TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CẢI CÁCH DÂN CHỦ 1945-1951 ĐỐI VỚI<br />
TÌNH HÌNH KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN SAU ĐÓ<br />
HOÀNG THỊ MINH HOA<br />
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế<br />
Tóm tắt: Bài viết nêu rõ sau chiến tranh thế giới (CTTG) thứ II, Nhật Bản là<br />
một nước bại trận và bị Đồng minh chiếm đóng, buộc phải cải cách toàn diện<br />
về mọi mặt nhằm thúc đẩy dân chủ, hòa bình và diệt trừ tận gốc chủ nghĩa<br />
quân phiệt. Với sự nỗ lực, chủ động của Chính phủ và nhân dân Nhật Bản,<br />
cuộc cải cách đã thành công, cứu nguy cho dân tộc Nhật Bản. Dưới tác động<br />
của cuộc cải cách chính trị, kinh tế, xã hội giai đoạn 1945-1951, Nhật Bản đã<br />
có những chuyển biến tích cực về mọi mặt như: Cam kết từ bỏ chiến tranh,<br />
dân chủ hóa xã hội, cải tạo, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa... Đây<br />
được xem là những nhân tố mới hết sức quan trọng tạo nên sự phát triển<br />
“thần kỳ” cho kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh. Nhiều quốc gia đã và đang<br />
học tập kinh nghiệm mô hình phát triển kinh tế Nhật Bản để ứng dụng linh<br />
hoạt vào đất nước mình trên con đường hội nhập và phát triển.<br />
<br />
Từ năm 1945-1951, Nhật Bản đã tiến hành cải cách toàn diện về kinh tế, chính trị, văn<br />
hóa, xã hội, là cơ sở cho sự cất cánh kỳ diệu lần thứ II của Nhật Bản. Đây là một trong<br />
những giai đoạn quan trọng tạo những biến đổi cơ bản về mọi mặt của đời sống kinh tế,<br />
xã hội, có những tác động to lớn thúc đẩy phát triển lịch sử Nhật Bản giai đoạn sau đó.<br />
Bài viết nêu rõ, sau chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản là nước bại trận và bị Đồng<br />
minh chiếm đóng, buộc phải thực hiện những cải cách toàn diện về mọi mặt nhằm thúc<br />
đẩy dân chủ, hòa bình, diệt trừ tận gốc chủ nghĩa quân phiệt. Với sự nỗ lực, chủ động<br />
của chính phủ và nhân dân Nhật Bản, cuộc cải cách đã thành công, cứu nguy cho dân<br />
tộc Nhật Bản. Dưới tác động của cuộc cải cách kinh tế, xã hội giai đoạn 1945-1951,<br />
Nhật Bản đã có những biến chuyển thực sự về mọi mặt như: cơ sở kinh tế, xã hội, nhân<br />
tố con người, quan hệ kinh tế... Đây được xem là những nhân tố mới hết sức quan trọng<br />
tạo sự tăng trưởng thần kỳ cho kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh, được coi là giá trị mới<br />
trong phát triển kinh tế Nhật Bản mà nhiều quốc gia khác đang nghiên cứu và học tập.<br />
Sau khi chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, ngày 15/9/1945, Nhật Bản chấp nhận<br />
“Tuyên cáo Posdam” đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Đất nước bị quân đội Đồng<br />
minh mà thực tế là quân Mỹ chiếm đóng. Người chỉ huy tối cao của Bộ tư lệnh Đồng<br />
minh 1 chiếm đóng Nhật Bản là tướng Douglas Mac Arthur 2. Chính phủ Nhật Bản vẫn<br />
được công nhận và tiếp tục cai trị đất nước. Quân đội chiếm đóng tuy chỉ điều khiển bộ<br />
máy một cách gián tiếp nhưng lại thảo ra các chính sách cải cách cơ bản ảnh hưởng lớn<br />
đến chiều hướng phát triển kinh tế đất nước.<br />
1<br />
<br />
