intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tác động của sự tham gia cộng đồng đến thái độ đối với phát triển du lịch nông thôn: Tập trung vào các làng du lịch xanh tại Hàn Quốc

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

2
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này nhắm đến các làng trải nghiệm nông thôn xanh, một hình thức phát triển du lịch nông thôn, nhằm tạo ra thái độ tích cực của người dân địa phương đối với phát triển du lịch nông thôn và cung cấp thông tin cho phát triển du lịch nông thôn dựa trên sự hỗ trợ và tham gia tích cực của người dân địa phương cung cấp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tác động của sự tham gia cộng đồng đến thái độ đối với phát triển du lịch nông thôn: Tập trung vào các làng du lịch xanh tại Hàn Quốc

  1. Tác động của sự tham gia cộng đồng đến thái độ đối với phát triển du lịch nông thôn: Tập trung vào các làng du lịch xanh tại Hàn Quốc Đỗ Ngọc Hảo, Đỗ Thu Nga Tóm tắt Trong du lịch nông thôn, không gian của cư dân địa phương trở thành điểm đến du lịch. Vì vậy, không giống như các hoạt động phát triển du lịch khác, thái độ của người dân địa phương là yếu tố thành công quan trọng vì họ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi sự phát triển du lịch, theo hướng tích cực hoặc hạn chế. Vì thái độ bị ảnh hưởng bởi nhiều khía cạnh do nhận thức khác nhau nên việc nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng này là cần thiết để nghiên cứu thái độ. Đặc biệt, sự gắn bó với cộng đồng, tức là sự đoàn kết mà người dân địa phương sống cùng khu vực cộng đồng của họ. Điều đó, sẽ là vấn đề cần để làm tăng khả năng giải thích về thái độ của người dân địa phương đối với sự phát triển du lịch nông thôn Hàn Quốc . Từ khóa: Sự tham gia, cộng đồng, thái độ, phát triển du lịch nông thôn, Làng du lịch xanh Hàn Quốc Đặt vấn đề Ở các vùng nông thôn của Hàn Quốc, các vấn đề như thu nhập thấp, dân số nông nghiệp giảm và tình trạng bỏ trống do điều kiện sống kém đã tích tụ trong một thời gian dài, khiến người ta không thể mong đợi vai trò của du lịch nông thôn cho một không gian dân cư. Tuy nhiên, do những thay đổi trong lối sống do thu nhập quốc dân tăng lên trong những năm gần đây và những thay đổi về giá trị, khu vực nông thôn mới bắt đầu được công nhận là không gian cho cuộc sống giải trí và định cư, đồng thời sự quan tâm của người dân thành thị trong sự lựa chọn môi trường nông thôn - thành thị cũng tăng lên. Nhu cầu về cuộc sống nông thôn, du lịch trải nghiệm nông thôn ngày càng gia tăng (Jong-Hoon Chae, 2010). Giữa những thay đổi xã hội như hiện nay, du lịch nông thôn được công nhận là một ngành công nghiệp có thể giúp thay thế, hồi sinh các khu vực nông thôn có nguy cơ tan rã và thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế nông thôn đang trì trệ. Dự án làng trải nghiệm nông thôn xanh, được thúc đẩy từ những năm 2000, là mô hình du lịch nông thôn mang lại thu nhập trang trại ngoài sản xuất nông nghiệp cho người dân địa phương và cung cấp những trải nghiệm độc đáo về tài nguyên du lịch nông thôn cho khách du lịch đến tham quan (Yun Yu-sik, 2009). Tuy nhiên, không giống như loại hình du lịch thuần túy, du lịch nông thôn bao gồm sự trải nghiệm, hòa nhập nét văn hóa của cư dân địa phương, sự tương tác giữa khách du lịch và người dân địa phương. Vì tần suất xuất hiện cao nên thái độ của người dân địa phương đối với khách du lịch quyết định sự hài lòng của du khách. Nó có thể là yếu tố chính quyết định sự phát triển du lịch (Deok-Byeong Park, 2009). Trong quá trình phát triển du lịch, người dân địa phương trở nên rất quan tâm đến sự phát triển du lịch của cộng đồng nơi họ sinh sống và thừa nhận các quyền và lợi ích khác nhau họ sẽ được lợi từ sự phát triển của du lịch, quyết định thái độ của mỗi người. Tuy nhiên, thái độ đối với phát triển du lịch là trực tiếp với nhận thức về các tác động khác nhau xảy ra thông qua du lịch hoặc phát triển du lịch và có thể được coi là thể hiện sự đánh giá toàn diện và phản ứng cảm xúc đối với những tác động này (Jo Kwang-ui và Kim Nam-jo (2002) và thật khó để đánh giá một cách rõ ràng các khía cạnh cấu trúc của thái độ. Vì vậy, có nhiều biến số khác nhau được sử dụng trong nghiên cứu về thái độ của cư dân địa phương, trong đó, sự gắn bó cộng đồng đề cập đến sự gắn kết tâm lý mà cư dân địa phương 47
