BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHẠM TẤN ĐỘ
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI ĐẾN TĂNG TRƯỞNG NĂNG SUẤT YẾU TỐ
TỔNG HỢP CỦA CÁC NGÀNH Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2013
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
PHẠM TẤN ĐỘ
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI ĐẾN TĂNG TRƯỞNG NĂNG SUẤT YẾU TỐ
TỔNG HỢP CỦA CÁC NGÀNH Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 60310105
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM KHÁNH NAM
TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là do chính tôi thực hiện.
Các trích dẫn và số liệu đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong
phạm vi hiểu biết của tôi. Kết quả trong luận văn là hoàn toàn trung thực.
Phạm Tấn Độ
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục hình
Danh mục bảng
Danh mục phụ lục
Các từ viết tắt
Tóm tắt
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ................................................................................... 1
1.1. Đặt vấn đề .................................................................................................... 1
1.2. Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu ........................................................... 3
1.3. Câu hỏi nghiên cứu ....................................................................................... 3
1.4. Cấu trúc luận văn .......................................................................................... 3
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT...................................................................... 5
2.1. Khái niệm và nhân tố tác động đến TFP ........................................................ 5
2.2. Vai trò và tác động lan tỏa của FDI ............................................................... 8
2.2.1. Vai trò của FDI ................................................................................ 8
2.2.2. Tác động lan tỏa của FDI ................................................................. 9
2.3. Mô hình cân bằng tổng quát .......................................................................... 13
2.4. Nghiên cứu liên quan .................................................................................... 19
2.5 Khung phân tích ........................................................................................... 24
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 25
3.1. Nguồn dữ liệu ............................................................................................... 25
3.2. Mô hình tính toán tăng trưởng TFP ............................................................... 25
3.3. Mô hình phân tích hồi quy ............................................................................ 28
CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM ..................................................... 32
4.1. Tổng quan xu hướng dòng vốn FDI vào Việt Nam........................................ 32
4.2. Kết quả tính toán tăng trưởng TFP ................................................................ 36
4.3. Kết quả phân tích tác động FDI đến tăng trưởng TFP ................................... 39
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ..................................................................................... 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 47
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 53
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Tác động cạnh tranh của FDI tới doanh nghiệp trong nước ...................... 12
Hình 2.2. Dòng vốn FDI N-S trong mô hình cân bằng tổng quát.............................. 16
Hình 2.3. Khung phân tích của nghiên cứu .............................................................. 24
Hình 4.1. Xu thế số dự án và các dòng vốn FDI giai đoạn 2000-2010 ...................... 33
Hình 4.2. Xu thế vốn FDI đăng ký và thực hiện giai đoạn 1991-2010 ...................... 33
Hình 4.3. Tốc độ tăng trưởng TFP bình quân hàng năm giai đoạn 2001-2011 .......... 37
DANH MỤC BẢNG
Bảng 4.1. Vốn FDI theo phân ngành kinh tế, tích lũy đến cuối năm 2011 ................ 35
Bảng 4.3. Hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình ............................................... 39
Bảng 4.4. Kết quả hồi qui cho mô hình tác động của FDI tới TFPG............................... 41
Bảng 4.2. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2001-2011 ................. 36
Bảng 4.5. TFPG bình quân hàng năm và tổng vốn FDI giai đoạn 2000-2011 ........... 43
DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kết quả tính toán tăng trưởng TFP .......................................................... 53
Phụ lục 2: Thống kê các biến sử dụng trong phân tích hồi qui ................................. 55
Phụ lục 3: Kết quả hồi qui ....................................................................................... 57
Phụ lục 4: Hausman test .......................................................................................... 60
CÁC TỪ VIẾT TẮT
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FE Fixed Effect
RE Random Effect
R&D Nghiên cứu và phát triển
TFP Năng suất yếu tố tổng hợp
TFPG Tăng trưởng năng suất yếu tố tổng hợp
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá tác động của FDI đến tăng trưởng TFP
cho 16 ngành ở Việt Nam trong giai đoạn 2000-2011. Nghiên cứu cho thấy về mặt lý
thuyết, với vai trò không những mang đến nguồn vốn mà còn mang đến tri thức và
công nghệ FDI được cho là có tác động lớn đến tăng trưởng kinh tế nói chung và tăng
trưởng TFP nói riêng. Nghiên cứu sử dụng phương pháp hạch toán tăng trưởng để tính
toán tăng trưởng TFP, kết quả cho thấy tăng trưởng TFP khá cao ở các ngành trong
lĩnh vực dịch vụ và nông nghiệp, các ngành công nghiệp và khai thác tài nguyên thiên
nhiên có tốc độ tăng trưởng TFP thấp, thậm chí có một số ngành âm. Nghiên cứu cũng
thực hiện hồi qui dữ liệu bảng nhằm đánh giá tác động của dòng vốn FDI đến tăng
trưởng TFP cho các ngành ở Việt Nam. Kết quả là dòng vốn FDI có tác động tiêu cực
đến tăng trưởng TFP với mức ý nghĩa 1%. Theo kết quả ước lượng thì nếu tỉ lệ vốn
FDI trên tổng đầu ra tăng lên 10% thì nó sẽ làm giảm TFP 0,27% -0,39% . Nghiên cứu
cũng đưa ra một số lập luận để giải thích cho tác động tiêu cực này, thứ nhất có thể là
do tác động lấn át của các doanh nghiệp FDI và năng lực hấp thu kém của các doanh
nghiệp trong nước. Nguyên nhân thứ hai có thể là các dòng vốn FDI vào Việt Nam
chủ yếu tập trung vào các ngành, lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên và tận dụng
nguồn lao động giá rẻ chứ không mang lại nhiều lợi ích cho tiến bộ công nghệ, nâng
cao năng lực quản lý cho nền kinh tế. Qua đó, tác giả có đưa ra một số gợi ý chính sách
nhằm cải thiện tác động của FDI lên tăng trưởng TFP.
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1. Đặt vấn đề
Theo mô hình tăng trưởng Tân cổ điển của Solow (1956), tăng trưởng GDP được
hình thành từ ba yếu tố: vốn, lao động và năng suất yếu tố tổng hợp (TFP). TFP đo
lường sự thay đổi đầu ra trên một đơn vị các đầu vào được kết hợp với nhau bao gồm
cả yếu tố nghiên cứu và phát triển, công nghệ mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kỹ năng
quản lý và các thay đổi trong tổ chức. TFP là chỉ tiêu phản ánh thế chủ động về kinh tế
của một tổ chức hay một Quốc gia dựa trên sự đổi mới các quá trình sản xuất và công
nghệ, kỹ thuật. TFP ngày càng trở nên quan trọng trong điều kiện phát triển dựa trên
đổi mới bằng sự nhấn mạnh vào khả năng sáng tạo, đổi mới và các phương pháp quản
lý tiên tiến cũng như các đầu tư mang lại giá trị gia tăng cao. Đối với các nước phát
triển, tỷ trọng đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế là tương đối cao (Solow,
1957), còn trong điều kiện các nước đang phát triển, hầu hết đều trong tiến trình cung
cấp lao động và cung cấp vốn cho nền kinh tế, nên đóng góp của vốn và lao động là
chủ yếu trong tăng trưởng kinh tế. Nhưng nếu không có những giải pháp khoa học và
công nghệ, phương thức quản lý, thì tăng vốn và tăng lao động một cách cơ học khó
dẫn đến một nền kinh tế tăng trưởng cao. Trong bài báo về lý thuyết tăng trưởng của
Solow (1994) khẳng định tăng vốn và lao động có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế ngắn
hạn, phù hợp với giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, còn tăng TFP mới là
nguồn gốc tăng trưởng trong dài hạn.Vì vậy, trong điều kiện kinh tế toàn cầu ngày nay,
yếu tố TFP ngày càng được coi là nhân tố quan trọng của tăng trưởng kinh tế.
Thị trường tài chính trên toàn cầu hiện tại đang rộng mở và tạo nhiều thuận lợi cho
các dòng vốn, trong đó có dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lưu chuyển một
cách tự do gần như khắp thế giới. Gorg và Greenaway (2004) cho rằng dòng vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài thông qua đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia ngoài việc mang
1
đến nguồn vốn cho nước nhận đầu tư, còn mang đến rất nhiều lợi ích cho quốc gia
nhận đầu tư như những quy trình khoa học công nghệ sản xuất mới, giúp nâng cao
trình độ quản lý của bộ phận quản lý và tay nghề cũng như trình độ chuyên môn của
người lao động ở nước nhận đầu tư. Hiện tại các nước đang phát triển cũng như các
nước phát triển đang tích cực thay đổi thể chế và mở cửa để thu hút tối đa dòng vốn
quốc tế này, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Việt Nam cũng không nằm ngoài
xu hướng quốc tế trên, tính đến năm 2012 Việt Nam ghi nhận nguồn vốn đăng ký xấp
xỉ 215 tỉ USD về tổng số từ hơn 14.800 dự án vốn đầu tư nước ngoài. Tổng số vốn thực
hiện những dự án này lên tới gần 90 tỉ USD (Cục Đầu Tư Nước Ngoài, 2013). Ngoại
trừ hai điểm đột biến vào các năm 1996 và 2008, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt
Nam đã có xu hướng tăng dần. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu thực nghiện đã chỉ ra rằng
dòng vốn FDI đi vào Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển nói chung không
đóng góp tích cực vào nguồn gốc tăng trưởng của các nước này (Aitken và Harrison,
1999; Djankov và Hoekman, 2000; Konings, 2001; Binh, 2012).
Alfaro và Ozcan (2008) nghiên cứu thực nghiệm trên dữ liệu 72 quốc gia trên thế
giới cho rằng chỉ có con đường tăng trưởng thông qua gia tăng năng suất của nhân tố
tổng hợp mới giúp quốc gia tăng trưởng bền vững, những quốc gia nhận đầu tư FDI và
tăng trưởng thông qua gia tăng nguồn lực vốn và nhân lực thì dẫn tới tăng trưởng
không bền vững vì sẽ rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Ở Việt Nam nghiên cứu
Nguyễn Thị Tuệ Anh và cộng sự (2005) chỉ ra rằng dòng vốn FDI ở Việt Nam có tác
động thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ nhưng chỉ thông qua việc gia tăng
lượng vốn trong nền kinh tế chứ không làm gia tăng năng suất lao động và vốn nhân
lực thông qua đổi mới công nghệ, hay nói cách khác không giúp gia tăng TFP. Ở Việt
Nam chưa có nghiên cứu nào ở cấp độ ngành đánh giá tác động của dòng vốn FDI đến
tăng trưởng TFP. Do đó, mục đích nghiên cứu của tác giả ở đây là xem xét liệu dòng
vốn FDI có thật sự tác động đến tăng trưởng TFP ở cấp độ ngành ở Việt Nam trong
2
giai đoạn 2000-2011 hay không. Và nếu có thì đó là tác động tích cực hay tiêu cực.
1.2. Mục tiêu và phương pháp nghiên cứu
Luận văn có hai mục tiêu nghiên cứu chính, thứ nhất là tính toán tốc độ tăng
trưởng TFP của các ngành. Thứ hai là đánh giá tác động của dòng vốn FDI đến tốc độ
tăng trưởng TFP của các ngành ở Việt Nam. Nghiên cứu xem xét, tổng hợp một số mô
hình lý thuyết về mối liên hệ giữa FDI và TFP như mô hình tăng trưởng ngoại sinh của
Solow (1956), mô hình tăng trưởng nội sinh hay lý thuyết tăng trưởng mới và mô hình
cân bằng tổng quát của Ben Ferrett (2004). Nghiên cứu sử dụng số liệu ở cấp độ ngành,
bao gồm 16 ngành, trong giai đoạn 2000 - 2011. Dữ liệu tính toán chủ yếu lấy từ Niên
giám thống kê hàng năm và trên trang web của tổng cục thống kê. Nghiên cứu sử dụng
phương pháp hạch toán tăng trưởng của Solow (1956) để tính toán tăng trưởng TFP và
sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng để đánh giá tác động của dòng vốn FDI lên
tăng trưởng TFP. Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu nhằm kiểm định lại các kết quả của
các nghiên cứu trước về mối liên hệ giữa FDI và tăng trưởng TFP. Qua đó đưa ra một
số gợi ý chính sách cho việc tiếp nhận dòng vốn FDI vào trong nước.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm trả lời câu hỏi chính: Liệu rằng FDI có tác động đến tăng trưởng
TFP của các ngành ở Việt Nam hay không?
Để trả lời câu hỏi này, tác giả thực hiện trả lời các câu hỏi phụ sau:
1. Về mặt lý thuyết, FDI tác động đến tăng trưởng TFP như thế nào?
2. Tính toán tăng trưởng TFP ở cấp độ ngành như thế nào?
3. Liệu dòng vốn FDI có tác động đến tăng trưởng TFP của các ngành trong nước
hay không?
1.4. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 5 chương, tiếp theo sau chương giới thiệu là Chương 2, chương này
3
trình bày cơ sở lý thuyết sử dụng để đánh giá tác động của FDI tới tăng trưởng TFP
thông qua mô hình cân bằng tổng quát và kênh tác động lan tỏa. Trong chương này,
cũng đưa ra một vài nghiên cứu liên quan đến nghiên cứu này. Chương 3 sẽ trình bày
phương pháp nghiên cứu thực nghiệm, bao gồm mô tả số liệu và mô hình phân tích.
Phần kết quả và thảo luận về tăng trưởng TFP và tác động của FDI sẽ được trình bày ở
4
Chương 4. Chương 5 sẽ là phần kết luận, kiến nghị và hướng nghiên cứu tiếp theo.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Trong phần này, đầu tiên tác giả sẽ khái quát về TFP và các nhân tố tác động đến
TFP. Tiếp theo sẽ trình bày vai trò của FDI và hiệu ứng lan tỏa của nó. Tiếp đến là mô
hình lý thuyết cân bằng tổng quát (General Equilibrium) về mối quan hệ giữa FDI và
tăng trưởng TFP. Cuối cùng là tóm tắt một số nghiên cứu liên quan.
2.1. Khái niệm và nhân tố tác động đến TFP
TFP hay còn được gọi là phần dư Solow được đưa ra lần đầu tiên bởi Robert
Solow trong nghiên cứu về lý thuyết tăng trưởng kinh tế của mình năm 1956. Khái
niệm TFP ban đầu được dùng trong phân tích vĩ mô, nhưng sau đó nó cũng được sử
dụng rộng rãi trong các phân tích vi mô ở cấp độ ngành hay doanh nghiệp. Theo Solow
(1956) hàm sản xuất được viết dưới dạng:
Y = A(t)F(K,L) , A(t) chính là TFP.
TFP là tỷ số của số lượng tất cả các đầu ra với số lượng tất cả đầu vào. TFP đo
lường quan hệ giữa đầu ra với mức kết hợp hai hay nhiều các đầu vào (thường là lao
động và vốn). Goldberg và cộng sự (2005) cho rằng TFP còn thể hiện một phần của
đầu ra còn lại không giải thích được sự đóng góp trong các yếu tố đầu vào. Cụ thể, TFP
đo lường đóng góp cho đầu ra của nền kinh tế vượt ra ngoài đóng góp bởi số lượng lao
động, máy móc và vốn sử dụng. Như vậy, TFP phản ảnh tiến bộ của khoa học, kỹ thuật
và công nghệ, của giáo dục và đào tạo, qua đó gia tăng đầu ra không chỉ phụ thuộc vào
tăng thêm về số lượng của đầu vào mà còn vào cả chất lượng của các yếu tố đầu vào là
vốn và lao động. Tăng TFP gắn liền với áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, đổi mới công
nghệ, cải tiến phương thức quản lý và nâng cao kỹ năng, trình độ tay nghề của người
lao động. Cùng với lượng đầu vào như nhau, lượng đầu ra có thể lớn hơn nhờ vào việc
cải tiến chất lượng của lao động, của vốn và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực
này. Điều này là rất quan trọng đối với người lao động, doanh nghiệp và toàn nền kinh
5
tế. Đối với người lao động, nâng cao TFP sẽ góp phần nâng lương, nâng thưởng, điều
kiện lao động được cải thiện, công việc ổn định hơn. Đối với doanh nghiệp thì có khả
năng mở rộng tái sản xuất. Còn đối với nền kinh tế sẽ nâng cao sức cạnh tranh trên
trường quốc tế, nâng cao phúc lợi xã hội.