General Headquarter of the Supreme Commander For the Allied Power - Nhật gọi tắt là GHQ, Mỹ gọi là SCAP.<br />
Ông là chính trị gia nổi tiếng của Đảng Cộng hòa (đảng đối lập) nhưng lại được chính quyền Đảng Dân chủ bổ<br />
nhiệm chức vụ này. Ông có quan điểm nhìn xa trông rộng và coi nhiệm vụ cải cách của Mỹ ở Nhật Bản sau CTTG<br />
thứ II là một sứ mệnh lịch sử. Chính sách và cách xử lý của ông là khoan hồng, tích cực tạo niềm tin cho nhân dân<br />
Nhật Bản trong khi họ hoàn toàn thất vọng. Cả hai xu hướng chính trị của Đảng DC và Đảng CH Mỹ là ủng hộ ông.<br />
2<br />
<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 03(11)/2009: tr. 93-101<br />
<br />
94<br />
<br />
HOÀNG THỊ MINH HOA<br />
<br />
Chính sách lúc đầu của quân chiếm đóng đối với Nhật Bản do tướng Douglas Mac<br />
Arthur - chỉ huy tối cao Bộ Tư lệnh Đồng minh (SCAP) công bố ngay từ ngày<br />
10/9/1945 là: “phi quân sự hóa nền kinh tế”, “khuyến khích các lực lượng dân chủ”, thủ<br />
tiêu sự tập trung trong sản xuất và sở hữu tài sản, trong đó có cả việc thanh trừng những<br />
tên đầu sỏ tài phiệt nhằm “thủ tiêu sức mạnh quân sự của Nhật Bản cả về mặt tâm lý lẫn<br />
thể chế”. Còn trách nhiệm khôi phục kinh tế được quy cho chính phủ Nhật Bản. Tháng<br />
11/1945, Tư lệnh tối cao các lực lượng Đồng minh cũng đã nhận được chỉ thị: “Ngài<br />
cần làm cho người Nhật hiểu rằng, ngài không có nghĩa vụ duy trì bất kỳ một mức sống<br />
đặc biệt nào ở Nhật Bản” [12]. Không những thế, họ còn bắt Nhật Bản thực hiện nghĩa<br />
vụ cung cấp các loại hàng hóa và dịch vụ cho quân chiếm đóng, đòi Nhật Bản bồi<br />
thường chiến tranh rất lớn. Con số đầu tiên của phái đoàn đòi bồi thường chiến tranh do<br />
Pauley đưa ra là 1466 tỷ yên (giá năm 1939) [7]. Nhằm đạt mục đích “thủ tiêu sức mạnh<br />
quân sự của Nhật Bản cả về mặt tâm lý lẫn thể chế”, lực lượng chiếm đóng thực hiện<br />
đồng thời 3 cuộc cải cách lớn: thủ tiêu tập trung kinh tế mà trọng tâm là giải thể các<br />
Zaibatsu; cải cách ruộng đất và dân chủ hóa lao động. Cuộc cải cách được thực hiện một<br />
cách khá cương quyết về mọi mặt và đã đạt kết quả hết sức khả quan. Từ cuối 19471948 dưới tác động của cuộc chiến tranh lạnh, Nhật Bản lại nằm trong ý đồ chiến lược<br />
của Mỹ nên Nhật Bản nhanh chóng được vực trở lại với một số chính sách ưu tiên đặc<br />
biệt của Mỹ. Cùng với những tác động có hiệu quả của các cuộc cải cách trong các lĩnh<br />
vực khác nhau, ý đồ của Mỹ cùng với những bối cảnh quốc tế thuận lợi sau chiến tranh,<br />
mặc dù vẫn còn những hạn chế nhưng những cuộc cải cách này thực tế có ý nghĩa kinh<br />
tế, chính trị, xã hội to lớn [3]. Nhờ các cuộc cải cách này mà nền chính trị dân chủ, hòa<br />
bình ở Nhật Bản được thiết lập, nền kinh tế thị trường đầy đủ được hình thành, dân chủ<br />
hóa kinh tế được đảm bảo, cạnh tranh thực sự trở thành động lực phát triển, chúng<br />
không chỉ góp phần khôi phục kinh tế mà còn tạo điều kiện quan trọng cho thời kỳ tăng<br />
trưởng tiếp theo, tạo nên sự thần kỳ lần thứ II của Nhật Bản [10].<br />
Về cải cách kinh tế<br />
Trước hết là cải cách ruộng đất được coi là cải cách quan trọng nhất và có hiệu quả nhất<br />
