 năm 2017<br /> Chỉnh sửa ngày 24 tháng 02  năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 22 tháng 3 năm 2017<br /> <br /> <br /> <br /> Tóm tắt: Vùng Tây Bắc có vị thế địa chính trị vô cùng quan trọng, liên quan mật thiết đến sự  <br /> tồn vong và hưng thịnh của đất nước. Nghiên cứu những tác động,  ảnh hưởng của các yếu tố <br /> kinh tế ­ xã hội đến việc phát sinh và phát triển của các loại tội phạm xuyên quốc gia ở vùng <br /> Tây Bắc góp phần nhận diện, làm rõ những đặc điểm, yêu cầu, thuận lợi và thách thức trong  <br /> công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trên địa bàn chiến lược Tây Bắc nói riêng và  <br /> cả nước nói chung.<br /> Từ khóa: Tây Bắc, ma túy, tội phạm xuyên quốc gia. <br /> <br /> <br /> 1. Một số  vấn đề  về  điều kiện tự  nhiên,  cắt phức tạp. Từ  Đông sang Tây được đánh <br /> kinh tế ­ xã hội vùng Tây Bắc dấu bởi dãy núi cao  và đồ  sộ  nhất là  Hoàng <br /> Liên Sơn (dài 180km, rộng 30km) với nhiều <br /> 1.1. Điều kiện tự nhiên đỉnh núi cao mây mù từ 2800­3000m. Phía tây <br /> là dãy núi sông Mã dài 500 km và có những <br /> (1). Vùng Tây Bắc có kiến tạo địa chất đa  đỉnh cao trên 1800m. Giữa hai dãy núi đồ  sộ <br /> dạng phức tạp và có địa hình cao nhất, bị chia  này là vùng đồi núi thấp tương đối rộng lớn <br /> cắt   nhất,  hiểm   trở   và   trọng   yếu  nhất   Việt  thuộc   lưu   vực sông   Đà (còn   gọi   là địa <br /> Nam.  Là  miền đất của những núi cao và cao  máng sông Đà) với nhiều cao nguyên đá vôi có <br /> nguyên (đá vôi xen lẫn núi đất), nơi đây đặc  độ   cao   trung   bình  chạy   suốt   từ Phong <br /> trưng   có   nhiều   dãy   núi   cao   trải   dài   hình  rẻ  Thổ đến Thanh Hóa  và có thể  chia nhỏ  thành <br /> quạt hướng tây bắc­đông nam (khu vực Lào  các cao nguyên như  Tà Phình, Mộc Châu, Nà <br /> Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình)   Sản. Xen giữa các dãy núi Hoàng Liên và dải <br /> hoặc   có   những   dãy   núi   cao   chạy   theo   hình  cao nguyên phía Tây là một số đồng bằng nhỏ <br /> cánh cung (khu Việt Bắc). Nhiều   khối liền   và thung lũng  (vùng bồn địa,  lòng chảo) như  <br /> mạch     núi   sông   và   dãy   núi   cao   kéo     dài   từ  Điện   Biên, Nghĩa   Lộ, Mường   Thanh  (thung <br /> Vân Nam   (Trung   Quốc)   và   thoải   dần   song  lũng  lớn  nhất   nhưng  chiếm   phần  nhỏ   trong <br /> song với thung lũng sông Hồng. Các dạng địa  toàn   bộ   diện   tích   vùng).   Địa   hình   Tây   Bắc <br /> hình phổ  biến  ở  đây là các dãy núi cao, thung   được đặc trưng bởi tính phức tạp và chia cắt  <br /> lũng sâu hay hẻm vực  làm cho địa hình chia  mạnh đã tạo nên những vùng cảnh quan khá <br /> đa   dạng:   Vùng   cao   núi   đồi   cao   và   dốc   lớn, <br /> <br />  ĐT.: 84­983682040 nhiều ngọn núi  cheo leo hiểm trở  xen kẽ  các <br />   Email: minhdd@vnu.edu.vn<br /> 50<br /> 51 Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣  33, Sô ́1 (2017) 50­65<br /> <br /> <br /> thung lũng sâu và hẹp tạo thành một phức hợp  các   thung   lũng   có   địa   hình   tương   đối   bằng <br /> của những bồn địa lớn, nhỏ nằm xen kẹp giữa   phẳng   (Mường   So, Tam   Đường, Bình <br /> các dãy núi cao bao bọc xung quanh; xen kẽ là  Lư, Than Uyên), Pu Sam Cáp [1, tr.76].<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Tên hình:???<br /> <br /> (2). Tây Bắc cũng là địa bàn có diện tích  trung chuyển của tất cả các con sông có dòng <br /> rừng tự  nhiên khá lớn  với hệ  thống các rừng  chảy lưu lượng lớn  ở  phía Bắc bắt nguồn từ <br /> rậm,  rừng nguyên sinh, rừng phòng hộ, rừng  các đỉnh núi cao  ở  khu vực Trung Quốc chảy  <br /> đặc   dụng   phục   sở   hữu   nguồn   tài   nguyên  về  Việt Nam cùng với hàng nghìn sông, suối  <br /> phong phú,  có giá trị  đối với sự  nghiệp xây  lớn   nhỏ   ghềnh   thác   dày   đặc   nên   tiềm   năng <br /> dựng, phát triển của đất nước và bảo vệ  bền  điện rất lớn. Tài nguyên nước dồi dào, không <br /> vững môi trường sinh thái. Đây là một vùng  chỉ đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh tế và dân <br /> sinh thái đặc biệt, tính đa dạng sinh học cao và  sinh của  toàn vùng mà còn chi phối sự  phát <br /> có tính đặc hữu; hệ  thống vật rừng điển hình  triển tự  nhiên của các vùng đồng bằng Bắc <br /> và phong phú về  loài,  nhiều  loại cây gỗ,  cây  Bộ   và   Trung   Bộ   [2].   Tài   nguyên   đất   đai,  <br /> dược liệu  quý hiếm  có giá trị  kinh tế, giá trị  khoáng sản giàu và phong phú: đất đai tương <br /> khoa học cao. Tài nguyên rừng của Tây Bắc  đối   rộng,   thổ   nhưỡng   đa   dạng,   chứa   đựng <br /> không   chỉ   cung   cấp   nguyên   liệu   giấy,   chất  một số  loại khoáng sản quan trọng như  sắt <br /> đốt, phát triển vùng dược liệu, phát triển công  (apatít), bôxít,  chì, kẽm, đa kim, đất hiếm, đá <br /> nghệ sinh học (bảo tồn nguồn gen )  mà còn có  quý, than đá...với trữ lượng khá lớn1. <br /> vai trò quan trọng với du lịch sinh thái và vùng <br /> nguyên   liệu   gỗ,   sản   phẩm   đặc   sản  của   cả <br /> vùng Bắc Bộ; vai trò quyết định đối với  bảo <br /> 1<br /> vệ  môi trường sinh thái đầu nguồn và  nguồn   Ngoài ra, dưới lòng đất khu vực này cũng có nhiều tài  <br /> nước của đồng bằng. Tây Bắc cũng là vùng  nguyên chưa được phát hiện, nhất là  ở  vùng sâu, vùng <br /> xa, vùng hiểm trở đi lại khó khăn.   <br /> Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣  33, Sô ́1 (2017) 50­65 52<br /> <br /> (3). Là địa bàn vùng núi cao, địa hình chia  144 huyện/thị, 2564 xã/phường với tổng diện <br /> cắt nhiều tầng trên một nền địa chất phức tạp  tích 107,761 km2 chiếm 32,16% diện tích phần <br /> và sự phân hoá khí hậu sâu sắc nên thiên nhiên  đất liền với dân số trên 15 triệu người chiếm <br /> Tây Bắc khá đa dạng với nhiều tiểu vùng với  17% dân số cả  nước (trong đó chủ yếu là dân <br /> các  đặc  trưng  về   địa  hình,   thổ   nhưỡng,   khí   số   ở   nông   thôn   chiếm   83,7%).  Đây  là   vùng <br /> hậu, thủy văn (Tây Bắc Bộ, Tây Thanh Hóa,  rộng lớn, đất rộng người thưa nhưng có vị trí <br /> Nghệ  An)... Khí hậu vùng Tây Bắc mang tính  địa ­ chính trị hết sức quan trọng, đóng vai trò <br /> lục địa rõ rệt và khá phức tạp, được chia làm  “phên dậu” đối với an ninh quốc gia. Trong  <br /> hai mùa theo độ   ẩm là:  Mùa khô  hạn kéo dài  lịch sử, Tây Bắc được xem là vùng đất có tầm <br /> cộng   với   lượng   gió   Tây   khô   nóng   gây   khó  chiến lược đặc biệt quan trọng “địa đầu” biên <br /> khăn   cho   cây   trồng   và   vật   nuôi.  Mùa   mưa  cương của Tổ  quốc, che chắn cho trấn như <br /> thường có gió lốc, mưa đá và lũ  ống, lũ quét   “giậu” như “phên” án ngữ cho châu làm “then”  <br /> vào đầu mùa gây ra sự tàn phá bất thường đối   làm “chốt” và nơi đây cũng được coi là vùng <br /> với đất đai, sản xuất và đời sống; từ  tháng  đất   “Tam   Mãnh”   qua   Lào   vào   Vân   Nam   và <br /> 12 đến tháng 1 thường xuyên có sương muối  Hưng Hóa [4]. <br /> và băng giá. Khu vực này cũng chịu tác động <br /> Hiện nay Tây Bắc có vị  trí địa lý đặc biệt <br /> của những biến cố khí hậu  ở  miền núi mang <br /> quan trọng về  chính trị, kinh tế, an ninh, quốc <br /> tính   chất   cực   đoan,   trong   năm   xuất   hiện <br /> phòng và trong quan hệ  giao lưu quốc tế; là <br /> những hiện tượng, như: lạnh có tuyết, sương <br /> địa bàn chiến lược, vùng biên cương trọng yếu <br /> mù vào mùa Đông (Sa Pa, Mẫu Sơn)  và hiện <br /> của  đất nước  với  gần 2600 km  đường biên <br /> tượng “phơn” mùa hạ  làm nhiệt độ có khi lên <br /> giới quốc gia tiếp giáp với Trung Quốc và Lào <br /> trên   40oC.   Biên   độ   nhiệt   độ   trong   ngày   khá <br /> với nhiều cửa khẩu  thông thương giữa Việt <br /> lớn, nhiều nơi khí hậu mang nhiều sắc thái ôn <br /> Nam với các nước trong khu vực và nhiều lối <br /> đới; bị  phân hóa mạnh theo không gian dưới <br /> mở  tiểu ngạch buôn bán giao thương nhỏ   trên <br /> tác động của các hệ  thống hoàn lưu gió mùa, <br /> tuyến đường mòn xuyên biên giới3. Khu vực <br /> nhiễu động nhiệt đới và sự  tương tác của địa <br /> hình. Sự  phân hóa đó được thể  hiện bởi sự <br /> Quan Sơn,  Bá Thước,  Như  Xuân, Lang Chánh,  Thạch <br /> khác   biệt   giữa   phía   tây   và   đông   dãy   Hoàng   Thành. Các huyện phía Tây Nghệ  An gồm:  Quỳ  Châu, <br /> Liên Sơn và Trường Sơn Bắc. Các hiện tượng  Nghĩa Đàn,  Thị  xã  Thái Hòa, Tương Dương, Tân Kỳ,  <br /> mưa   lớn   tập   trung   khi   kết   hợp   với   một   số  Thanh   Chương,   Quỳ   Hợp,   Kỳ   Sơn,   Con   Cuông,   Anh <br /> điều kiện thì xuất hiện lũ, lũ quét. Mùa khô  Sơn, Quế Phong.  <br /> thường xảy ra hạn hoặc hạn hán kéo dài ngoài  3<br />  Đường biên giới Việt­Trung dài 1375/1494km gồm 6/7 <br /> sức chịu đựng của cây cối [3].  tỉnh giáp biên của Việt Nam [Hà Giang (274 km), Lai  <br /> Châu (273 km), Lào Cai (203,5 km), Điện Biên (38,5km), <br /> 1.2. Tình hình kinh tế xã hội Lạng  Sơn  (253 km),   Cao Bằng  (333.403 km)] với  tỉnh <br /> Vân Nam,  Khu tự  trị  dân tộc Choang Quảng Tây của  <br /> (1).   Về   mặt   hành   chính,  vùng   Tây   Bắc  Trung   Quốc.   Đường  biên   giới   Việt­Lào   dài <br /> theo phạm vi chỉ   đạo của Ban Chỉ  đạo Tây  1221/2340km trải dài suốt 4/10 tỉnh của Việt Nam [Điện <br /> Bắc gồm vùng diện tích của 12 tỉnh miền núi  Biên  (360km),   Sơn  La  (250 km),   Thanh  Hóa  (192 km), <br /> và   trung   du   miền   núi,   gồm:  Hà   Giang,   Lào  Nghệ  An (419,5km), tiếp giáp với 5 tỉnh Phông Sa Lỳ, <br /> Cai, Yên Bái,  Lai  Châu,  Điện Biên, Sơn La,   Luông Pha Băng, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bô Ly Khăm <br /> Hòa   Bình,   Cao   Bằng,   Bắc   Kạn,   Lạng   Sơn,   Xay của Lào. Khu vực Tây Bắc có nhiều cửa ngõ thông  <br /> thương giữa Việt Nam với các nước trong khu vực như: <br /> Phú Thọ, Tuyên Quang  và 22 huyện/thị  phía <br /> 1/ Cửa khẩu quốc tế có, Đường bộ: Tà Lùng, Móng Cái, <br /> tây của hai tỉnh Thanh Hóa, Nghệ  An2  (gồm  Hữu Nghị,  Lào Cai,  Thanh Thủy,  Tây Trang,  Na Mèo, <br /> Nậm   Cắn.   