Do đó, việc tăng TFP ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
khi mà nền kinh tế hiện nay đang chuyển sang hướng phát triển mới. Theo kết quả
nghiên cứu của Tổ chức Năng suất châu Á (2004) TFP có thể tăng vì nhiều lý do: chất
lượng của lao động tăng lên, giúp cho một giờ làm việc đem lại nhiều sản lượng hơn;
thay đổi về thành phần hay chất lượng của vốn khiến cho sử dụng vốn có hiệu quả cao
hơn; có thể do tiến bộ công nghệ xuất phát từ công tác nghiên cứu và phát triển (R&D)
trong nước, vay mượn từ tri thức toàn cầu, hay chỉ đơn giản là rút kinh nghiệm từ thực
tế làm việc; cũng có thể do tái phân bổ nguồn lực, một người lao động chuyển từ một
công việc có năng suất thấp sang một công việc có năng suất cao trong nhà máy sẽ trở
nên có hiệu quả hơn, dù trình độ học vấn không thay đổi; ngoài ra những thay đổi ngắn
hạn về cầu cũng có thể làm thay đổi TFP.
Chất lượng nguồn lao động: Đầu tư vào nguồn nhân lực làm tăng năng lực cho
lực lượng lao động, nâng cao trình độ học vấn làm tăng khả năng tiếp thu, ứng dụng
những tiến bộ khoa học và công nghệ; nâng cao kỹ năng, tay nghề của người lao động.
Đầu vào có chất lượng của nguồn lao động làm tăng năng lực sản xuất ra các sản phẩm
và dịch vụ chất lượng cao- yếu tố rất quan trọng làm tăng TFP (Romer, 1990). Ở quốc
gia đang phát triển, vai trò của vốn nhân lực là để hấp thu các công nghệ hiện đại từ
các quốc gia phát triển. Ở quốc gia phát triển, vai trò nguồn vốn nhân lực là để thực
hiện các đổi mới công nghệ. Yếu tố tác động tới chất lượng lao động là đầu tư vào hoạt
động nghiên cứu và phát triển (R&D), chất lượng nền giáo dục đào tạo, tác động FDI
(Haacker, 1999) và học tập bằng cách thực hành -learning by doing (Arrow, 1962).
Thay đổi nhu cầu hàng hoá, dịch vụ: Việc tăng nhu cầu trong nước và nước
6
ngoài đối với sản phẩm và dịch vụ sẽ dẫn đến tỷ lệ sử dụng sản phẩm tiềm năng cao
hơn. Từ đó kích thích sản xuất và sáng tạo nhiều hơn, cải tiến chất lượng, mẫu mã dẫn
đến tác động đến TFP. Ví dụ, Melitz (2003) cho rằng nhu cầu xuất khẩu tăng doanh
nghiệp sẽ mạnh dạn đầu tư vào công nghệ, thực hiện chuyên môn hóa, mở rộng sản
xuất nhằm tăng năng suất, giảm chi phí lao động (Hiệu quả kinh tế theo quy mô).
Thay đổi cơ cấu vốn đầu tư: Đầu tư phát triển công nghệ sản xuất mới là yêu cầu
đòi hỏi tất yếu nhằm cải tiến chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Công nghệ mới sẽ nâng
cao năng lực cạnh tranh và giảm chi phí sản xuất. Thông qua cơ cấu lại vốn, các ngành
sẽ hoạch định tốt hơn nhằm tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Lựa chọn các lĩnh vực
để đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng cường đầu tư công nghệ tiên tiến
như công nghệ thông tin và truyền thông; các công nghệ hiện đại, tự động hoá; đầu tư
vào những lĩnh vực có năng suất cao, có giá trị gia tăng lớn từ đó sẽ tăng TFP.
Thay đổi cơ cấu kinh tế: Cơ cấu lại nền kinh tế là việc chuyển các nguồn lực từ
các ngành và thành phần kinh tế kém năng suất sang ngành và thành phần kinh tế có
năng suất cao, tận dụng tốt lợi thế so sánh. Việc phân bổ lại các nguồn lực phát triển
kinh tế như vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ giữa các ngành,
các thành phần kinh tế để có được các ngành và thành phần kinh tế có năng suất cao
hơn sẽ dẫn đến sử dụng có hiệu suất và hiệu quả các nguồn lực và dẫn đến TFP tăng
cao.
Áp dụng tiến bộ kỹ thuật công nghệ: Trong các yếu tố kể trên, yếu tố tiến bộ
khoa học kỹ thuật - công nghệ đóng góp vào tăng TFP được được cho là quan trọng
hơn cả (Hall và Jones, 1999). Nó bao gồm các hệ thống hoặc mô hình quản lý được
ứng dụng để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động và vốn; các công nghệ tiên tiến được
áp dụng; các nghiên cứu, phát triển mới liên quan đến phát triển sản phẩm mới, phương
pháp sản xuất, phương pháp quản lý; chất lượng lực lượng lao động trong ứng dụng,
vận hành những khoa học và công nghệ tiến bộ; chuyển giao những sáng kiến và đổi
7
mới vào thực tế tạo ra những sản phẩm, dịch vụ, quá trình có năng suất và chất lượng
cao. Tính sáng tạo, sự đổi mới và tư duy năng suất sẽ định hướng sự tích tụ, phổ biến
và sử dụng kiến thức nhằm tăng TFP.Tiến bộ công nghệ có thể được hình thành từ việc
chuyển giao công nghệ của các nhà đầu tư FDI, từ những phát kiến công nghệ từ hoạt
động nghiên cứu phát triển và từ việc học hỏi, bắt chước các doanh nghiệp của các
nước phát triển, các doanh nghiệp FDI.
Theo lý thuyết tân cổ điển của Solow (1956) đã chỉ ra rằng tiến bộ công nghệ là
nguồn gốc của tăng trưởng trong dài hạn và nó là nhân tố quyết định đến tăng trưởng
TFP. Lý thuyết này cho rằng tiến bộ công nghệ là yếu tố ngoại sinh, được ví như yếu tố
“từ trên trời rơi xuống” (manna from heaven). Tuy nhiên, lý thuyết tăng trưởng nội
sinh hay lý thuyết tăng trưởng mới (Arrow, 1962; Romer, 1986; Lucas, 1988; Rebelo,
1991 và Grossman và Helpman, 1994) lý giải rằng tiến bộ công nghệ là yếu tố nội sinh.
Nguồn gốc của của tiến bộ công nghệ là từ những phát kiến, từ hoạt động nghiên cứu
phát triển, từ việc học hỏi hay vốn con người.
2.2. Vai trò và tác động lan tỏa của FDI
2.2.1. Vai trò của FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được xem là một trong những nhân tố quan
trọng trong đầu tư. FDI tác động tới tăng trưởng kinh tế thông qua nhiều kênh khác
nhau. Tác động đối với tăng trưởng của FDI thường được thông qua kênh đầu tư trực
tiếp và gián tiếp thông qua các tác động lan tỏa. Một số ý kiến còn cho rằng FDI có thể
làm tăng đầu tư trong nước thông qua tăng đầu tư của các doanh nghiệp trong nước,
đặc biệt là những doanh nghiệp trong nước cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp
FDI họăc tiêu thụ sản phẩm từ các doanh nghiệp FDI. Mặt khác chuyển giao công nghệ
từ các doanh nghiệp mẹ ở nước ngoài có thể diễn ra thông qua việc bổ sung thêm khối
lượng tư bản dùng cho hoạt động sản xuất nhiều hơn, sử dụng những cải tiến trong sản
phẩm và quy trình sản xuất, và thông qua các hoạt động đổi mới và R&D của những
8
doanh nghiệp này ở nước nhận đầu tư (Gorg và Greenaway, 2004). Đồng thời, các
chính sách cải thiện cơ sở hạ tầng của chính phủ nhằm thu hút nhiều vốn FDI hơn cũng
thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước hình thành và phát triển. Theo cách tiếp cận
khác, FDI gây áp lực buộc nước sở tại phải nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia mà
trước hết là cải thiện môi trường đầu tư, qua đó làm giảm chi phí giao dịch cho các nhà
đầu tư nước ngoài, tăng hiệu suất của vốn và rốt cuộc là tác động tích cực tới tăng
trưởng kinh tế (Blomstrom và Wang, 1992). Trái lại cũng có một số ý kiến lo ngại về
tác động tiêu cực của FDI tới tăng trưởng kinh tế, cho rằng sự xuất hiện của doanh
nghiệp có vốn FDI có thể gây cạnh tranh khốc liệt với các doanh nghiệp trong nước mà
phần thua thiệt thường là các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp trong nước
bị mất thị trường, mất lao động có kỹ năng và vì vậy có thể dẫn đến phá sản. Ngoài ra,
vốn FDI có thể làm cho đầu tư trong nước bị thu hẹp do nhiều doanh nghiệp bị mất cơ
hội đầu tư họăc đầu tư không hiệu quả do trình độ công nghệ thấp kém, vốn ít. Điều
này xảy ra khi xuất hiện tác động lấn át đầu tư của doanh nghiệp FDI (Aitken và
Harrison, 1999).
2.2.2. Tác động lan tỏa của FDI
Sự xuất hiện của tác động lan tỏa của FDI có thể lý giải qua sự chênh lệch về trình
độ phát triển giữa các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước và vì vậy
ưu thế thuộc về các công ty đa quốc gia- là các công ty có thế mạnh về vốn và công
nghệ. Nhờ đó các công ty con hoặc liên doanh do các công ty đa quốc gia thành lập
thường có lợi thế về cạnh tranh so với các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các
nước kém phát triển. Blomstrom và cộng sự (1994) cho rằng sự xuất hiện của các
doanh nghiệp nước ngoài trước hết làm mất cân bằng trên thị trường và buộc các doanh
nghiệp trong nước phải điều chỉnh hành vi của mình nhằm duy trì thị phần và lợi
nhuận. Vì vậy, tác động lan tỏa có thể được coi là kết quả của hoạt động của các công
ty nước ngoài diễn ra đồng thời với quá trình điều chỉnh hành vi của các doanh nghiệp
9
trong nước.
Có thể phân ra bốn loại tác động lan tỏa: (1) tác động liên quan tới cơ cấu đầu ra-
đầu vào của doanh nghiệp (Backward-forward effects), (2) tác động liên quan đến phổ
biến và chuyển giao công nghệ (Demonstration effects), (3) tác động liên quan đến thị
phần trong nước hay tác động cạnh tranh (Competition effect) và (4) tác động liên quan
đến trình độ lao động hay vốn con người ( Human Capital). Các tác động lan tỏa nêu
trên có thể ảnh hưởng tới TFP của các doanh nghiệp trong nước.
Tác động lan tỏa loại thứ nhất xuất hiện khi có sự trao đổi/hoặc mua bán nguyên
vật liệu hoặc hàng hoá trung gian giữa các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp
trong nước. Loại tác động này có thể sinh ra theo hai chiều: tác động xuôi chiều
(forward effect) xuất hiện nếu doanh nghiệp trong nước sử dụng hàng hoá trung gian
của doanh nghiệp FDI và ngược lại tác động ngược chiều (backward effect) có thể xuất
hiện khi các doanh nghiệp FDI sử dụng hàng hóa trung gian do các doanh nghiệp trong
nước sản xuất. Việc các doanh nghiệp trong nước cung cấp hàng hoá trung gian cho
doanh nghiệp FDI sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này mở rộng sản xuất và giảm
chi phí trên 1 đơn vị sản phẩm (Đây là kết quả của hiệu suất tăng dần theo qui mô).
Đồng thời để duy trì mối quan hệ bạn hàng lâu dài, các doanh nghiệp trong nước phải
đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp FDI, nhất là về chất lượng sản phẩm nên có xu
hướng áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng mới trong sản xuất. Chính hành vi này giúp
doanh nghiệp trong nước tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường sản phẩm trong
trung và dài hạn. Nhiều nghiên cứu thực tiễn cho rằng hầu hết các doanh nghiệp trong
nước khó trở thành nhà cung cấp nguyên liệu/hàng hoá trung gian đầu vào cho doanh
nghiệp FDI do không đáp ứng được yêu cầu do phía cầu đưa ra. Tuy nhiên, nếu tác
động ngược chiều xảy ra thì các doanh nghiệp trong nước có khả năng bứt lên và tiến
hành xuất khẩu hoặc chiếm lĩnh dần thị phần sản phẩm mà trước đây do các doanh
nghiệp FDI thống lĩnh. Vì vậy, tác động ngược chiều này là mong muốn và rất có ý
10
nghĩa đối với các nước chậm phát triển.
Tác động lan tỏa liên quan đến phổ biến và chuyển giao công nghệ thường được
coi là một mục tiêu quan trọng của các nước nghèo. Thông qua FDI, các công ty nước
ngoài sẽ đem công nghệ tiên tiến hơn từ công ty mẹ vào sản xuất tại nước sở tại thông
qua thành lập các công ty con hay chi nhánh. Sự xuất hiện của các công ty nước ngoài
tuy nhiên xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận trên cơ sở tận dụng những lợi thế có được từ
công ty mẹ để sẵn sàng cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước (Blomstrom và Wang,
1992). Vì vậy, hoạt động của các doanh nghiệp FDI sẽ khuyến khích nhưng cũng gây
áp lực về đổi mới công nghệ nhằm tăng năng lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp
trong nước. Về phía doanh nghiệp trong nước, một mặt do năng lực yếu kém về đổi
mới công nghệ, mặt khác công nghệ tiên tiến đều do các công ty qui mô lớn có tiềm
năng công nghệ trên thế giới nắm giữ, để vượt qua yếu điểm này họ có xu hướng muốn
được áp dụng ngay công nghệ tiên tiến hoặc trực tiếp thông qua thành lập các liên
doanh với đối tác nước ngoài hoặc gián tiếp thông qua phổ biến và chuyển giao công
nghệ từ các doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp FDI mặc dù không muốn tiết lộ bí
quyết công nghệ cho đối thủ trong nước nhưng cũng sẵn sàng bắt tay với đối tác trong
nước để thành lập liên doanh, qua đó diễn ra quá trình rò rỉ công nghệ. Điều này góp
phần làm tăng trưởng công nghệ ở các doanh nghiệp trong nước. Đây là nhân tố quan
trọng làm tăng TFP của các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với
các nước nghèo là liệu các điều kiện trong nước có đủ để đón nhận phổ biến và chuyển
giao công nghệ hay không. Kết quả từ mô hình lý thuyết Glass và Saggi (1998) rút ra
là mức độ phổ biến và chuyển giao công nghệ còn phụ thuộc vào khả năng hấp thụ của
doanh nghiệp trong nước.