trong các cuộc cải cách kinh tế với mục tiêu: “...xóa bỏ những trở ngại kinh tế nhằm<br />
khắc phục và củng cố các thiên hướng dân chủ để phá bỏ sự kìm hãm kinh tế vốn đọa<br />
đày người nông dân Nhật Bản trong nhiều thế kỷ áp bức phong kiến”. Đạo luật cải cách<br />
ruộng đất ban bố ngày 11/10/1946 với nội dung là nghiêm khắc với đối tượng mua đất,<br />
lập các Ủy ban ruộng đất, đề ra các phương thức mua đất, cách thanh toán và quy định<br />
về địa chủ vắng mặt. Cuộc cải cách này được thực hiện khá cương quyết từ 1946-1950<br />
dưới sự chỉ đạo chặt chẽ của các lực lượng chiếm đóng. Tính đến năm 1948, số lượng<br />
ruộng đất chính phủ mua lên đến 163.000 ha được thực hiện liên tiếp trong 10 lần. Diện<br />
tích phát canh tính đến tháng 8/1950 chỉ còn 10%. Địa chủ vắng mặt 3 đã bị xóa bỏ;<br />
80%-90% đất đai của họ đã bị chuyển nhượng cho tá điền; 70%-80% số ruộng đất cho<br />
thuê hoặc canh tác của địa chủ làng xã đã bị chuyển nhượng cho nông dân. Nhiều nhà<br />
3<br />
<br />
Địa chủ vắng mặt là những người sở hữu ruộng đất mà không định cư trong làng hoặc các làng xã nơi có<br />
ruộng đất của họ.<br />
<br />
TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CẢI CÁCH DÂN CHỦ 1945-1951...<br />
<br />
95<br />
<br />
chính trị, chính khách và các nhà nghiên cứu Nhật Bản trong và ngoài nước đánh giá<br />
cao những thành tựu của cải cách ruộng đất. Toshino Kawagoe cho rằng cải cách ruộng<br />
đất ở Nhật Bản sau chiến tranh được coi là “một ví dụ về thành tựu cải cách ruộng đất<br />
trong nông nghiệp” sau chiến tranh. Tác động của cuộc cải cách ruộng đất rất to lớn đối<br />
với ý nghĩa phát triển kinh tế Nhật Bản. Vì ruộng đất ở nông thôn Nhật Bản đã thực sự<br />
chuyển vào tay người canh tác. Chế độ địa chủ ở nông thôn Nhật Bản đã bị xóa bỏ, xóa<br />
bỏ luôn tàn dư phong kiến của nền nông nghiệp Nhật Bản và từ đó làm tan rã chế độ<br />
đẳng cấp nông thôn vốn kìm hãm sự phát triển xã hội Nhật Bản [1], làm thay đổi hẳn<br />
trật tự xã hội nông thôn. Điều này tạo ra sự phân phối tài sản và thu nhập bình đẳng<br />
hơn. Sau khi quyền sở hữu ruộng đất đã được chuyển nhượng, hầu hết nông dân được<br />
nhận ruộng. Họ tiến hành cải tạo ruộng đất, gieo trồng, tích cực áp dụng kỹ thuật canh<br />
tác mới, tăng năng suất lao động trong nông nghiệp. Rõ ràng cải cách ruộng đất đã thực<br />
sự lôi kéo những chủ đất trực tiếp tham gia vào sản xuất. Những tiến bộ do áp dụng<br />
khoa học kỹ thuật trong việc trồng lúa làm cho thu nhập của người nông dân tăng lên,<br />
góp phần mở rộng đáng kể thị trường trong nước. Tính chất kinh tế hàng hóa ở nông<br />
thôn Nhật Bản do đó ngày càng được nâng cao, tạo sự cạnh tranh mạnh mẽ trong sản<br />
xuất nông nghiệp [11]. Ngoài cải cách ruộng đất còn có hàng loạt các chương trình cải<br />
cách nông thôn Nhật Bản: cải cách văn hóa, xã hội, nâng cao điều kiện sống, sinh hoạt<br />
của các cộng đồng thôn xã. Điều này đã làm thay đổi cơ cấu dân cư nông thôn, tạo ra<br />
hàng triệu những người nông dân mới, thực sự là những người chủ, là thành viên bình<br />
