BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

Hồ Nhựt Khương

TÁC ĐỘNG CỦA DI CƯ NÔNG THÔN

ĐẾN MỨC SỐNG CỦA HỘ GIA ĐÌNH NÔNG THÔN

VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

Hồ Nhựt Khương

TÁC ĐỘNG CỦA DI CƯ NÔNG THÔN

ĐẾN MỨC SỐNG CỦA HỘ GIA ĐÌNH NÔNG THÔN

VIỆT NAM

Chuyên ngành: Kinh tế Phát triển

Mã số: 60310105

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS. TS. Hoàng Thị Chỉnh

Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn “Tác động của di cư nông thôn đến mức sống hộ

gia đình ở nông thôn Việt Nam” là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các

tài liệu tham khảo, số liệu thống kê trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ

ràng. Kết quả của luận văn chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu

nào khác.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng 5 năm 2017

HỒ NHỰT KHƯƠNG

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU................................................................................................................. 1

1.1

Đặt vấn đề .......................................................................................................................... 1

Sự cần thiết của đề tài ................................................................................................ 1

1.1.1

Tổng quan nghiên cứu ................................................................................................ 3

1.1.2

1.2 Mục tiêu và nội dung nghiên cứu ....................................................................................... 3

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................................... 4

1.3

Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................... 4

1.4

Ý nghĩa đề tài ..................................................................................................................... 4

1.5

Kết cấu đề tài ...................................................................................................................... 5

1.6

CHƯƠNG II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LAO ĐỘNG DI CƯ NÔNG THÔN. ........ 6

2.1

Khái niệm ........................................................................................................................... 6

Khu vực nông thôn ..................................................................................................... 6

2.1.1

Di cư ........................................................................................................................... 7

2.1.2

Lao động di cư ........................................................................................................... 8

2.1.3

Lao động di cư nông thôn .......................................................................................... 8

2.1.4

2.1.5 Mức sống hộ gia đình ................................................................................................. 8

2.2 Một số quan điểm lý thuyết bàn về di cư và tác động của di cư ...................................... 11

Quan điểm lý thuyết kinh tế về di cư ................................................................... 11

2.2.1

Quan điểm nhân khẩu học, xã hội học bàn về di cư ............................................. 14

2.2.2

Quan điểm lý thuyết về tác động của lao động di cư nông thôn .......................... 15

2.2.3

Tổng quan các nghiên cứu về tác động của lao động di cư nông thôn tới mức sống hộ gia

2.3 đình 19

2.3.1

Tác động của việc ra đi ........................................................................................ 20

2.3.2

Tác động của sự phân bổ ...................................................................................... 21

2.3.3

Tác động của sự trở về ......................................................................................... 23

DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

CHƯƠNG III. MÔ TẢ DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................... 24

3.1

Bộ số liệu Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam ....................................................... 24

3.2

Khung phân tích ............................................................................................................... 25

3.3

Các biến số chính ............................................................................................................. 26

3.4

Về phương pháp phân tích số liệu .................................................................................... 30

CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................................................... 33

4.1

Thực trạng di cư nông thôn tại Việt Nam ........................................................................ 33

Kết quả phân tích định lượng về tác động của lao động di cư nông thôn tới mức sống hộ

4.2 gia đình nông thôn ........................................................................................................................ 40

4.3

Bàn luận về kết quả phân tích .......................................................................................... 45

4.3.1

Tác động của việc có người xuất cư ......................................................................... 45

4.3.2

Tác động phân bổ của tiền gửi về ............................................................................ 46

CHƯƠNG V: KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ..................................................................................... 47

KẾT LUẬN ...................................................................................................................................... 51

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt Viết đầy đủ

CĐ Cao đẳng

ĐH Đại học

FDI Foreign Direct Investment – Đầu tư trực tiếp nước ngoài

HIV/AIDS Human immunodeficiency virus infection / acquired

immunodeficiency syndrome – Họi chứng suy giảm miễn

dịch mắc phải ở người

IOM International Organization for Migration

MP Marginal Productivity – Năng suất lao động cận biên

TC CN Trung cấp chuyên nghiệp

THCS Trung học cơ sở

THPT Trung học phổ thông

UN United Nations – Liên hợp quốc

UNFPA United Nations Fund for Population Activities – Quỹ Dân số

Liên hợp quốc

VHLSS Vietnam Household Living Standard Survey – Điều tra mức

sống hộ gia đình Việt nam

WHO World Health Organization – Tổ chức Y tế Thế giới.

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1: Tóm tắt các biến trong mô hình ............................................................. 29

Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình ................................................. 34

Bảng 4.2: Tình trạng hôn nhân của chủ hộ ............................................................. 34

Bảng 4.3: Tuổi của lao động di cư nông thôn ......................................................... 36

Bảng 4.4: Số người di cư mỗi hộ tại nông thôn năm 2014 ..................................... 38

Bảng 4.5: Đặc trưng của hộ có và không có lao động di cư nông thôn năm 2014 ... 39

Bảng 4.6: Kiểm định so sánh sự khác biệt về các nhân tố liên quan tới mức sống của hộ năm 2014 và năm 2012. .................................................................................... 41

Bảng 4.7: Kiểm định so sánh sự khác biệt về các nhân tố liên quan đến chi giáo dục của hộ năm 2014 và năm 2012............................................................................... 42

Bảng 4.8: Tác động của lao động di cư nông thôn đến chi tiêu bình quân của hộ gia đình ở nông thôn. ................................................................................................... 43

Bảng 4.9: Tác động của lao động di cư nông thôn đến thu nhập từ nông nghiệp của hộ gia đình. ............................................................................................................ 44

Bảng 4.10: Tác động của tiền gửi về đến chi tiêu bình quân của hộ gia đình ở nông thôn. ...................................................................................................................... 45

DANH MỤC BIỂU ĐỔ, HÌNH

Hình 3.1 Tác động của di cư nông thôn đến mức sống hộ gia đình. .....................25

Hình 4.1: Tình trạng hôn nhân của chủ hộ. ..........................................................35

Hình 4.2: Độ tuổi của lao động di cư nông thôn năm 2014. .................................36

Hình 4.3: Độ tuổi của lao động di cư nông thôn 2014 phân theo nam/nữ. ............37

Hình 4.4: Trình độ chuyên môn đào tạo của lao động di cư nông thôn năm 2014. ............................................................................................................38

TÓM TẮT

Lao động di cư nông thôn là một hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính quy

luật khi đất nước trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa và đô thị hóa. Do ảnh

hưởng từ việc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang chứng

kiến sự gia tăng mạnh mẽ số lượng các doanh nghiệp FDI và các khu công nghiệp,

khu chế xuất làm dịch chuyển cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao động

phi nông nghiệp tại Việt Nam. Đây cũng là những nguồn thu hút dòng lao động di

cư khá lớn từ nông thôn. Đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề di cư nói chung trên

nhiều khía cạnh: nguyên nhân của hiện tượng di cư, tác động của hiện tượng di cư

tại nơi đến, xu hướng di cư nội địa và quốc tế và rất nhiều khía cạnh khác. Đa phần

các nghiên cứu đều tập trung vào tác động của hiện tượng di cư tới nơi đến, tức là

các thành phố lớn, khó khăn của người lao động di cư ở nơi đến mà chưa tập trung

nhiều tới việc xem xét, đánh giá tác động của hiện tượng này tới nơi đi của người di

cư từ nông thôn để đến nơi khác làm việc. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá

tác động của hiện tượng kinh tế - xã hội này tới mức sống hộ gia đình ở nông thôn.

Các kết quả phân tích của luận văn cho thấy một phần tác động tích cực của lao

động di cư nông thôn đến mức sống của hộ gia đình tại nông thôn thông qua tiền

gửi về. Các khoản tiền gửi về của người di cư đóng góp đáng kể vào thu nhập của

hộ gia đình và giúp hộ nới lỏng chi tiêu cho các khoản chi thiết yếu của hộ. Tuy

nhiên, bên cạnh đó, luận văn vẫn chưa có bằng chứng cho sự tác động của việc xuất

cư ảnh hưởng đến hoạt động nông nghiệp của hộ gia đình ở nông thôn.

1

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU

1.1 Đặt vấn đề

1.1.1 Sự cần thiết của đề tài

Theo Tổng điều tra dân số năm 1999, tổng số người di cư (tổng số người từ 5

tuổi trở lên thay đổi nơi cư trú tới địa điểm khác) là 2,1 triệu người. Con số này tăng

hơn 3 lần theo kết quả Tổng điều tra dân số năm 2009 là 6,6 triệu người (Tổng cục

Thống kê, 2010). Di cư có tổ chức phần lớn được thực hiện theo các chương trình

xây dựng vùng kinh tế mới (chủ yếu trước năm 1990) và chương trình tái định cư

do điều kiện môi trường và xây dựng các công trình thủy điện nhưng chiếm một

phần nhỏ trong số những người di cư. Kể từ những năm 1990, số lượng người di cư

ngoài các chương trình của Chính phủ ngày càng lớn và họ là những người di cư tự

do. Di cư tự do hiện đang trở thành xu thế di cư trong nước chính ở Việt Nam.

Nhiều bằng chứng khoa học cũng đã chỉ ra động cơ chủ yếu của người di cư tự do

là lý do kinh tế (trên 70%), trong đó tìm việc làm được xem là một lý do quan trọng.