Loại tác động lan tỏa tiếp theo cũng được coi là rất quan trọng đối với các nước
chậm phát triển là sự có mặt của doanh nghiệp FDI tạo ra tác động cạnh tranh cho các
doanh nghiệp trong nước (Blomstrom và Wang, 1992; Glass và Saggi, 2002). Tuy
11
nhiên, tác động này lại phụ thuộc vào cấu trúc thị trường và trình độ công nghệ của
nước nhận đầu tư. Đối với các nước chậm phát triển, trong nhiều trường hợp tác động
Giá một đơn vị sản phẩm
P2
P1
AC1
AC2
Q
Q1
Sản lượng
Hình trên là một ví dụ thể hiện phản ứng (hay là kết quả của tác động lan tỏa) của doanh
nghiệp trong nước trước sự xuất hiện của doanh nghiệp FDI cùng ngành trong ngắn hạn. Sự lấn át
thị trường của doanh nghiệp FDI làm thu hẹp thị phần của doanh nghiệp trong nước và đẩy chi phí
cố định lên cao. Trước tác động này, doanh nghiệp trong nước có xu hướng điều chỉnh giảm chi
phí trung bình (từ AC1 xuống AC2). Nhưng nếu áp lực cạnh tranh ban đầu từ doanh nghiệp FDI đủ
mạnh, doanh nghiệp sẽ buộc phải giảm sản lượng (từ Q1 xuống Q2) và tác động cuối cùng là làm
tăng giá thành trên 1 đơn vị sản phẩm (chuyển dịch từ vị trí 1 lên 2). Nguồn: Aitken và Harrison
(1999).
cạnh tranh của FDI là rất khốc liệt trước khi nó mang lại tác động lan tỏa tích cực khác.
Hình 2.1. Tác động cạnh tranh của FDI tới doanh nghiệp trong nước
Ví dụ, các doanh nghiệp FDI tung ra thị trường một loại sản phẩm mới có tính chất
thay thế cho sản phẩm trước đây sản xuất bởi doanh nghiệp trong nước, qua đó ảnh
hưởng lớn tới sự tồn tại của doanh nghiệp trong nước. Sự hiện diện của FDI chính là
một tác nhân thúc đẩy cạnh tranh và trong nhiều trường hợp, tác động lan tỏa có thể
12
dẫn đến tình trạng giảm sản lượng của doanh nghiệp trong nước trong ngắn hạn
(Aitken và Harrison, 1999). Kết quả là các doanh nghiệp trong nước bị tác động hoặc
muốn sống sót thì phải đổi mới công nghệ, tái cơ cấu để tăng năng suất và chất lượng
để thích nghi với môi trường cạnh tranh (từ đó sẽ làm tăng TFP của doanh nghiệp trong
nước) hoặc phải rời khỏi thị trường (tác động lấn át, làm suy giảm nền kinh tế).
Ngoài việc tạo thêm việc làm, FDI còn là một tác nhân truyền bá kiến thức quản lý
và kỹ năng tay nghề cho lao động của nước nhận FDI (Haacker, 1999). Tác động lan
tỏa này xuất hiện khi các doanh nghiệp FDI tuyển dụng lao động nước sở tại đảm nhận
các vị trí quản lý, các công việc chuyên môn hoặc tham gia nghiên cứu và triển khai.
Việc truyền bá kiến thức cũng diễn ra thông qua kênh đào tạo công nhân kỹ thuật ở
trong nước và tại công ty mẹ. Tác động lan tỏa tuy nhiên chỉ phát huy tác dụng khi đội
ngũ lao động có trình độ này ra khỏi doanh nghiệp FDI và chuyển sang làm việc tại các
doanh nghiệp trong nước hoặc tự thành lập doanh nghiệp và sử dụng những kiến thức
tích luỹ được trong quá trình làm việc cho các công ty con hoặc liên doanh với nước
ngoài vào công việc kinh doanh tiếp đó. Song mức độ di chuyển lao động còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác như sự phát triển của thị trường lao động, cầu về lao động
có trình độ kỹ năng cũng như các điều kiện gia nhập thị trường khi muốn khởi sự
doanh nghiệp. Đây cũng chính là cản trở lớn mà các nước chậm phát triển đang phải
đối mặt. Một vài đánh giá định lượng chỉ xác nhận mối quan hệ tích cực giữa kết quả
kinh doanh của doanh nghiệp nhận lao động chuyển từ doanh nghiệp FDI cùng ngành.
Trái lại, mối quan hệ này không được xác nhận đối với lao động trước đây được các
công ty FDI đào tạo và làm trong các doanh nghiệp FDI khác ngành (Goerg và Strobl,
2002). Trên thực tế, loại tác động lan tỏa do di chuyển lao động tuy nhiên rất khó đánh
giá với nhiều lý do. Chẳng hạn, doanh nghiệp trong nước tiếp nhận lao động chuyển
sang không có điều kiện hoặc không tạo điều kiện cho số lao động này phát huy năng
lực của mình. Năng suất lao động của doanh nghiệp tăng lên còn do nhiều yếu tố khác,
13
phụ thuộc vào quy mô vốn, cơ hội thị trường và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.3. Mô hình cân bằng tổng quát
Mô hình cân bằng tổng quát được Ben Ferrett (2004) đưa ra, xuất phát từ mô hình
tăng trưởng nổi tiếng của Solow (1956). Trong mô hình này, dòng vốn FDI (khi cân
bằng) đi từ nước có công nghệ cao tới thấp và ưu thế về công nghệ của một số quốc gia
được giả định là được bao gồm cho dòng vốn FDI. Dòng FDI đi vào quốc gia đang
phát triển với công nghệ thấp làm tăng tổng TFP một cách trực tiếp (thông qua nhập
khẩu vốn tốt) và gián tiếp (thông qua lan tỏa công nghệ từ các doanh nghiệp địa
phương). Vì vậy, các mô hình này hình thành một quá trình mà qua đó dòng FDI có thể
làm cho các nước đang phát triển bắt kịp (và có thể hội tụ) với các nước phát triển. Một
đặc điểm nổi bật trong phân tích này là khía cạnh cân bằng tổng quát. Thế giới bao
gồm hai khu vực (có lẽ các quốc gia riêng rẽ và nhóm các quốc gia giống nhau) Bắc và
α
α LN Phía Bắc: YN = AN KN
1-α yN = AN kN
α
Nam. Hàm sản xuất tổng hợp có Cobb-Douglas có dạng:
α LS
1-α yS = AS kS
Phía Nam: YS = AS KS
Trong đó, chữ cái viết hoa và viết thường lần lượt thể hiện tổng số lượng (Y = sản
lượng ròng, K = vốn, L = lao động) và năng suất trên đầu người (y = sản lượng
ròng/lao động, k = vốn/lao động). Chỉ số AN và AS lần lược là TFP của khu vực Bắc và
Nam. α là đóng góp của vốn trong tổng sản phẩm quốc gia.
Trong nền kinh tế tự cấp tự túc (không có dịch chuyển quốc tế của cả hai yếu tố),
mức độ vốn trên đầu người tại trạng thái dừng được xác định (như trong mô hình tăng
trưởng của Solow) bằng mức vốn yêu cầu đầu tư trên đầu người (tài trợ bằng tiết kiệm)
để bù đắp cho phần vốn khấu hao và tăng trưởng dân số:
= i Є {N,S} Nền kinh tế tự cấp tự túc: siyi (n+δ)ki ,
Đầu tư thực hiện trên đầu tư yêu cầu trên đầu người
14
đầu người (bằng tiết kiệm) để duy trì k cố định
Tốc độ tăng trưởng dân số và khấu hao (thường là như nhau giữa các vùng) lần
lượt là n và δ, và s là khuynh hướng tiết kiệm trung bình cố định (khác nhau giữa các
vùng). Vì vậy, tại trạng thái dừng, thì y/k=(n+ δ)/s cho cả hai khu vực, thay thế vào
trong sản lượng biên của vốn, ∂y/∂k=αy/k, chúng ta có lãi suất thực trong nền kinh tế tự
cấp tự túc: rN=(n+ δ)/sN , rS=(n+ δ)/ss.
Chúng ta đưa ra giả định sau: dẫn đầu công nghệ (AN > AS) và hành vi tiết kiệm:
(sN > sS). Giả định đầu nghĩa là khu vực phía N dẫn đầu công nghệ và khu vực S có
công nghệ thấp hơn đủ để đảm bảo cho rS > rN trong nền kinh tế tự cấp tự túc. Hình 2.2
minh họa phân tích này. Chú ý rằng trong nền kinh tế tự cấp tự túc, vốn trong trạng thái
dừng và thu nhập theo đầu người của các nước phía S đều thấp hơn các nước phía N vì
hai lý do: khuynh hướng tiết kiệm biên và tích lũy của phía N cao hơn (sN > sS) và TFP
của nó cũng cao hơn (AN > AS ).
Cho đến bây giờ, ta vẫn giả sử việc không di chuyển hoàn hảo các yếu tố giữa hai
vùng. Bây giờ ta giả sử vốn có thể dịch chuyển hoàn hảo trên phạm vi quốc tế (toàn
cầu hóa), hàm ý rS = rN = rw với rw là lãi suất thế giới thực khi cân bằng, (mặt khác vốn
có thể thay đổi đến nơi có sinh lợi). Vì rS > rN trong nền kinh tế tự cấp tự túc, vốn sẽ
dịch chuyển từ phía N xuống phía S do tự do hóa. Giá trị cân bằng của kN, kS tại trạng
thái dừng dưới giả định dịch chuyển hoàn hảo được đặc trưng bởi hai điều kiện sau:
Để đảm bảo cho sản lượng biên của vốn giữa các vùng bằng nhau:
(2.1) RN = rS kN /kS = (AN /AS)1/(1-α)
Đảm bảo cho tổng cầu vốn và tổng cung vốn cân bằng ở phạm vi toàn cầu thì xuất
khẩu vốn từ phía N trên đầu người = nhập khẩu vốn từ phía S trên đầu người:
(2.2) sNyN – (n+δ)kN = (n+δ)ks – sSyS
(2.2) hàm ý giả định hai vùng có cùng mức dân số; mở rộng đến hai vùng không có
15
cùng mức dân số đòi hỏi biểu thức bên trái (2.2) được nhân với tỉ số LN /LS
Hình 2.2. Dòng vốn FDI N-S trong mô hình cân bằng tổng quát. (Nguồn Solow
16
1957)
Ban đầu kN>kS ở nền kinh tế tự cung tự cấp. Khi dòng FDI đi từ N sang S, sản xuất
trên đầu người giảm ở khu vực N và tăng ở khu vực S vì vốn dịch chuyển về khu vực
phía S. Thứ hai, dòng FDI từ N xuống S, điều này tạo ra khả năng dịch chuyển công
nghệ nếu ưu thế TFP của phía N đi kèm với dòng vốn ra của nó. Vì vậy, TFP khu vực
S tăng trưởng nếu tồn tại một khoảng cách công nghệ giữa khu vực phía N và S.
Khoảng cách công nghệ giữa hai khu vực N và S càng lớn thì TFP của khu vực phía S
tăng càng nhanh và tầm quan trọng của vốn FDI của phía N càng tăng đối với phía S
(Wang, 1990; Findlay, 1978). Tuy nhiên, điều này có thể không đúng nếu phía S thiếu
khả năng hấp thụ. Vì vậy, trong thế giới được mô tả như trong hình 2.2, dịch chuyển
vốn hoàn hảo hàm ý (trong rất dài hạn) As hội tụ AN khi phía S tiếp nhận vốn FDI và kỹ
thuật từ phía N. Chú ý rằng từ (2.1) AS = AN hàm ý kS = kN để cho lãi suất thực cân
bằng. Khi đó, yS = yN với mọi kS = kN nhưng phía S luôn chào đón FDI từ phía N vì
khuynh hướng tiết kiệm biên của nó thấp hơn (sN > sS).
Một điểm đáng lưu ý ở đây là tác động gia tăng trong khuynh hướng tiết kiệm của
phía S (sS). Giả sử sS tăng đến mức của sN . Khi đó lãi suất thực của hai vùng tự cấp tự
túc sẽ bằng nhau và không có sự dịch chuyển vốn nào xảy ra giữa hai vùng ngay cả khi
tự do hóa. Vì vậy, phía S rơi vào cái bẫy và nó không bao giờ bắt kịp phía N. Đây là ví
dụ mà tiết kiệm có thể cản trở tích lũy vốn mà đúng ra nó phải xảy ra trong dài hạn. Lý
do cho vấn đề này là tiết kiệm gia tăng lấn át hoàn toàn dòng FDI từ phía N, vì vậy
phía S mất lợi ích do dịch chuyển công nghệ mang lại. Tất nhiên, đây là trường hợp đối
lập vì sự gia tăng sS mà vẫn duy trì sN > sS sẽ nhất quán với dòng FDI từ N tới S và
dịch chuyển công nghệ do tự do hóa vốn. Ở đây, một sự gia tăng trong tiết kiệm của
khu vực phía S làm cản trở sự hội tụ với khu vực phía N.
Tiếp theo ta xem xét ngắn gọn hai nhánh lý thuyết nhằm kiểm tra mối quan hệ giữa
FDI và TFP trong mô hình cân bằng tổng quát với cạnh tranh không hoàn hảo. Thứ
17
nhất, Rodriguez-Clare (1996) kiểm tra việc làm thế nào mà việc tăng cầu các hàng hóa
trung gian được sản xuất tại địa phương, được tạo ra bởi FDI bên trong trong khu vực
sản xuất hàng hóa cuối cùng, có thể làm tăng chuyên môn hóa (chuyên môn hóa lao
động) trong các ngành trung gian vì sản xuất đa dạng (vd: nhiều doanh nghiệp gia nhập
hơn), đây là vấn đề mà mô hình cạnh tranh hoàn hảo chưa giải quyết được khi mà có
một số doanh nghiệp cực lớn. Tiếp theo sau nghiên cứu của Ethier (1982) trong việc áp
dụng mô hình cạnh tranh độc quyền đối với mối quan hệ thẳng đứng giữa các ngành
sản xuất sản phẩm trung gian và hàng hóa cuối cùng của Dixit và Stiglitz (1977),
Rodriguez-Clare (1996) đã chứng minh rằng FDI vào các khu vực sản xuất hàng hóa
cuối cùng tạo ra ngoại tác tích cực cho các nhà sản xuất hàng hóa cuối cùng khác thông
quan mối liên kết ngược (backward linkages): nhu cầu đầu tư MNEs làm cho khu vực
sản xuất hàng hóa trung gian mở rộng (hay đa dạng hơn), từ đó làm tăng TFP của các
nhà sản xuất địa phương của các hàng hóa cuối cùng.
Nhóm thứ hai của mô hình cân bằng tổng quát với cạnh tranh không hoàn hảo là
kiểm tra mối quan hệ giữa quyết định R&D của các doanh nghiệp phía N, được thực
hiện để đạt được mức chất lượng cao hơn và tận dụng vị trí độc quyền trong thị trường
và tỉ lệ bắt chước của các doanh nghiệp ở phía S. Grossman và Helpman (1991,
chương 11 và 12) và Helpman (1993) cho rằng các doanh nghiệp phía N khám phá và
sản xuất sản phẩm mới trước khi sản xuất từ từ dịch chuyển sang phía S có chi phí rẻ
hơn. Tỉ lệ bắt chước cao hơn của các doanh nghiệp phía S đối với các sản phẩm của
các doanh nghiệp phía N làm dịch chuyển sản xuất sang phía S vì lợi thế chi phí dẫn
đến nghịch lý làm tăng chi phí R&D ở phía N: mặc dù lợi nhuận độc quyền do nghiên
cứu thành công một sản phẩm chỉ tồn tại trong ngắn hạn nhưng khoản lợi nhuận này
vẫn lớn hơn trước vì việc bắt chước sản xuất nói chung ở phía S làm giảm giá yếu tố ở
phía N. Glass và Saggi (1999) đã đưa yếu tố FDI của các doanh nghiệp phía N vào
khung phân tích. Có hai kênh chuyển giao công nghệ quốc tế giữa hai khu vực N và S:
các doanh nghiệp phía S bắt chước các doanh nghiệp phía N hoặc các MNEs có xuất
18
xứ từ phía N. Tác động của FDI phía N vào phía S và vào mức độ R&D ở phía N phụ
thuộc vào khả năng bắt chước của các doanh nghiệp phía S đối với luồng FDI vào
trong S. Nếu khả năng này xét về tổng thể gia tăng, chi phí R&D ở phía N sẽ tăng.