  2. sống trong khu vực với cá nhân hoặc tập thể với cộng đồng, trong đó đề cập đến sự gắn kết đối với cư dân khu vực nông thôn, những người sống ở khu vực nông thôn, sự quan tâm và gắn bó với cộng đồng địa phương là những yếu tố quan trọng cần xem xét trong việc xác định thái độ của họ (Kang Shin-gyeom, 2001) đã nhận thức về thái độ của người dân nông thôn, về tác động của du lịch ảnh hưởng đến thái độ của người dân địa phương đối với du lịch. Nó trở thành một biến số quan trọng có thể dự đoán hành vi của một người (Seonghyeong Joo, Sangjun Park, Sangyeol Han, 2007). Các nghiên cứu hiện tại về thái độ phát triển du lịch của người dân địa phương liên quan đến gắn kết cộng đồng cho thấy rằng sự gắn kết cộng đồng càng mạnh thì họ càng hỗ trợ phát triển du lịch một cách tích cực nhưng sự gắn kết của địa phương càng hạn chế thì họ càng có thái độ nhìn nhận tiêu cực về tác động của việc phát triển du lịch. Bằng cách này, sự gắn bó của cư dân địa phương với cộng đồng có thể khác nhau về các giá trị sống riêng biệt của từng vùng tùy thuộc vào đặc điểm của từng cá nhân (Sang-gyu Park, 2010), do đó cần có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Với tiền đề rằng sự gắn kết cộng đồng là một biến số quan trọng đối với người dân nông thôn có tính đồng nhất và đoàn kết mạnh mẽ, nghiên cứu này xem xét sự gắn kết cộng đồng ảnh hưởng như thế nào đến thái độ của người dân địa phương đối với sự phát triển du lịch nông thôn, thời điểm phát triển du lịch, sự phụ thuộc về kinh tế và mục đích là để so sánh và phân tích sự khác biệt theo đặc điểm cá nhân. Ngoài ra, hầu hết các nghiên cứu hiện có đều xem xét thái độ của người dân địa phương trước phát triển du lịch nên nhiều kết quả phản ánh kỳ vọng hơn là đo lường thái độ của người dân địa phương đối với phát triển du lịch cho kết quả tốt, Ngoài ra, thái độ của người dân địa phương đối với phát triển du lịch thay đổi theo thời gian khi nhận thức của họ về tác động của phát triển du lịch thay đổi, nên có thể nói việc phân tích sự thay đổi thái độ của người dân địa phương theo thời điểm phát triển du lịch là rất cần thiết. Do đó, nghiên cứu này nhắm đến các làng trải nghiệm nông thôn xanh, một hình thức phát triển du lịch nông thôn, nhằm tạo ra thái độ tích cực của người dân địa phương đối với phát triển du lịch nông thôn và cung cấp thông tin cho phát triển du lịch nông thôn dựa trên sự hỗ trợ và tham gia tích cực của người dân địa phương cung cấp. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu là dựa trên nghiên cứu trước đây và phân tích tài liệu về thái độ của sự tham gia trong cộng đồng. Mối quan hệ giữa sự gắn bó của cộng đồng địa phương và thái độ của người dân địa phương đối với việc phát triển du lịch nông thôn thông qua nghiên cứu thực địa. Phạm vi nghiên cứu có thể được chia thành nội dung, không gian, đối tượng như sau. Phạm vi nội dung xem xét các lý thuyết có thể áp dụng cho nghiên cứu này thông qua việc xem xét tài liệu liên quan đến sự gắn bó và thái độ, đồng thời nghiên cứu thái độ của người dân địa phương trong những làng trải nghiệm nông thôn xanh. Phạm vi không gian, trong số các làng trải nghiệm nông thôn xanh trên cả nước, hai làng được chọn: một làng bắt đầu từ giai đoạn đầu của dự án trải nghiệm nông thôn xanh (2002- 2003) và một làng bắt đầu vào giai đoạn giữa 2012.Tổng cộng có 4 được chọn làm mục tiêu. Phạm vi mục tiêu là cư dân địa phương của làng trải nghiệm nông thôn đã được chọn là làng trải nghiệm nông thôn xanh và hiện đang đi vào hoạt động. 48