đẳng trong cộng đồng. Như vậy, cùng với hàng loạt chương trình cải cách nông thôn,<br />
cải cách ruộng đất không chỉ trực tiếp mà còn gián tiếp làm thay đổi toàn bộ chiều<br />
hướng phát triển của làng xã Nhật Bản [3], làm xuất hiện nhiều nhân tố mới, giá trị mới<br />
trong kinh tế, xã hội và sinh hoạt cộng đồng làng xã - cơ sở quan trọng cho sự tăng<br />
trưởng của Nhật Bản giai đoạn sau này.<br />
Giải thể Zaibatsu cũng có tác động lớn đến kinh tế, xã hội Nhật Bản. Việc giải thể này<br />
nhằm giải tán các tập đoàn tài phiệt theo quan hệ gia tộc, mang tính chất phong kiến<br />
trước đây, là mầm mống gây ra các cuộc chiến tranh. Điều này làm biến đổi tình hình<br />
kinh tế, xã hội Nhật Bản tạo điều kiện phá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, quân phiệt,<br />
thổi vào tư tưởng hòa bình, dân chủ, tạo ra lực lượng quản lý kinh tế trẻ tuổi, tài ba, tạo<br />
giá trị mới về môi trường kinh tế và con người Nhật Bản. Đây là những yếu tố có tính<br />
chất quyết định đến phát triển kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh. Trước đây sự tập trung<br />
công nghiệp vào tay một số Zaibatsu “gây ra quan hệ nửa phong kiến giữa chủ và thợ,<br />
kìm hãm tiền lương, cản trở sự phát triển công đoàn...”. Nhằm thực hiện giải thể<br />
Zaibatsu, lực lượng Đồng minh đã lập ra Ủy ban giải quyết vấn đề công ty cổ phần. Do<br />
đó có 57 gia đình Zaibatsu phải giao nộp tài sản tổng cộng lên đến 233 triệu cổ phần và<br />
bán cổ phần cho nhiều công ty, hiệp hội. Những tập đoàn tài phiệt lớn trước đây đã<br />
được độc lập và bị loại trừ sự chi phối cũng như sức mạnh của các cá nhân và các gia<br />
tộc Zaibatsu. Việc giải phóng phần lớn các công ty khổng lồ trong các ngành công<br />
nghiệp chủ chốt của Nhật Bản như thép, đóng tàu... đã làm thay đổi hoàn toàn bản đồ<br />
ngành công nghiệp của Nhật Bản, tạo giá trị mới cho Nhật Bản trong việc tạo cơ chế<br />
môi trường phát triển kinh tế; là cơ hội mới chưa từng có của các công ty, doanh nghiệp<br />
<br />
96<br />
<br />
HOÀNG THỊ MINH HOA<br />
<br />
mới và độc lập của Nhật Bản trong hoạt động kinh tế. Nhiều nhà kinh tế đánh giá việc<br />
giải thể Zaibatsu đã góp phần vào việc xóa bỏ tình trạng tập trung kinh tế, thiết lập<br />
khuôn khổ cạnh tranh [6] và giúp nền kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh. Việc thanh lọc<br />
kinh tế đã loại bỏ trong thực tế 1.535 người ở 295 công ty có tư tưởng quân phiệt hiếu<br />
chiến [9], tạo cơ hội cho các nhà quản lý trẻ tuổi, năng động, táo bạo, phát huy tốt chức<br />
năng “thuyền trưởng mới” của các ngành công nghiệp. Do đó, nền kinh tế Nhật Bản có<br />
điều kiện lấy lại sức sống của mình.<br />
Việc xuất hiện nhân tố mới - nhân tố con người sau chiến tranh như đã trình bày ở trên<br />
đã góp phần chủ yếu tạo nên “sự thần kỳ kinh tế Nhật Bản”. Đó là những nhà kinh<br />
doanh tích cực, năng động được hình thành thông qua các cuộc cải cách: thanh trừng<br />
chính trị, giải thể Zaibatsu, thanh lọc kinh tế. Hiệu quả do các cuộc cải cách mang lại đã<br />
tạo ra lực lượng các nhà kinh doanh có tư tưởng mới, sáng tạo và tích cực trong kinh<br />
