TẠP CHÍ KHOA HỌC, ðại học Huế, Số 66, 2011<br />
TÁC ðỘNG CỦA YẾU TỐ QUỐC TẾ ðỐI VỚI SỰ RA ðỜI<br />
HỌC THUYẾT MONROE (1823)<br />
Lê Thành Nam<br />
Trường ðại học Sư phạm, ðại học Huế<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bằng những tư liệu mới, bài báo trình bày những yếu tố quốc tế tác ñộng ñến sự ra ñời<br />
học thuyết Monroe (1823). ðó là sự thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở Mỹ Latinh<br />
dẫn ñến sự ra ñời hàng loạt các quốc gia ñộc lập ở ñầu thế kỉ XIX. Sau khi ra ñời, các quốc gia<br />
Mỹ Latinh ñối mặt với nguy cơ xâm nhập của cường quốc Châu Âu, trước hết là Anh, Pháp và<br />
Tây Ban Nha. Ngoài ra, Nga Hoàng cũng có ý tưởng bành trướng ở lục ñịa châu Mỹ.<br />
Tình hình trên ñe dọa trực tiếp nền an ninh của Mỹ, ñồng thời cản trở tham vọng về<br />
việc giành quyền lợi kinh tế tại khu vực Mỹ Latinh. Trong bối cảnh quốc tế như vậy, ngày 2-121823, trong thông ñiệp Liên Bang trước Quốc Hội, Tổng thống Mỹ – James Monroe công bố<br />
ñường lối ñối ngoại của Nhà Trắng ñối với khu vực Mỹ Latinh, bao gồm 3 nguyên tắc: Nguyên<br />
tắc phi thực dân, nguyên tắc không can thiệp và nguyên tắc hệ thống châu Mỹ. Với ba nguyên<br />
tắc này, nó ñánh dấu sự ra ñời của học thuyết Monroe, một học thuyết ñể lại dấu ấn sâu sắc<br />
trong lịch sử ñối ngoại của nước Mỹ.<br />
<br />
Có thể nói rằng, từ khi lập quốc ñến thời ñương ñại, hiếm có học thuyết nào ñể<br />
lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử ñối ngoại của nước Mỹ như học thuyết Monroe (1823).<br />
ðiều này dễ dàng nhận thấy, bởi học thuyết Monroe ñược xem như là nền tảng lý luận<br />
ñầu tiên cho quá trình vươn ra thế giới của Mỹ, có ảnh hưởng ở mức ñộ khác nhau ñến<br />
chính sách ñối ngoại của các ñời Tổng thống Mỹ ở những thế hệ sau. Khi bàn về học<br />
thuyết Monroe, một số công trình của các tác giả Việt Nam ñã tập trung ñề cập ñến nội<br />
dung của nó 1, tuy nhiên về mặt cơ sở, tác ñộng của học thuyết này thì chưa ñược chú<br />
trọng nghiên cứu. Bài viết này cung cấp thêm một số tư liệu cùng một số nhận ñịnh<br />
nhằm góp phần làm rõ hơn tác ñộng của yếu tố quốc tế ñối với sự ra ñời của học thuyết<br />
Monroe (1823).<br />
<br />
1<br />
<br />
Nội dung học thuyết Monroe ñược trình bày sơ lược trong một số công trình sau:<br />
<br />
- Vũ Dương Ninh, Nguyễn Văn Hồng, Lịch sử thế giới Cận ñại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002.<br />
- Vũ Dương Ninh, Phan Văn Ban, Nguyễn Văn Tận, Trần Thị Vinh, Lịch sử quan hệ quốc tế, tập 1, Nxb.<br />
Giáo dục, Hà Nội, 2005.<br />