  3. Nội dung 3.1 Cơ sở lý luận về du lịch nông thôn 3.1.1 Khái niệm du lịch nông thôn Trên cơ sở thực hiện nghiên cứu và phân tích một số quan niệm của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu và quản lí ngành về “nông thôn”, “tiềm năng phát triển kinh tế nông thôn”, “tài nguyên du lịch nông thôn”, cùng với việc việc xem xét việc giao quyền sử dụng tài nguyên nông thôn cho ngành du lịch; thực trạng và xu hướng phát triển du lịch nông thôn. Bài viết đã phần nào nào tổng hợp, lựa chọn các tiêu chí, tiêu chuẩn phù hợp làm nền tảng vận dụng vào nghiên cứu đánh giá tiềm năng phát triển du lịch nông thôn Việt Nam. Năm 2002, Tổ chức Du lịch thế giới – UNWTO đã đưa ra quan điểm: “Lĩnh vực hoạt động du lịch chuyên sâu với đối tượng tham gia là các du khách có nhu cầu tương tác với môi trường nông thôn và các cộng đồng địa phương” được coi là du lịch nông thôn. Tại Mỹ, du lịch nông thôn hay du lịch nông nghiệp không có sự khác biệt, theo Small Farm Center: “Là các loại hình du lịch tham quan trang trại, nông hộ, tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp với mục đích giáo dục, giải trí.” [19, tr.23]. Hilchey và Kuehn (2009) cho rằng: “Du lịch nông thôn là việc trang trại hay nông hộ mở cửa đón khách du lịch”. Tại Phần Lan, du lịch nông thôn được diễn giải đơn giản là nơi cho thuê chỗ ở và cung cấp dịch vụ ăn uống trong môi trường nông thôn (thực phẩm, vận chuyển…). Trong khi đó, Bourdeau (2001), lại cho rằng du lịch nông thôn là “tất cả các loại hình du lịch diễn ra trong khu vực nông thôn”. Nhưng theo một quan điểm khác của tác giả Gannon, 1988, thì du lịch nông thôn “bao gồm một loạt các hoạt động, dịch vụ và tiện nghi được cung cấp bởi nông dân nhằm thu hút khách du lịch đến khu vực nông thôn”. Tại Pháp, các nhà nghiên cứu lại cho rằng Du lịch nông thôn là: “Hoạt động du lịch trong trang trại của nông dân, kết hợp với các hoạt động truyền thống” (Martins,1995). Hay quan điểm của Bazin (1993), du lịch nông thôn bao gồm “các dịch vụ đón tiếp, cung cấp nơi ăn nghỉ và các hoạt động giải trí trong trang trại” [19,tr.24] Dưới góc độ nhìn nhận khác, Ủy ban Du lịch Canada: “Du lịch nông thôn là tất cả mọi hoạt động có địa điểm là nông thôn bao gồm các làng quê, trang trại, khu bảo tồn… khai thác các đặc tính đặc trưng của vùng miền để thu hút khách du lịch.” Trong nghiên cứu của mình tác giả Bùi Thị Lan Hương đã chỉ ra: “Du lịch nông thôn không chỉ gói gọn trong một loại hình du lịch nhất định, nó có thể bao gồm nhiều loại hình du lịch trong một không gian lãnh thổ của một vùng nông thôn thuộc địa phương nào đó”[12]. Tóm lại, có thể hiểu “Du lịch nông thôn là các hoạt động du lịch diễn ra ở nông thôn do cư dân nông thôn tổ chức và điều hành, thông qua đó giới thiệu về cuộc sống nông thôn cùng các giá trị văn hóa, lịch sử của địa phương”. 3.1.2 Khái niệm về thái độ Thái độ là sự đánh giá toàn diện của chúng ta về những ý tưởng khác nhau xung quanh chúng ta. Thái độ là “một xu hướng học được để phản ứng một cách nhất quán theo hướng có lợi hoặc không có lợi đối với một đối tượng hoặc một nhóm người” (Wilkie, 1986). Thái độ là xu hướng ủng hộ hoặc chống lại một sự kiện hoặc hiện tượng và có thể nói là ảnh hưởng, đánh giá, ưa thích, khẳng định hoặc có ý nghĩa gì đó ủng hộ hoặc chống lại một đối tượng tâm lý. 49