2.4. Nghiên cứu liên quan
Các nghiên cứu đánh giá tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế nói chung và
tăng trưởng TFP nói riêng trên thế giới khá phong phú và đa dạng, và đưa ra nhiều kết
luận không thống nhất về tác động này. Nhận định của Gorg và Greenaway (2004) cho
rằng FDI có sinh ra tác động lan tỏa, tuy nhiên việc xuất hiện tác động lan tỏa phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, thậm chí phụ thuộc cả vào phương
pháp ước lượng. Findlay (1978), Blomstrom và Wang (1992), Das (1987), Van và Wan
(1999) khi nghiên cứu đã tìm thấy một mối quan hệ tiêu cực giữa FDI và TFPG ở cấp
độ doanh nghiệp và ngành công nghiệp ở quốc gia cụ thể. Haddad và Harrison (1993)
sử dụng số liệu hỗn hợp ở cấp độ doanh nghiệp của ngành chế tác của Maroc, đã nhận
thấy rằng ở những công ty có phần chia vốn nước ngoài cao hơn lại có TFP thấp hơn.
Theo hướng ngược lại, Proenca và cộng sự sử dụng số liệu hỗn hợp ở cấp độ doanh
nghiệp ở Bồ Đào Nha đã phát hiện ra ảnh hưởng tích cực của FDI lên TFP trong thời
kỳ 1996-1998. Djankov và Hoekman (2000) chỉ ra rằng FDI tác động tích cực đến
TFPG của các ngành tiếp nhận đầu tư của CH Séc nhưng hiệu ứng lan tỏa thấp.
Konings (2001) nghiên cứu các ngành ở Poland, Bulgaria và Romania, kết quả là FDI
tác động tích cực nhưng yếu, hiệu ứng lan tỏa tích cực ở Poland nhưng tiêu cực ở
Bulgaria và Romania. Khi nghiên cứu dữ liệu ở Venezuela, Aitken và Harison (1999)
đã chỉ ra rằng tác động ròng của FDI lên TFP ở Venuezuela là khá nhỏ, đầu tư nước
ngoài giúp gia tăng năng lực sản suất của những doanh nghiệp nước ngoài và các
doanh nghiệp nhận được nguồn vốn đầu tư này trong khi lại làm giảm năng lực sản
xuất của các doanh nghiệp nội địa. Một số nghiên cứu khác lại cho kết quả tác động
19
không có ý nghĩa của tác động lan tỏa của FDI như nghiên cứu của Kokko và cộng sự
(2001) ở Uruguay, Barrios và Strobl (2002) ở Tây Ban Nha giai đoạn 1990-1994,
Smarzynska (2002) ở Lithuania giai đoạn 1996-2000.
Tiếp theo sẽ là phần điểm qua một số nghiên cứu thực nghiệm gần đây về tác động
của FDI đến tăng trưởng TFP.
Ở cấp độ vĩ mô, nghiên cứu của Khan (2006) về các nhân tố tác động đến TFP ở
Pakistan. Tác giả sử dụng số liệu chuỗi thời gian từ năm 1960 đến 2003, đầu tiên tác
giả sử dụng phương pháp hạch toán tăng trưởng để tính toán TFP. Tiếp theo tác giả đưa
ra các nhân tố tác động đến TFP bao gồm sự ổn định vĩ mô, độ mở của nền kinh tế, đầu
tư trực tiếp nước ngoài, vốn con người, sự phát triển hệ thống tài chính và một số nhân
tố khác như thâm hụt ngân sách, tiêu dùng của chính phủ, dân số, đầu tư và các chỉ số
lao động. Biến FDI được đo bằng tỉ lệ dòng vốn FDI vào chia cho GDP, biến độ mở
nền kinh tế được đo bằng tổng giá trị xuất, nhập khẩu trên GDP. Tác giả chia các biến
sử dụng thành hai nhóm, nhóm thứ nhất bao gồm biến lạm phát, thâm thâm hụt ngân
sách, tiêu dùng của chính phủ, dân số, chỉ tiêu giáo dục, độ mở nền kinh tế và phát
triển tài chính. Hồi qui cho các biến trên tác giả đã tìm thấy kết quả không như mong
đợi là mở cưa thương mại có tác động tiêu cực mức ý nghĩa 1% đến TFP. Với nhóm
biến thứ hai (lạm phát, tín dụng cá nhân, đầu tư trong nước, việc làm, chi tiêu chính
phủ và dòng vốn FDI), tác giả đã tìm thấy tác động dương của FDI với ý nghĩa 1% lên
TFP. Kết quả hồi qui cho toàn bộ các biến cho kết quả là biến FDI không có ý nghĩa
thống kê. Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian nên có thể sẽ gặp phải vấn
đề về đa cộng tuyến và mối quan hệ nhân quả giữa FDI và TFP. Mặt khác nghiên cứu
chỉ có 43 quan sát nên độ tin cậy không cao.
Trong nghiên cứu khác của Woo (2009) cho 92 quốc gia trên thế giới sử dụng cả
dữ liệu chéo và dữ liệu bảng trong giai đoạn 1970-2000, tác giả cũng dùng phương
pháp hạch toán tăng trưởng để tính toán tăng trưởng TFP. Kết quả hồi cũng tìm thấy
20
tác động tích cực của FDI, được đo bằng tỉ lệ của dòng vốn FDI đầu tư và GDP, đến
tăng trưởng TFP. Nghiên cứu tương tự cũng được thực hiện gần đây bởi Binh (2012)
với 103 quốc gia trong giai đoạn 1996-2009, tuy nhiên kết quả lại chỉ ra tác động tiêu
cực của FDI lên tăng trưởng TFP.
Trong một nghiên cứu mới đây nhất của Botirjan Baltabaev (2013) về tác động của
FDI đến tăng trưởng TFP, tác giả cho rằng mặc dù những lợi ích to lớn về mặt lý
thuyết của FDI đối với nền kinh tế, kết quả thực nghiệm mang lại bằng chứng trái
ngược nhau về tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế. Điều này là do sự thiếu sót
của các phương pháp nghiên cứu không giải quyết được vấn đề nội sinh và các biện
pháp đo lường các biến. Sử dụng hệ thống phương pháp ước lượng GMM cho dữ liệu
bảng 46 quốc gia trên thế giới giai đoạn 1974-2008, tác giả cho thấy rằng FDI tác động
tích cực đến tăng trưởng TFP. Trong mô hình nghiên cứu của mình, tác cũng sử dụng
các biến quen thuộc như một số nghiên cứu ở trên như FDI (tỉ lệ dòng vốn FDI chia
cho GDP), R&D (tỉ số giữa chi cho R&D trên GDP), khoảng cách công nghệ (tỉ số
giữa năng suất lao động của Mỹ trên năng suất lao động của quốc gia đó), vốn con
người (số năm đi học trung bình), độ mở cửa thương mại (chỉ số Globalization Index),
lạm phát, tốc độ tăng dân số. Kết quả phân tích hồi qui chỉ ra rằng các tác động tích
cực của FDI tới tăng trưởng TFP phụ thuộc vào mức độ khả năng hấp thụ của nước tiếp
nhận đầu tư và khoảng cách công nghệ. Kết quả cũng cho thấy rằng những nước có
khoảng cách công nghệ lớn hơn dường như được hưởng lợi nhiều hơn từ FDI.
Ở cấp độ vi mô, Keller và Yeaple (2004) nghiên cứu tác động lan tỏa công nghệ
quốc tế cho các ngành công nghiệp của Mỹ thông qua nhập khẩu và FDI giữa những
năm 1987 và 1996 của, tác giả đã cho thấy rằng FDI dẫn đến tăng năng suất đáng kể
cho các công ty trong nước. Tác giả sử dụng phương pháp đo lường TFP của Olley-
Pakes (1996) và mô hình phân tích hồi qui để đánh giá tác động lan tỏa của FDI và
TFPG
X
IM
FI
it
1
it
2
it
it
it
21
nhập khẩu:
Với FIit , IMit và Xit lần lược là các biến đại diện cho tác động của FDI, tác động
của nhập khẩu và các biến kiểm soát thể hiện các đặc tính của doanh nghiệp. Và dữ
liệu bảng của 50 ngành công nghiệp của Mỹ. Kết quả cho thấy tác động lan tỏa FDI là
rất quan trọng về kinh tế, chiếm khoảng 11% tăng trưởng năng suất trong các ngành
công nghiệp Mỹ từ năm 1987 đến năm 1996. Ngoài ra, nhập khẩu cũng cho tác động
lan tỏa dương, nhưng nó là yếu hơn so với FDI.
Để đánh giá tác động của FDI đến tăng trưởng TFP ở ngành ngân hàng, Sailesh
Tanna (2009) số liệu của 566 ngân hàng thương mại của 75 nước trên thế giới trong
giai đoạn 2000-2004. Nghiên cứu tính toán tốc độ tăng trưởng TFP sử dụng phương
pháp phân tích non-parametric Malmquist. Sau đó, thực hiện hồi quy sử dụng dữ liệu
bảng, mô hình hồi quy :
TFPGitc = a0 + a1FDItc + a2Bitc + a3Ztc + utc .
FDI là biến đại diện cho tác động của dòng vốn FDI vào các quốc gia, B là nhóm
các biến đặc tính của ngân hàng và Z là nhóm các biến đặc tính của quốc gia (trong đó
có biến về thương mại quốc tế). Với việc sử dụng thêm biến về độ trễ FDI, kết quả
nghiên cứu chỉ ra rằng tác động của dòng vốn FDI đến TFPG là tiêu cực trong ngắn
hạn nhưng lại tích cực trong dài hạn.
Trong nghiên cứu hiếm hoi về tác động của FDI đến tăng trưởng TFP ở Việt Nam,
Thangavelu, Findlay và Chongvilaivan (2010), sử dụng dữ liệu bảng ở cấp độ doanh
nghiệp tại Việt Nam giai đoạn 2002-2008. Nghiên cứu sử dụng phương pháp bán tham
số của Levinsohn-Petrin (2003) để ước tính TFP. Phương pháp này giúp kiểm soát
được tính không đồng nhất và tính nội sinh của các biến. Trong phân tích thực nghiệm,
tác giả sử dụng mô hình:
TFPit = α0 + α1 lnFDIit + α2lnLIQUIDITYit + α3lnLEVERAGEit + α4lnSIZEit +
22
α5lnCOMit +α6lnHUMANKit + α7XMit +µit + uit .
Trong đó, FDIit là biến đại diện cho kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài, được đo
bằng tỉ số giữa vốn thực hiện chia cho tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Hai biến thể
hiện tình hình tài chính gồm biến LIQUIDITYit thể hiện tính thanh khoản và được đo
bằng tỷ lệ giữa tài sản lưu động (ngắn hạn) với tổng tài sản và biến LEVERAGEit thể
hiện cho tỷ lệ nợ phải trả. Các biến thể hiện cho đặc tính doanh nghiệp gồm biến SIZEit
thể hiện cho qui mô của doanh nghiệp, được đo lường bằng tổng doanh thu của doanh
nghiệp, được dùng để kiểm soát ảnh hưởng của tính kinh tế theo qui mô. Biến COMit
đo bằng tỉ lệ số máy vi tính được sử dụng trên mỗi nhân viên, thể hiện cho đặc tính đầu
tư vào thiết bị kĩ thuật cao và biến HUMANKit thể hiện cho vốn con người, được đo
bằng tỉ lệ lao động có trình độ chia cho tổng lao động. Biến XMit là biến giả, nhằm giả
thích tác động của xuất nhập khẩu.
Tác giả sử dụng bộ số liệu khảo sát doanh nghiệp Việt Nam từ năm 2002 đến 2008.
Sử dụng cả ba mô hình hồi qui là OLS, Fixed Efect và Random Effect. Kết quả là cả 3
mô hình hồi qui đều cho tác động tích cực của FDI đến TFP với mức ý nghĩa 1%. Hạn
chế tài chính (tính thanh khoản thấp và hạn chế tiếp cận tín dụng bên ngoài) cũng có
tương quan dương đối với TFP, nó xuất hiện như một mối đe dọa lớn đến việc thực
hiện sản xuất của các công ty trong các ngành công nghiệp sản xuất tại Việt Nam. Kết
quả cũng chỉ ra rằng qui mô của doanh nghiệp, việc áp dụng trang thiết bị kỹ thuật cao
và vốn con người tác động tích cực đến TFP. Biến xuất, nhập khẩu không có ý nghĩa
thống kê trong mô hình phân tích này.
Tóm lại, các nghiên cứu ở trên đều cung cấp những lý thuyết nền rất tốt cho tác giả
thực hiện nghiên cứu này. Mỗi nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích khác nhau,
dữ liệu khác nhau và do đó cũng cho những kết quả không giống nhau. Trong nghiên
cứu của mình, với mục tiêu đánh giá tác động của FDI đến tăng trưởng TFP cho các
ngành ở Việt Nam, với nguồn số liệu thu thập được tác giả sẽ sử dụng phương pháp
23
hạch toán tăng trưởng để tính toán TFPG và hồi qui dữ liệu bảng Fixed effect và
Random effect với các biến về tác động của FDI, xuất nhập khẩu, qui mô ngành và
cường độ vốn trên lao động.
2.5 . Khung phân tích
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tác động đến tăng trưởng GDP của
nước tiếp nhận đầu tư theo hai cách. Thứ nhất, FDI tác động trực tiếp lên nguồn vốn,
làm tăng nguồn vốn trong nước dẫn đến tăng GDP. Thứ hai, FDI tác động gián tiếp lên
TFP nhờ vào hiệu ứng lan tỏa từ đó làm tăng năng suất lao động dẫn đến tăng trưởng
GDP. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu tác động gián
tiếp của FDI đến tăng trưởng GDP, được thể hiện qua tác động của FDI đến TFP. Để
tính toán tăng trưởng TFP của các ngành, tác giả sử dụng phương pháp hạch toán tăng
trưởng với số liệu của tổng cục thống kê về lao động, vốn và đầu ra theo ngành kinh tế
trong giai đoạn 2000-2011. Để phân tích tác động của FDI đến tăng trưởng TFP tác giả
sử dụng phương pháp phân tích hồi qui, sử dụng dữ liệu bảng cho 16 ngành trong giai
Tăng trưởng vốn
FDI
Hồi quy
Xuất nhập khẩu
Tăng trưởng TFP
Tăng trưởng GDP
Dữ liệu bảng
Qui mô
Hạch toán tăng trưởng
Cường độ vốn
Tăng trưởng vốn của ngành
Tăng trưởng đầu ra ngành
Tăng trưởng lao động của ngành
đoạn 2000-2011.
24
Hình 2.3. Khung phân tích của nghiên cứu
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chương này đầu tiên sẽ là phần giới thiệu về nguồn số liệu sử dụng trong nghiên
cứu. Sau đó là phần trình bày mô hình hạch toán tăng trưởng để tính toán tăng trưởng
TFP. Và cuối cùng là mô hình phân tích hồi qui tác động của FDI đến tăng trưởng TFP,
giải thích và định nghĩa các biến trong mô hình.
3.1. Nguồn dữ liệu
Dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu là dữ liệu thứ cấp. Dữ liệu được lấy từ ấn
phẩm niên giám thống kê từ năm 2000-2011, ấn phẩm doanh nghiệp Việt Nam 9 năm
đầu thế kỷ 21và nguồn cơ sở dữ liệu khảo sát doanh nghiệp tại trang web của Tổng
Cục Thống Kê, http://www.gso.gov.vn đều của tổng cục thống kê. Nghiên cứu sử dụng
số liệu trong giai đoạn từ năm 2000-2011 ở cấp độ ngành, phân theo danh mục hệ
thống ngành VSIC-93 mã cấp 1, bao gồm 16 ngành.
Số liệu về lao động, nguồn vốn, doanh thu thuần, lợi nhuận, thuế và các khoản phải
nộp, thuế xuất nhập khẩu, tổng thu nhập của người lao động được lấy từ ấn phẩm
doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ 21 (lấy số liệu từ năm 2000 đến 2008) và cơ
sở dữ liệu khảo sát doanh nghiệp tại trang web của Tổng Cục Thống Kê,
http://www.gso.gov.vn (số liệu năm 2009-2011). Số liệu về FDI lấy từ niên giám thống
kê, mục đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép hàng năm phân theo ngành
kinh tế. Số liệu về hệ số giảm phát được lấy từ trang web của Ngân Hàng Thế Giới,
http//databank.worldbank.org.