Đường   sắt:  Đồng   Đăng,  Lào   Cai.   2/   Cửa <br /> 2<br />   Các huyện phía tây Thanh Hóa là:  Quan Hóa, Mường  khẩu quốc gia: Hoành Mô, Bình Nghi, Chi Ma, Lý Vạn, <br /> Lát, Thường Xuân, Như  Thanh, Ngọc Lặc, Cẩm Thủy,   Hạ  Lang,  Pò Peo,  Trà Lĩnh,  Sóc Giang,  Săm Pun,  Phó <br /> 53 Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣  33, Sô ́1 (2017) 50­65<br /> <br /> <br /> biên   giới   Việt­Trung   có   cấu   trúc   địa   hình  khác nhau, nhiều dân tộc còn chia thành đẳng <br /> tương đối phức tạp, độ chia cắt lớn, thấp dần  cấp...Mặc dù cũng  có điểm khác biệt  về  tín <br /> từ Tây sang Đông dẫn đến hệ thống sông suối   ngưỡng   và   tôn   giáo,   song   hầu   hết   các   tộc <br /> nơi đây phần lớn có xu hướng chảy từ  Tây  người thiểu số sống ở vùng Tây Bắc đều theo <br /> Bắc  xuống   Đông   Nam,   ít   có  giá   trị   đối   với  tín ngưỡng đa thần và quan niệm về  vũ trụ <br /> giao thông đường thủy. Tùy theo mùa và từng  xung   quanh   con   người   được   tạo   bởi   nhiều <br /> đoạn, mực nước biến đổi thất thường (có khi   tầng thế  giới; trong đó một bộ  phận (khoảng <br /> xuống thấp hoặc dâng cao), chảy mạnh gây  trên 100.000 người) theo các tôn giáo [7]. Các <br /> bồi lở  và đổi dòng dẫn đến biến đổi địa hình  thiết   chế   xã   hội   truyền   thống   của   các   tộc <br /> lòng sông và  ảnh hưởng đến việc lưu thông  người cư  trú rất phong phú và phụ  thuộc vào <br /> qua lại [5]. Phần lớn tuyến biên giới Việt­Lào  hoàn cảnh lịch sử  của họ, tạo nên những nét <br /> đều  đi  qua đỉnh  hoặc triền  núi  và  qua  rừng  riêng biệt của mỗi tộc người  ở  đây. Quan hệ <br /> rậm nhiệt đới với độ cao trung bình hoặc cao  dân tộc mang tính tộc người giữ  vai trò chủ <br /> (nơi thấp nhất khoảng 300m, cao nhất khoảng  đạo, thông qua quan hệ  hôn nhân nội tộc, họ <br /> 2700m; khu vực các cửa khẩu có độ cao trung  hàng thân thích, láng giềng đồng tộc để  thực <br /> bình khoảng 500m, có nơi trên 1000m so với  hiện các nghi lễ tộc người (ma chay, cưới xin,  <br /> mực nước biển). Dãy núi cao Pu Xam Sẩu từ  lễ  tết). Trong đó, xu hướng chủ  đạo là sự   cố <br /> A Pa Chải trải dài hình thành một đường biên  kết đồng tộc, hòa hợp dân tộc và đồng hóa tự <br /> giới tự nhiên giữa hai nước; một số đèo đã trở  nhiên. Quan hệ thân tộc gồm các mối quan hệ <br /> thành các cửa khẩu nối liền hai nước, còn trên  gia   đình,   quan   hệ   họ   hàng   được   xem   là   sự <br /> các đoạn biên giới khác, hầu hết là núi non  khởi nguồn cho các mối quan hệ khác trong xã <br /> hiểm trở, giao thông đi lại rất khó khăn [6]. hội và  được người dân Tây Bắc đặc biệt coi <br /> (2). Khu vực Tây Bắc còn là nơi tập trung  trọng.  Mặc   dù   đều  có   đặc   điểm   chung  của <br /> đông các tộc người các dân tộc: trên địa bàn  khu vực miền núi phía Bắc nhưng do những <br /> khu vực hiện có 31 dân tộc thiểu số cư trú đan  đặc thù về  môi trường cư  trú và lịch sử  tộc  <br /> xen với  nhau  và  đồng   bào   dân   tộc   thiểu   số  người nên mỗi vùng và mỗi tộc người đều có <br /> chiếm khoảng 70% số  dân của cả  vùng. Mật  những   đặc   điểm   kinh   tế­xã   hội   theo   vùng <br /> độ dân số thấp so với cả nước: bình quân 155   cảnh quan, hình thành nên những truyền thống <br /> người/km2 (mật độ dân số bình quân cả nước   và đặc thù văn hoá của các tộc người (n hiều <br /> là   274   người/km2);   riêng   các   tỉnh   có   chung  dân tộc còn lưu giữ  nguyên vẹn bản sắc văn <br /> đường biên giới với Trung Quốc thuộc nhóm  hóa truyền thống của mình). Ngoài ra, sự khác <br /> dưới   100   người/km2.  Do   tác   động   của  quá  biệt về  điều kiện sinh sống, phương thức lao  <br /> trình tộc người (di cư  từ  bên ngoài tới hoặc   động sản xuất cũng gây ra khác biệt văn hóa <br /> các cuộc xung đột tộc người liên quan đến nơi  lớn   mặc   dù   văn   hóa   chủ   thể   và   đặc   trưng <br /> cư  trú) cũng như  tập quán mưu sinh của các  chung. <br /> tộc người đã hình thành nên hiện tượng cư trú  Trên vùng Tây Bắc, đồng bào các dân tộc <br /> cài răng lược giữa đồng bào các dân tộc với   anh   em   cùng   sinh   sống   gắn   bó   lâu   đời,   có <br /> mức độ  phân bố  cư  dân không đều giữa các  truyền thống yêu nước, đoàn kết, kiên cường <br /> vùng cảnh quan, đặc biệt  ở vùng rẻo cao, rẻo  chống ngoại xâm; có ý thức trong lao động, <br /> giữa (phân bố  dân cư  theo độ  cao). Trong các  sản  xuất,   vươn   lên  thoát   khỏi   đói   nghèo  và <br /> dân tộc thiếu số, một số  dân tộc đã đạt đến  quyết tâm xây dựng,  bảo vệ  Tổ  quốc;  sáng <br /> một   giai   đoạn   phát   triển   cao   (Tày,   Nùng,  tạo và lưu giữ  nhiều giá trị  văn hóa. Văn hóa <br /> Dao..) với sự  xuất hiện các tầng lớp xã hội  các tộc người vùng Tây Bắc khá phong phú, <br /> đa   dạng  và   giàu  bản   sắc,   gắn   liền  với   quá <br /> Bảng,  Xín Mần,  Mường Khương,  Ma Lù Thàng,  Huổi <br /> trình tụ cư lâu đời của cư dân từ nhiều nguồn <br /> Pôc,  A   Pa   Chải,   U   Ma   Tu   Khoàng,  Chiềng   Khương­ <br /> và thời điểm khác nhau,  được  thể  hiện  trên <br /> Sông Mã, Nà Cài, Lóng Sập (Pa Háng).   <br /> Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣  33, Sô ́1 (2017) 50­65 54<br /> <br /> các   khía   cạnh   về   nhà   cửa,   trang   phục,   ẩm  biệt của  vùng biên giới Việt­Trung và Việt­<br /> thực, quan hệ gia đình và cộng đồng, các hình  Lào. Đây cũng là địa bàn cư  trú chủ  yếu của  <br /> thức tổ  chức xã hội,  phong tục tập quán, lễ  người dân tộc thiểu số  thuộc các nhóm ngôn <br /> hội, trang phục, nhạc cụ, các điệu dân ca, dân  ngữ   Tày­Thái,   Tạng­Miến,   H’Mông­Dao   và <br /> vũ...Mỗi   nhóm   dân  tộc   đều   có  nền  văn   hoá  Hán. Một trong những đặc điểm nổi bật của  <br /> riêng biệt,  giàu có và độc đáo và  hợp thành  dân cư vùng biên giới4 là sự cư trú xen kẽ  cài <br /> một  không gian văn hóa rộng lớn với  nguồn  răng lược của nhiều tộc người cùng cộng cư <br /> tài nguyên văn hóa nhân văn to lớn và phong  trong quá trình lịch sử lâu dài; có mối quan hệ <br /> phú, đặc biệt là kho tàng tri thức bản địa và  gần gũi về  thân tộc, kinh tế, văn hóa, ngôn <br /> tiềm năng văn hóa phi vật thể   đặc sắc của  ngữ, phong tục tập quán lâu đời. Các làng bản <br /> đồng bào các dân tộc.  cư  trú sát biên giới và tạo thành các quần thể <br /> Sản xuất nông nghiệp mang tính tự  cung  dân   cư   đông   đúc   (nhất   là   dọc   các   triền   núi  <br /> tự  cấp  và  tương  đối   khép  kín là  hoạt  động  hoặc các con sông lớn) có chung nguồn gốc,  <br /> kinh tế chủ yếu của hầu hết đồng bào các dân  tương đồng về ngôn ngữ, phong tục tập quán <br /> tộc   thiểu  số   ở   Tây   Bắc   với   nghề   trồng lúa  và đặc biệt là cư trú trong một khu vực địa lý  <br /> nương ( ? ? ? ? đao canh hỏa chủng) và ruộng  cận kề, người dân sống thưa thớt tại các làng <br /> nước (? ? ? ? đao canh thủy nậu), ngoài ra họ  bản rất xa nhau ở khu vực biên giới, đời sống <br /> còn trồng rau màu hoặc săn bắn, đánh cá, hái  vật chất và tinh thần còn nhiều thiếu thốn và <br /> lượm và sống bán du mục,  thực hiện nhiều  lạc  hậu.   Đặc  biệt,  nhiều dân tộc  sinh sống  <br /> hình thức chiếm đoạt các nguồn lợi tự  nhiên  trên đất nước ta có nguồn gốc từ Trung Quốc  <br /> sẵn có trong rừng quanh khu vực cư trú. Mặc  tới cư trú  ở Việt Nam vào những thời kỳ  lịch <br /> dù nông cụ sản xuất thô sơ nhưng họ  đã sớm  sử  khác nhau nên phần lớn các dân tộc thiểu <br /> canh   tác   lúa   trên   ruộng   ngập   nước   và   tiến  số  của cả  hai nước đều có những mối quan <br /> hành   tưới   tiêu,  một   số   dân   tộc   biết   các   kỹ  hệ   khá   sâu   sắc   về   lịch   sử,   văn   hóa   (kể   cả <br /> thuật   canh   tác   tiến   bộ   và   khá   thành   thục  nguồn gốc tộc người)5. Với nhiều tộc người, <br /> (Mường, Thái, Dao..).  Ngoài ra, họ  còn chăn  quan hệ  tộc người xuyên biên giới đã trở  nên <br /> nuôi gia súc, gia cầm hoặc thủy sản theo hộ  một hiện tượng dân tộc học lịch sử  rõ rệt và <br /> gia đình, làm một số  nghề  thủ  công gia đình  có sức sống lâu bền cho đến hôm nay. <br /> (như  dệt vải, đan lát, làm mộc, làm rèn, chế <br /> 4<br /> tác kim   loại   làm  trang  sức,  làm   giấy dó,  ép   <br /> Theo  Quy  chế   quản   lý   biên   giới  Việt  Nam­<br /> dầu); một bộ  phận đồng bào cư  trú suốt dọc  Trung Quốc, Việt Nam­Lào thì:  Vùng biên giới <br /> tuyến   biên   giới   buôn   bán   tiểu   ngạch.   Tập  là chỉ khu vực hành chính cấp huyện của hai Bên  <br /> (Việt Nam và Trung Quốc) tiếp giáp đường biên <br /> quán trồng trọt  ở  mỗi tộc người tại các vùng <br /> giới. Khu vực biên giới  là khu vực bao gồm các <br /> thung lũng, vùng rẻo giữa và vùng cao vẫn có <br /> xã   hoặc   đơn   vị   hành   chính   tương   đương   của  <br /> những nét riêng biệt bởi những cách làm ăn  Việt Nam  và  các  bản hoặc   đơn  vị  hành  chính <br /> này đã tồn tại qua hàng nghìn năm canh tác  tương đương của Lào tiếp giáp với đường biên <br /> của  họ.   Trao  đổi  hàng  hoá   là   nhu cầu thiết  giới quốc gia giữa hai nước. Cư dân biên giới là <br /> yếu đã có từ lâu đời của các dân tộc thiểu số:  chỉ  dân cư  thường trú của mỗi nước thuộc xã  <br /> họ  thường cùng nhau họp chợ  tại trung tâm  (trấn) tiếp giáp đường biên giới.<br /> 5<br /> xã, huyện hoặc ngay ven  đường cái. Do các   <br /> Có khoảng trên 20 dân tộc thuộc các nhóm ngôn <br /> tộc người đều cư  trú  ở  vùng sâu vùng xa nên  ngữ   Tày­Thái,   H’Mông­Dao,   Tạng­Miến   sinh <br /> họ   chỉ   họp  chợ   5  ngày  (hoặc  1  tuần)/1  lần  sống tại các tỉnh biên giới phía Bắc có quan hệ <br /> (chợ phiên), là một nét đặc trưng văn hóa vùng  lịch   sử   với   đồng   tộc   ở   bên   kia   đường   biên. <br /> cao[3]. Người H’Mông là một nhóm dân tộc có địa bàn <br /> cư  trú truyền thống là Trung Quốc và các nước <br /> Ngoài ra, Tây Bắc còn được đặc trưng bởi   lân   cận   thuộc   tiểu   vùng Đông   Nam <br /> một địa bàn dân cư và khu vực hành chính đặc  Á là Lào, Việt Nam, Thái Lan và Myanmar[7].