  4. Do đó, hiểu được thái độ của người dân địa phương trong phát triển du lịch địa phương có thể là một cách để dẫn dắt phát triển du lịch thành công, và hơn nữa, bằng cách tạo ra sự hiểu biết và tham gia tích cực của người dân, mục tiêu cuối cùng là phát triển du lịch địa phương theo đuổi có thể đạt được. Nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân địa phương và tăng cường ý thức cộng đồng, đoàn kết trong cộng đồng địa phương, cho phép cư dân tận hưởng cuộc sống thịnh vượng hơn (Inskeep, 1991). 3.1.3 Thái độ của người dân địa phương Thang đo thái độ tác động du lịch (TIAS) được phát triển bởi Lankford (1994) và Lankford và Howard (1994) là thang đo thường xuyên được sử dụng và công nhận về khả năng giải thích trong các nghiên cứu trước đây liên quan đến thái độ của người dân địa phương. Là một thang đo lường mức độ thay đổi thái độ tùy thuộc vào tác động đến người dân địa phương do phát triển du lịch, nghiên cứu phần lớn được chia thành mối quan tâm đến phát triển du lịch địa phương và lợi ích xã hội địa phương. Khi đo lường thái độ của người dân địa phương đối với phát triển du lịch, Johnson (1994) đã chia nó thành ba khía cạnh: kinh tế, xã hội và môi trường là đo lường tác động dự kiến của mỗi khía cạnh như một biến số đối với nhận thức của người dân về du lịch khiến người dân địa phương trở nên tiêu cực. Ở Hàn Quốc, Kang Mi-hee và Kim Seong-il (1998) đã sử dụng thang đo thái độ tác động của du lịch và các tài liệu liên quan để xác định nhận thức của người dân địa phương về tác động của du lịch đến môi trường, kinh tế và văn hóa xã hội của các khu vực vườn quốc gia. Kim Nam-jo (2001) đã xem xét các tác động môi trường, kinh tế và văn hóa xã hội của du lịch trong một nghiên cứu về sự khác biệt trong nhận thức, thái độ và kỳ vọng của người dân địa phương và khách du lịch đối với việc phát triển du lịch sinh thái nhắm vào Hwado-myeon và Yangdo-myeon ở Đảo Ganghwa. Tác động của du lịch đối với sự phát triển du lịch là khác nhau đối với người dân địa phương, khách du lịch và thái độ của họ được cho là ở mức trung bình, không phản du lịch cũng không phản phát triển du lịch. Lee Hu-seok (2004) đã xem xét mối quan hệ giữa nhận thức của người dân địa phương về tác động của du lịch và thái độ của họ đối với việc phát triển du lịch, nhắm vào Seopjikoji ở đảo Jeju, bằng cách chia nó thành việc cải thiện nghi thức tổ tiên, suy thoái môi trường và xung đột xã hội đã chỉ ra sự hỗ trợ cho phát triển du lịch. Cả ba yếu tố ảnh hưởng đều quan trọng và liên quan đến lợi ích của người dân địa phương do sự phát triển trên địa bàn tỉnh, chỉ có phần cải thiện kinh tế là đáng kể. Trong một nghiên cứu về thái độ của người dân đối với việc phát triển du lịch tại các khu mỏ bỏ hoang ở Gangwon-do, Seung-gu Lee (2006) phát hiện ra rằng các yếu tố ảnh hưởng đến thái độ thông qua nghiên cứu tài liệu là tình trạng kinh tế của khu vực, giá trị hệ sinh thái của người dân địa phương, nhận thức về phát triển du lịch và dịch vụ du lịch. Các yếu tố có tác động lớn nhất đến phát triển du lịch được rút ra từ lợi ích, nhận thức được và chi phí nhận thức của việc phát triển. Hwan Cho và Bong-Seok Yang (2004) đã nghiên cứu nhận thức về tác động của du lịch, thái độ du lịch và sự hỗ trợ du lịch của người dân địa phương tại thành phố Gimhae về việc phát triển các điểm du lịch văn hóa và xem xét mối quan hệ giữa nhận thức, thái độ của người dân địa phương và hành vi (hỗ trợ) là một quá trình liên tục. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức về tác động tích cực của việc phát triển điểm đến du lịch văn hóa là các yếu tố văn hóa và xã 50
  5. hội, các yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức về tác động tiêu cực là các yếu tố môi trường. Không giống như các nghiên cứu khác, thực tế là các tác động dường như không phải là yếu tố quan trọng trong việc xác định thái độ được cho là do bản chất của địa điểm một điểm đến du lịch văn hóa. Người ta thấy rằng nhận thức tác động tích cực có tác động tích cực đến việc hỗ trợ phát triển du lịch. 3.2 Hiện trạng du lịch nông thôn Hàn Quốc Từ những năm 2000, du lịch nông thôn đã phát triển không gian dân cư nông thôn nơi người dân muốn sống và tìm nơi sinh sống bằng cách xem xét toàn diện các vấn đề nông thôn dựa trên Đạo luật đặc biệt về phát triển cân bằng quốc gia. Đạo luật đặc biệt về cải thiện