3.2. Mô hình tính toán tăng trưởng TFP
Năm 1957, Solow đã công bố bài báo “Thay đổi Kỹ thuật và Hàm sản xuất”, trong
đó ông đã thực hiện việc hạch toán tăng trưởng đơn giản để phân tách tăng trưởng đầu
ra thành tăng trưởng tư bản, tăng trưởng lao động, và tăng trưởng tiến bộ công nghệ.
25
“Hạch toán tăng trưởng” ban đầu dựa trên hàm sản xuất dạng: Yt = At f (Kt, Lt) (3.1).
Với At chính là TFP. Trong mô hình này chúng ta xem Y, A, K và L là hàm liên tục
theo thời gian. Còn hàm f là thuần nhất bậc một. Qua mô hình này ta thấy kết quả sản
xuất Y thay đổi do các đầu vào và TFP.
Chúng ta lấy vi phân hai vế của (3.1) theo thời gian, ta được:
dYt = At (fK,t dKt + fL,t dLt) + ft dAt (3.2)
Trong đó: fK,t = f (Kt, Lt) / Kt và fL,t = f (Kt, Lt) / Lt
t
t
Chia cả hai vế của (3.2) cho Yt, ta được:
Kf , tK f
dK K
Lf , tL t f
dY t Y t
t
t
t
dL t L t
dA t A t
t
t
(3.3)
,
,
và
dK K
dL L
dY t Y t
t
t
dA t A t
t
Trong đó: tương ứng là tốc độ tăng của đầu ra, vốn, lao động và
và
Kf , tK f
Lf , tL t f
t
t
TFP; tương ứng là hệ số co giãn của đầu ra theo vốn và lao động.
Theo Solow trong điều kiện nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo thì các hệ số co giãn
có thể đo lường thông qua tỷ trọng đóng góp của từng nhân tố. Trong điều kiện cạnh
tranh, để cực đại lợi nhuận, các doanh nghiệp bán sản phẩm của mình tại mức giá pt, và
thuê hay mua các đầu vào tại mức giá pKt và pLt sao cho:
và pt At fK,t = pKt (3.4) pt At fL,t = pLt (3.5).
Nhân hai vế của phương trình (3.4) cho Kt / ptYt, phương trình (3.5) cho Lt / ptYt ta
t
t
t
t
được:
w
w
, tK
, tL
Kf , tK f
Kf , tL f
t
Kp , tK Yp t t
t
Lp , tL Yp t t
và
Với wK,t và wL,t lần lượt là tỷ lệ đóng góp của vốn và lao động trong giá trị sản xuất.
Vì vậy, chúng ta có thể đo lường tốc độ tăng TFP bằng cách dùng số liệu thu thập
26
được về tốc độ tăng của đầu ra, tốc độ tăng của các đầu vào và tỷ trọng đóng góp của
các nhân tố. Tốc độ tăng của TFP chính là tốc độ tăng của kết quả sản xuất sau khi đã
loại trừ ảnh hưởng của tốc độ tăng đã được gia quyền của các đầu vào.
t
t
t
t
Cách đo lường về tốc độ tăng của TFP như vậy chính là phần dư Solow:
Kf , tK f
dK K
Lf , tL f
dL L
dA t A t
dY t Y t
t
t
t
t
(3.6)
Ngoài cách tính như trên chúng ta có thể sử dụng hàm lôgarit tự nhiên (Ln) để ước
lượng tốc độ tăng trưởng của TFP.
Z
t
Chúng ta có thể dùng biểu thức xấp xỉ sau:
Ln
(
)
ZLn (
)
ZLn (
)
t
t
1
Z Z
Z
t
1
t
1
(3.7)
Có nghĩa là Ln (tốc độ phát triển) tốc độ tăng trưởng
Y
1LAK
Bây giờ, chúng ta xem một trường hợp hàm sản xuất là Cobb-Douglas với hai yếu
tố đầu vào với giả định nền kinh tế lợi nhuận không đổi theo qui mô:
(3.8)
Với Y, K, L được giả định là hàm liên tục theo thời gian.
Logarit hai vế (3.8) ta được:
LnY = LnA + LnK + (1 - )LnL (3.9)
Vi phân hai vế của (3.9) theo thời gian, ta có:
1( )
dY Y
dA A
dK K
dL L
(3.10)
Dựa vào phương trình này ta xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của
TFP và các nhân tố ảnh hưởng đến nó.
1( )
dA A
dY Y
dK K
dL L
27
(3.11)
Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương trình (3.11) để tính toán tốc độ tăng
,
,
và
dA A
dY Y
dK K
dL L
trưởng TFP. Trong đó, lần lượt là tốc độ tăng trưởng TFP, tốc độ tăng
trưởng đầu ra, tốc độ tăng trưởng vốn và tốc độ tăng trưởng lao động. α là tỷ lệ đóng
góp của vốn và (1- α) là tỷ lệ đóng góp của lao động trong đầu ra của ngành. Tỷ lệ
đóng góp của lao động trong đầu ra của ngành được tính bằng tỷ lệ giữa tổng thu nhập
của người lao động và tổng đầu ra của ngành.
3.3. Mô hình phân tích hồi quy
Với mục tiêu nghiên cứu là đánh giá tác động của dòng vốn FDI đến tốc độ tăng
trưởng TFP của các ngành ở Việt Nam, sử dụng dữ liệu bảng cho 16 ngành trong giai
đoạn từ năm 2000 đến 2011, tác giả sử dụng mô hình kinh tế lượng như sau:
TFPGit= α + β1 FDIit+ β2 Tradeit+ β3 Scaleit+ β4 K_intensityit + εit
Với i kí hiệu cho ngành, t kí hiệu cho năm.
Biến TFPGit là biến phụ thuộc trong mô hình. Biến đại diện cho tốc độ tăng trưởng
TFP của ngành. Biến FDIit là biến mục tiêu phân tích của mô hình. Các biến còn lại là
các biến kiểm soát, trong đó biến Tradeit đại diện cho thương mại quốc tế thể hiện bởi
hoạt động xuất nhập khẩu. Và các biến Scaleit, K_intensityit thể hiện đặc tính của
ngành.
Định nghĩa các biến:
TFPGit: Là biến phụ thuộc trong mô hình, đại diện cho tăng trưởng TFP, dữ liệu
được tính toán ở trên.
FDIit: Là biến đại diện cho dòng vốn FDI vào các ngành, được đo bằng tỉ lệ dòng
vốn FDI đăng kí đầu tư vào ngành và tổng đầu ra của ngành. Vì chỉ thu thập được số
28
liệu dòng vốn FDI đăng ký đầu tư vào các ngành, với lập luận rằng từ khi đăng kí đến
thực hiện cần độ trễ về thời gian, tác giả sử dụng số liệu FDI năm t-1 để phân tích tác
động cho năm t.
Tradeit: Là biến đại diện cho thương mại quốc tế, được đo bằng tỉ lệ thuế xuất nhập
khẩu ngành và tổng thuế và các khoản phải nộp của ngành.
Scaleit: là biến thể hiện cho qui mô của ngành, được tính bằng logarit tự nhiên tổng
giá trị đầu ra của ngành.
K_intensityit: là biến đo cường độ sử dụng vốn trên mỗi lao động của doanh
nghiệp, được tính bằng vốn cố định bình quân trên mỗi lao động.
Biến FDIit là biến đại diện cho dòng vốn FDI vào các ngành. Như phần cơ sở lý
thuyết ở chương 2, FDI kỳ vọng sẽ có tác động lớn đến tăng trưởng TFP. Ngoài việc
mang đến nguồn vốn đầu tư lớn, nó còn mang đến cho nước tiếp nhận đầu tư công
nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, giúp phát triển vốn con người, nâng cao kỹ năng lao
động. Đây là những nhân tố quan trọng tác động đến tăng trưởng TFP. Các doanh
nghiệp FDI còn tạo các liên kết ngược-xuôi, tác động cạnh tranh với các doanh nghiệp
trong nước giúp các doanh nghiệp trong nước bắt buộc phải nâng cao năng suất và chất
lượng để có thể tồn tại và phát triển. Tuy nhiên sự hiện diện của FDI gây nên tác động
lấn át có thể dẫn đến tình trạng giảm sản lượng của doanh nghiệp trong nước. Theo như
các mô hình lý thuyết và các nghiên cứu thực hiện trước đây, trong nghiên cứu này tác
giả kỳ vọng FDI sẽ có tác động dương lên tăng trưởng TFP.
Tradeit là biến đại diện cho thương mại quốc tế, đặc trưng bởi hoạt động xuất, nhập
khẩu. Mở cửa thương mại quốc tế có thể cung cấp cho một quốc gia tiếp cận tốt hơn
với công nghệ phát triển ở nơi khác và tăng cường quá trình bắt kịp công nghệ thông
qua việc thích ứng các công nghệ tiên tiến nước ngoài (Keller và Yeaple, 2004). Nhập
khẩu máy móc, sản phẩm công nghệ tiên tiến có thể giúp các nhà sản xuất trong nước
sản xuất một sản phẩm tốt tương tự với doanh nghiệp FDI với chi phí thấp hơn hoặc
29
phải tạo ra các sản phẩm tốt hơn để cạnh tranh. Do đó, nhập khẩu được kì vọng sẽ tác
động đến TFP. Lý thuyết học tập bằng cách thực hành -learning by doing (Arrow,
1962) đã chỉ ra rằng các doanh nghiệp có thể học tập thông qua làm việc, việc cố gắng
giải quyết một vấn đề sẽ giúp rút ra nhiều bài học bổ ích. Ở đây các nhà doanh nghiệp
trong nước sẽ học tập bằng cách xuất khẩu, tham gia vào thị trường xuất khẩu. Khi
tham gia vào thị trường quốc tế, các nhà xuất khẩu phải tuân thủ các qui định quốc tế
về chất lượng sản phẩm cũng như các điều kiện giao dịch. Hơn thế nữa, để xuất khẩu ra
thị trường nước ngoài các nhà xuất khẩu phải tìm hiểu về thị trường và nhu cầu khách
hàng của nước đó. Từ đó, các nhà xuất khẩu trong nước sẽ nhận sự giúp đỡ của các nhà
nhập khẩu nước ngoài. Các nhà nhập khẩu nước ngoài sẽ chỉ cho cách quản lý qui trình
sản xuất sao cho hiệu quả, cách kiểm soát chất lượng đầu ra sản phẩm cũng như huấn
luận lao động. Như nhận định của Grossman và Helpman (1991) rằng ” khi sản phẩm
nội địa được xuất khẩu, các nhà nhập khẩu nước ngoài có thể đề xuất những cách để
cải tiến qui trình sản xuất”. Mặt khác, sự cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế sẽ
làm cho các nhà xuất khẩu trong nước sẽ dần lớn mạnh lên. Xuất khẩu cũng giúp làm
mở rộng thị trường tiêu thụ, thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng sản xuất từ đó sẽ tận
dụng lợi thế kinh tế theo qui mô giúp nâng cao năng xuất. Nghiên cứu Miller và
Upadhyay (2000) với 83 quốc gia trên thế giới chỉ ra rằng xuất khẩu, đo lường bởi tỷ
trọng xuất khẩu trong GDP, tác động tích cực đến tăng trưởng TFP (ở mức ý nghĩa
1%). Nghiên cứu khác của Jajri (2007) với nền kinh tế Malaysia giai đoạn 1971-2004
chỉ ra rằng mở cửa thương mại quốc tế, đo lường bởi tỉ số của tổng giá trị xuất, nhập
khẩu chia cho GDP, có tác động tích cực đến tăng trưởng TFP. Trong nghiên cứu này,
biến Tradeit được kỳ vọng tác động dương lên tăng trưởng TFP.
Biến Scaleit là biến đại diện cho qui mô của ngành. Theo lý thuyết về tính kinh tế
theo qui mô, khi doanh nghiệp mở rộng qui mô sản xuất thì sẽ giúp giảm chi phí cố
định, tăng hiệu quả sản xuất. Mặt khác, khi mở rộng sản xuất, đồng nghĩa doanh nghiệp
đầu tư cải tiến công nghệ, nâng cao trình độ quản lý. Vì vậy, qui mô sản xuất được kỳ
30
vọng tác động tích cực đến tăng trưởng TFP. Trong nghiên cứu của mình về tác động
lan tỏa của FDI ở Bồ Đào Nha giai đoạn 1996-1998, dữ liệu bảng với 2133 doanh
nghiệp, Proença (2002) đã cho thấy qui mô doanh nghiệp, đo bằng tỉ lệ đầu ra của
doanh nghiệp chia cho giá trị trung bình của đầu ra của 5 doanh nghiệp lớn nhất cùng
ngành, tác động tích cực đến năng suất lao động. Trong nghiên cứu của Thangavelu,
Findlay và Chongvilaivan (2010) cũng cho thấy tác động tích cực (mức ý nghĩa 1%)
của biến qui mô doanh nghiêp, được đo bằng logarit của tổng doanh thu doanh nghiệp,
trong nghiên cứu của mình ở Việt Nam giai đoạn 2002-2008.
K_intensityit là biến đo cường độ sử dụng vốn trên 1 lao động của ngành, được tính
bằng vốn cố định bình quân trên 1 lao động. Biến này được coi là đại lượng đo tài sản
vốn vật chất mà ngành tạo ra trong quá trình đầu tư. Ngành có cường độ vốn cao đồng
nghĩa với ngành thâm dụng vốn, và ngành này đầu tư lớn vào trang thiết bị, máy móc
và vì vậy nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới tăng trưởng TFP. Trong nghiên cứu của
Ahluwalia (1991), với các ngành công nghiệp ở Ấn Độ đã chỉ ra tác động tiêu cực của
biến cường độ vốn lên tăng trưởng TFP và cho rằng ngành công nghiệp có tỷ lệ vốn-
lao động cao hơn là những ngành công nghiệp nặng thuộc khu vực nhà nước, được bảo
hộ và quản lý kém làm ảnh hưởng đến năng suất. Trong nghiên cứu của Ghose và
Chakraborty (2012) ở Ấn Độ giai đoạn 1973-2004 đã chỉ ra tác động dương của cường
31
độ vốn lên tăng trưởng TFP của ngành công nghiệp dược phẩm.
CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM
Nội dung chính của chương này là trình bày kết quả tính toán tăng trưởng TFP và
kết quả hồi qui, xem xét tác động của dòng vốn FDI lên tăng trưởng TFP cho 16 ngành
ở Việt Nam. Thêm vào đó phần này còn đưa ra phân tích và giải thích về các kết quả
thu được. Tuy nhiên, trước khi trình bày kết quả phân tích là phần tổng quan về dòng
vốn FDI vào Việt Nam trong những năm gần đây.
4.1. Tổng quan xu hướng dòng FDI vào Việt Nam
Bằng việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO tháng 12 năm 2006, về
thực tế, Việt Nam đã mở rộng cửa hơn nền kinh tế để có thể đón nhận nguồn vốn nước
ngoài chảy vào dồi dào hơn trước. Đến năm 2011 Việt Nam ghi nhận nguồn vốn đăng
ký xấp xỉ 198 tỉ USD về tổng số từ hơn 13.600 dự án vốn đầu tư nước ngoài. Tổng số
vốn thực hiện những dự án này lên tới gần 80 tỉ USD. Ngoại trừ hai điểm đột biến vào
các năm 1996 và 2008, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã có xu hướng tăng
dần như được thể hiện trên các Hình 4.1 và 4.2. Trong giai đoạn 1988 tới 2010, mức
tăng trưởng hàng năm của vốn nước ngoài được đăng ký và thực hiện ở quanh mức
34%, vượt xa mức tăng trưởng của các quốc gia đang phát triển nhận vốn đầu tư nước
ngoài khác. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký giai đoạn 2000-2010 cao hơn bốn lần
so với thập kỷ trước. Bất chấp khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế trên thế giới,
đăng ký vốn đầu tư nước ngoài năm 2009 và 2010 có dấu hiệu khả quan, gần đạt mức
đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2007, cho thấy dòng vốn đổ vào cao hơn những năm
trước. Xu hướng tương tự cũng nhận thấy đối với tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đăng ký và thực hiện, thu hẹp dần khoảng cách giữa vốn đăng ký
và thực hiện theo thời gian, điều này chỉ ra rằng việc thực hiện đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam là khá khả quan trong những năm gần đây.