<br /> 55 Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣  33, Sô ́1 (2017) 50­65<br /> <br /> <br /> Do đặc điểm văn hóa, điều kiện lịch sử,  kinh   tế;   Tây   Bắc   còn   được   thiên   nhiên   ban <br /> phần lớn các tộc người cư trú xen kẽ dọc các  tặng một vung  ̀ cảnh quan kỳ vĩ, hiểm trở  với <br /> tuyến biên giới Việt­Trung đều có mối quan  nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng và điểm <br /> hệ  thân tộc khá mật thiết, gần gũi và gắn bó  nhấn du lịch lý tưởng đối với du khách. Vị  trí <br /> với đồng tộc của họ   ở  bên kia biên giới6. Do  biên cương với nhiều của ngõ giao lưu quốc <br /> khoảng cách địa lý tại khu vực biên giới chỉ  tế là điều kiện và cơ hội lớn để Tây Bắc đẩy  <br /> cách nhau một cây cầu, một con suối hay lối  mạnh thương mại quốc tế, tiến tới xây dựng <br /> mòn nên họ  dễ  dàng qua lại thăm thân, cùng  khu vực này thành địa bàn trung chuyển chính <br /> tham dự các nghi lễ tộc người hoặc mua bán,  trên tuyến đường xuyên Á phía Bắc, nối liền <br /> trao đổi hàng hóa với nhau từ đó mạng lưới xã  vùng   Tây   Bắc   Việt   Nam   với   khu   vực   Bắc  <br /> hội luôn được mở  rộng [8, 98­99]. Trong đó,  Lào­Tây   Nam   Trung   Quốc,   Đông <br /> những   hoạt   động   thăm   thân   diễn   ra   thường  Bắc Myanma và trực tiếp giao lưu với các <br /> xuyên và là tập quán quen thuộc của đồng bào  lục địa rộng lớn phía tây nam Trung Quốc.  Là <br /> các dân tộc vùng biên (phổ  biến nhất là đi dự  vùng đất địa đầu có vị trí chiến lược về quốc  <br /> các đám cưới, đám tang, các nghi lễ cúng của   phòng, an ninh chính trị và trật tự, tôn giáo tín  <br /> gia đình và dòng họ). Văn hóa vùng biên gần  ngưỡng và bảo vệ  chủ  quyền biên giới quốc <br /> như  đã vượt qua giới hạn của nhà nước, của  gia với tiềm năng,  ưu thế  to lớn đê phat triên<br /> ̉ ́ ̉  <br /> biên giới về lãnh thổ, địa lý, không chỉ kết nối   triển kinh tế ­ xã hội cũng như phát triển mọi <br /> con người và các thiết chế  trong nội bộ  một   nganh nghê, linh v<br /> ̀ ̀ ̃ ực7  và  sở  hữu nguồn tiềm <br /> đất nước mà còn gắn kết với những đất nước  năng có sức hấp dẫn, thu hút rất lớn đối với <br /> khác. Vì vậy, hiện tượng hôn nhân xuyên biên  du lịch, Tây Bắc đang là điểm đến làm ăn của <br /> giới (HNXBG) xảy ra khá phổ biến ở khu vực  nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. <br /> biên  giới   Tây   Bắc,   nhất   là   ở   các   vùng  biên <br /> Bên cạnh những thuận lợi như  trên, điều <br /> giới có dân số đông, cư trú liền sát với đường <br /> kiện tự nhiên của Tây Bắc cũng có nhiều khó <br /> biên giới [9, tr.49]. <br /> khăn, cản trở và tác động bất lợi đến đời sống <br />   (3) Tóm lại: Tây Băc n ́ ổi tiếng với đặc  kinh tế  ­ xã hội của người dân. Do địa hình  <br /> trưng về  địa hình, khí hậu, địa chất, hệ  sinh  phức  tạp, bị  chia cắt sâu và mạnh nên hình <br /> thái, tai nguyên thiên nhiên đa d<br /> ̀ ạng và phong  thành nhiều tiểu vùng khí hậu ­ sinh thái đặc <br /> ́ ềm năng đất đai, rừng, nguồn nước, hệ <br /> phu; ti thù thích hợp với nhiều loại cây trồng và cho <br /> sinh thái của Tây Bắc được xếp vào tốp đứng  phép  phát   triển  một   nền  sản xuất   nông­lâm <br /> đầu trong 8 vùng kinh tế của cả nước). Đây là  nghiệp phong phú, phù hợp với cây trồng và <br /> vùng có đặc trưng sắc thái văn hóa của các tộc  vật  nuôi  vùng  nhiệt  đới  và  ôn đới,  các  loại <br /> người riêng biệt và đặc hữu, sở hữu nguồn tài  rau,   củ,   quả   vùng   cao.   Tuy   nhiên,   do   ảnh <br /> nguyên văn hóa to lớn, quý báu  và kinh tế  xã  hưởng của điều kiện địa lý tự nhiên (địa hình <br /> hội rất đặc thù đồng thời là vùng đất lịch sử  sự  đa  dạng,  đất đai chủ  yếu là  đồi  núi cao <br /> thiêng  liêng,  giàu  truyền thống  yêu  nước  và  dốc, diện tích canh tác nhỏ hẹp và chiếm tỷ lệ <br /> giá trị  văn hóa ­ lịch sử. Không chỉ  là nơi có  rất thấp, khí hậu vùng núi cao thay đổi thường  <br /> tiềm năng lớn phát triển ngành công nghiệp  xuyên và chịu tác động trực tiếp của gió mùa,  <br /> khai   thác   và   chế   biến   khoáng   sản,   kinh   tế <br /> nông ­  lâm  ­  ngư,  dịch vụ   ­  thương  mại  và  7 <br /> Tiềm năng, lợi thế  của Tây Bắc gồm các thế  mạnh  <br /> 6<br />   Các quan hệ  thân tộc  ở  đây chủ  yếu là quan hệ  gia   trong sản xuất nông, lâm nghiệp; định hướng phát triển <br /> đình, dòng họ theo quan hệ phụ hệ tính theo dòng cha ở  các loại hình dịch vụ, đầu tư  chiều sâu để  khai thác và <br /> nhiều dân tộc thiểu số  thuộc các nhóm ngôn ngữ  Tày­ chế  biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, phát  <br /> Thái, H’Mông­Dao và Tạng Miến.  Ở các tộc người này,  triển thủy lợi vừa và nhỏ  gắn với thủy điện theo quy  <br /> các mối quan hệ trong quan hệ gia đình, dòng họ còn khá  hoạch,  các  ngành công  nghiệp  chế   biến  và  bảo  quản <br /> chặt chẽ.    nông lâm sản, kinh tế cửa khẩu.<br /> Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣  33, Sô ́1 (2017) 50­65 56<br /> <br /> bão, lũ...) nên sản xuất khu vực này kém phát  Kinh tế  nông ­ lâm và thủy sản phát triển  ổn <br /> triển, ảnh hưởng không nhỏ  đến sinh kế  của   định, trở thành điểm nhấn trong bức tranh kinh <br /> người   dân   và   phát   triển   kinh   tế   của  tế của Tây Bắc. Nhờ đó, đã ổn định đời sống, <br /> vùng...