Số liệu thống kê cũng cho thấy, di cư nông thôn - thành thị chiếm hơn ¼ tổng số di

cư trong nước (United Nations Vietnam, 2010).

Lao động di cư nông thôn là một hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính quy luật

khi đất nước trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa và đô thị hóa. Sau những

năm Đổi mới, dòng người di cư để làm việc từ nông thôn ra thành thị, đặc biệt tại

các thành phố lớn tại Việt Nam cũng tuân theo quy luật như vậy do tốc độ phát triển

không đồng đều giữa các vùng, đặc biệt giữa nông thôn và thành thị. Do ảnh hưởng

từ việc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang chứng kiến sự gia

tăng mạnh mẽ số lượng các doanh nghiệp FDI và các khu công nghiệp, khu chế

xuất làm dịch chuyển cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao động phi nông

nghiệp tại Việt Nam. Đây cũng là những nguồn thu hút dòng lao động di cư khá lớn

từ nông thôn (theo tác giả Lê Xuân Bá, tỷ lệ lao động nông thôn trong các doanh

nghiệp FDI và khu công nghiệp tăng từ 37,6% lên 44,8% trong hai năm 2002-

2004). Với tốc độ đô thị hóa và phát triển kinh tế mạnh mẽ tại các khu đô thị và tình

trạng thiếu việc làm tại nông thôn tiếp tục tiếp diễn, lao động di cư nông thôn được

2

dự báo sẽ tiếp tục tăng nhanh trong thời gian tới. Xu hướng này tiếp tục được củng

cố bởi cơ cấu dân số vàng mà Việt Nam đang và sẽ trải qua, tốc độ tăng lực lượng

lao động quá nhanh cũng sẽ khiến dòng người di cư tới thành thị để làm việc phát

triển theo.

Đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề di cư nói chung trên nhiều khía cạnh: nguyên

nhân của hiện tượng di cư, tác động của hiện tượng di cư tới nơi đến, xu hướng di

cư nội địa và quốc tế và rất nhiều khía cạnh khác. Đa phần các nghiên cứu đều tập

trung vào tác động của hiện tượng di cư tại nơi đến, tức là các thành phố lớn, khó

khăn của người lao động di cư ở nơi đến mà chưa tập trung nhiều tới việc xem xét,

đánh giá tác động của hiện tượng này tại nơi đi của người di cư từ nông thôn để đến

nơi khác làm việc. Để có những chính sách quản lý phù hợp đối với lao động di cư,

rất cần những nghiên cứu đầy đủ, nhiều chiều về hiện tượng này giúp các nhà quản

lý hiểu rõ hơn về bản chất của hiện tượng, về tác động kinh tế - xã hội của nó đối

với đời sống hộ gia đình và cộng đồng.

Đề tài nghiên cứu này muốn tập trung đi sâu vào một nội dung của di cư là lao

động di cư từ nông thôn và tác động của hiện tượng này tới mức sống hộ gia đình

của họ ở nông thôn. Kinh nghiệm từ nhiều nước trên thế giới cho thấy, di cư có

quan hệ chặt chẽ với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và việc

phân tích hiện tượng lao động di cư nông thôn rất cần phải có cái nhìn nhiều chiều.

Với cách tiếp cận liên ngành gồm kinh tế học, nhân khẩu học, và xã hội học, đề tài

mong muốn có được cái nhìn đa chiều và chính xác hơn về những ảnh hưởng tích

cực và tiêu cực tới mức sống hộ gia đình nông thôn. Một số câu hỏi nghiên cứu

chính mà đề tài mong muốn trả lời là: lao động di cư nông thôn có làm tăng thu

nhập của hộ? , hiện tượng này có tác động gì tới chi tiêu của hộ?, tiền gửi về của

người di cư có làm tăng thu nhập và chi tiêu của hộ?. Thông qua việc trả lời các câu

hỏi nghiên cứu, đề tài đưa ra những phân tích và bình luận về hiện tượng lao động

di cư nông thôn, vai trò và tác động kinh tế - xã hội của nó đối với mức sống hộ gia

đình nông thôn và đề xuất giải pháp thúc đẩy những tác động tích cực của hiện

3

tượng này cho phù hợp với định hướng nâng cao mức sống của người dân và mục

tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung.

1.1.2 Tổng quan nghiên cứu

Trong nước: Cùng với dòng lao động di cư từ nông thôn tới các thành phố lớn

ngày càng tăng ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về hiện tượng này trong những

năm qua: Về lực hút và lực đẩy dẫn tới lao động di cư, tác động tích cực và tiêu cực

của hiện tượng này tới các thành phố lớn với những cảnh báo về sự quá tải đối với

cơ sở hạ tầng tại các thành phố lớn, với những khó khăn của người lao động di cư

và nguy cơ đối với trật tự xã hội tại địa bàn đô thị… Những nghiên cứu về di cư

trong nước nói chung được thể hiện trong các báo cáo của UNFPA, IOM, Viện

Khoa học xã hội Việt Nam, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Nông nghiệp

và Phát triển Nông thôn và nhiều tác giả trong và ngoài nước khác. Các nghiên cứu

đã tiến hành tập trung nhiều vào tác động tại nơi đến của lao động di cư mà chưa đi

sâu phân tích tác động của hiện tượng này tại nơi đi của người lao động. Đề tài

nghiên cứu lần này cố gắng bổ sung thêm một góc nhìn đa chiều về tác động của lao

động di cư nông thôn thông qua tiếp cận đa ngành.

Ngoài nước: Lao động di cư nông thôn là hiện tượng kinh tế - xã hội xuất hiện

ở nhiều quốc gia. Với các nước đang phát triển như Việt Nam, đây là hiện tượng

phổ biến và cũng dành được nhiều sự quan tâm của các nhà quản lý và các nhà

nghiên cứu. Những nghiên cứu đã tiến hành về lĩnh vực này ở các nước khác sẽ

cung cấp chất liệu phong phú cho đề tài nghiên cứu lần này cả về mặt lý thuyết và

thực tiễn, cung cấp những mô hình thực tế và các phương pháp nghiên cứu bổ ích.

1.2 Mục tiêu và nội dung nghiên cứu

Mục tiêu chính của đề tài nghiên cứu là:

1) Tìm hiểu về thực trạng hiện tượng lao động di cư nông thôn trong những

năm gần đây ở Việt Nam;

2) Đánh giá tác động của hiện tượng di cư nông thôn tới mức sống hộ gia đình

nông thôn;

4

3) Đưa ra những đề xuất chính sách hướng tới mục tiêu nâng cao mức sống của

hộ gia đình ở nông thôn nói riêng và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nói chung.

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lao động di cư ở nông thôn. Đơn vị phân

tích là hộ gia đình.

Phạm vi nghiên cứu: Lao động di cư từ vùng nông thôn trên lãnh thổ Việt Nam.

Về thời gian, số liệu được sử dụng là số liệu từ Điều tra mức sống hộ gia đình trong

năm 2014 và 2012.

1.4 Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu

khác nhau. Phương pháp tổng hợp và phân tích được sử dụng trong nghiên cứu tài

liệu thứ cấp về lý thuyết di cư và kết quả từ các nghiên cứu thực nghiệm trước kia

về di cư và tác động của nó. Phương pháp thống kê được sử dụng trong phân tích số

liệu để nghiên cứu mối tương quan và tác động của hiện tượng lao động di cư nông

thôn tới sự thay đổi mức sống hộ nông thôn. Phần phân tích này sẽ sử dụng các

thống kê mô tả, kiểm định sự khác biệt và việc lựa chọn sử dụng một số mô hình

hồi quy trong phân tích số liệu và mối tương quan giữa các biến quan tâm.

1.5 Ý nghĩa đề tài

*Ý nghĩa khoa học: Đề tài này góp phần bổ sung vào các kết quả nghiên cứu đã

có trong cùng lĩnh vực. Thông qua cách tiếp cận của mình, đề tài đưa ra một góc

nhìn khác đối với tác động của lao động di cư nông thôn, góc nhìn từ nơi đi của lao

động. Bên cạnh đó, việc sử dụng tiếp cận liên ngành cũng là một đóng góp của đề

tài, cung cấp những lý giải toàn diện hơn so với những kết quả nghiên cứu trước.

*Hiệu quả kinh tế: Kết quả của đề tài nghiên cứu sẽ chỉ ra những tác động tích

cực và tiêu cực của lao động di cư đối với mức sống hộ gia đình nông thôn. Việc

hiểu rõ thực tế sẽ giúp các nhà quản lý định hướng phát triển để phát huy tối đa

những tác động tích cực, thúc đẩy hiệu ứng lan tỏa được rộng khắp hơn. Hiệu quả

về mặt kinh tế sẽ rõ nét hơn và lâu dài hơn đối với hộ gia đình nông thôn và cộng

đồng nông thôn nói chung.

5

*Hiệu quả xã hội: Việc ổn định và nâng cao mức sống hộ gia đình nông thôn là

một mục tiêu dài hạn của Việt Nam. Lao động di cư nông thôn là một kênh để có

thể thực hiện mục tiêu này. Do đó, đề tài nghiên cứu sẽ giúp các nhà hoạch định và

quản lý đề ra những chính sách phù hợp đối với lao động di cư, vừa phát triển kinh

tế, vừa đảm bảo ổn định xã hội.