chất lượng cuộc sống cho nông dân, người làm lâm nghiệp và Ngư dân và Thúc đẩy Phát triển Nông thôn và Đạo luật Phát triển Nông thôn và Phát triển Làng Chài. Khoảng 7 nghìn tỷ won từ năm 2004 đến năm 2017 (Bộ Thực phẩm, Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản, 2011). Trong khuôn khổ dự án phát triển làng nông thôn toàn diện, dự án làng du lịch nông thôn được triển khai theo mục tiêu biến cảnh quan nông thôn thành tài nguyên du lịch, tăng thu nhập trong khu vực, đa dạng hóa quản lý trang trại và đa dạng hóa cơ hội giải trí cho người dân (Bang Bae- hyung, 2011). Hiện nay, số làng nông thôn để trao đổi thành thị-nông thôn đã vượt quá 300 thông qua các dự án du lịch nông thôn do hơn 10 bộ trung ương điều hành (Song Mi-ryeong và cộng sự, 2006) và những chính sách này mang lại cơ hội giải trí cho cư dân thành thị thông qua trao đổi lẫn nhau giữa thành thị và nông thôn. Mục đích là nâng cao giá trị của khu vực nông thôn và giải quyết các vấn đề ở khu vực nông thôn bằng cách cung cấp không gian cho cư dân nông thôn, cải thiện thu nhập ở nông thôn và tích cực sử dụng các nguồn lực của địa phương. Không giống như các dự án chính sách quy mô lớn từ trên xuống do chính phủ chỉ đạo hiện nay, các dự án du lịch nông thôn là các dự án quy mô nhỏ, từ dưới lên ở cấp làng. Chính sách hỗ trợ của chính phủ cũng chuyển sang hình thức thi đua, khuyến khích người dân địa phương tham gia và cạnh tranh giữa các trí tuệ, đồng thời coi trọng năng lực của người dân địa phương bằng cách đưa ra các ưu đãi khi tuyển chọn những người xuất sắc. Dự án làng chủ đề truyền thống nông thôn do Cục Phát triển Nông thôn điều hành nhằm khám phá và truyền lại kiến thức truyền thống cũng như phong tục sống của làng, đồng thời giúp người dân thành phố tăng thu nhập từ trang trại và bảo tồn văn hóa độc đáo của vùng nông thôn thông qua thời gian lưu trú và trải nghiệm văn hóa truyền thống. Dự án Làng Arum do Bộ Hành chính và An ninh điều hành, lựa chọn những ngôi làng giữ được nét độc đáo và có tiềm năng phát triển cao trong tương lai, đồng thời nhằm mục đích tạo ra những ngôi làng theo chủ đề thân thiện với môi trường, tận dụng môi trường tự nhiên và truyền thống độc đáo, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống. nhằm nâng cao chất lượng, tìm kiếm nguồn thu nhập, tạo nơi giao lưu giữa thành thị và nông thôn. Dự án làng sinh thái, làng miền núi do Cục Lâm nghiệp Hàn Quốc điều hành nhằm mục đích cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân địa phương và góp phần phát triển cân bằng giữa các vùng bằng cách phát triển nguồn thu nhập cho người dân địa phương và cải thiện môi trường sống bằng cách tận dụng nguồn tài nguyên rừng và giải trí dồi dào của vùng núi, khu vực làng. 51
  6. Dự án phát triển làng văn hóa lịch sử của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhằm mục đích tạo ra một ngôi làng tự cung tự cấp bằng cách khám phá và phát triển các tư liệu văn hóa lịch sử được lưu giữ trong lòng và biến chúng thành tài nguyên du lịch. Dự án Tài nguyên Du lịch Thành phố Chậm, được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hỗ trợ, tìm cách bù đắp cho sự suy giảm dân số tại các khu vực được chứng nhận Thành phố Chậm bằng cách sử dụng thành phố chậm kiểu Hàn Quốc, chậm rãi và cùng tồn tại làm nguồn lực. Cuối cùng, làng văn hóa truyền thống do Cục di sản văn hóa điều hành bảo tồn hình thức văn hóa địa phương nguyên bản bằng cách khám phá văn hóa truyền thống độc đáo của khu vực. Mục tiêu là kế thừa và phục hồi văn hóa truyền thống của khu vực. 3.2.1 Hiên trạng làng trải nghiệm nông thôn xanh Hàn Quốc Làng trải nghiệm nông thôn xanh là một loại hình du lịch nông thôn bắt đầu với mục tiêu thu hút nhu cầu về các loại hình du lịch khác nhau đến khu vực nông thôn khi thời gian giải trí của cư dân thành thị tăng lên do hệ thống ngày làm việc trong tuần. Làng trải nghiệm nông