Đặc điểm địa hình nơi đây cũng tạo ra   an ninh trật tự của vùng với 83% cư dân nông <br /> sự  manh mún đất trong sản xuất nông nghiệp  thôn, hơn 80% lao động trong lĩnh vực nông ­ <br /> và nảy sinh một số  hiện tượng tai biến như:   lâm ­ ngư nghiệp. Cùng với việc khai thác tối  <br /> động đất, nứt đất, rửa trôi, xói mòn sạt lở đất   đa   tiềm   năng   đất   trồng  cây  lương   thực   kết <br /> và lũ quét trong mùa mưa, có  ảnh hưởng lớn  hợp với việc sử  dụng giống mới, đẩy mạnh <br /> đến việc giao lưu phát triển kinh tế  ­ xã hội  thâm canh, tăng năng suất, nên an ninh lương <br /> và đầu tư  phát triển hệ  thống hạ  tầng giao   thực   trong   toàn   vùng   cơ   bản   đã   được   đảm <br /> thông. Với điều kiện khí hậu cộng với điều  bảo. Các vùng chuyên canh tập trung gắn với  <br /> kiện địa hình như  trên, Tây Bắc được xem là  chế  biến và tiêu thụ  sản phẩm tiếp tục phát <br /> vùng có điều kiện cực khó khăn về giao thông,  triển và mang lại hiệu quả  khá cao. Nông ­ <br /> canh tác nông nghiệp (chăn nuôi và trồng trọt   lâm ­ ngư  nghiệp của vùng đã bắt đầu phát <br /> một số  loại cây lương thực quan trọng), lâm   triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Mặc dù <br /> nghiệm vào loại nhất cả nước (an ninh lương  thu   hút   đầu   tư   nước   ngoài   còn   khiêm   tốn, <br /> thực luôn trong tình trạng báo động). Sự phân  nhưng đã từng bước hình thành nên các khu <br /> bố   dân  cư   thưa  cũng  làm   cho  hiệu  quả   các  công nghiệp ở các địa phương trong vùng, sản <br /> chính sách xóa đói giảm nghèo, chương trình  xuất công nghiệp từ  các địa phương đang có <br /> 30a và các chương trình mục tiêu quốc gia nói  lợi thế  và đi vào chính quy tập trung. Công  <br /> chung. Sự chia cắt của địa hình không chỉ làm  nghiệp   khai   khoáng   và   chế   biến   cũng   phát <br /> cho khu vực này thiếu đất và không gian để  triển khá mạnh; công nghiệp chế  biến nông, <br /> canh tác mà còn biến nơi đây thành các tiểu  lâm, thủy sản gắn với phát triển vùng nguyên <br /> vùng tương đối độc lập nhau, do đó giao lưu   liệu phát triển nhanh, đang tạo vị thế mới cho <br /> kinh tế, văn hóa liên tiểu vùng và xuyên vùng  đầu   tư,   kinh   doanh   nông,   lâm   nghiệp.   Lĩnh <br /> không phát triển dẫn đến hoạt động kinh tế,  vực   thương   mại,   dịch   vụ   của   khu   vực   Tây <br /> văn hóa xã hội của toàn vùng được xếp vào  Bắc đã có những nét chấm phá, những khởi <br /> loại   thấp   nhất   cả   nước.   Đồng   thời,   những  sắc   gắn   với   kinh  tế   biên   mậu,   kinh   tế   cửa <br /> khó   khăn   về   phong   tục,   cách   thức   làm   ăn  khẩu   phát   triển   rất   nhanh   (nhất   là   các   cửa <br /> truyền thống, ngôn ngữ, tập quán văn hoá đa  khẩu của Lạng Sơn, Lào Cai);  du lịch đã có <br /> dạng...cũng là rào cản không nhỏ  với sự  phát   những   bước   đột   phá.  Tăng   trưởng   kinh   tế <br /> triển của Tây Bắc.  Là khu vực miền núi có  hàng năm toàn vùng luôn ở mức 10% trở lên.<br /> những đặc trưng riêng không thấy  ở  nơi nào  Kết cấu hạ  tầng kinh tế­xã hội của vùng <br /> khác trên đất nước nhưng Tây Bắc cũng là địa  được   đặc   biệt   quan   tâm   đầu   tư   xây   dựng, <br /> bàn   nghèo,   xa   xôi,   địa   hình  hiểm   trở,   nhiều  trong   đó   tập   trung   cao   cho   các   dự   án   giao <br /> điểm đến khó tiếp cận, một số  địa phương  thông, thủy lợi, thủy điện trọng điểm.  Nhiều <br /> còn gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển   tuyến đường huyết mạch và nhiều công trình <br /> kinh tế­xã hội [2].   trọng   điểm   và   đang   đầu   tư   hoàn   thiện.  Hạ <br /> tầng nông thôn đã có bước phát triển, nhất là <br /> 1.3.   Tây   Bắc   trong   tiến   trình   đổi   mới   đất  <br /> về   giao   thông,   điện,   nước   sạch,   xóa   nhà <br /> nước<br /> tạm...Phong trào  kiên  cố  hoá  đường  liên  xã, <br /> (1). Những thành tựu chủ yếu liên   thôn,   đã   làm   cho   mạng   lưới   giao  thông <br /> được cải thiện rõ rệt (gần 3.700km quốc lộ, <br /> Thực  hiện  đường  lối  đổi  mới  toàn  diện <br /> đường   liên   huyện,   đường   đến   trung   tâm   xã <br /> đất nước, trong những năm qua, các tỉnh vùng <br /> được  mở  rộng, nâng cấp).  Nhiều công trình <br /> Tây Bắc đã có bước chuyển biến về mọi mặt.  <br /> kết cấu hạ  tầng và phúc lợi công cộng, giúp <br /> 57 Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣  33, Sô ́1 (2017) 50­65<br /> <br /> <br /> hộ  nông dân tiếp cận với các dịch vụ  xã hội  phat huy. <br /> ́ Mặc dù có xuất phát điểm thấp, khó <br /> cần thiết   nhất  là  các vùng  nghèo,   vùng sâu,  khăn   hơn   nhiều   vùng   trong   cả   nước   nhưng <br /> vùng   biên   giới   được   xây   dựng   hoàn   thiện.  vùng Tây Bắc đã có những chuyển biến quan  <br /> Phong trào xây dựng nông thôn mới được đẩy  trọng, bức tranh kinh tế  ­ xã hội  của  các tỉnh <br /> mạnh   và   rộng   khắp   trong   nhân   dân,   kể   cả  trong vùng đã có những khởi sắc và thành tựu <br /> đồng  bào dân  tộc  ở   vùng sâu,   vùng xa.  Các  tích  cực   và  sinh  động.  