- Phan Ngọc Liên, ðào Tuấn Thành, Nguyễn Thị Huyền Sâm, Mai Phú Phương, Lịch sử thế giới Cận ñại,<br />
tập 1, Nxb. ðại học Sư phạm, Hà Nội, 2008.<br />
<br />
111<br />
<br />
1. Với thắng lợi của cuộc Chiến tranh giành ñộc lập của 13 bang thuộc ñịa Anh ở<br />
Bắc Mỹ vào cuối thế kỉ XVIII, một thiết chế nhà nước tư sản của “người Âu nằm ngoài<br />
lãnh thổ châu Âu” ñầu tiên ra ñời ở Tây bán cầu, Hợp Chủng quốc châu Mỹ (The<br />
United States of America). Sau khi lập quốc, cùng với quá trình thống nhất dân tộc, kiện<br />
toàn bộ máy nhà nước, giai cấp tư sản Mỹ bắt ñầu tính ñến việc tìm kiếm và mở rộng thị<br />
trường. Khu vực Mỹ Latinh gần gũi là vùng lãnh thổ mà giai cấp tư sản Mỹ hướng ñến<br />
trước hết, ñặc biệt kể từ khi phong trào giải phóng dân tộc Mỹ Latinh bùng lên mạnh mẽ<br />
vào ñầu thế kỷ XIX.<br />
Mỹ Latinh là khu vực rộng lớn của lục ñịa châu Mỹ, trải dài từ Mexico ñến tận<br />
eo biển Magellan, bao gồm cả quần ñảo Antilles với diện tích gần 21 triệu km2, nơi có<br />
nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhất là các loại khoáng sản cần thiết ñể<br />
phát triển công nghiệp. Từ cuối thế kỷ XV, ñầu thế kỷ XVI, sau các cuộc phát kiến ñịa<br />
lý lớn, làn sóng người di cư từ Tây Ban Nha, Bồ ðào Nha, Anh, Pháp, Hà Lan, Thụy<br />
ðiển,... vượt ðại Tây Dương sang sinh cơ lập nghiệp trên vùng ñất mới này. Trong số<br />
các nước châu Âu có mặt ở “Tân thế giới”, người Tây Ban Nha chiếm cứ phần lớn lãnh<br />
thổ ngày nay thuộc Trung và Nam Mỹ, trừ Brazil là thuộc Bồ ðào Nha. Các nước Anh,<br />
Pháp, Hà Lan chỉ chiếm ñược các vùng ñất nhỏ bé ven bờ ðại Tây Dương.<br />
Người Âu tàn sát người bản ñịa – người da ñỏ, ñẩy họ lùi dần về phía Tây, ñể<br />
chiếm ñất làm thuộc ñịa, bóc lột cư dân bản ñịa, lập ñồn ñiền trồng lúa mì, ngô, cà phê,<br />
thuốc lá, bông,... Vì thiếu nhân công, người Âu mua người da ñen từ châu Phi ñưa sang<br />
làm nô lệ, lao ñộng sản xuất trong các ñồn ñiền. Trải qua nhiều thế hệ, những người gốc<br />
Âu cùng người bản ñịa và người gốc Phi hình thành nên những cộng ñồng mới, xa cách<br />
dần gốc gác quê hương của họ. Do cùng chung sống trên một lãnh thổ, yêu cầu phát<br />
triển kinh tế và văn hóa riêng biệt; ñồng thời chịu ảnh hưởng của cuộc Chiến tranh<br />
giành ñộc lập ở Bắc Mỹ (1775 - 1783) và Cách mạng tư sản Pháp (1789), nhất là do sự<br />
thống trị hà khắc của chính quốc, ý thức dân tộc hình thành. Dưới tác ñộng của các yếu<br />
tố nói trên, vào cuối thế kỷ XVIII, ñầu thế kỷ XIX, phong trào giải phóng dân tộc của<br />
nhân dân Mỹ Latinh chống thực dân Tây Ban Nha và Bồ ðào Nha ñã diễn ra mạnh mẽ<br />