thôn xanh được hỗ trợ với chi phí dự án 1 tỷ won mỗi người (50% ngân sách quốc gia, 5096 ngân sách địa phương) và cung cấp cơ sở hạ tầng cơ bản cần thiết để thu hút khách du lịch, như cơ sở hạ tầng trải nghiệm nông thôn, tạo cảnh quan làng quê và tiện nghi sinh hoạt cơ sở vật chất. Nó có thể được sử dụng cho các doanh nghiệp liên quan, v.v. (Báo cáo thường niên về xu hướng du lịch, Viện nghiên cứu văn hóa và du lịch năm 2010). Nhìn vào chi tiết của dự án, cơ sở hạ tầng trải nghiệm nông thôn bao gồm việc tạo ra một trang trại trải nghiệm và trang trại trải nghiệm (tạo ra các cơ sở trải nghiệm như cabin và khóa học quan sát trong trang trại), các cơ sở giải trí xung quanh như bãi đậu xe, địa điểm cắm trại, đường đi bộ, bãi câu cá, sân bóng đá cỏ, thể thao quy mô nhỏ,... Các cơ sở giải trí, sân chơi trẻ em, hội trường làng và nhà kho, chuồng trại hiện có. Cải tạo các cơ sở trường học khép kín thành nơi ở tập thể hoặc không gian văn hóa, thể thao, bờ kè, các công trình, thiết bị an toàn, tiện ích cho người khuyết tật và người già. Thiết bị, v.v. Những luống hoa được sử dụng để tạo cảnh quan làng quê. Có vườn hoa, trồng cây ở cổng làng, đường hoa, xây dựng quảng trường bãi cỏ, sửa chữa cầu, xây tường, xây mái điện, sửa chữa di tích lịch sử tòa nhà truyền thống và bảo trì nhà trống. Các cơ sở tiện lợi cho cuộc sống bao gồm đường làng, bảng thông tin làng (ghế ngồi), biển báo, nước và nước thải, cơ sở xử lý nước thải, đài phun nước, cơ sở internet dùng chung, trang chủ làng cải tạo hội trường Maum, ghế dài, gian hàng, đèn đường, nhà vệ sinh chung, phòng tắm chung và bếp ăn chung.. Tư vấn và thiết kế bao gồm khảo sát nguồn lực chuyên gia và chi phí tư vấn (lên tới 1000 won), phí thiết kế và chi phí chẩn đoán an toàn để thiết lập và thực hiện kế hoạch kinh doanh. Giáo dục, đào tạo và xúc tiến bao gồm giáo dục, đào tạo thường trú và sản xuất nền tảng. Việc lắp đặt các công trình nông nghiệp bao gồm cơ sở sản xuất nông nghiệp, cơ sở bán, cung cấp nông sản không được hỗ trợ nhưng chi phí lắp đặt các công trình phụ trợ như khóa học quan sát trải nghiệm trồng trọt và thiết kế nội thất góc bán hàng chung dành cho nông nghiệp và các sản phẩm đặc biệt sử dụng cơ sở vật chất hiện có là một khoản phí hỗ trợ và có thể sử dụng được. Thời gian dự án về cơ bản là 1 năm nhưng có thể kéo dài đến 2 năm tùy theo điều kiện của khu vực. Nếu thời gian dự án là 2 năm thì hỗ trợ cho 1 người không hoàn toàn yên tâm (hệ thống hợp tác phát triển tài nguyên du lịch dự án giữa các cơ quan chính phủ được thành lập năm 2005). 52
  7. Bằng cách thiết lập một hệ thống hợp tác giữa các bộ. Hàn quốc đang thúc đẩy quá trình hồi sinh các làng trải nghiệm nông thôn xanh bằng cách tiến hành các cuộc khảo sát tìm hiểu thực tế chung và đề xuất các kế hoạch cải tiến. Ngoài ra, dựa trên Đạo luật đặc biệt về cải thiện chất lượng cuộc sống của nông dân, lâm nghiệp và ngư dân cũng như thúc đẩy phát triển các khu vực nông thôn và ngư nghiệp, chúng tôi không ngừng mở rộng cơ sở trải nghiệm và giải trí ở nông thôn cũng như thu hút khách du lịch đến trải nghiệm và giải trí ở nông thôn, thông qua khuyến mãi tùy chỉnh lấy người tiêu dùng làm trung tâm, chẳng hạn như mùa hè ở nông thôn và làng chài dẫn đầu sự phát triển nông thôn, chẳng hạn như du lịch trải nghiệm nông thôn. Ngoài ra, vào tháng 12 năm 2007, Đạo luật Xúc tiến Trao đổi giữa Thành phố và Nông thôn đã được ban hành để cung cấp hỗ trợ có hệ thống cho trao đổi giữa thành thị và nông thôn 3.2.2 Một số làng du lịch xanh tại Hàn Quốc 3.2.2.1 Làng trải nghiệm nhà bà mẹ Yangpyeong Làng trải nghiệm nhà bà mẹ Yangpyeong cho thấy tỷ lệ tham gia tích cực, trong đó người dân tự nguyện tham gia các bài giảng xây dựng năng lực của làng và nhận được tư vấn từ bên ngoài. Về hiệu quả kinh doanh và các hoạt động, đây là một ví dụ điển hình về làng trải nghiệm nông thôn xanh và đang trở