doanh, là nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế Nhật Bản. Sau khi lấy lại tinh thần, do<br />
tình trạng sau chiến tranh mang lại, dưới tác động của các cuộc cải cách kinh tế, các tổ<br />
chức kinh tế tư nhân Nhật Bản được thiết lập khắp nơi với quyết tâm phát triển kinh tế,<br />
tổ chức lại các hoạt động kinh tế, làm cho cỗ máy kinh tế vận hành. Tháng 4 năm 1946,<br />
Hội Đồng hữu kinh tế - Keizai Doyukai - tổ chức của các nhà kinh doanh đã được thành<br />
lập với quyết tâm của các nhà kinh doanh 50 tuổi: Kanichi, Otsuka... phê phán những<br />
nhà kinh doanh lỗi thời không chịu tuân thủ những nguyên tắc dân chủ hóa sau chiến<br />
tranh và phong trào công nhân quá khích, tuyên bố xác lập vị trí riêng của tổ chức mình,<br />
phân chia ranh giới giữa tư bản và kinh doanh... trong đó dựa vào sự thỏa hiệp giữa chủ<br />
và thợ. Sau đó liên tục có nhiều tổ chức của những nhà kinh tế trẻ. Ví dụ, tháng 4/1946,<br />
Keidansen (Liên đoàn các tổ chức kinh doanh Nhật Bản) nhằm đối phó lại với phong<br />
trào công đoàn đang lên, kêu gọi xác lập và giữ vững quyền kinh doanh của mình.<br />
Những nhà kinh doanh tích cực của Nhật Bản được hình thành sau chiến tranh thế giới<br />
thứ II, có thể chia làm 3 loại:<br />
+ Những nhà kinh doanh trẻ được đề bạt thay thế các nhà lãnh đạo xí nghiệp hàng<br />
đầu đã bị loại bỏ chức vụ thông qua các cuộc giải thể Zaibatsu và thanh lọc kinh<br />
tế. Ví dụ như Chikara Karuta (Hãng chế tạo Hitachi), Ishisaka (Xí nghiệp đồ điện<br />
Toshiba), Nishiyama (Hãng sắt thép Kawasaki).<br />
+ Những nhà doanh nghiệp trẻ, các tổng giám đốc, giám đốc các lãnh đạo cao cấp<br />
trong các công ty, xí nghiệp vừa và nhỏ trước chiến tranh, đã chớp thời cơ, tận<br />
dụng cơ chế cạnh tranh mạnh mẽ sau chiến tranh do việc giải thể Zaibatsu mang<br />
lại. Các công ty mới này đã vượt lên kinh doanh, tạo ưu thế trở thành những công<br />
ty lớn với những nhà lãnh đạo tài ba như: Kosuke Matsu (công ty điện<br />
Matsushita), Sazo Idemitsu (công ty Idemitsu Hun San) [6].<br />
+ Các nhà doanh nghiệp mới nổi lên sau chiến tranh, do làm ăn kinh tế có hiệu quả,<br />
trở thành một lực lượng mới trong sản xuất kinh tế của Nhật Bản. Ví dụ: Oh Ibuka<br />
(Sony), Tsuyoshi Mitarai (Canon).<br />
Dưới tác động của các cuộc cải cách trên mọi lĩnh vực (thanh lọc chính trị, kinh tế, ban<br />
hành hiến pháp mới) đã tạo điều kiện cho hàng loạt các nhà doanh nghiệp do các tập<br />
<br />
TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CẢI CÁCH DÂN CHỦ 1945-1951...<br />
<br />
97<br />
<br />
đoàn tài phiệt bị giải thể về mặt tổ chức, tư tưởng hiếu chiến của nó bị triệt tiêu, tạo nên<br />
bầu không khí tự do sau chiến tranh, là mảnh đất tốt cho sự ra đời các nhà doanh nghiệp<br />
mới. Họ có tinh thần tiên phong đổi mới kỹ thuật chủ yếu từ Mỹ và phương Tây, đồng<br />
thời cải biến nó thành kỹ thuật của Nhật Bản để tạo ra những sản phẩm mới tốt hơn, đẹp<br />
hơn, giá rẻ hơn. Những nhân tố lãnh đạo mới này tích cực cải cách, đầu tư thiết bị - đó<br />
là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu để kinh tế Nhật Bản có thể thích ứng được với môi<br />