và ñều khắp.<br />
ðối với nhân dân Mỹ, phong trào giải phóng dân tộc Mỹ Latinh là “cuộc tái<br />
diễn tập những kinh nghiệm của người dân Mỹ trong việc phá bỏ quyền thống trị của<br />
thực dân châu Âu’’ [10, trang 128] và họ ñã cổ vũ nồng nhiệt cho cuộc ñấu tranh chính<br />
nghĩa này. Tình hình này ñã làm cho giới thống trị Nhà Trắng càng “quan tâm” hơn<br />
ñến khu vực Mỹ Latinh. Nhà Trắng muốn ñẩy nhanh hơn quá trình phi thực dân hóa ở<br />
ñịa bàn này. Theo sử gia R. Hofstadter, “sự ra ñi của Tây Ban Nha và Bồ ðào Nha ở<br />
Mỹ Latinh, một mặt ñảm bảo cho Mỹ thoát khỏi vướng bận vào các cuộc chiến tranh ở<br />
châu Âu; mặt khác tạo ra một thị trường “vô chủ” giúp Mỹ có thể xâm nhập dễ dàng<br />
hơn” [5, trang 359]. Vì vậy, ngay khi phong trào giải phóng dân tộc Mỹ Latinh mới<br />
diễn ra, trong Thông ñiệp ñọc trước Quốc hội liên bang ngày 5-9-1811, Tổng thống<br />
112<br />
<br />
James Madison ñã nhấn mạnh ñến việc: “Nước Mỹ có phần trách nhiệm ñối với các<br />
thuộc ñịa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, có mối lưu tâm ñặc biệt ñến vận mệnh của những xứ<br />
sở này” [7, trang 30].<br />
Trong suốt quá trình phong trào giải phóng dân tộc ở Mỹ latinh diễn ra, Nhà<br />
Trắng ñã cử những ñại diện của mình dưới danh nghĩa “thủy thủ và thương mại” ñến<br />
Trung và Nam Mỹ ñể nắm bắt tình hình và thiết lập quan hệ ngoại giao không chính<br />
thức với các lãnh tụ cách mạng. Mặt khác, Nhà Trắng cũng bí mật viện trợ vũ khí, ñạn<br />
dược, quân trang, ... cho nghĩa quân và mở cửa các hải cảng của mình cho các thương<br />
thuyền có xuất xứ từ Mỹ latinh vào trao ñổi buôn bán và nhận hàng viện trợ.<br />
Vào khoảng ñầu thế kỷ XIX, hầu hết các thuộc ñịa của Tây Ban Nha và Bồ ðào<br />
Nha ở Mỹ Latinh ñã giành ñược ñộc lập, dẫn ñến sự ra ñời hàng loạt các nước cộng hoà,<br />
như: Chile (1818), Colombia (1819), Mexico (1821), Peru (1821), Venezuela (1811), ...<br />
hoặc nước theo chế ñộ quân chủ lập hiến như Braxin (1822). Ngay khi các quốc gia ñộc<br />
lập mới ra ñời ở Mỹ latinh lập tức ñã ñược Nhà Trắng, ñứng ñầu là Tổng thống James<br />
Monroe công nhận và ñặt quan hệ ngoại giao (1822). Theo sử gia Howard Cincotta, sự<br />
công nhận này khẳng ñịnh “uy tín của Mỹ, với tư cách là quốc gia ñộc lập, thực sự ñã<br />
hoàn toàn tách khỏi những mối ràng buộc trước kia với châu Âu” [1, trang 149]. Nó<br />
ñánh dấu sự lớn mạnh của giai cấp tư sản Mỹ ñang khao khát muốn vươn tầm ảnh<br />
hưởng của mình ñến Trung và Nam Mỹ.<br />
Trong quá trình vươn tầm ảnh hưởng của mình xuống phía Nam Tây bán cầu,<br />