1.6 Kết cấu đề tài

Báo cáo được chia thành ba phần gồm phần mở đầu, phần nội dung và phần kết

luận gồm 6 chương:

Chương I: Giới thiệu

Chương II: Cơ cở lý luận và thực tiễn về lao động di cư nông thôn.

Chương III: Số liệu và phương pháp nghiên cứu

Chương IV: Kết quả nghiên cứu

Chương V: Kiến nghị chính sách

Kết luận

6

CHƯƠNG II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ LAO

ĐỘNG DI CƯ NÔNG THÔN.

2.1 Khái niệm

2.1.1 Khu vực nông thôn

Theo Điều 3 Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của Chính phủ về

chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn, nông thôn được định nghĩa

là:”phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn, được

quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã”.

Nông thôn có các đặc điểm sau:

- Dân cư ở nông thôn cư trú tập trung trong nhiều hộ gia đình gắn kết với

nhau trong sản xuất, sinh hoạt và các hoạt động xã hội khác trong phạm vi

một khu vực nhất định được hình thành do điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh

tế - xã hội, văn hoá, phong tục, tập quán và các yếu tố khác.

- Kinh tế nông thôn chủ yếu là kinh tế nông nghiệp mang nhiều yếu tố tự

nhiên: nhà, vườn, ao, ruộng, thường gắn với những điều kiện địa lý có sẵn

(thường chiếm từ 50% lao động trở lên), trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành

chính, ngoài ra còn có các nghề thủ công, chế biến lương thực, thực phẩm,

buôn bán nhỏ theo hộ gia đình.

- Chính trị ở nông thôn: ngoài hệ thống chính quyền xã, ấp, thôn do Nhà nước

điều hành trên cơ sở pháp luật còn có hệ thống cương vị chức sắc trong

dòng tộc, già làng, thân thuộc, tôn giáo… điều chỉnh hành vi của các thành

viên bằng tục lệ hay quy ước.

- Văn hoá nông thôn chủ yếu là văn hoá dân gian, thông qua lễ, hội… để

truyền những giá trị thẩm mỹ, đạo đức, lối sống, kinh nghiệm sống, kinh

nghiệm sản xuất từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hoá nông thôn đã bảo

tồn được những giá trị quý báu mang tính truyền thống, nhưng nó cũng chứa

đựng những yếu tố không có lợi cho sự phát triển.

7

2.1.2 Di cư

Ở mỗi góc độ và tùy vào lĩnh vực nghiên cứu khác nhau, thậm chí tùy quan

niệm của các nhà nghiên cứu, di cư được xác định với những khác biệt nhất định.

Theo nghĩa rộng, di cư là sự chuyển dịch bất kỳ của con người trong một không

gian và thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay vĩnh viễn.

Với khái niệm này di cư đồng nhất với sự di động dân cư. Theo nghĩa hẹp, di cư là

sự di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh thổ khác, nhằm

thiết lập một nơi cư trú mới trong một không gian thời gian nhất định (Liên hiệp

quốc). Khái niệm này khẳng định mối liên hệ giữa sự di chuyển với việc thiết lập

nơi cư trú mới (Đặng Nguyên Anh, 2007).

Di cư có thể được phân chia thành nhiều hình thức khác nhau tùy vào từng khía

cạnh cụ thể. Chẳng hạn như di cư quốc tế và di cư nội địa - theo địa bàn nơi đến.

Theo độ dài thời gian, chúng ta có di cư tạm thời, di cư lâu dài, di cư mùa vụ, di cư

con lắc. Theo đặc trưng di cư, có thể phân ra di cư có tổ chức, di cư tự phát...

Một điểm cần lưu ý trong khái niệm di cư là sự cấu thành của nó, bao gồm hai

yếu tố xuất cư và nhập cư, được phân chia dựa trên quy ước là sự chuyển đến hay

rời khỏi một nơi nào đó. Sự chênh lệch giữa xuất cư và nhập cư được gọi là di cư

thuần túy.

Trong đề tài này, luận văn sử dụng định nghĩa về di cư theo nghĩa hẹp như trên,

tức là di cư là sự di chuyển dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến một đơn vị lãnh

thổ khác nhằm thiết lập một nơi cư trú mới trong một không gian thời gian nhất

định. Theo độ dài thời gian, di cư trong đề tài này được xác định trong khoảng thời

gian từ 6 tháng đến 2 năm. Trong giới hạn thời gian như trên, di cư được xác định là

di cư tạm thời. Cũng theo sự phân chia đặc điểm ở trên, di cư được giới hạn là di cư

tự do (không theo các chương trình có tổ chức của Nhà nước). Định nghĩa này khác

với định nghĩa được nêu ra trong Tổng điều tra Dân số và nhà ở với mốc thời gian

là 5 năm và thường là theo hình thức di cư lâu dài.

8

2.1.3 Lao động di cư

Theo định nghĩa của Tổ chức Di dân quốc tế (International Organization for

Migration - IOM), lao động di cư (tạm dịch từ labour migration) (nhiều tài liệu sử

dụng thuật ngữ lao động di cư, trong đề tài này luận văn lựa chọn sử dụng lao động

di cư nhưng với cách hiểu tương tự) được xác định là việc những người di chuyển

khỏi chỗ ở của mình tới một quốc gia khác hoặc một vùng khác trong cùng một

quốc gia vì mục tiêu tìm kiếm việc làm. IOM cũng lưu ý rằng hiện trên thế giới

chưa thống nhất một định nghĩa chính thức về thuật ngữ này.

Cũng theo tổ chức này, di dân kinh tế (economic migrant) đôi khi được sử dụng

giống như lao động di cư dù rằng nội hàm của hai thuật ngữ này có những điểm

khác biệt. Lao động di cư chỉ được sử dụng để mô tả việc di chuyển vì mục tiêu tìm

kiếm công việc. Trong khi đó, di cư kinh tế được sử dụng theo cả nghĩa hẹp (chỉ mô

tả việc di chuyển vì mục đích tìm việc làm) và nghĩa rộng (việc di chuyển nhằm

thực hiện các hoạt động kinh tế khác như đầu tư hoặc đi du lịch).

2.1.4 Lao động di cư nông thôn

Trong mục phân loại di cư, di cư nội địa được chia thành nhiều loại bao gồm di

cư nông thôn - nông thôn, di cư nông thôn - đô thị, di cư đô thị - nông thôn và di cư

đô thị - đô thị. Trong phạm vi của đề tài này, luận văn tập trung nghiên cứu đối

tượng là lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và di cư từ vùng nông thôn này

sang các vùng nông thôn khác.

Khái niệm lao động di cư nông thôn có thể được xác định dựa trên việc kết hợp

2 khái niệm đã được trình bày ở trên: di cư và lao động di cư. Theo đó, lao động di

cư nông thôn được hiểu là việc những người lao động rời khỏi nơi cư trú của mình

(một cách tự phát) ở các vùng nông thôn để tới các đô thị hay những vùng nông

thôn khác nhằm tìm kiếm việc làm.

2.1.5 Mức sống hộ gia đình

Mức sống (standards of living) hộ gia đình là một khái niệm phức hợp để chỉ

điều kiện sống nhiều mặt của hộ gia đình và thường được đo lường bằng các tiêu

chí khác nhau như thu nhập bình quân đầu người, tỷ lệ nghèo, tiếp cận dịch vụ y tế,

9

tuổi thọ, tiếp cận với giáo dục có chất lượng... Bản thân trong khái niệm đã có hàm

ý về mức độ tốt/kém về điều kiện sống. Vì là một khái niệm tổng hợp nên việc đánh

giá mức sống hộ gia đình phải căn cứ trên nhiều khía cạnh: kinh tế, xã hội, tâm lý,

sức khỏe, giáo dục…Về khía cạnh kinh tế, điều kiện sống của hộ có thể được thể

hiện qua hai chỉ báo cụ thể là thu nhập và chi tiêu của hộ. Thông thường, thu nhập

và chi tiêu càng cao thì mức sống hộ gia đình càng cao. Đi sâu hơn nữa, nhiều

nghiên cứu có thể tìm hiểu cơ cấu thu nhập và chi tiêu của hộ để có nhận xét xác

đáng hơn về khía cạnh kinh tế của hộ gia đình. Về khía cạnh xã hội, khái niệm vốn

xã hội có thể được coi là một chỉ báo về mặt này. Một hộ gia đình tham gia nhiều

nhóm, cộng đồng, và tổ chức sẽ có xu hướng nhận được nhiều sự giúp đỡ thông qua

mạng lưới quan hệ mà họ có. Về khía cạnh tâm lý, mức sống hộ được cho là tốt nếu

các thành viên chung sống với nhau thoải mái, vui vẻ và hạnh phúc. Chỉ báo cụ thể

đo lường khía cạnh này có thể là mức độ hài lòng của mỗi thành viên trong hộ khi

sống cùng nhau. Về khía cạnh sức khỏe, một hộ gia đình được đánh giá là khỏe nếu

họ đạt được điểm số cao cho các chỉ báo về tình trạng thể chất, tinh thần, vận

động…Về khía cạnh giáo dục, một hộ gia đình có nhiều thành viên đạt được các

cấp học cao chứng tỏ hộ có điều kiện về giáo dục tốt. Tuy có thể phân định các

thành tố của khái niệm mức sống hộ gia đình, mỗi khía cạnh cấu thành nên khái

niệm này đều có quan hệ tương tác lẫn nhau. Việc đánh giá mức sống hộ gia đình

cần dựa trên càng nhiều khía cạnh và góc nhìn càng tốt.