thành mô hình làng trải nghiệm nông thôn xanh trên cả nước. Ngoài ra, để khắc phục tính thời vụ, Lễ hội trái tim được tổ chức để thu hút nhiều khách du lịch thành phố. Tuy nhiên, trong trường hợp của làng Yangpyeong , hiện tại có ba nhà điều hành khác nhau điều hành trải nghiệm nông thôn. Đây là trường hợp dự án Làng trải nghiệm nông thôn xanh bị tách ra do xung đột làng trong quá trình hoạt động. Khu vực do người dân địa phương làm thành viên điều hành là một cơ quan điều hành bao gồm Tổng công ty hiệp hội Nông nghiệp Gorun và trong hai trường hợp còn lại. Là nơi được vận hành bằng cách thuê người, có thể thấy nó đang được vận hành theo hướng hơi khác so với mục đích ban đầu mà Làng Trải nghiệm Nông thôn Xanh theo đuổi. Đây có thể nói là một ví dụ cho thấy tác động tiêu cực của việc phát triển du lịch nông thôn. Trong nghiên cứu này, một cuộc điều tra thực nghiệm đã được tiến hành nhắm vào một ngôi làng trải nghiệm được điều hành bởi một tập đoàn hợp tác xã nông nghiệp chất lượng cao trong đó người dân địa phương cùng tham gia. Làng trải nghiệm nhà bà mẹ Sinron-ri nằm gần các địa điểm du lịch quốc gia Núi Galgi và Núi Yongmun nên bạn có thể trải nghiệm các hoạt động đi bộ đường dài và trekking khác nhau, cũng có thể đi du lịch đến khu vực Gangwon 3.2.2.2 Làng Yeoju Sangori Làng Yeoju Sangori được chọn là làng trải nghiệm nông thôn xanh đầu tiên vào năm 2002 và có thể nói là làng trải nghiệm nông thôn xanh tiêu biểu của Hàn Quốc với lịch sử ấn tượng khi được chỉ định là nơi lưu trú nông trại đầu tiên, quản lý rừng xanh đầu tiên và làng được chỉ định tin học hóa. Đó là một nơi bị chôn vùi dưới chân núi chứ không phải là một vùng đất bằng phẳng, mang lại cảm giác về Gangwon-do hơn là Kyunggi-do. Từ xa xưa đã có rất nhiều hổ nên được gọi là Hogo, Hosil hay Beomsil. Do đặc điểm địa hình dài của sườn núi nên phần trên tập trung vào đồi Hosilryeong (Beomsilgo Gae) nằm giữa làng được gọi là Utbeomsil hay Sangyogok và phần dưới được gọi là Hahori hay Lower Beomsil. Do sự sáp nhập các khu hành chính vào năm 1914, nó có tên địa danh hiện tại là Sanghori, dân số và tình trạng hộ gia đình hiện tại của Làng Sangori là 119 người trong 60 hộ gia đình, dân số trên 60 tuổi rất ít nên ngay cả các làng nông thôn cũng có thể được coi là thành thị. 53
  8. 3.2.2.3 Làng Icheon Doniul Thành phố Icheon là một trung tâm có lịch sử và truyền thống lâu đời về nghề gốm sứ, đồng thời là khu vực tập trung nhiều nghệ nhân, các ngành công nghiệp liên quan, cơ sở giáo dục/nghiên cứu và cơ sở hạ tầng. Thành phố này được chỉ định là Thành phố Sáng tạo của UNESCO (Danh mục: Thủ công mỹ nghệ và Nghệ thuật dân gian) năm 2007. Dựa trên các điều kiện văn hóa của khu vực, hỗ trợ được cung cấp cho các khía cạnh văn hóa (lễ hội, nghề thủ công dân gian, v.v.) trong lĩnh vực du lịch nông thôn trong khu vực. Cho đến năm 2015, Thành phố Icheon đang hỗ trợ và đầu tư vào việc cải tạo và sửa chữa cơ sở vật chất của làng trải nghiệm nông thôn, bảo trì cảnh quan làng cũng như tư vấn và xây dựng thông tin hóa để tăng cường năng lực của người dân thông qua dự án phát triển toàn diện làng nông thôn và dự án cải thiện toàn diện đơn vị. Làng Doniul là ngôi làng được chỉ định là làng trải nghiệm nông thôn xanh vào năm 2008 với lúa gạo là đặc sản và thương hiệu tiêu biểu của làng, là khu vực có văn hóa lúa gạo rất phát triển kể từ thời Tam Hán. Đây là nơi “Văn hóa Sodo”, một sự kiện tạ ơn các vị thần trên trời sau vụ thu hoạch vào tháng 10 hàng năm, đã được truyền lại. Hiện tại, Văn hóa Sodo là lễ hội tiêu biểu của Làng Doniul và bao gồm nhiều sự kiện khác nhau cùng với trải nghiệm mùa thu. 3.2.2.4. Làng Jecheon Daehoji Không giống như những làng trải nghiệm nông thôn xanh khác, vị trí của ngôi làng nằm sát núi kết hợp các trải nghiệm như trồng hoa dại, thu hái rau dại, chế tạo men hoa dại với trải nghiệm làng quê nông thôn đặc