Một   cuộc   sống  mới, <br /> chương trình xóa đói, giảm nghèo, phát triển  tiến bộ, phát triển đang dần hiện hữu  ở từng  <br /> nông   thôn   khác   cũng   được   triển   khai   mạnh  bản làng vùng cao nơi đây. <br /> mẽ;  diện mạo đô thị, nông thôn miền núi có <br /> nhiều khởi sắc. Công tác  chăm sóc sức khỏe  (2). Những tồn tại, hạn chế<br /> đối với các dân tộc ít người  ở  Tây Bắc đã có <br /> Sau 30 năm đổi mới, mặc dù đã có những  <br /> nhiều   bước   tiến   đáng   kể   về  mạng   bước tiến đáng kể  về  kinh tế­xã hội nhưng <br /> lưới y tế, sức khoẻ  sinh sản cho phụ  các   tỉnh   vùng   Tây   Bắc   vẫn   còn   nhiều   khó <br /> nữ, chăm sóc sức khoẻ  trẻ  em...  Việc  khăn, yếu kém, đang đối diện với nhiều thách <br /> phát triển giáo dục cho vùng đồng bào dân tộc   thức trong thực tiễn phát triển bền vững, như:  <br /> ít người đã đạt được nhiều thành tựu về  quy  kinh tế phát triển chậm, hiệu quả kinh tế còn <br /> mô,   mạng   lưới   trường   học  đã   phủ   kín   đến  thấp và thiếu ổn định; cơ cấu kinh tế chưa có <br /> thôn   bản.   Chất   lượng   giáo   dục   có   nhiều  bước   chuyển   dịch   mang   tính   đột   phá   quan <br /> chuyền biến tích cực, góp phần cải thiện đáng  trọng cho sự phát triển nhanh và bền vững của <br /> kể  trong việc nâng cao dân trí cho đồng bào  toàn  vùng.   Kinh  tế   khu  vực   phát   triển  chưa <br /> các dân tộc thiểu số. Quy mô nhân lực của  tương xứng với tiềm năng và thế  mạnh hiện <br /> vùng có xu hướng gia tăng cả  về số lượng và  có, tăng trưởng kinh tế  chưa bền vững, tính <br /> tỷ  trọng trong cơ  cấu lực lượng lao động cả  liên kết (trong và ngoài vùng) còn yếu, hiệu <br /> nước,   nguồn   nhân   lực   đã   qua   đào   tạo   cũng  quả  chưa cao, các tiềm năng và lợi thế  lớn <br /> tăng  dần. Bình  quân  trong  khu  vực  Tây   Bắc   chậm được khai thác[10]. Nhìn chung, trình độ <br /> các xã   đã  đạt   7,5%  tiêu  chí   nông thôn mới,   phát   triển   kinh   tế   Tây   Bắc   chưa   cao,  giao <br /> tăng 3,8 tiêu chí so với năm 2010. Số xã đạt 19   thông khó khăn, hạ  tầng còn nhiều hạn chế, <br /> tiêu chí là 27 xã, chiếm 1,2% tổng số xã trong   đời  sống nhân dân còn khó khăn,  mức sống  <br /> vùng,   trong   đó   có   13   xã   được   công   nhận.   của người dân  vẫn còn khoảng cách lớn với <br /> Trong số  các tỉnh vùng Tây Bắc, Phú Thọ  và   mức   trung   bình   cả   nước   (bằng   ½   thu   nhập <br /> Hòa Bình là hai tỉnh có mức đạt tiêu chí bình   trung bình của người dân cả  nước), tỷ  lệ  hộ <br /> quân cao nhất, lần lượt đạt 9,72 và 9,38 tiêu   nghèo còn cao (29,5%, cao gấp 2 lần bình quân <br /> chí.  Về  lĩnh vực xã hội, xóa đói giảm nghèo  cả nước theo tiêu chí mới). Vùng Tây Bắc đến <br /> các  tỉnh  vùng  Tây   Bắc   đã  đạt   được  tốc   độ   nay  vẫn  chưa   có   khả   năng  tự   cân  đối   ngân <br /> giảm nghèo tương đối cao. Đời sống vật chất,   sách, là vùng nghèo nhất và trình độ phát triển <br /> tinh thần của người dân trong vùng  Tây Bắc   kém nhất cả  nước (vùng Tây Bắc đang thuộc <br /> đã được cải thiện hơn: thu nhập bình quân   lõi nghèo của cả  nước). Kinh tế   ở  miền núi, <br /> đầu người của cả vùng đã tăng 35%, tỷ lệ hộ   các dân tộc thiểu số còn chậm phát triển, tình <br /> nghèo   giảm   8%   so   với   trước [2].  Thực   hiện  trạng du canh, du cư, di dân tự do vẫn còn diễn  <br /> chủ   trương   phát   triển   mọi   mặt   đời   sống  biến phức tạp. Các chương trình, dự  án giảm <br /> người dân, xây dựng nếp sống văn hóa mới,  nghèo   triển   khai   thực   hiện   chưa   đồng   bộ, <br /> với sự vào cuộc của các cấp/ngành, nhiều hủ  thiếu vốn đầu tư, chính sách còn chồng chéo, <br /> tục lạc hậu đã từng bước bị  đẩy lùi ra khỏi  bất cập,  người nghèo còn tập trung chủ  yếu <br /> đời sống của đồng bào các dân tộc trên địa bàn   tại địa bàn vùng cao, vùng đồng bào dân tộc <br /> miền núi; nhiêu net đep văn hoa mang ban săc<br /> ̀ ́ ̣ ́ ̉ ́  thiểu số. Kết cấu hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa, <br /> ̉ vung <br /> cua  ̀ nuí   Tây  Băc  ́ vân ̃   được   tiêp<br /> ́   nôí   và  vùng căn cứ cách mạng vẫn còn khó khăn, nhiều <br /> Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣  33, Sô ́1 (2017) 50­65 58<br /> <br /> nơi môi trường sinh thái tiếp tục bị  suy thoái.   có những yếu tố phức tạp mới nảy sinh.  Một <br /> Vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới có  số  bản sắc tốt đẹp trong văn hóa của các dân <br /> địa hình rừng núi hiểm trở, kinh tế  chậm phát   tộc thiểu số đang bị mai một, một số tập quán <br /> triển,  khoảng cách chênh lệch về  mức sống,   lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng phát triển  <br /> về trình độ phát triển kinh tế ­ xã hội giữa các  và cuộc  đấu tranh xóa bỏ  tập quán lạc hậu, <br /> dân tộc và các vùng ngày càng gia tăng. Chất  xây dựng văn hóa mới vẫn đang tiếp tục. Vấn <br /> lượng, hiệu quả  giáo dục đào tạo còn thấp,  đề   quản lý  các  mối  quan  hệ  dân tộc  xuyên <br /> tình hình y tế, chăm sóc sức khỏe cho đồng  biên giới Việt­Trung, trong đó có mối quan hệ <br /> bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn,  thân tộc cũng đang đặt ra nhiều vấn đề  nóng, <br /> thiếu   thốn   (tập   trung   vào   một   số   lĩnh   vực,  liên quan chặt chẽ  đến sự   ổn định phát triển <br /> như: cơ sở hạ tầng còn yếu, nguồn nhân lực y  xã hội và an ninh biên giới; nhất là việc giải <br /> bác sĩ còn thiếu).  “Ở  bậc học phổ  thông, số  quyết vấn đề  người di cư  tự  do và kết hôn  <br /> lượng học sinh theo học của vùng Tây Bắc có  không giá thú trong vùng.  Do  ảnh hưởng của <br /> gia tăng qua các năm, song hầu hết tập trung  tập   quán   nên   tình   hình   di   cư   tự   do   của <br /> tại bậc tiểu học, số  học sinh theo học trung   người H’Mông vẫn còn dai dẳng, việc di dân <br /> học cơ sở và trung học phổ thông ít. Học sinh  theo   mùa   vụ   sang   Quảng   Tây   để   tìm   kiếm <br /> tiểu học chiếm hơn 50% trong số  lượng học   việc làm và thu nhập của  người  Tày, Nùng; <br /> sinh của vùng. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ  quan hệ của người Hà nhì ở Bát Xát (Lào Cai) <br /> thông của các tỉnh Tây Bắc thuộc nhóm thấp   với đồng tộc bên kia biên giới...nên  số  lượt <br /> nhất trong cả  nước và có xu hướng giảm.  Ở  người  qua lại  đường biên giới với tần suất <br /> các cấp học cao hơn như  đại học, cao đẳng,   ngày càng gia tăng. Bên cạnh những yếu tố <br /> trung   cấp   và   dạy   nghề,   số   lượng   sinh   viên  tích cực như tương trợ giúp nhau tìm việc làm,  <br /> theo học tại vùng Tây Bắc là rất ít và hầu hết  thắt chặt mối quan hệ  gia đình, họ  hàng thì <br /> theo học tại các trường công lập. Đây là thực  các   mối   quan   hệ   thân   tộc   cũng   tạo   ra   một <br /> trạng chung của các vùng khó khăn và có sự  mạng lưới ngầm của các tội phạm phi truyền <br /> cách trở  về  địa lý như  Tây Bắc .  Nguồn nhân  thống vùng biên giới (như  mua bán, bắt cóc <br /> lực   mỏng   và   ít   được   đào   tạo,   còn   những  phụ  nữ, trẻ  em, lao động vượt biên trái phép, <br /> khoảng cách lớn so với các vùng khác trong cả  buôn bán hàng cấm…). Nhiều vấn đề  xã hội <br /> nước (nhiều tỉnh Tây Bắc xếp vị trí cuối cùng  cũng   đang   nảy   sinh   bởi   các   cuộc   kết   hôn <br /> trong chỉ  tiêu về  chất lượng lao động so với  xuyên biên giới như  việc quản lý hôn nhân, <br /> các tỉnh khác trong cả  nước)[11]8. Đây là một  vấn   đề   hỗ   trợ   pháp   lý;   vấn   đề   tội   phạm  <br /> thách thức lớn đối với các tỉnh vùng Tây Bắc  cưỡng   ép,   lừa   bán   người   có   mục   đích   hôn <br /> trong vấn đề  đào tạo nghề  và nâng cao chất   nhân xuyên biên giới. Hiện tượng phụ nữ Việt <br /> lượng   lao   động   trong   tương   lai”.  Hệ   thống  Nam kết hôn với đàn ông Trung Quốc hay các <br /> chính trị cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số  trường hợp kết hôn qua lại  ở  các vùng biên <br /> và miền núi còn yếu, trình độ và năng lực của  giới Việt­ Trung, Việt­Lào khá phổ  biến. Tuy <br /> một bộ  phận cán bộ  cơ  sở  còn hạn chế, yếu   nhiên, hầu hết các cuộc hôn nhân “xuyên biên <br /> kém. Hoạt động của cấp ủy, chính quyền, mặt  giới”   không   đăng   ký   với   chính   quyền   địa <br /> trận và đoàn thể ở nhiều nơi chưa sát dân, chưa  phương, nhất là  ở  vùng biên giới đã dẫn đến <br /> tập hợp được đồng bào. Tình hình kinh tế ­ xã  những khó khăn, khó kiểm soát về quản lý xã <br /> hội, an ninh trật tự của khu vực Tây Bắc cũng  hội và tạo ra những bất  ổn định về  an ninh  <br /> trật tự  và phát triển xã hội vùng biên giới[9, <br /> 8 <br /> Sơ  bộ  đến năm 2014, toàn vùng có 9.894.900 người  tr.55­56].   Ngoài   ra,   tình   trạng  vượt   biên  trái <br /> trong độ  tuổi lao động từ 15 tuổi trở lên, trong số  đó có  phép tìm việc làm, đi lại thăm thân không thực  <br /> 2.374,550 người đã qua đào tạo, chiếm 24% tổng số lao  hiện các quy định an ninh biên giới, buôn bán,  <br /> động, như  vậy còn 76% lực lượng lao động chưa qua  bắt cóc phụ nữ trẻ em, buôn bán ma túy, buôn <br /> đào tạo [13, tr.23].<br /> 59 Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp̣  33, Sô ́1 (2017) 50­65<br /> <br /> <br /> hàng trốn thuế dựa vào các mối quan hệ đồng  bào dân tộc thiểu số  (H’Mông, Dao, Hà nhì...) <br /> tộc, thân tộc, gia đình có người thân kết hôn ở  ở vùng cao hoặc các bản sát biên giới vẫn  lén <br /> bên   kia   biên   giới   đang   là   những   vấn   đề  lút  tái trồng và ngày càng mở  rộng diện tích <br /> nghiêm   trọng   làm   ảnh   hưởng   đến   an   ninh  cây thuốc phiện  ở các đám nương, rẫy. Chính <br /> vùng   biên   giới,   đặc   biệt   là   vùng   biên   giới  quyền các tỉnh miền núi,  các xã biên giới  đã <br /> Việt­Trung.  tăng cường vận động, đã bỏ không ít công sức <br /> Đặc biệt, một trong những tệ  nạn xã hội   và tiền của cho các đợt ra quân tuyên truyền <br /> điển hình của Tây Bắc là vấn đề  trồng cây  bà   con  các   dân tộc   không trồng cây anh  túc <br /> thuốc phiện, vấn đề  nghiện hút của đồng bào  (thuốc phi
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2