Để hiểu rõ hơn về khái niệm mức sống, phần dưới đây sẽ cung cấp một số định

nghĩa cơ bản về một số khía cạnh trong mức sống hộ gia đình.

Thu nhập: là phần chênh lệch giữa khoản thu về và khoản chi phí đã bỏ ra.

Loại thu nhập này lại gồm thu nhập từ lao động (tiền công, tiền lương bao gồm cả

lương hưu, các khoản trợ cấp bao gồm cả học bổng) và thu nhập tài chính (lãi tiết

kiệm, lãi mua bán chứng khoán, thu từ cho thuê bất động sản) và các thu nhập khác

(tiền thưởng,...). Thu nhập không bao gồm các khoản thu nhập bất thường (không

biết trước) như: trúng xổ số, cá độ các loại, nhận hối lộ vãng lai, thừa kế... (Bách

Khoa toàn thư wikipedia).

10

Chi tiêu: Một cách khái quát, chi tiêu là việc dùng tiền vào một mục đích nào

đó nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân hoặc tập thể. Dựa vào định nghĩa, ta có thể phân

ra làm các loại chi tiêu như chi tiêu cho tiêu dùng, chi tiêu cho đầu tư, chi cho giáo

dục.

Sức khỏe: Theo quan điểm của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), sức khỏe là

trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao

gồm có tình trạng không có bệnh hay thương tật. Có một sức khỏe tốt nhất là một

trong những quyền cơ bản con người dù thuộc bất kỳ chủng tộc, tôn giáo,chính kiến

chính trị hay điều kiện kinh tế - xã hội nào.

Giáo dục: Theo từ "Giáo dục" tiếng Anh - "Education" - vốn có gốc từ tiếng La

tinh "Educare" có nghĩa là "làm bộc lộ ra". Có thể hiểu "giáo dục là quá trình, cách

thức làm bộc lộ ra những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục". Giáo dục là

phương tiện để đánh thức và nhận ra khả năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá

nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người... Như vậy, có được trình độ giáo dục cao

trong hệ thống giáo dục cũng có nghĩa là cá nhân có sự hiểu biết tốt hơn, trí tuệ và

tài năng của họ được đánh thức và họ có thể sử dụng những lợi thế đó để có được

cuộc sống thoải mái hơn, có chất lượng cao hơn (Bách khoa toàn thư mở

Wikipedia).

Phần bàn luận trên đây về một số khái niệm cơ bản đã đề cập tới những đặc

điểm mấu chốt của mỗi khái niệm theo khía cạnh lý luận. Các khái niệm này sẽ

được nhắc lại và giới hạn trong phần Phương pháp thông qua việc trình bày những

biến số cụ thể được sử dụng để phân tích các số liệu định lượng.

Tóm lại, trong khuôn khổ đề tài, luận văn không thể đưa ra những đo lường để

đánh giá mọi mặt về mức sống hộ gia đình theo nghĩa rộng nhất và toàn diện nhất

như trên. Thay vào đó, với đặc điểm bộ dữ liệu cho phép, luận văn sẽ xem xét mức

sống hộ gia đình của hộ ở nông thôn thông qua một số tiêu chí là thu nhập bình

quân, chi tiêu bình quân, chi tiêu cho đời sống hàng ngày,chi cho bảo hiểm y tế và

chi cho giáo dục. Thông qua những đo lường này, luận văn có thể phản ánh phần

nào mức sống của hộ và qua đó đánh giá được liệu hộ có người di cư có những khác

11

biệt nào trong thu nhập so với những hộ không có người di cư hay không (thu nhập

bình quân đầu người có tốt hơn các hộ khác), có khác biệt trong chi tiêu cho một số

lĩnh vực đầu tư quan trọng hay không (chi cho bảo hiểm y tế và giáo dục).

2.2 Một số quan điểm lý thuyết bàn về di cư và tác động của di cư

Trong phần tiếp theo, luận văn sẽ điểm qua một số quan điểm lý thuyết kinh tế,

xã hội bàn về vấn đề di cư như mô hình về nền kinh tế 2 khu vực của Arthur Lewis,

mô hình di cư nông thôn - thành thị của Michael Torado, lý thuyết về mạng lưới xã

hội và về lực hút lực đẩy. Tiếp sau đó, luận văn sẽ nêu ra những tác động của hiện

tượng lao động di cư nông thôn trên các khía cạnh kinh tế, xã hội, đặc biệt đối với

nơi đi.

2.2.1 Quan điểm lý thuyết kinh tế về di cư

Cho đến nay, có rất nhiều quan điểm và lý thuyết lý giải vấn đề di cư theo nhiều

góc độ và khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, vấn đề di cư trước tiên được đề cập tới

bởi các nhà kinh tế học. Sau này, các ngành khoa học xã hội khác có bổ sung thêm

nhiều cách tiếp cận khác về di cư nhưng những quan điểm kinh tế học vẫn được

xem là cơ bản. Luận văn lựa chọn quan điểm đầu tiên là của Arthur Lewis bàn về di

cư, được đưa ra từ những năm 1950 và được rất nhiều nhà nghiên cứu sử dụng sau

này (Acharya & Cervante, 2009; Cu Chi Loi, 2005).

Trong cuốn “Kinh tế Phát triển” của M. Todaro & S. Smith (tái bản lần thứ 10,

năm 2009), lý thuyết cấu trúc về sự phát triển của Arthur Lewis được trình bày khá

rõ ràng. Theo đó, Lewis dựa trên giả thuyết về một nền kinh tế kém phát triển với 2

khu vực gắn liền với các đặc điểm (giả thuyết) đặc thù: Khu vực nông thôn truyền

thống và Khu vực thành thị hiện đại.

Cụ thể, Khu vực nông thôn truyền thống là nơi có nguồn cung lao động rất lớn,

lương thấp và năng suất lao động cũng thấp. Do đất đai nông nghiệp có hạn trong

khi nguồn cung lao động không ngừng tăng lên, năng suất lao động cận biên

(marginal productivity - MP) của một người nông dân sẽ không tăng lên, ngược lại

sẽ dần giảm xuống bằng không (MP = 0) - theo Quy luật Lợi ích cận biên giảm dần.

Tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm xảy ra khá nghiêm trọng. Một bộ phận lớn

12

nông dân không đóng góp gì vào tổng sản lượng của khu vực nông nghiệp được gọi

là bộ phận lao động dư thừa, có thể chuyển tới khu vực sản xuất khác mà không làm

ảnh hưởng tới quá trình sản xuất ở khu vực nông thôn truyền thống.

Ngược lại, khu vực thành thị hiện đại có nền sản xuất phát triển hơn hẳn, lao

động tạo ra năng suất cận biên lớn và được trả mức lương cao hơn hẳn lao động ở

nông thôn. Một giả thuyết nữa được Lewis đưa ra là quá trình đầu tư và tích lũy tư

bản luôn xảy ra ở khu vực thành thị hiện đại, tức là giới chủ (các nhà đầu tư) ở

thành thị tiếp tục đầu tư lợi nhuận kiếm được để mở rộng sản xuất, trong đó có việc

thu hút thêm lao động.

Trong hoàn cảnh đó, lao động dư thừa ở nông thôn sẽ di cư ra thành thị để kiếm

được những công việc tốt hơn, với mức lương cao hơn. Nếu số lượng lao động di cư

từ nông thôn ra thành thị bằng đúng số lao động dư thừa ở khu vực nông thôn thì

năng suất lao động và lợi ích chung sẽ tăng lên. Tổng sản lượng ở khu vực nông

thôn không thay đổi song tổng sản lượng ở khu vực thành thị sẽ tăng lên nhờ quy

mô lao động tăng lên, song chính số lao động tăng lên cũng sẽ làm giảm năng suất

lao động cận biên và mức lương ở khu vực thành thị. Quá trình chuyển dịch lao

động này chỉ dừng lại khi sự khác biệt về mức lương ở khu vực thành thị và nông

thôn không còn nữa, MP của lao động ở khu vực nông nghiệp tương đương với MP

của lao động ở khu vực công nghiệp.

Trên thực tế, quan điểm của Lewis đã được áp dụng khá rộng rãi trong việc

phân tích tình trạng thừa lao động và vấn đề di cư tại các nước thuộc thế giới thứ 3

trong những năm 1960 và 1970 (Todaro & Smith, 2009). Tuy nhiên, bản thân lý

thuyết này cũng vấp phải rất nhiều chỉ trích từ phía các nhà nghiên cứu. Những

nhược điểm của lý thuyết của Lewis chủ yếu nằm ở những giả thuyết mà Lewis đưa

ra để vận hành mô hình của mình (Acharya & Cervante, 2009).