Như minh họa trong các Hình 4.1 và 4.2, mức vốn đầu tư nước ngoài vào Việt
32
Nam đạt đỉnh năm 2008. Sự tăng đột xuất này là do tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trên
thế giới năm 2007, các nhà đầu tư nước ngoài tăng mạnh lượng vốn đầu tư, và việc
Việt Nam gia nhập WTO năm 2007. Năm 2008 vốn đầu tư nươc ngoài tập trung vào
khu vực sử dụng nhiều vốn, như công nghiệp, xây dựng và dịch vụ với mức đầu tư
trung bình khoảng 52 triệu USD một dự án, chứng tỏ mức hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài mạnh mẽ hơn rất nhiều so với những năm trước.
Hình 4.1. Xu thế số dự án và các dòng vốn FDI giai đoạn 2000-2010
33
Hình 4.2. Xu thế vốn FDI đăng ký và thực hiện giai đoạn 1991-2010
Cơ cấu thành phần của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tập trung chủ yếu
vào các lĩnh vực chế biến chế tạo và bất động sản. Như được nêu ra trong Bảng 4.1,
đến cuối năm 2011 tổng hai khu vực này chiếm tỷ trọng đến 67% số dự án và 77%
tổng số vốn đăng ký. Tuy nhiên, mặc dù có sự khuyến khích của nhà chức trách Việt
Nam, vốn FDI vào lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm hầu như không đáng kể. Chỉ riêng
ngành chế biến chế tạo đã chiếm phần lớn trong số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
(58% tổng số), con số này nêu bật tiềm năng cho liên kết trong và ngoài ngành và hiệu
ứng lan tỏa. Lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng chiếm tỉ lệ tương đối cao.
Trong bối cảnh tình hình kinh tế liên tục thay đổi ở cả trong nước và thế giới và thị
trường vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thay đổi nhanh chóng, cơ cấu lĩnh vực của vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam những năm gần đây cũng đang dần thay đổi.
Theo báo cáo Đầu Tư Công Nghiệp Việt Nam 2011, vốn đầu tư nước ngoài cho ngành
chế biến chế tạo dù đạt mức cao nhất về số dự án nhưng không còn chiếm giá trị cao
nhất về giá trị vốn đăng ký trên một dự án. Lĩnh vực bất động sản hiện xếp thứ nhất về
giá trị vốn đầu tư nước ngoài đăng ký trên một dự án, điều này chủ yếu do sự đầu tư
mạnh mẽ của nhà đầu tư nước ngoài vào ngành du lịch. Xếp sau đó là ngành Sản xuất
và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hòa không khí và ngành Công
34
nghiệp khai thác.
Bảng 4.1. Vốn FDI theo phân ngành kinh tế, tích lũy đến cuối năm 2011
Phân ngành Số dự án hợp lệ Tổng vốn đăng kí (USD)
Công nghiệp Chế biến chế tạo 7.987 93.053.036.629
Kinh doanh bất động sản 373 47.002.093.570
Xây dựng 839 12.499.828.279
Dịch vụ lưu trú và ăn uống 314 11.830.450.512
Thông tin và liên lạc 1.031 8.959.135.817
68 7.397.576.933 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hòa không khí
Nghệ thuật và dịch vụ giải trí 134 3.636.188.809
Nông, lâm nghiệp và thủy sản 496 3.218.267.739
Công nghiệp khai thác 70 2.974.765.137
669 2.066.900.735
Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác
Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 75 1.321.550.673
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 73 1.015.496.074
Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 1.137 982.999.594
Hoạt động dịch vụ khác 115 716.481.106
27 709.884.540 Cung cấp nước, hoạt động quản lí và xử lí rác thải. nước thải
Giáo dục và đào tạo 152 354.721.448
Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 104 187.693.821
Nguồn: Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc và Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012)
35
Tổng 13.664 197.927.071.416
4.2. Kết quả tính toán tăng trưởng TFP
Trong phần này sẽ trình bày một cách chi tiết cách tính tăng trưởng TFP từ mô
hình đã trình bày ở chương 3 và số liệu từ nguồn của tổng cục thống kê.
K
K
L
L
A ti ,
A ti 1,
Y ti ,
Y ti 1,
ti 1,
ti ,
ti 1,
Tốc độ tăng TFP của ngành i, năm t được tính bằng phương pháp hạch toán tăng
TFPG
1(
)
ti ,
ti ,
ti ,
ti , K
L
A ti 1,
Y ti 1,
ti 1,
ti 1,
trưởng:
Bảng 4.2. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2001-2011.
Ngành ∆L/L ∆K/K ∆Y/Y (1-α) TFPG
Nông nghiệp và lâm nghiệp 0,06 0,20 0,58 0,16 0,05
Thủy sản 0,08 0,08 0,57 0,03 0,02
Khai khoáng 0,12 0,09 0,07 -0,01 0,03
Công nghiệp chế biến, chế tạo 0,15 0,13 0,45 0,01 0,10
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 0,12 0,04 0,32 -0,06 0,07
Xây dựng 0,21 0,19 0,65 0,05 0,11
0,16 0,21 0,23 0,06 0,13 Thương nghiệp; Sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình
Khách sạn và nhà hàng 0,12 0,26 0,54 0,14 0,12
Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc 0,15 0,09 0,37 -0,03 0,07
Tài chính, tín dụng 0,20 0,26 0,24 0,08 0,12
Khoa học và công nghệ 1,41 1,22 0,59 0,01 0,39
0,30 0,47 0,41 0,21 0,23 Các hoạt động liên quan đến kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn
Giáo dục và đào tạo 0,42 0,36 0,76 0,00 0,34
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 0,31 0,27 0,69 -0,02 0,28
Văn hóa và thể thao 0,18 0,29 0,62 0,15 0,11
Phục vụ cá nhân và cộng đồng 0,29 0,22 0,75 0,06 0,13
36
Nguồn: tính toán của tác giả
Số liệu về lao động (Li,t) được sử dụng ở đây là tổng số lao động của ngành i có
đến 31 tháng 12 năm t. Tốc độ tăng lao động là tốc độ tăng số lượng lao động hàng
năm của ngành.
Số liệu về vốn (Ki,t) được sử dụng ở đây là số liệu về tổng số nguồn vốn của ngành
i có đến 31 tháng 12 năm t. Tốc độ tăng nguồn vốn là tốc độ tăng tổng số nguồn vốn
hàng năm của ngành đã được giảm phát.
Giá trị đầu ra (Yi,t) là tổng của lợi nhuận, thu nhập của người lao động và thuế và
các khoản phải nộp của ngành i, năm t. Tốc độ tăng của đầu ra được dùng để tính toán
là tốc độ tăng tổng giá trị đầu ra hàng năm của ngành đã được giảm phát.
Tỷ lệ đóng góp của lao động trong đầu ra của ngành (1- αit) chính là tỉ số giữa tổng
thu nhập của người lao động chia cho tổng giá trị đầu ra của ngành i năm t.
Kết quả tăng trưởng TFP cho từng ngành theo từng năm được trình bày ở phụ lục
1.
37
Hình 4.3. Tốc độ tăng trưởng TFP bình quân hàng năm giai đoạn 2001-2011
Trong giai đoạn 2000-2011, tốc độ tăng trưởng TFP trung bình hàng năm của các
ngành có sự khác biệt tương đối lớn. Ngành các hoạt động liên quan đến kinh doanh
bất động sản và dịch vụ tư vấn có tốc độ tăng trưởng TFP cao nhất với trung bình
21,02%/năm và ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước có tốc độ tăng
trưởng âm thấp nhất với trung bình -6,48%/năm.
Lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp có tốc độ tăng trưởng TFP dương và tương đối cao.
Nông nghiệp và lâm nghiệp tăng trung bình 15,51%/năm, trong khi thủy sản là
3,29%/năm. Điều này cho thấy việc nhà nước tập trung vào việc cơ giới hóa, hiện đại
hóa trong sản xuất nông nghiệp, đầu tư mạnh mẽ vào đánh bắt và chế biến thủy hải sản
đã có những kết quả khả quan. Lĩnh vực Công nghiệp chế biến, chế tạo, Xây dựng và
Khoa học công nghệ cũng có tốc độ tăng trưởng TFP trung bình hàng năm dương tuy
nhiên còn hơi thấp. Lĩnh vực dịch vụ, ngoài ngành Kinh doanh bất động sản và dịch vụ
tư vấn có tốc độ tăng trưởng cao nhất, các ngành còn lại tốc độ tăng trưởng TFP trung
bình hàng năm khá cao. Các ngành Khách sạn và nhà hàng, Tài chính, tín dụng, Văn
hóa và thể thao đều có tốc độ tăng trên 13%/năm. Qua đó cho thấy lĩnh vực dịch vụ và
tài chính đã có những bước tiến mạnh mẽ trong giai đoạn 2000-2011.
Các lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên như ngành Khai khoáng, Sản xuất và
phân phối điện, khí đốt và nước, Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc có tốc độ tăng
trưởng TFP âm. Điều này chứng tỏ năng suất ngành khai thác tài nguyên thiên nhiên
kém và chưa mang lại hiệu quả. Kết quả phù hợp với một số nhận định gần đây về vấn
đề khai thác và sử dụng lãng phí tài nguyên thiên nhiên. Mặt khác doanh nghiệp các
ngành này đa số là doanh nghiệp nhà nước, thường là trình độ quản lý kém, tham
nhũng…do đó sẽ ảnh hưởng lớn đến TFP của ngành. Các ngành Giáo dục đào tạo và Y
tế và hoạt động cứu trợ xã hội cũng có tốc độ tăng trưởng TFP trung bình hàng năm
âm.
Tóm lại, nhìn chung trong giai đoạn 2000-2011 tốc độ tăng trưởng TFP trung bình
38
hàng năm cao ở lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ, trung bình ở lĩnh vực công nghiệp và
xây dựng và tăng trưởng âm ở lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên, y tế và giáo
dục.
4.3. Kết quả phân tích tác động FDI đến tăng trưởng TFP
Đầu tiên, ta tính toán hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình phân tích, kết
quả cho thấy hệ số tương quan giữa các biến thấp, do đó trong phân tích hồi qui này ta
không phải quan tâm đến hiện tượng đa cộng tuyến. Hơn nữa, kết quả cũng cho thấy
tác tương quan âm của biến FDI và Trade với TFPG. Biến Scale và K_intensity có
tương quan dương với biến TFPG.
Bảng 4.3. Hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình
TFPG FDI Trade Scale K_intensity
TFPG 1
FDI -0,062 1
Trade -0,112 -0,087 1
Scale 0,128 -0,056 0,045 1
K_intensity 0,009 -0,055 -0,086 0,228 1
Bảng 4.4 trình bày kết quả hồi qui Random Effect (RE)và Fixed Effect (FE) cho dữ
liệu bảng của 16 ngành trong giai đoạn 2000-2011 ở Việt Nam, sử dụng phần mềm
Stata. Biến phụ thuộc của mô hình là TFPG, các biến giải thích bao gồm FDI, Trade,
Scale, K_intensity. Kết quả ước lượng sử dụng Random Effect được trình bày từ cột
(1) – (3) và Fixed Effect được trình bày từ cột (4) – (6) (Xem thêm Phụ lục 3).
Tác giả thực hiện kiểm định Hausman test để kiểm tra trong hai mô hình phân tích
hồi qui Fixed Effect và Random Effect mô hình nào thích hợp hơn. Hausman test kiểm
39
định giả thuyết H0 là hệ số ước lượng bởi Fixed Effect và Random Effect là không
khác nhau. Bởi vì (Prob>chi2 =0.6627 > 0.05) nên ta không bác bỏ H0. Do đó, hệ số
ước lượng bởi Fixed Effect và Random Effect là tương tự nhau (xem phụ lục 4).
Mô hình (1) nhằm xem xét tác động của các yếu tố xuất nhập khẩu, qui mô và
cường độ vốn đến tăng trưởng TFP khi bỏ qua tác động của FDI. Tiếp theo, ở mô hình
(2) ta đưa biến mục tiêu FDI vào trong mô hình. Mô hình này nhằm đánh giá tác động
của FDI cùng các yếu tố khác đến tăng trưởng TFP. Cuối cùng, mô hình (3) nhằm mục
đích kiểm chứng lại kết quả thu được khi ta loại bỏ biến không có ý nghĩa thống kê
trong mô hình trước đó. Thực hiện tương tự cho mô hình (4), (5) và (6) khi chạy mô
hình hồi qui Fixed Effect. Tiếp theo là phần trình bày một số kết quả cụ thể của các mô
hình trên.
Cột (1) thể hiện kết quả ước lượng TFPG với các biến Trade, Scale và K_intensity.
Khi không có sự tác động của FDI, ta nhận thấy rằng, như mong đợi biến Scale có tác
động dương đến TFPG ở mức ý nghĩa 5%. Kết quả giúp ta khẳng định lại rằng qui mô
của ngành thực sự tác động tích cực đến tăng trưởng TFP. Tuy nhiên, trong kết quả hồi
qui này biến Trade lại cho kết quả không như mong đợi, tác động âm đối với TFPG ở
mức ý nghĩa 1%. Kết quả này có thể là do xuất khẩu Việt Nam phụ thuộc vào một số ít
sản phẩm với giá trị xuất khẩu lớn, chủ yếu là dầu thô, các sản phẩm nông nghiệp sơ
cấp (gạo, cao su, cà phê, thủy sản) và một số sản phẩm chế tạo với hàm lượng công
nghệ thấp hay trung bình như hàng may mặc, giầy dép, điện tử và sản phẩm gỗ. Năm
2010, tất cả 10 mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn hơn 2 tỷ USD nằm trong nhóm này và
chiếm 62,1% tổng giá trị xuất khẩu. Tính gộp lại, xuất khẩu dệt may, giày dép, thủy
sản và dầu thô đạt 26,3 tỷ USD và chiếm 36,4% tổng xuất khẩu (CIEM và the Asia
Foundation, 2011).
Biến K_intensity không có ý nghĩa thống kê trong mô hình này.
Tiếp theo ta thêm biến mục tiêu FDI vào mô hình ước lượng, kết quả trình bày ở
40
cột (2) cho thấy rằng FDI có tác động tiêu cực đến tăng trưởng TFP ở mức ý nghĩa 1%.
Kết quả chỉ ra rằng khi tỉ lệ vốn FDI trên tổng đầu ra của ngành tăng 10% thì tăng
trưởng TFP sẽ giảm 0,27%. Và tương tự như kết quả trên, biến Trade có tác động tiêu
cực đến tăng trưởng TFP, khi tỉ lệ xuất nhập khẩu tăng lên 10% thì TFPG giảm
10,49%. Biến Scale có tác động tích cực đến tăng trưởng TFP ở mức ý nghĩa 5% và
biến K_intensity không có ý nghĩa thống kê trong mô hình phân tích này.