nước Mỹ phải ñối mặt với sự cạnh tranh quyết liệt từ phía các cường quốc châu Âu.<br />
Trong khi Tây Ban Nha vẫn còn bị ám ảnh bởi những quyền lợi ñã mất tại Mỹ Latinh<br />
thì Anh và Pháp lại nảy sinh tham vọng xâm chiếm và mở rộng ảnh hưởng ở khu vực<br />
này. Cả Anh và Pháp vào thời ñiểm này ñang khẩn trương ñi tiếp nửa ñoạn ñường còn<br />
lại của cách mạng công nghiệp, nhu cầu về nguyên liệu và thị trường càng trở nên cấp<br />
bách. Ngoài ra, nước Nga ñứng ñầu là Sa hoàng cũng “ñể mắt” ñến lục ñịa châu Mỹ.<br />
Rõ ràng, với việc ra ñời của hàng loạt các quốc gia ñộc lập Mỹ Latinh, ñối với Nhà<br />
Trắng vừa là cơ hội, ñồng thời vừa là thách thức.<br />
2. Như trên ñã trình bày, trước thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc của<br />
nhân dân Mỹ Latinh, vương triều Madrid vẫn không chịu từ bỏ lợi ích thực dân của họ.<br />
Với âm mưu khôi phục lại nguyên trạng như trước thế kỷ XIX, quốc vương Tây Ban<br />
Nha dựa vào ðồng minh Thần thánh (Quadruple Alliance) 2 ñể dập tắt phong trào cách<br />
mạng ở Mỹ latinh. Ferdinand VII ñã kêu gọi các nước ðồng minh Thần thánh (chủ yếu<br />
<br />
2<br />
<br />
ðể củng cố hiệp ước Viên và bảo vệ chế ñộ quân chủ chuyên chế phản ñộng châu Âu, ngày 26-9-1815,<br />
theo sáng kiến của Nga hoàng, tổ chức ðồng minh Thần thánh ñược thành lập. ðây là tổ chức tập hợp hầu<br />
hết các quốc gia châu Âu theo Thiên Chúa giáo. Nhiệm vụ chủ yếu của ðồng minh Thần thánh là chống<br />
lại mọi biểu hiện tiến bộ về mặt chính trị, ñàn áp phong trào cách mạng và phong trào giải phóng dân tộc<br />
ở bất kỳ nước nào mà nó xảy ra. Từ năm 1818, nước Pháp gia nhập tổ chức này.<br />
<br />
113<br />
<br />
là Áo, Nga và Pháp) giúp Tây Ban Nha khôi phục sự thống trị của mình ở Mỹ latinh.<br />
Có một thực tế lịch sử, sau khi cuộc chiến tranh của Napoleon chấm dứt (1815),<br />
dưới tác ñộng của ðại Cách mạng Pháp, phong trào dân chủ ở châu Âu bùng phát dữ<br />
dội, nhất là ở ðức, Italia và Tây Ban Nha. Nhiều nơi giành ñược thắng lợi bước ñầu.<br />
Tình hình này ñã làm lung lay tận gốc rễ các thế lực quân chủ chuyên chế ở châu Âu.<br />
Với âm mưu “ñẩy lùi bánh xe lịch sử”, tại hội nghị ở Troppau (Áo) diễn ra từ tháng 10<br />
ñến 12-1820, bất chấp sự phản ñối của Anh, ðồng minh Thần thánh thông qua một<br />
“Nghị ñịnh thư”, khẳng ñịnh rằng: “Các quốc gia vừa mới trải qua sự thay ñổi chính<br />
phủ bằng cuộc cách mạng, những kết quả ñó là mầm họa ñối với các dân tộc khác, bản<br />
thân hành ñộng này buộc những thành viên của ðồng minh Thần thánh phải có sứ<br />