Quan điểm kinh tế tiếp theo luận văn lựa chọn để giải thích kỹ hơn vấn đề di cư

chính là quan điểm của Michael Todaro. Điểm đáng lưu ý đầu tiên trong các công

trình của Todaro bàn về di cư là quan điểm: ở các quốc gia đang phát triển, số lượng

lao động di cư nông thôn – thành thị tiếp tục vượt quá khả năng tạo ra việc làm ở

13

khu vực đô thị và vượt quá rất nhiều khả năng của các dịch vụ xã hội của cả khu

vực đô thị và ngành công nghiệp để hấp thụ được lượng lao động đó một cách có

hiệu quả. Nói cách khác, lao động di cư nông thôn - đô thị hiện giờ không phải là

quá trình nhằm làm cân bằng sự khác biệt về lương giữa hai khu vực nói trên;

ngược lại, đó chính là nhân tố ngày càng lớn tạo ra sự dư thừa lao động ở khu vực

thành thị và làm trầm trọng thêm vấn đề thất nghiệp vốn đã rất sâu sắc tại thành thị

(là kết quả của sự mất cân bằng về cấu trúc và kinh tế đang tăng lên giữa hai khu

vực nông thôn và thành thị) (Todaro, 1969).

Trên cơ sở đó, Todaro đã phân tích sâu và kỹ hơn về vấn đề lao động di cư từ

nông thôn ra thành thị, đặc biệt ở các nước đang và kém phát triển. Theo đó, ông

quan niệm bức tranh lao động di cư từ nông thôn ra thành thị cần phải được xem xét

như một quá trình hai giai đoạn, trong đó giai đoạn 1 chứng kiến người lao động

không qua đào tạo ở nông thôn (unskilled rural worker) di cư tới thành phố và ban

đầu phải bỏ ra một quãng thời gian trong cái gọi là khu vực thành thị truyền thống1

(urban traditional sector). Giai đoạn thứ 2 là khi cuối cùng người lao động đó kiếm

được một công việc ổn định hơn ở khu vực thành thị hiện đại (urban modern sector)

(Todaro, 1969).

Tiếp tục khai thác ý tưởng này, Todaro đưa ra một mô hình giải thích hiện

tượng lao động di cư nông thôn – đô thị dựa trên 2 yếu tố cơ bản: (1) sự khác biệt

về thu nhập thực tế giữa nông thôn - thành thị (đã được Lewis phân tích trước đó)

và (2) xác suất/khả năng kiếm được công việc tại thành thị. Với yếu tố thứ 2, câu

hỏi được ông này đưa ra là “Trong bao lâu, một lao động di cư trung bình có thể

kiếm được việc làm ở đô thị?”. Cân nhắc cả 2 yếu tố nói trên sẽ quyết định tới việc

anh ta/cô ta có nên rời khỏi trang trại/cánh đồng lúa của mình hay không?

Ở đây luận văn sẽ không đi sâu phân tích Mô hình hành vi của Todaro giải

thích di cư nông thôn – đô thị. Thay vào đó, luận văn đưa ra thêm một quan điểm

1 Theo Todaro, khu vực này bao gồm những lao động không được làm việc thường xuyên trong khu vực thành thị hiện đại, ví dụ như những người thất nghiệp, thiếu việc làm hoặc thỉnh thoảng mới có việc làm...

khác (có thể gọi là một kết luận khác) của Todaro qua việc áp dụng mô hình hành vi

14

này trong thực tế. Ông này cho rằng việc lao động di cư nông thôn – thành thị vẫn

tiếp tục xảy ra bất chấp việc những người muốn di cư thừa biết thất nghiệp ở thành

phố đang rất cao. Một người di cư sẽ sẵn sàng đi cho dù khi tới đó, họ có thể thất

nghiệp hoặc chỉ nhận được mức lương còn thấp hơn cả ở lại nông thôn. Lý do là vì

họ kỳ vọng sau một khoảng thời gian nhất định, họ sẽ được đền bù bằng một công

việc tốt hơn, với mức lương cao hơn.

2.2.2 Quan điểm nhân khẩu học, xã hội học bàn về di cư

Các quan điểm nhân khẩu học, xã hội học bàn về di cư được luận văn lựa chọn

phân tích và tổng hợp ở phần dưới đây là lý thuyết quá độ di cư (mobility transition)

của Zelinski; lý thuyết về mạng lưới xã hội; và cách tiếp cận lực đẩy - lực hút được

nhiều tác giả sử dụng để phân tích trong các nghiên cứu của họ. Những quan điểm

ngoài kinh tế này giúp bổ sung cái nhìn đa chiều và toàn diệnhơn về hiện tượng di

cư.

Về cơ bản, lý thuyết quá độ về di cư được Zelenski đưa ra năm 1971 có cách

tiếp cận giống với lý thuyết quá độ dân số của hai quá trình sinh tử, tức là gắn các

giai đoạn cơ bản của di cư với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, sự phát

triển của xã hội được chia làm 4 giai đoạn chính: (1) xã hội truyền thống, gắn với đó

là hiện tượng di cư hạn chế, diễn ra trong quy mô nhỏ do tính khép kín và tự cung

tự cấp của nền kinh tế; (2) xã hội trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa,

gắn với đó là quá trình đô thị hóa và quá trình di cư diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt từ

nông thôn ra thành thị. Ở giai đoạn phát triển thứ (3), xã hội công nghiệp hóa phát

triển mạnh mẽ, hiện tượng di cư cũng diễn ra mạnh mẽ, ở nhiều cấp độ khác nhau.

(4) Giai đoạn xã hội kết thúc quá trình công nghiệp hóa, hiện tượng di cư trở nên

hạn chế hơn do quá trình đô thị hóa đã bão hòa, thậm chí hiện tượng phi đô thị hóa

sẽ diễn ra (Zelinsky, 1971). Với các tiếp cận trên, hiện tượng di cư nông thôn đang

diễn ra hết sức mạnh mẽ ở Việt Nam là tương ứngvới giai đoạn thứ 2 - giai đoạn

đầu quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa theo cách phân chia của Zelinsky.

Quan điểm lý thuyết của Everett S. Lee (1966) về di cư được gọi là cách tiếp

cận “lực hút và lực đẩy”. Nội dung cơ bản của cách tiếp cận này là: di cư được

15

quyết định bởi các yếu tố mang tính “hút” và “đẩy”; trong đó “lực đẩy” mang tính

tiêu cực, khiến người dân phải rời khỏi nơi họ đang sống còn “lực hút” mang tính

tích cực, hấp dẫn người dân muốn chuyển tới một nơi khác. Lee đưa ra ví dụ về lực

đẩy như thất nghiệp, nghèo đói, thiếu đất sản xuất... ở các vùng nông thôn, và cơ hội

việc làm, lương bổng ở khu vực đô thị là lực hút. Trong hai yếu tố “hút” và “đẩy”

thì yếu tố “đẩy” có vai trò quan trọng hơn. Trong nhiều trường hợp thực tế, người di

cư quyết định di cư thuần túy do “bị đẩy” khỏi nơi cư trú mà chưa chắc nơi đến đã

mang lại cho họ nhiều lợi ích hơn. Bên cạnh những yếu tố mang tính “hút” và “đẩy”

ở nơi đi và nơi đến, Lee đã đề cập tới những nhân tố khác như những yếu tố cản trở

di cư và đặc điểm cá nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong quyết định di cư. Về

bản chất, quyết định di cư theo Lee là kết quả của một tập hợp phức tạp các yếu tố

khách quan và chủ quan khác nhau.

Di cư cũng có thể được lý giải từ lý thuyết về mạng lưới xã hội. Từ giữa thập

kỷ 80 thế kỷ trước, nhiều học giả đã sử dụng cách tiếp cận về mạng lưới xã hội để

nghiên cứu về di cư (Kearney, 1986; Poros, 2001). Lý thuyết này tập trung hơn vào

các yếu tố văn hóa, xã hội trong di cư, cụ thể hơn là sự liên kết giữa người di cư và

họ hàng, người thân, bạn bè ở nơi ở mới... Cung cấp thông tin (về việc làm, cơ hội

nghề nghiệp, nhả ở...), hỗ trợ ban đầu để ổn định cuộc sống từ mạng lưới xã hội đó

có vai trò quan trọng trong quyết định lựa chọn nơi đến của người di cư. Thông qua

mạng lưới xã hội, người di cư tiết kiệm được chi phí về tài chính và tâm lý trong

quá trình thích nghi với nơi ở mới, nhận được hỗ trợ về mọi mặt của những người

thân đã di cư trước đó, chính những điều kiện này đã làm hình thành trong thực tế

hình thức di cư dây chuyền (chain migration). Tóm lại, theo quan điểm này thì di cư

là một quá trình vừa tạo ra vừa phụ thuộc vào các mạng lưới xã hội ở xung quanh

những người di cư.

2.2.3 Quan điểm lý thuyết về tác động của lao động di cư nông thôn

Tác động của di cư nói chung

Rất khó để có được một quan điểm thống nhất và đồng thuận về tác động của di

cư tới sự phát triển nói chung bởi điều này phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố khác

16

nhau như bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội; đặc điểm cộng đồng, hộ gia đình và cá

nhân. Thông thường, có hai xu hướng rõ rệt mô tả tác động của hiện tượng này: tiêu

cực và tích cực. Một là, tác động toàn diện của lao động di cư nông thôn ở cả nơi

đến và nơi đi là tiêu cực. Những người theo quan điểm này liệt kê rất nhiều các tác

động tiêu cực tới nơi đến mà chủ yếu là khu vực thành thị gồm: tăng tỷ lệ thất

nghiệp thành thị, sự mở rộng nhanh chóng của khu vực phi chính thức và tăng

nghèo đói. Đối với khu vực nông thôn, tác động có thể là sự thiếu hụt lao động, làm

ngắt quãng hoạt động sản xuất nông nghiệp. Cũng xuất phát từ quan điểm này,

nhiều đề xuất chính sách cho rằng cần có các chiến lược phát triển việc làm ở khu

vực nông thôn cũng như phát triển chung cho cả khu vực này nhằm hạn chế dân số

di cư ra khỏi các khu vực nông thôn (International Fund for Agricultural

Development, 2007).