Bảng 4.4. Kết quả hồi qui cho mô hình tác động của FDI tới TFPG
Biến giải (1) (2) (3) (4) (5) (6)
Thích RE1 RE2 RE3 FE1 FE2 FE3
FDI -0,027** -0, 040** -0,027*** -0, 039**
-0,01 -0,011 (0, 017) (0, 016)
Trade -0,999*** -1,018*** -0, 468** -0,587** -1,049*** -0,503**
-0,355 -0,366 -0,362 (0, 195) (0, 217) (0, 258)
Scale 4,379** 4,027** 7,468** 5,904 4,295** 9,356**
-1,98 -2,013 -1,888 -3,194 -3,249 -4,085
K_intensity -1,501 -1,663 -16,05 -15,768
-1,467 -1,416 -16,376 -15,759
Constant -29,571* -26,786 -25,994 -47,382 -60,867* -43,199
-16,295 -16,736 -16,674 -28,314 -30,788 -34,599
Số quan sát 176 176 176 176 176 176
Adj R2 0,499 0,442 0,435 0,069 0,099 0,304
Chú thích: Các dấu *, **, *** thể hiện mức ý nghĩa tương ứng 10%, 5% và 1%.
Các kết quả cũng tương tự khi ước lượng Fixed Effect, biến FDI và Trade có tác
41
động âm đến tăng trưởng TFP, khi tỉ lệ vốn FDI trên tổng đầu ra của ngành tăng 10%
thì tăng trưởng TFP sẽ giảm 0,39% . Biến Scale có tác động dương lên tăng trưởng
TFP và biến K_intensity không có ý nghĩa thống kê.
Tác động tiêu cực của FDI lên tăng trưởng TFP có thể là do những lý do sau. Thứ
nhất có thể là do tác động lấn át của các doanh nghiệp FDI đối với các doanh nghiệp
trong nước và năng lực hấp thu vốn FDI kém của nước tiếp nhận đầu tư. Sự hiện diện
của FDI chính là một tác nhân thúc đẩy cạnh tranh và trong nhiều trường hợp tác động
này có thể dẫn đến tình trạng giảm sản lượng của doanh nghiệp trong nước (Aitken và
Harrison, 1999), và có thể dẫn đến phải rời khỏi thị trường, làm suy giảm nền kinh tế.
Đối với các nước đang phát triển và các nước chuyển đổi, năng lực của các doanh
nghiệp trong nước còn yếu kém thì tác động lấn át hoàn toàn có thể xảy ra. Kết quả của
tác động này cũng đã được kiểm chứng trong nghiên cứu của Djankov và Hoekman
(2000) ở nước Cộng Hòa Séc, và Konings (2001) ở Bulgaria, Poland và Romania. Mặt
khác, theo Glass và Saggi (1998) mức độ phổ biến và chuyển giao công nghệ còn phụ
thuộc vào khả năng hấp thụ của doanh nghiệp trong nước. Ông cho rằng khoảng cách
công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc phổ biến và chuyển giao công nghệ, tuy
nhiên vai trò của năng lực hấp thu bao gồm vốn con người, cơ sở hạ tầng và mạng lưới
phân phối cũng đóng vai trò quan trọng trong không những quyết định đầu tư FDI mà
còn quyết định đến loại công nghệ sẽ chuyển giao. Cụ thể, nếu khoảng cách công nghệ
lớn, năng lực hấp thụ kém thì các nhà đầu tư sẽ chuyển giao công nghệ chất lượng
thấp, khả năng lan tỏa kém. Lập luận này khá phù hợp trong điều kiện ở nước ta khi
vấn đề về lao động có kỹ thuật, có tay nghề cao còn rất ít và cơ sở hạ tầng còn yếu
kém.
Nguyên nhân thứ hai theo tác giả cũng khá quan trọng đó là việc chọn lĩnh vực đầu
tư của dòng vốn FDI. Các dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển nói chung và
42
Việt Nam nói riêng chủ yếu tập trung vào các ngành, lĩnh vực khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên và tận dụng nguồn lao động giá rẻ chứ không mang lại nhiều lợi ích
cho tiến bộ công nghệ, nâng cao năng lực quản lý cho nền kinh tế.
Bảng 4.5. TFPG bình quân hàng năm và tổng vốn FDI giai đoạn 2000-2011
Ngành TFPG Tổng vốn FDI
(Tỉ USD) (%)
Nông nghiệp và lâm nghiệp 15,5 0,9
Thủy sản 3,3 0,1
Khai khoáng -1,5 9,2
Công nghiệp chế biến, chế tạo 1,0 79,0
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước -6,5 6,0
Xây dựng 4,5 6,4
5,8 1,7
Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình
Khách sạn và nhà hàng 13,8 14,3
Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc -3,5 5,6
Tài chính, tín dụng 8,1 1,8
Khoa học và công nghệ 1,4 0,3
Kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn 21,0 47,9
Giáo dục và đào tạo -0,3 0,3
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội -1,6 1,1
Văn hóa và thể thao 15,5 0,9
Phục vụ cá nhân và cộng đồng 5,9 0,1
Nguồn: Tính toán của tác giả
Theo số liệu từ tổng cục thống kê cho 16 ngành giai đoạn 2000-2011 (Bảng 4.5), tỉ
lệ tổng vốn FDI đăng kí của các ngành Khai khoáng, Sản xuất và phân phối điện, khí
đốt và nước, Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc và kinh doanh bất động sản chiếm
43
gần 40%, ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm gần 45%. Qua tính toán tăng
trưởng TFP thì các ngành trên có tốc độ tăng trưởng TFP rất thấp, thậm chí là âm. Cụ
thể là TFPG của ngành Khai khoáng là -1,5%/năm, ngành Sản xuất và phân phối điện,
khí đốt và nước là -6,5%/năm, ngành Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc là -
3,5%/năm và ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo là 1%/năm. Bên cạnh đó, đầu tư
FDI vào các lĩnh vực được kỳ vọng như Tài chính, tín dụng, Khoa học và công nghệ,
Nông lâm nghiệp còn rất thấp. Do đó, tác động tiêu tiêu cực của FDI lên tăng trưởng
44
TFP là kết quả hợp lý.
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN
Nhiều quốc gia đang phát triển và chuyển đổi trên thế giới trong đó có Việt Nam
cạnh tranh với nhau để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài thông qua các chính sách
khuyến khích hấp dẫn. Với luận điểm được đưa ra là dòng vốn FDI giúp cải thiện nền
kinh tế thông qua việc các doanh nghiệp nội địa thụ hưởng những ảnh hưởng tích cực
về tri thức, công nghệ mà các doanh nghiệp nước ngoài mang lại. Vấn đề ở đây là liệu
dòng vốn FDI có thực tốt cho các nước tiếp nhận đầu tư. Nghiên cứu này đã cho thấy
rằng dòng vốn FDI chưa hẳn là tốt trong trường hợp ở Việt Nam. Nghiên cứu được
thực hiện cho 16 ngành ở Việt Nam trong giai đoạn 2000-2011, nghiên cứu sử dụng
phương pháp hạch toán tăng trưởng để tính toán tăng trưởng TFP, kết quả cho thấy
tăng trưởng TFP khá cao ở các ngành trong lĩnh vực dịch vụ và nông nghiệp, các ngành
công nghiệp và khai thác tài nguyên thiên nhiên có tốc độ tăng trưởng TFP thấp, thậm
chí có một số ngành âm.
Nghiên cứu cũng thực hiện hồi qui dữ liệu bảng nhằm đánh giá tác động của dòng
vốn FDI đến tăng trưởng TFP cho các ngành ở Việt Nam. Kết quả khá bất ngờ là dòng
vốn FDI có tác động tiêu cực đến tăng trưởng TFP với mức ý nghĩa 1%. Theo kết quả
ước lượng thì nếu tỉ lệ vốn FDI trên tổng đầu ra tăng lên 10% thì nó sẽ làm giảm TFP
0,27% -0,39% . Tuy nhiên kết quả cũng được ủng hộ bởi một số nghiên cứu trước kia
như Aitken và Harrison (1999), Djankov và Hoekman (2000), Konings (2001). Nghiên
cứu cũng đưa ra một số luận luận để giải thích cho tác động tiêu cực này, thứ nhất có
thể là do tác động lấn át của các doanh nghiệp FDI và năng lực hấp thu kém của các
doanh nghiệp trong nước. Nguyên nhân thứ hai có thể là các dòng vốn FDI vào Việt
Nam nói riêng chủ yếu tập trung vào các ngành, lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên
nhiên và tận dụng nguồn lao động giá rẻ chứ không mang lại nhiều lợi ích cho tiến bộ
45
công nghệ, nâng cao năng lực quản lý cho nền kinh tế.
Qua kết quả nghiên cứu này, tác giả xin đưa ra một số gợi ý chính sách. Thứ nhất
là trong việc tiếp nhận dòng vốn FDI vào Việt Nam, nhà nước phải hết sức thận trọng
lựa chọn cấp phép các dự án đầu tư, đặc biệt là trong lĩnh vực khai thác tài nguyên
thiên nhiên. Phải xem xét thật kỹ các tác động tích cực cũng như tiêu cực của các dự án
đến sự phát triển bền vững, lâu dài cho nền kinh tế đất nước. Nhà nước nên có những
chính sách khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực tài chính, y
tế, giáo dục đào tạo và nông nghiệp. Thứ hai, nhà nước nên tập trung vào việc nâng cao
năng lực hấp thu bằng cách đầu tư cho giáo dục đào tạo nhằm tạo ra lực lượng lao động
có trình độ, tay nghề đủ năng lực tiếp thu công nghệ mới. Đồng thời cũng cần phải
nâng cấp cơ sở hạ tầng, mạng lưới giao thông.
Bên cạnh những kết quả đạt, nghiên cứu còn những hạn chế cần khắc phục. Thứ
nhất là hạn chế về số liệu. Do chỉ thu thập được số liệu về vốn FDI đăng kí, và vốn FDI
đăng kí và FDI giải ngân có tỉ lệ khác nhau giữa các ngành, khác nhau giữa các năm
nên kết quả phân tích chưa hoàn toàn phản ánh đúng thực tế tác động của FDI. Còn về
số liệu xuất nhập khẩu, do sản phẩm khác nhau chịu thuế xuất nhập khẩu khác nhau
nên sử dụng số liệu thuế xuất nhập khẩu cũng chưa phản ánh đúng về hoạt động xuất
nhập khẩu. Để khắc phục hạn chế này, nghiên cứu trong tương lai nên sử dụng dữ liệu
về FDI giải ngân và giá trị xuất, nhập khẩu để phân tích.
Thứ hai, vấn đề nội sinh (nhân quả ngược) giữa FDI và tăng trưởng TFP, có thể
xuất hiện trong mô hình phân tích và chưa được giải quyết. Tăng trưởng TFP cũng có
thể là yếu tố tác động đến quyết định đầu tư FDI. Ở nghiên cứu tiếp theo nên sử dụng
46
thêm các biến công cụ thích hợp để có thể khắc phục vấn đề này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên Hợp Quốc (UNIDO) và Bộ Kế hoạch và Đầu
tư của Việt Nam (MPI) (2012). Báo cáo Đầu tư Công nghiệp Việt Nam 2011.
Trung tâm Năng suất Việt Nam (2011). Báo cáo Năng suất Việt Nam 2010.
Tài liệu tiếng Anh
Ahluwalia, I. J. (1991). Productivity and Growth in Indian Manufacturing. Oxford
University Press, New Delhi.
Aitken, B., and A. Harrison (1999). Domestic Firms Benefit from Direct Foreign
Investment? Evidence from Venezuela. American Economic Review, 989(3), 605–618.
Alfaro, L. and S. Kalemli-Ozcan (2008). Foreign Direct Investment,
Productivity, and Financial Development: An Empirical Analysis of Complementarities
and Channels, Harvard Business School Working Paper No. 08-072.
Arrow, Kenneth J. (1962). The Economic Implications of Learning by Doing. The
Review of Economic Studies, Volume 29, Issue 3, 155-123.
Asian Productivity Organization (2004). Total Factor Productivity Growth: Survey
report. Published by the Asian Productivity Organization, Japan.
Barrios, S. and Strobl, E. (2002). Foreign Direct Investment and Productivity
Spillovers: Evidence from the Spanish Experience. Weltwirtschaftliches Archiv
138:459–81.
Ben Ferrett (2004). Foreign Direct Investment and Productivity Growth: A Survey
of Theory. Research paper/Leverhulme Centre for Research on Globalisation and
47
Economic Policy, 2004/15
Blomstrom, M., and Wang J.-Y. (1992). Foreign Investment and Technology
Transfer: A Simple Model. European Economic Review, 36, 137–155.
Blomström, Magnus, Ari Kokko, and Mario Zejan (1994). Host Country
Competition, Labor Skills, and Technology Transfer by Multinationals.
Weltwirtschaftliches Archiv 130:521–33.
Botirjan Baltabaev (2013). FDI and Total Factor Productivity Growth: New
Macro Evidence. Monash Economics Working Papers 27-13, Monash University,
Department of Economics.
Das, S. (1987). Externalities, and technology transfer through multinational
corporations A theoretical analysis. Journal of International Economics, 22,171–182.
Dixit, A. K., and Stiglitz, J. E. (1977). Monopolistic competition and optimum
product diversity. American Economic Review, vol. 67, pp. 297-308.
Djankov, S., and B. Hoekman (2000). Foreign Investment and Productivity
Growth in Czech Enterprises. World Bank Economic Review, 14(1), 49–64.
Djankov, S., and B. Hoekman (2000). Foreign Investment and Productivity
Growth in Czech Enterprises. World Bank Economic Review, 14(1), 49–64.
Ethier, W. J. (1982). National and international returns to scale in the modern
theory of international trade. American Economic Review, vol. 72, pp. 389-405.
Findlay, R. (1978). Some Aspects of Technology Transfer and Direct Foreign
Investment. American Economic Review, 68(2), 275–279.
Gene M. Grossman and Elhanan Helpman (1994). Endogenous Innovation in the
Theory of Growth, Journal of Economic Perspectives. American Economic
48
Association, vol. 8(1), p 23-44.
Ghose, A. and Chakraborty, C. (2012). Total Factor Productivity Growth in
Pharmaceutical Industry: A Look Using Modern Time Series Approach with Indian
Data. The Journal of Industrial Statistics, 1 (2), 250 – 268
Glass, A. J., and Saggi, K. (1998). International Technology Transfer and the
Technology Gap. Journal of Development Economics 55(2):369–98.
Glass, A. J., and Saggi, K. (1999). Foreign direct investment and the nature of
R&D Canadian. Journal of Economics, vol. 32, pp. 92-117.
Glass, A. J., and Saggi, K. (2002). Mulinational firms and technology transfer.
Scandinavian Journal of Economics, vol. 104, pp. 495-513.
Gorg, H. and Greenaway D.(2004). Much ado about nothing? Do domestic firms
really benefit from foreign direct investment?. World Bank Research Observer 19, 171-
197.
Görg, H. and Strobl, E. (2002). Spillovers from Foreign Firms through Worker
Mobility: An Empirical Investigation. Research Paper 02/13. University of
Nottingham, UK.
Haacker, Marcus (1999). Spillovers from Foreign Direct Investment Through
Labor Turnover: the Supply of Management Skills. CEP Discussion Paper, London
School of Economics.
Haddad, Mona and Ann Harrison. (1993). Are there positive spillovers from direct
foreign Investment? Evidence from panel data for Morocoo. Journal of Development
Economics, 42: 51 – 74.
Hall, R. E. & Jones C. I. (1999). Why Do Some Countries Produce So Much More
Output per Worker than Others?. National Bureau of Economic, 114, 83-116.
Helpman, E. (1993). Innovation, imitation, and intellectual property rights.
49
Econometrica, vol. 61, pp. 1247-80.
Jajri Idris (2007). Determinants of Total Factor Productivity Growth in Malaysia.
Journal of Economic Cooperation, Vol 28(3),2007,41-58.
Keller, W. and Yeaple, S. (2004). Multinational Enterprises, International Trade,
and Productivity Growth: Firm-Level Evidence from the United States. Research Paper
03/03, University of Nottingham, UK.
Khan, Safdar Ullah (2006). Macro Determinants of Total Factor Productivity in
Pakistan. SBP Working Paper Series No. 10.