trưng. Ngôi nhà trang trại nơi người dân địa phương sinh sống đã được cải tạo và sử dụng làm chỗ ở cho du khách trải nghiệm, đồng thời kiếm thêm thu nhập thông qua hoạt động canh tác cuối tuần và buôn bán trực tiếp các sản phẩm nông nghiệp. Khu rừng nằm trong thôn là rừng quản lý kiểu mẫu cấp quốc gia do Liên đoàn các Hợp tác xã Lâm nghiệp Quốc gia làm chủ sở hữu và đang đẩy mạnh sử dụng các chương trình, cơ sở vật chất trải nghiệm liên kết với Liên đoàn các Hợp tác xã Lâm nghiệp Quốc gia. Kết luận Nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của sự gắn kết cộng đồng đến thái độ của người dân địa phương đối với phát triển du lịch nông thôn. Kiểm tra xem liệu mức độ gắn bó với cộng đồng của người dân địa phương ở các làng nông thôn nơi dự án làng trải nghiệm nông thôn xanh đang được vận hành có ảnh hưởng đến thái độ của người dân địa phương hay không. Sự gắn kết cộng đồng được thông qua một phần bằng cách tác động đến hai yếu tố còn lại là thái độ kinh tế và thái độ văn hóa xã hội, ngoại trừ thái độ môi trường. Điều này phù hợp với kết quả của các nghiên cứu trước đây cho thấy người dân địa phương quyết định thái độ của mình thông qua nhận thức về tác động của việc phát triển du lịch địa phương và đặc biệt bị ảnh hưởng nhiều nhất ở khía cạnh kinh tế, cho thấy không có ảnh hưởng đến thái độ môi trường và bị ảnh hưởng bởi các điều kiện của khu vực. Về cơ bản, nhận thức bảo vệ môi trường nơi cư trú của một người rất cao và hiệu quả của giáo dục bảo vệ môi trường đã được cung cấp để giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường của trải nghiệm nông thôn xanh. Ngoài ra, trong trường hợp các làng nông thôn, vì đây là khu dân cư chứ không phải là khu vực khó tiếp cận nên nhận thức của người dân địa phương về môi trường khác với những khu vực đã biến tài nguyên thiên nhiên thuần túy thành tài nguyên du lịch và dường như quan điểm cũng khác nhau. dẫn đến những kết quả khác nhau. Các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng thái độ về môi trường của 54
  9. người dân địa phương bị ảnh hưởng bởi các điều kiện địa lý của khu vực hoặc đặc điểm của cộng đồng tại Hàn Quốc TÀI LIỆU THAM KHẢO Kang Shin-gyeom (2001), “Tác động của du lịch cộng đồng địa phương đến sự sẵn sàng tham gia phát triển du lịch của người dân địa phương”, Luận án tiến sĩ Đại học Hanyang. Jo Kwang-ui và Kim Nam-jo (2002), “Xây dựng thang đo để đo lường sự gắn kết cộng đồng giữa người dân địa phương tại các điểm du lịch”, Nghiên cứu Du lịch, 26(1):103-117. Kim Nam jo (2001), “Sự khác biệt trong nhận thức, thái độ và kỳ vọng của người dân địa phương và khách du lịch đối với các điểm đến du lịch”, Nghiên cứu Du lịch, 25(3): 43-62 Jong-ho Kim, Jun-hyeon Jeon, Deok-jae Lee, Seong-il Kim, Dong-il Kim (2007),” Khảo sát du khách đến các làng du lịch trải nghiệm nông thôn và phân tích sự hài lòng”, 13:7-14 Hyeonjong Park và JaeJoong Yoo (2010), “Tác động của sự gắn bó của người dân địa phương với các môn thể thao ưu tú đối với ý thức cộng đồng. Hiệp hội Giáo dục Thể chất Hàn Quốc”, 49(2):37-46. Lee Seung – gu (2006), “Hiện trạng và kế hoạch phục hồi các làng trải nghiệm nông thôn ở vùng Kyungbuk”, Viện Du lịch Đông Bắc Á,72(1): 35-53. Lee Hu Seok (2004), Phân tích mối quan hệ giữa nhận thức tác động du lịch của người dân địa phương và thái độ phát triển du lịch”, Tạp chí Nghiên cứu Học thuật, 28(3): 221-238. Seonghyun Joo, Sangjun Park và Sangyeol Han (2007), “Phân tích tác động của các điểm du lịch Baekdudaegan đối với sự gắn kết của cộng đồng địa phương và thái độ du lịch”, Việnghiên cứu Du lịch, 26(2): 31-51. Thông tin tác giả Tên tác giả: Đỗ Ngọc Hảo, Đỗ Thu Nga Học hàm/Học vị: Thạc sỹ Địa chỉ: Khoa Du lịch và Ẩm thực, Trường Đại học Công Thương TP. HCM Email: dongochao2212@gmail.com, ngadt@hufi.edu.vn Điện thoại: 0932.885.446, 0988607768 55
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2