Xu hướng tiếp cận thứ hai lại cho rằng di cư có tác động tích cực tới bình diện

của cả quốc gia và khu vực nông thôn. Do vậy, những người theo quan điểm này lại

phản đối các khuyến nghị chính sách theo xu hướng tiếp cận thứ nhất và cho rằng

chính các quyết sách này trong quá khứ đã gây ra các tác động ngược chiều. Theo

họ, di cư là một chiến lược của hộ nhằm duy trì các liên kết kinh tế - xã hội giữa

những người di cư với hộ gia đình của họ thể hiện ở nhiều nguồn lực được người di

cư gửi về khu vực nông thôn (tiền gửi về, kỹ năng, sáng kiến...). Chính các nguồn

lực này đã đóng góp đáng kể vào phúc lợi của hộ gia đình nông thôn và một phần

nào đó vào phát triển cơ sở hạ tầng và đời sống xã hội. Ngoài ra, đầu tư tiền gửi về

vào các hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp cũng giúp tạo việc làm tại khu

vực nông thôn. Trên cơ sở đó, những người theo quan điểm thứ hai này khuyến

nghị các chính sách nhằm tăng cường mối liên kết về tài chính, kinh tế và xã hội

giữa những người di cư với khu vực nông thôn nơi mà họ ra đi (International Fund

for Agricultural Development, 2007).

Tác động của di cư nông thôn tới hộ gia đình nông thôn

Bên cạnh việc phân chia tác động của di cư theo hai xu hướng tích cực - tiêu

cực như trên (chủ yếu cho việc đề xuất chính sách), các nghiên cứu cũng có thể

17

phân tách tác động của hiện tượng lao động di cư theo 2 nhóm: tác động đối với nơi

đến và tác động đối với nơi đi. Trong phần này, luận văn chỉ tập trung trình bày một

số quan điểm bàn về tác động của lao động di cư nông thôn tới nơi đi vì đây là trọng

tâm của đề tài.

Nghiên cứu tác động của di cư tới nơi đi (nông thôn) ít nhận được sự quan tâm

của giới nghiên cứu cho tới tận những năm gần đây. Đề tài sử dụng cách tiếp cận

được Lucas (2005) đề xuất cho các nghiên cứu về tác động của di cư nói chung tới

nơi đi. Trong đề xuất của mình, Lucas đã phân tách rất rõ ba khía cạnh giúp đánh

giá liệu việc di cư có ảnh hưởng gì tới hộ gia đình và những người ở lại một cách đa

chiều: trực tiếp và gián tiếp, ngắn hạn và lâu dài. Xét về lý thuyết, tác động của di

cư tới nơi đi có thể được chia thành ba dạng: tác động của việc ra đi (departure), tác

động của sự phân bổ (diaspora) và tác động của việc trở về (return) (Lucas, 2005).

Tác động của việc ra đi được hiểu là những tác động của hiện tượng xuất cư tại

địa bàn nông thôn tới thị trường lao động, tới chi phí tài chính và các ảnh hưởng

ngoại lai khác tại nơi đi. Xuất cư làm giảm tổng cung lao động, do đó làm tăng tiền

lương và giảm thất nghiệp. Tuy nhiên, các tác động này lại phụ thuộc rất lớn vào

đặc điểm thị trường lao động tại đó, những người ở lại có tiếp thu được kỹ năng của

những người ra đi hay không và nhiều yếu tố khác. Tác động cũng có thể thể hiện ở

các chi phí tài chính khi có sự giảm mạnh các khoản thuế. Những tác động ngoại lai

thường là những tác động tiêu cực như “di dân nông thôn có thể dẫn tới việc bỏ

hoang đồng ruộng, bỏ phí nhiều tiềm năng nông nghiệp, thiếu vắng lực lượng sản

xuất. Lực lượng lao động trẻ, khỏe, trong độ tuổi sung mãn nhất đã thoát ly khỏi

quê hương, để lại đằng sau người già, trẻ em”. Và ở bình diện quốc tế, “vấn đề

người tị nạn, nạn chảy máu chất xám đang là những vấn đề làm đau đầu nhiều chính

phủ và các nhà lãnh đạo, đặc biệt là những nước chậm và đang phát triển, những

nước mà tiềm năng tri thức là vấn đề sống còn cho sự phát triển” (Đặng Nguyên

Anh, 2007).

Tác động của sự phân bổ của di cư chính là dòng tiền gửi về của người di cư.

Tiền gửi về có thể ảnh hưởng tới sự tham gia lực lượng lao động, tới cầu của địa

18

phương, tới đầu tư cho giáo dục, đất đai hay nhà cửa, lạm phát, nghèo đói và sự bất

bình đẳng trong hộ gia đình…(Lucas, 2005). Một số tác động cũng cần được đề cập

như nơi đi được hưởng lợi từ những người di cư có kỹ năng, họ trở thành nguồn

thông tin về các cơ hội kinh doanh và các công nghệ mới, giúp cho địa phương tăng

cường thương mại trong khu vực, tăng các dòng vốn và sự chuyển giao công nghệ

(Chappell & Glennie, 2009).

Tác động của sự trở về đối với nơi đi nằm ở những ảnh hưởng có thể có của

những người di cư khi họ trở về cộng đồng. Những người di cư thường có tỷ lệ tiết

kiệm cao hơn, điều này giúp họ duy trì cuộc sống khi về hưu tốt hơn hoặc có thể

chờ tìm việc trong thời gian lâu hơn. Họ cũng có thể sử dụng tiền dự trữ của mình

để đầu tư vào nhiều lĩnh vực tại cộng đồng và đóng góp vào sự phát triển chung của

cộng đồng thông qua kinh nghiệm, kỹ năng và kiến thức mà họ tích lũy được sau

thời gian di cư (Chappell & Glennie, 2009).

Tóm lại, việc sử dụng cách tiếp cận của Lucas sẽ giúp những nhà nghiên cứu

phân tách từng tác động của di cư tới nơi đi. Ngoài ra, trong mỗi khía cạnh, người

nghiên cứu có thể đánh giá cả mặt tích cực lẫn tiêu cực. Mặc dù các nghiên cứu

thực nghiệm có thể đánh giá về một hay nhiều khía cạnh của các tác động này, tiếp

cận của Lucas giúp có được cái nhìn hệ thống về vấn đề nghiên cứu và qua đó giúp

đưa ra sự đánh giá khách quan hơn về tất cả những cái được và cái mất của việc di

cư đối với những người ở lại. Đây là một công cụ hữu ích giúp trả lời câu hỏi, cái

được thực sự còn lại sau khi xem xét tất cả những cái mất là gì. Bản thân cách tiếp

cận này cũng đã bao hàm sự tích hợp của không chỉ chuyên ngành kinh tế học mà

còn cả xã hội học và phát triển con người.

Trong chương IV, luận văn sẽ phân tích tác động của lao động di cư nông

thôn theo cách tiếp cận của Lucas (2005). Với số liệu của cuộc Điều tra mức sống

hộ gia đình năm 2014, đề tài chỉ có thể nghiên cứu phần nào tác động thứ nhất và

thứ hai tức là tác động của việc có người di cư khỏi hộ và tác động thông qua tiền

gửi về. Riêng tác động thứ ba, cần có một điều tra khác nghiên cứu tác động của

19

việc những người di cư đã trở về đối với hộ gia đình mới có thể có câu trả lời xác

đáng.

2.3 Tổng quan các nghiên cứu về tác động của lao động di cư nông thôn

tới mức sống hộ gia đình

Kể từ thế kỷ trước, khi di cư nông thôn xuất hiện ngày càng nhiều tại các

nước đang phát triển, các nhà nghiên cứu đã dành nhiều nỗ lực và sự quan tâm của

mình để nghiên cứu vấn đề này dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy vậy, các

nghiên cứu về tác động của di cư tới nơi đi vẫn còn ít so với các nghiên cứu về

nguyên nhân của di cư cũng như tác động tới nơi đến. Sử dụng phương pháp phân

tích, tổng hợp, phần này của luận văn sẽ bắt đầu bằng việc điểm qua một số bằng

chứng về tác động của di cư tới nơi đi nói chung và sau đó trình bày các kết quả

nghiên cứu đã có về tác động của di cư nông thôn tới nơi đi theo ba khía cạnh đã

trình bày trong phần lý luận ở trên.

Tác động của di cư nói chung tới nơi đi

Trong những nghiên cứu gần đây về tác động của di cư tới nơi đi, bằng chứng ở

một số nước đang phát triển đã phần nào miêu tả được các tác động tích cực và tiêu

cực của hiện tượng này tới điều kiện sống ở nơi đi. Chẳng hạn tại vùng Saharan

châu Phi, di cư mang lại điều kiện kinh tế tốt hơn nên nó là động lực chính khiến hộ

gia đình quyết định di cư (Adepoju, 1977) và di cư được xem là một chiến lược tồn

tại và sinh nhai đối với hộ gia đình nông thôn và là lựa chọn duy nhất cho những hộ

đang sống trong cảnh nghèo đói (Mberu, 2006).Lao động di cư giúp hộ gia đình tối

đa hóa khả năng tồn tại thông qua việc đa dạng hóa nguồn thu nhập và giảm thiểu

rủi ro (Stark & Bloom, 1985). Tiền và hàng hóa gửi về hỗ trợ thêm về mặt vật chất

đáng kể cho những người ở lại trong lúc đau ốm, tuổi già, cho giáo dục và ma chay.