Kokko, Ari, Mario Zejan, and Ruben Tansini (2001). Trade Regimes and Spillover
Effects of FDI: Evidence from Uruguay. Weltwirtschaftliches Archiv 137:124–49.
Konings, J. K. J. (2001). The Effects of Foreign Direct Investment on Domestic
Firms: Evidence from Firm Level Panel Data in Emerging Economies. Economics of
Transition, 9(3), 619–633.
Levinsohn, J., and A. Petrin (2003). Estimating Production Functions Using Inputs
to Control for Unobservables. Review of Economic Studies 70: 317–41.
Lucas, R.E. (1988). On the mechanisms of economics development. Journal of
Monetary Economics, 3-42.
Melitz, Marc J. (2003). The Impact of Trade on Intra-Industry Reallocations and
Aggregate Industry Productivity. Econometrica, Vol. 71, No. 6., pp. 1695-1725.
Miller, Stephen M. & Upadhyay, Mukti P. (2000). The effects of openness, trade
orientation, and human capital on total factor productivity. Journal of Development
Economics, Elsevier, vol. 63(2), pages 399-423.
Nguyen Thi Tue Anh, Vu Xuan Nguyet Hong, Tran Toan Thang and Nguyen
Manh Hai, (2005). The Impacts of Foreign Direct Investment on Economic Growth in
50
Viet Nam. Hanoi Science and Techniques Publishing House.
Proenca, I. et al. (2002). Productivity spillovers from multinational corporations in
the Portuguese case: evidence from a short time period panel data.
isabelp@iseg.utl.pt.
Quan Minh Quoc Binh (2012). Bad FDI? Cross-Country Evidence and
Observations from Vietnam. presented at the Baylor University Economics
Department, University of Economics, Ho Chi Minh City, Vietnam.
Rebelo, S. (1991). Long-Run Policy Analysis and Long-Run Growth. The Journal
of Political Economy, Vol. 99, No. 3, pp. 500-521.
Rodriguez-Clare, A. (1996). Multinationals, linkages, and economic development.
American Economic Review, vol. 86, pp. 852-73.
Romer, P. (1990). Endogenous Technological Change. The Journal of Political
Economy, Vol. 98, No. 5, p71-S102.
Romer, Paul M. (1986). Increasing Returns and Long-Run Growth. The Journal of
Political Economy, Vol. 94, No. 5, pp. 1002-1037.
Sailesh Tanna (2009). The impact of foreign direct investment on total factor
productivity growth: International evidence from the banking industry. Managerial
Finance Vol. 35 No. 3, 2009 pp. 297-311.
Smarzynska, Beata K. (2002). Foreign direct investment increase the productivity
of domestic firms? In research of spillovers through backward linkages. World Bank
Policy Research Working Paper 2923.
Solow, Robert M (1956). A Contribution to the Theory of Economic Growth.
Quarterly Journal of Economics Vol.70, No.1 Feb., pp. 65-94.
Solow, Robert M (1957). Technical Change and the Aggregate Production
51
Function. Review of Economics and Statistics (The MIT Press) 39 (3): 312–320.
Solow, Robert M (1994). Perspectives on Growth Theory. Journal of Economic
Perspectives, American Economic Association, vol. 8(1), pages 45-54.
Thangavelu, Findlay and Chongvilaivan (2010). FDI, Financial Constrains, and
Productivity: Firm Level Study in Vietnam. ERIA Research Project Report 2009-1,
Jakarta: ERIA. pp.316-343.
Van, P. H., and H. Y. Wan (1999). Emulative Development through Trade
Expansions: East Asian Evidence. in International Trade Policy and the Pacific Rim,
U.K.
Wang, J.-Y. (1990). Growth, technology transfer, and the long-run theory of
international capital movements. Journal of International Economics, vol. 29, pp. 255-
71.
Woo, J. (2009). Productivity Growth and Technological Diffusion Through
52
Foreign Direct Investment. Economic Inquiry, 47(2), 226–248.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kết quả tính toán tăng trưởng TFP
Ngành
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
∆L/L
-0.03
0.01
-0.02
0.01
0.02
-0.01
-0.02
0.52
0.34
-0.09
-0.23
∆K/K
0.09
0.12
0.02
0.05
0.06
0.07
0.01
0.14
0.24
0.07
-0.20
lâm
∆Y/Y
-0.11
0.44
0.41
0.24
0.22
0.26
0.10
0.03
0.26
-0.38
0.72
Nông nghiệp và nghiệp
1-α
0.80
0.59
0.52
0.49
0.49
0.47
0.50
0.51
0.51
0.79
0.58
TFPG
-0.11
0.39
0.41
0.21
0.18
0.23
0.11
-0.30
-0.03
-0.32
0.94
∆L/L
0.08
0.01
-0.22
0.02
-0.04
-0.03
0.03
0.37
0.05
0.07
-0.09
Thủy sản
∆K/K
0.10
0.12
-0.01
0.19
-0.04
-0.12
0.16
0.27
0.01
0.09
0.13
∆Y/Y
-0.09
0.13
-0.24
0.33
-0.07
-0.01
0.19
-0.01
0.01
-0.01
0.69
1-α
0.58
0.56
0.60
0.48
0.53
0.53
0.49
0.61
0.61
0.83
0.51
TFPG
-0.18
0.07
-0.10
0.22
-0.04
0.07
0.10
-0.34
-0.02
-0.08
0.67
∆L/L
-0.16
0.21
0.05
0.02
0.06
0.03
0.03
0.06
0.03
0.02
-0.02
Khai khoáng
∆K/K
-0.07
0.16
0.11
0.20
-0.01
0.15
0.10
0.06
-0.01
0.46
0.16
∆Y/Y
0.02
0.24
-0.07
0.49
-0.07
0.47
-0.26
0.25
-0.01
-0.52
0.48
1-α
0.05
0.05
0.06
0.05
0.07
0.05
0.08
0.06
0.06
0.15
0.12
TFPG
0.09
0.08
-0.17
0.31
-0.06
0.33
-0.36
0.19
0.00
-0.91
0.34
0.22
0.16
0.13
0.07
0.10
0.11
0.04
0.05
0.08
-0.01
0.13
∆L/L
0.21
0.13
0.19
0.14
0.11
0.24
0.11
0.02
0.30
0.03
0.16
∆K/K
0.33
0.19
0.17
0.06
0.07
0.32
0.00
0.02
-0.04
0.17
0.20
∆Y/Y
Công nghiệp chế biến, chế tạo
1-α
0.40
0.41
0.40
0.41
0.46
0.42
0.47
0.47
0.57
0.52
0.43
TFPG
0.05
0.11
0.04
0.00
-0.05
-0.03
0.13
-0.08
-0.02
-0.21
0.16
0.06
0.06
0.19
0.07
0.18
0.02
0.08
0.27
-0.07
-0.10
0.07
∆L/L
0.12
0.09
0.07
0.07
0.28
0.10
0.31
0.02
0.05
0.15
0.07
∆K/K
0.07
0.25
-0.24
0.19
0.22
0.73
-0.17
-0.08
-0.50
-0.27
0.23
∆Y/Y
0.27
0.46
0.35
0.33
0.38
0.22
0.26
0.24
0.37
0.38
0.26
1-α
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
TFPG
0.16
-0.04
0.18
-0.35
0.12
-0.02
0.65
-0.42
-0.16
-0.51
-0.33
0.27
0.08
0.09
0.07
-0.01
0.08
0.13
0.12
0.19
-0.03
0.19
∆L/L
Xây dựng
0.38
0.12
0.22
0.21
0.14
0.32
0.13
0.08
0.47
0.01
0.28
∆K/K
0.30
0.14
0.08
0.14
0.12
0.49
-0.11
0.08
0.33
0.25
0.28
∆Y/Y
0.66
0.70
0.66
0.68
0.64
0.57
0.68
0.68
0.70
0.60
0.62
1-α
53
TFPG
0.06
-0.01
0.05
-0.06
0.03
0.08
0.31
-0.24
-0.03
0.06
0.26
∆L/L
0.09
0.15
0.09
0.14
0.14
0.12
0.10
0.23
0.13
0.24
0.00
∆K/K
-0.12
0.11
-0.34
0.18
0.20
0.27
0.43
0.08
0.09
0.80
0.02
∆Y/Y
0.47
0.28
-0.03
0.03
0.24
0.10
0.39
0.05
0.09
0.61
0.06
1-α
0.17
0.16
0.20
0.23
0.22
0.24
0.22
0.29
0.29
0.25
0.26
TFPG
0.55
0.16
0.23
-0.14
0.05
-0.13
0.03
-0.08
-0.02
-0.06
0.05
Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, đồ dùng cá nhân
0.10
∆L/L
0.19
0.09
0.12
0.14
0.06
0.20
0.11
0.14
0.13
0.00
và
0.12
∆K/K
0.02
0.01
0.12
0.15
0.06
0.39
0.32
0.10
0.15
-0.12
0.12
∆Y/Y
0.90
-0.05
0.38
0.32
0.27
0.59
0.08
0.10
-0.29
0.46
Khách sạn nhà hàng
0.86
1-α
0.58
0.64
0.50
0.46
0.40
0.33
0.35
0.35
0.58
0.45
TFPG
0.02
0.78
-0.10
0.26
0.17
0.21
0.27
-0.16
-0.01
-0.43
0.53
0.15
∆L/L
0.02
0.07
0.05
0.01
0.06
0.06
-0.02
0.33
0.08
-0.07
0.17
∆K/K
0.18
0.22
0.09
0.21
0.21
0.24
0.02
0.36
-0.01
-0.09
0.19
∆Y/Y
0.27
0.11
0.09
0.08
0.18
0.16
-0.24
0.49
-0.42
0.07
Vận tải; kho bãi và thông tin liên lạc
0.32
1-α
0.30
0.32
0.27
0.32
0.32
0.30
0.41
0.36
0.62
0.59
TFPG
0.02
0.14
-0.07
0.01
-0.07
0.02
-0.02
-0.24
0.14
-0.46
0.15
∆L/L
0.10
0.10
0.09
0.18
0.14
0.08
0.21
0.23
0.10
0.13
0.00
∆K/K
0.24
-0.04
0.48
0.20
0.16
0.26
0.43
0.09
0.06
0.29
0.03
Tài chính, tín dụng
∆Y/Y
0.29
0.20
0.29
0.21
0.35
0.33
0.37
0.18
0.05
-0.44
1.04
1-α
0.19
0.19
0.19
0.18
0.22
0.20
0.22
0.28
0.28
0.56
0.16
TFPG
0.08
0.21
-0.12
0.02
0.19
0.11
-0.01
0.05
-0.01
-0.64
1.01
∆L/L
-0.04
1.36
-0.01
0.93
0.50
-0.09
0.58
0.68
0.55
-0.09
-0.12
∆K/K
4.40
0.62
-0.49 18.48
0.26
-0.25
0.47
0.24
0.15
-0.29
1.18
và
∆Y/Y
-0.35
5.26
-0.49
8.45
0.13
-0.16
0.07
0.14
-0.16
0.72
-0.15
HĐ khoa học công nghệ
1-α
0.50
0.85
0.71
0.20
0.27
0.25
0.40
0.54
0.98
0.85
0.83
TFPG
-2.53
4.01
-0.34
0.92
-1.04
0.04
-0.45
-0.34
-0.70
0.84
-0.25
∆L/L
0.33
0.29
0.14
0.29
0.32
0.18
0.21
0.27
0.29
0.23
0.00
∆K/K
0.40
0.04
0.03
-0.06
0.31
0.14
0.91
0.69
0.25
0.29
0.29
∆Y/Y
3.65
-0.18
-0.05
-0.23
0.45
-0.01
0.66
0.18
0.25
-0.06
0.57
1-α
0.13
0.28
0.26
0.42
0.40
0.48
0.41
0.48
0.48
0.69
0.44
Kinh doanh bất động và sản dịch vụ tư vấn
TFPG
3.26
-0.29
-0.11
-0.32
0.14
-0.17
0.03
-0.30
-0.02
-0.31
0.41
∆L/L
-0.19
0.52
0.26
0.64
0.63
0.60
0.23
0.33
0.45
0.36
-0.08
Giáo
54
∆K/K
0.13
0.28
-0.01
0.54
0.92
1.10
0.25
0.21
0.39
0.73
9.59
và
dục đào tạo
∆Y/Y
-0.06
0.95
0.22
0.05
0.45
0.97
0.28
0.67
0.39
0.01
-0.04
1-α
0.35
0.75
0.65
0.79
1.00
0.70
0.74
0.75
0.75
0.92
0.94
TFPG
-0.08
0.49
0.06
-0.57
-0.18
0.22
0.04
0.37
-0.04
-0.38
0.03
∆L/L
0.15
0.54
0.09
0.48
0.36
0.16
0.26
0.28
0.40
0.31
0.00
∆K/K
0.13
0.40
-0.24
0.70
0.25
0.22
0.72
0.00
0.35
0.52
0.33
∆Y/Y
0.01
-0.10
-0.17
1.53
0.28
0.28
0.17
0.38
0.35
-0.07
0.29
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
1-α
0.32
0.80
0.95
0.80
0.70
0.64
0.70
0.65
0.65
0.91
0.79
TFPG
-0.13
-0.62
-0.24
1.01
-0.05
0.10
-0.23
0.19
-0.03
-0.40
0.22
∆L/L
-0.15
0.25
0.10
0.20
0.13
0.11
0.11
0.09
0.12
0.22
0.02
∆K/K
-0.34
0.28
0.01
0.21
0.23
0.26
0.26
0.62
0.08
0.34
-0.04
HĐ văn và hóa thể thao
∆Y/Y
-0.32
0.77
0.03
0.51
0.10
0.37
0.27
-0.14
0.08
1.32
0.22
1-α
0.84
0.61
0.62
0.64
0.63
0.56
0.50
0.70
0.70
0.51
0.41
TFPG
-0.14
0.50
-0.04
0.30
-0.06
0.19
0.08
-0.39
-0.03
1.04
0.23
∆L/L
0.25
0.12
0.19
0.10
0.14
0.07
0.03
0.15
0.25
0.22
-0.13
∆K/K
0.93
0.12
-0.48
1.43
0.15
0.18
0.22
0.11
0.20
0.44
-0.08
∆Y/Y
0.34
0.12
0.03
0.48
0.00
0.18
0.29
0.07
0.21
0.20
0.53
HĐ phục vụ cá nhân và cộng đồng
1-α
0.75
0.67
0.75
0.78
0.79
0.77
0.78
0.80
0.80
0.85
0.52
TFPG
-0.08
0.00
0.01
0.09
-0.15
0.09
0.21
-0.07
-0.03
-0.05
0.63
55
Phụ lục 2: Thống kê các biến sử dụng trong phân tích hồi qui
Biến Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất
TFPG 0.517 5.376 -25.255 40.124
FDI 6.219 18.031 0.000 159.310
Trade 0.517 0.885 0.000 5.324
Scale 8.433 2.337 0.674 11.962
56
K_intensity 0.743 1.636 0.046 8.592
Phụ lục 3: Kết quả hồi qui
Kết quả hồi qui cột (1)
57
Kết hồi qui quả cột (2)
Kết quả hồi qui cột (3)
58
Kết quả hồi qui cột (4)
Kết quả hồi qui cột (5)
59
Kết quả hồi qui cột (6)
Phụ lục 4: Hausman test
Hausman test là phương pháp thường được sử dụng để kiểm tra trong hai mô hình
phân tích hồi qui Fixed Effect và Random Effect mô hình nào thích hợp hơn. Hausman
test kiểm định giả thuyết H0 là hệ số ước lượng bởi Fixed Effect và Random Effect là
không khác nhau. Bởi vì (Prob>chi2 =0.6627 > 0.05) nên ta không bác bỏ H0. Do đó,
60
hệ số ước lượng bởi Fixed Effect và Random Effect là không khác nhau.