trường kinh tế thay đổi sau chiến tranh. Đó là các phương pháp kinh doanh mới, cải<br />
cách và đổi mới kỹ thuật, sáng tạo và thích ứng trong kinh doanh mà rất ít khi nhìn thấy<br />
trong các nhà lãnh đạo sản xuất trước đây ở Nhật Bản. Ví dụ, năm 1951, công ty Toyo<br />
Rayon, nhân việc có sự tranh chấp về vấn đề xâm phạm bí quyết kỹ thuật với công ty<br />
Ruybon của Mỹ, đã quyết định du nhập kỹ thuật sản xuất Nilon 66 và trả một khoản tiền<br />
lớn về sử dụng bí quyết kỹ thuật này. Quyết định táo bạo đó trở thành nguồn gốc cho sự<br />
phát triển tơ sợi tổng hợp ở Nhật Bản thời kỳ sau đó. Năm 1953, hãng Sony đã quyết<br />
định mua kỹ thuật bán dẫn (transistor) của hãng Western electronic và đã thành công<br />
trong việc sản xuất đài bán dẫn (transistor radio). Cùng với lực lượng các nhà kinh<br />
doanh tích cực, họ có nhiệm vụ hướng dẫn hành chính, hoạch định kế hoạch, hình thành<br />
mục tiêu đạt tới trong tương lai. Với bản tính năng động, sáng tạo, tài ba và liêm khiết,<br />
bộ máy quan chức Nhật Bản cũng đã chịu sự tác động trực tiếp và gián tiếp của các<br />
cuộc cải cách dân chủ sau chiến tranh làm biến đổi về tư tưởng, tư duy kinh doanh. Đặc<br />
biệt các cuộc cải cách kinh tế đã tạo ra thể chế, cơ chế kinh tế mới để chuyển từ cơ cấu<br />
độc quyền trước chiến tranh sang cơ cấu dân chủ cạnh tranh, từ nền kinh tế thị trường bị<br />
nhiều hạn chế sang cơ chế thị trường đầy đủ.<br />
Những cải cách kinh tế sau chiến tranh do SCAP khởi xướng rất quan trọng đối với việc<br />
tạo ra thế cạnh tranh của nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh. Thực chất của 3 cuộc cải<br />
cách lớn: cải cách ruộng đất, giải thể doanh nghiệp lớn độc quyền, cắt đứt quan hệ nhân<br />
sự cũ mang tính huyết thống bằng sự thanh lọc kinh tế và việc đưa ra phong trào lao<br />
động dân chủ là quá trình thủ tiêu các yếu tố hạn chế thị trường, hình thành những lĩnh<br />
vực cạnh tranh, những chủ thể cạnh tranh và những quan hệ hợp tác trong nội bộ từng<br />
doanh nghiệp đã tạo nên động lực lành mạnh cho phát triển kinh tế [4].<br />
Về cải cách chính trị<br />
Ngay sau chiến tranh thế giới thứ II, một trong những tác động lớn làm biến đổi xã hội<br />
Nhật Bản, tạo nên một nước Nhật ổn định chính trị và xã hội, chính là việc cải cách<br />
chính trị làm cơ sở cho Nhật Bản bước vào giai đoạn thần kỳ kinh tế cuối những năm 70<br />
của thế kỷ XX. Đó là những hiệu quả biến đổi trực tiếp do các cuộc cải cách mang lại,<br />
trong đó đặc biệt là cải cách chính trị. Hàng loạt các biện pháp giải quyết cấp bách sau<br />
chiến tranh như: khuyến khích phát triển các tổ chức dân chủ, cho phép thành lập các<br />
công đoàn hiệp hội và thực hiện một loạt biện pháp giảm lạm phát, cứu đói, khuyến<br />
khích sản xuất để tạo thêm sức mạnh và tinh thần dân tộc Nhật Bản. Các cuộc cải cách<br />
chính trị: thanh trừng tội phạm phát xít, phong trào đòi tự do hoạt động của các đảng<br />
phái chính trị đã đi trước một bước tạo tiền đề cho cải cách, làm trong sạch bộ máy<br />
chính trị, chuyển toàn bộ bộ máy chính trị phục vụ chiến tranh sang phục vụ cho nhu<br />
<br />