Ngoài các tác động về mặt tài chính, di cư cũng có tác động tới những khía

cạnh khác của mức sống như giáo dục, sức khỏe của những người ở lại. Chẳng hạn,

tại khu vực châu Á, nhiều bằng chứng thực nghiệm cho thấy trong nhiều trường

hợp, di cư mang lại sức khỏe tốt hơn và các hành vi sức khỏe có lợi hơn cho những

người ở lại (Nguyen, Yeoh, & Toyota, 2006). Trẻ em được hưởng các tác động tích

20

cực từ việc di cư của bố và mẹ thể hiện ở tỷ lệ đến trường cao hơn, việc học tập tốt

hơn cha mẹ đầu tư cho việc học của con nhiều hơn ở một số nước như Hàn Quốc,

Ấn Độ, Pakistan hay Thái Lan (Nguyen, et al., 2006).

Bên cạnh đó, bằng chứng về nhiều tác động tiêu cực cũng được tìm thấy. Việc

ra đi của những người trẻ tuổi, có trình độ và kỹ năng tốt hơn khiến khu vực nông

thôn còn lại những người già, người về hưu, có trình độ giáo dục hạn chế. Do vậy,

khu vực nông thôn thiếu những con người có thể giúp nâng cao điều kiện sống ở

khu vực này, gây thêm tình trạng nghèo và phụ thuộc (Mberu, 2006). Cũng tương tự

như vậy, di cư cũng có thể tạo nên các gánh nặng đối với hệ thống y tế tại cộng

đồng nông thôn và các tác động không tốt tới sức khỏe người ở lại do việc phân tán

các bệnh truyền nhiễm như HIV/AIDS. Trẻ em ở các gia đình có cha mẹ di cư ở

Philipines, Trung Quốc và Sri Lanka do thiếu vắng sự quan tâm của bố mẹ nên việc

học tập của chúng phải chịu các tác động tiêu cực của việc di cư (Nguyen, et al.,

2006).

Trên đây là một số các kết quả nghiên cứu đã có về tác động của di cư nói

chung tới nơi đi trên một số khía cạnh thể hiện mức sống hộ gia đình. Trong phần

tiếp theo, luận văn sẽ trình bày tổng quan nghiên cứu về tác động của lao động di cư

nông thôn tới mức sống hộ gia đình dựa theo phân chia của Lucas (2005) với ba tác

động chính tới nơi đi của người di cư. Cũng trong phần này, ngoài tiếp cận kinh tế

học trong đánh giá cái được và mất đơn thuần về kinh tế, luận văn cũng mong muốn

đồng thời sử dụng cả tiếp cận xã hội học khi xem xét di cư là một quyết định của hộ

và tác động của lao động di cư tới bình diện cả hộ, tới những người ở lại trong hộ.

2.3.1 Tác động của việc ra đi

Các nghiên cứu đã tiến hành về tác động của di cư đối với việc sản xuất của hộ

tìm thấy những bằng chứng trái ngược nhau. Trong thực tế, tác động của di cư rất

phức tạp, thể hiện ở nhiều chiều, nhiều cấp độ (trực tiếp hay gián tiếp) và phụ thuộc

vào nhiều yếu tố khác như đặc điểm hộ, phương thức sản xuất nông nghiệp của hộ,

mức độ hoàn hảo của thị trường tại địa bàn… (Rempel & Lobdell, 1978; Stark,

1980; Taylor, Rozelle, & Brauw, 2003).

21

Trong các nền kinh tế với thị trường hàng hóa và thị trường lao động chưa hoàn

hảo, quyết định di cư có thể có tác động lớn đến các hoạt động kinh tế của hộ. Khi

có lao động di cư, hộ sẽ mất đi người làm việc cho hoạt động sản xuất thường ngày.

Số người di cư càng lớn thì số lao động cho công việc (trồng trọt, chăn nuôi…) tại

địa bàn nông thôn càng thiếu. Do việc thiếu đi lao động, sản xuất nông nghiệp sẽ bị

giảm theo. Những tác động tiêu cực này có vẻ càng trầm trọng hơn vì đa phần

những người di cư là những người trẻ tuổi, khỏe mạnh hơn và có học vấn tốt hơn

những người ở lại (Đặng Nguyên Anh, 2007; Taylor, et al., 2003). Bằng chứng tại

Trung Quốc và Mexico cũng cho thấy thêm một người di cư là thu nhập từ nông

nghiệp của hộ lại giảm đi (Taylor, et al., 2003).

Trái lại, ở các thị trường vận hành tốt, tác động của việc di cư đối với sản xuất

nông nghiệp ở nông thôn còn lại rất nhỏ bởi sự thiếu hụt lao động có thể được bù

đắp bằng nhiều hình thức khác như thuê nhân công, lựa chọn phương thức sản xuất

ít tốn lao động hơn… (Brauw, 2007). Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, di cư làm giảm

sản xuất nông nghiệp ở nơi đi trong một thời gian ngắn nhưng trong dài hạn thì việc

di cư có tác động tăng năng suất lao động nông nghiệp (Lucas, 1987).

Tại Việt Nam, lao động di cư (thời vụ) được Brauw (2007) chứng minh không có

tác động tiêu cực tới sản xuất lúa gạo của hộ gia đình. Ngược lại, hộ gia đình lựa

chọn thay đổi phương thức sản xuất bằng cách chuyển từ những cây trồng đòi hỏi

nhiều lao động sang những loại cây trồng cần nhiều đất đai. Luận văn cũng tìm thấy

bằng chứng tương đồng với các nghiên cứu trước rằng chính lao động di cư giúp

cho hộ nâng cao mức sống và rằng di cư tăng lên cũng sẽ khiến cho tác động của nó

tới sản xuất nông nghiệp trở nên tích cực hơn.

2.3.2 Tác động của sự phân bổ

Tác động của sự phân bổ chủ yếu được thể hiện qua tiền gửi về cho hộ của

người di cư. Tiền gửi về có ảnh hưởng quan trọng đối với thu nhập và phúc lợi của

hộ. Điều này đặc biệt phổ biến tại các nước đang phát triển như Trung Quốc, Việt

Nam nơi mà thu nhập hộ còn thấp, và khi đó tiền gửi về được xem là nguồn thu

nhập quan trọng đối với hộ (Barham & Boucher, 1998). Tuy nhiên, kết quả nghiên

22

cứu thực nghiệm cho thấy câu trả lời không rõ ràng về tác động tích cực hay tiêu

cực của tiền gửi về đối với thu nhập của hộ cũng như trong sự phát triển của khu

vực nông thôn nói chung (Barham & Boucher, 1998; Rempel & Lobdell, 1978;

Taylor, et al., 2003).

Tuy vậy, nghiên cứu tại các nước đang phát triển cho thấy một xu hướng chung

khá rõ, tiền gửi về có tác động tích cực tới thu nhập của hộ gia đình (phần lớn là

nghèo) tại nông thôn. Trong nhiều trường hợp, tiền gửi về chiếm tỷ trọng lớn thu

nhập của hộ. Các nghiên cứu cũng cho thấy tiền gửi về thường được sử dụng cho

chi tiêu đời sống, chi trả y tế và giáo dục, trả nợ và sửa chữa nhà cửa. Một phần rất

nhỏ tiền này được sử dụng để đầu tư cho sản xuất (International Fund for

Agricultural Development, 2007). Tiền gửi về cũng phần nào có thể bù đắp được

việc thiếu hụt lao động tại hộ do có người di cư (Taylor, et al., 2003). Taylor và

cộng sự (2003) cũng cho thấy kết quả khá thú vị là hộ có di cư sẽ làm tăng thu nhập

bình quân đầu người của những người ở lại khoảng 16-43%.

Tại Việt Nam, di cư từ nông thôn ra thành thị là một hình thức giúp xóa đói giảm

nghèo (Dang Nguyen Anh, Tacoli, & Hoang Xuan Thanh, 2003; United Nations

Vietnam, 2010). Lý do là ở khu vực nông thôn, cơ hội thu nhập từ nông nghiệp hay

việc làm cho nông dân bị hạn chế nên nguồn tiền từ lao động thành thị gửi về được

xem là một trong những khoản thu nhập chính của hộ gia đình. Tiền gửi về được

phát hiện có quan hệ cùng chiều với chi tiêu của hộ, tức là tiền gửi về giúp hộ nới

lỏng chi tiêu của mình cho những mục đích khác nhau (Nguyen Thu Phuong, Tran

Ngo Thi Minh Tam, Nguyen Thi Nguyet, & Oostendorp, 2008). Cũng tương tự các

nước đang phát triển khác, tiền gửi về được hầu hết các hộ gia đình ở Việt Nam sử

dụng để chi tiêu hàng ngày, chi cho y tế và giáo dục của con cái (United Nations

Vietnam, 2010).