mạng ngăn chặn tình trạng này cho ñến khi lập lại ñược trật tự và ổn ñịnh tình hình.<br />
Trong trường hợp xảy ra tình huống bất trắc, ñe dọa trực tiếp ñến các quốc gia khác,<br />
thì lực lượng của ðồng minh Thần thánh cam kết, bằng biện pháp hòa bình hoặc vũ<br />
trang, ñặt quốc gia chống ñối dưới sự bảo trợ của ðồng minh này” [7, trang 43].<br />
Trong năm 1820, có 4 cuộc khởi nghĩa nổ ra ở châu Âu, trong ñó có hai cuộc<br />
khởi nghĩa diễn ra ở Italia (tại Naples và Piedmont), một cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Tây<br />
Ban Nha và một ở Bồ ðào Nha. Trước tình hình ñó, ðồng minh Thần thánh buộc phải<br />
thực hiện “sứ mạng” của mình như ñã cam kết. Nga và Áo với một triệu quân ñược<br />
trang bị khí giới, tiến vào Italia ñể ñàn áp cuộc nổi dậy ở Naples và Piedmont. Trong khi<br />
ñó, dưới sự ủy nhiệm của ðồng minh Thần thánh, Pháp ñã tiến quân ñàn áp cuộc khởi<br />
nghĩa ở Tây Ban Nha, bất chấp sự phản ứng quyết liệt của Anh. Như vậy, với cuộc tiến<br />
quân của ðồng minh Thần thánh vào các quốc gia châu Âu có thể suy luận rằng, trong<br />
trường hợp ðồng minh Thần thánh dập tắt ñược các cuộc khởi nghĩa ở châu Âu, thì theo<br />
logic vấn ñề, nhân danh Tây Ban Nha, tổ chức này có thể lặp lại hành ñộng tương tự này<br />
ở Mỹ Latinh.<br />
Vào cuối thế kỷ XVIII, ở phía Nam lục ñịa châu Mỹ, Nhà Trắng ñang âm mưu<br />
lập lại “trật tự cũ” của Tây Ban Nha thì ở phía Bắc lục ñịa này, sự bành trướng của<br />
nước Nga Sa hoàng ngày càng mạnh mẽ. Sau khi thiết lập những cứ ñiểm buôn bán lông<br />
thú ở Tây bắc lục ñịa châu Mỹ, năm 1799, chính phủ Nga Sa hoàng thành lập công ty<br />
Mỹ Nga (Russian American Company). Công ty này giữ ñộc quyền buôn bán lông thú<br />
với phạm vi xuống ñến vĩ ñộ 510 Bắc 3. Do những giá trị lớn mang lại trong hoạt ñộng<br />
thương mại, ngày 4-11-1821, Sa hoàng Alexander I, ban hành Sắc lệnh khẳng ñịnh chủ<br />
quyền của mình ở Bắc Mỹ. Sắc lệnh quy ñịnh: “Việc theo ñuổi thương mại, săn bắt cá<br />
voi, ñánh cá và những hoạt ñộng kinh doanh khác thuộc tất cả hòn ñảo và vịnh, bao<br />
gồm toàn bộ vùng bờ biển Tây Bắc lục ñịa Bắc Mỹ, bắt ñầu từ eo biển Bering xuống<br />
<br />
3<br />
<br />
Lúc bấy giờ giới hạn lãnh thổ nước Mỹ ở Tây bán cầu trải dài từ vĩ tuyến 490 Bắc xuống ñến vĩ tuyến<br />
250 Bắc.<br />
<br />
114<br />
<br />
ñến vĩ ñộ 510 Bắc… là nằm trong ñặc quyền của Nga.<br />
Do ñó, Nga ngăn cấm tất cả các thuyền bè ngoại quốc không ñược neo ñậu trên<br />
ñất liền và các hòn ñảo thuộc chủ quyền của Nga như ñã tuyên bố, mà còn giới hạn lưu<br />
thông của chúng cách ñường ranh giới quy ñịnh tối thiểu 100 dặm. Thuyền bè ngoại<br />
quốc nào vi phạm sẽ bị tịch thu cùng với toàn bộ hàng hóa” [7, trang 42].<br />
Mục ñích sâu xa của Nga Sa hoàng là muốn chiếm lấy vùng Oregon, ñịa ñiểm<br />
buôn bán lông thú quan trọng và tước ñoạt việc vận chuyển của thương thuyền Mỹ giữa<br />
vùng Oregon với Trung Quốc. Mặt khác, một khi tạo ñược “chỗ ñứng chân” vững chắc<br />
ở phía Bắc lục ñịa châu Mỹ thì cũng mở ra cho Nga Sa hoàng nhiều cơ hội xâm nhập<br />
xuống Trung và Nam Mỹ một cách dễ dàng. Rõ ràng, các ñộng thái của ðồng minh<br />
Thần thánh và Nga hoàng ñối với lục ñịa châu Mỹ gây ra sự lo lắng từ phía chính giới<br />
Mỹ.<br />
Sự lo lắng của Nhà Trắng càng gia tăng, khi Anh ñẩy mạnh xâm nhập thị trường<br />
Mỹ latinh thông qua hoạt ñộng kinh tế. George Canning, Ngoại trưởng Anh, tuyên bố:<br />
“Nếu chúng ta hành ñộng một cách khôn khéo thì châu Mỹ của Tây Ban Nha ñược giải<br />
phóng sẽ trở thành châu Mỹ của Anh” [9, trang 51].<br />
Trong thời gian cuộc chiến tranh Napoleon nổ ra ở châu Âu, do bận tập trung ñối<br />
phó tại “mặt trận chính quốc” nên sự thống trị của Tây Ban Nha ở Mỹ Latinh có phần<br />
nới lỏng. Lợi dụng tình hình này, nước Anh ñẩy mạnh hoạt ñộng thương mại, phá vỡ sự<br />
ñộc quyền của Tây Ban Nha ở ñịa bàn này. Tư bản Anh còn ñầu tư một số vốn khá lớn<br />
vào các nước Mỹ Latinh. Phần lớn vốn ñầu tư tập trung vào miền nam Nam Mỹ và chủ<br />
yếu vào các ngành ñường sắt, xây dựng hải cảng, khai thác nguyên liệu, trồng cà phê,<br />
cao su, khai thác dầu lửa v.v... Tuy vậy, chính phủ Anh ñặc biệt lo lắng thế lực Pháp, trụ<br />
cột của ðồng minh Thần thánh sẽ gây áp lực Tây Ban Nha chuyển nhượng thuộc ñịa ở<br />
Mỹ Latinh cho Pháp, bởi Pháp ñã từng giúp Ferdinand VII ñàn áp cách mạng ở Madrid,<br />
phục hồi ngai vàng. Sự ràng buộc này tạo ñiều kiện cho Pháp xâm nhập vào khu vực<br />
Mỹ Latinh một cách dễ dàng, ñe dọa trực tiếp quyền lợi của Anh.<br />
Nắm bắt ñược tham vọng của các nước châu Âu, ngày 20-8-1823, tại London,<br />
Ngoại trưởng Anh, G. Canning gặp Công sứ Mỹ, Richard Rush, ñề nghị Mỹ cùng với<br />
Anh ra tuyên bố chung liên quan ñến Mỹ latinh, gồm 5 ñiểm:<br />
“1. Việc khôi phục chủ quyền Tây Ban Nha ở Mỹ Latinh là hoàn toàn không khả<br />
thi.<br />
2. Việc công nhận ñộc lập các quốc gia Mỹ latinh chỉ còn là vấn ñề thời gian và<br />
thời cơ.<br />
3. Không quốc gia nào ñược áp ñặt thỏa thuận giữa Tây Ban Nha và các thuộc<br />
ñịa.<br />
4. Cả Anh và Mỹ không theo ñuổi mục ñích chiếm giữ bất kì phần lãnh thổ<br />
115<br />
<br />