Tiền gửi về và việc sử dụng tiền gửi về là những chỉ báo cho thấy đóng góp của

lao động di cư nông thôn tới mức sống của hộ và sự phát triển chung của cả địa

phương. Những khoản tiền này góp phần vào việc phân chia lại của cải trên phạm vi

23

từng địa phương, cả nước và đóng góp nhiều cho các khu vực nông thôn và kém

phát triển hơn (Dang Nguyen Anh, et al., 2003; United Nations Vietnam, 2010).

2.3.3 Tác động của sự trở về

Tác động của sự trở về thể hiện ở những nguồn lực mà người di cư mang lại cho

cộng đồng nông thôn sau khi họ di cư trở về. Các nguồn lực đó có thể là nguồn tài

chính, đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp hay phi nông nghiệp, các mối liên kết kinh

tế - xã hội, kiến thức và kỹ năng của những người di cư. Một số nhỏ trong số những

người trở về có thể thiết lập doanh nghiệp để hoạt động sản xuất kinh doanh và do

đó tạo thêm việc làm cho khu vực nông nghiệp (Deshingkar, 2006). Tuy nhiên, các

tác động tích cực này có tồn tại hay không lại phụ thuộc vào tốc độ phát triển tại địa

bàn nông thôn, vào vốn con người mà người di cư có được cũng như họ có thực sự

đầu tư các nguồn lực tích lũy được vào phát triển mức sống hộ gia đình và khu vực

nông thôn nói chung hay không (Vladicescu, Cantarji, & Jigau, 2008).

Nghiên cứu của UN (2010) gần đây cho thấy, tác động của sự trở về đối với hộ

gia đình nông thôn tại Việt Nam chưa được nghiên cứu nhiều. Do thiếu các bằng

chứng thực nghiệm, việc tổng quan các kết quả nghiên cứu về vấn đề này gặp nhiều

khó khăn. Tuy nhiên, báo cáo trên cũng lưu ý rằng các kiến thức, kỹ năng và hành

vi của người di cư còn có những tác động tiêu cực. Một bộ phận lao động di cư

nông thôn sa vào con đường tệ nạn xã hội gồm cờ bạc, tội phạm, ma túy và mại dâm

nên số lượng này nếu trở về nông thôn sẽ có thể mang theo cả những tệ nạn đó đến

với cộng đồng nông thôn (United Nations Vietnam, 2010).

24

CHƯƠNG III. MÔ TẢ DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Bộ số liệu Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam

Để đánh giá tác động của lao động di cư nông thôn tới mức sống hộ gia đình ở

nông thôn, đề tài sử dụng bộ số liệu Điều tra mức sống hộ gia đình. Cuộc Điều tra

mức sống hộ gia đình được Tổng cục Thống kê tiến hành 2 năm một lần vào những

năm chẵn kể từ năm 2000 nhằm thu thập thông tin một cách có hệ thống mức sống

các tầng lớp dân cư Việt Nam; giám sát, đánh giá việc thực hiện Chiến lược toàn

diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo; góp phần đánh giá kết quả thực hiện

các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và các Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của

Việt Nam.

Điều tra mức sống hộ gia đình là cuộc điều tra quy mô lớn, cỡ mẫu tốt, đại diện

cho nhiều cấp hành chính, nội dung bảng hỏi phong phú, số liệu thu được có chất

lượng cao, do đó được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng trong các báo cáo của mình.

Đặc biệt, với mục tiêu và phạm vi của đề tài nghiên cứu, bộ số liệu cung cấp các

biến số quan trọng về tiền gửi về và các khía cạnh trong mức sống hộ gia đình giúp

luận văn có thể trả lời các câu hỏi đặt ra.

Đề tài nghiên cứu sử dụng dữ liệu năm 2014 (và một phần kết nối với năm

2012). Cụ thể, khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2014 được triển khai trên phạm

vi cả nước với quy mô mẫu là 45.945 hộ, trong đó có 36.756 hộ điều tra thu nhập,

9.399 hộ điều tra thu nhập và chi tiêu ở 3.063 xã/phường đại diện cho cả nước, các

vùng, khu vực thành thị, nông thôn và tỉnh/thành phố. Cuộc điều tra thu thập thông

tin theo 2 kỳ trong năm 2014 bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp chủ hộ và cán

bộ chủ chốt của xã tại địa bàn khảo sát.

Để đánh giá tác động của lao động di cư nông thôn tới mức sống hộ gia đình ở

nông thôn, đề tài sử dụng mẫu 9.399 hộ có thông tin điều tra về cả thu nhập và chi

tiêu.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những hộ gia đình ở nông thôn có người di

cưnên luận văn đã loại bỏ những trường hợp hộ gia đình không sống ở nông thôn.

25

Nhóm hộ gia đình sống ở nông thôn nhưng không có lao động di cư được sử dụng

để làm nhóm đối chiếu.

3.2 Khung phân tích

Nông nghiệp

Lao động

Chi tiêu:

Di cư nông thôn

- Giáo dục - Y tế - Đời sống - …

Tiền gửi

Thu nhập

Hình 3.1: Tác động của di cư nông thôn đến mức sống hộ gia đình

Mô hình kinh tế lượng đề xuất:

Mô hình 1: Tác động của lao động di cư nông thôn đến chi tiêu bình quân của hộ

gia đình ở nông thôn.

= + + + +

Mô hình 2: Tác động của lao động di cư nông thôn đến thu nhập từ nông nghiệp

của hộ gia đình ở nông thôn.

= + + + + +

Mô hình 3: Tác động của tiền gửi về đến chi tiêu bình quân của hộ gia đình ở nông

thôn.

26

= + + + + +

+ + + + +

+

3.3 Các biến số chính

Tại phần Khái niệm, luận văn đã nêu lên một số khái niệm quan trọng được nhắc

tới trong đề tài. Tuy nhiên, tại phần này, luận văn sẽ giới hạn lại những khái niệm

trên theo phạm vi mà bộ số liệu và các biến dùng để đo lường cho phép.

Lao động di cư nông thôn được xác định là những người từ 15 tuổi trở lên có nơi

thường trú tại địa bàn nông thôn nhưng di chuyển khỏi hộ tới nơi khác để làm việc.

Do mục tiêu chính của phần phân tích là tác động của di cư tới mức sống hộ gia

đình nên bên cạnh việc sử dụng cách tiếp cận của Lucas, đề tài mở rộng thêm xem

xét các chỉ báo của mức sống hộ gia đình trong khuôn khổ tác động thứ nhất và thứ

hai. Mức sống hộ gia đình nông thôn được hiểu là các điều kiện sống mọi mặt của

hộ. Trong nỗ lực nhận diện các khía cạnh đa dạng của khái niệm này, luận văn sẽ

lựa chọn các đo lường tốt nhất mà bộ số liệu cho phép bao gồm thu nhập bình quân

của hộ, chi tiêu bình quân của hộ, phần chi cho giáo dục, chi cho y tế, và chi cho

đời sống. Sự lựa chọn các biến số này được thực hiện dựa trên gợi ý từ các nghiên

cứu tương tự tại các quốc gia khác đã thực hiện trước đó (Deshingkar, 2006;

Econtech Pty Ltd, 2006; Mberu, 2006; Nguyen, et al., 2006; Vladicescu, et al.,

2008).

Hai biến số giải thích được sử dụng trong phần phân tích là số người di cư trong

hộ và tiền gửi về. Số người di cư trong hộ được sử dụng để đánh giá xem số lượng

người di cư có ảnh hưởng gì đến các điều kiện sống của hộ. Đây cũng là biến số

được sử dụng để xem xét tác động thứ nhất của di cư nông thôn là việc hộ có người

di cư có tác động gì tới sản xuất nông nghiệp của hộ thể hiện ở tác động của số

lượng người di cư tới thu nhập từ nông nghiệp của hộ. Tiền gửi về cũng là một biến

số quan trọng để đánh giá tác động gián tiếp của lao động di cư nông thôn đến mức

sống hộ gia đình ở nông thôn. Đây là biến số được sử dụng để xem xét tác động thứ

hai của di cư, tức là tác động của sự phân bổ. Tiền gửi về và việc sử dụng tiền gửi là

27

một chỉ báo về đóng góp của người di cư vào thay đổi mức sống hộ gia đình. Các

(1) Thu nhập của hộ: bao gồm tổng thu nhập từ các khoản của cả hộ, bao gồm:

biến số khác được sử dụng để phân tích số liệu bao gồm:

- Trị giá các khoản trợ giúp, học bổng, thưởng nhận được từ giáo dục (Số liệu

ô 2NT mục 2).

- Trị giá các khoản trợ giúp nhận được từ y tế (Số liệu ô 3TN mục 3).

- Thu từ tiền lương, tiền công của các thành viên (Số liệu 4ATN phần 4A mục

4).

- Thu từ cho thuê đất nông, lâm nghiệp và mặt nước nuôi trồng thủy sản (Số

liệu câu 10 phần 9.4 mục 9).

- Thu từ trồng trọt (Số liệu ô 4B1T phần 4B1.5 mục 4).

- Thu từ chăn nuôi (Số liệu ô 4B21T phần 4B2.1 mục 4).

- Thu từ săn bắt, thuần dưỡng chim, thú (Số liệu ô 4B22T phần 4B2.1 mục 4).

- Thu từ dịch vụ nông nghiệp (Số liệu ô 4B3T phần 4B3.1 mục 4).

- Thu từ lâm nghiệp (Số liệu ô 4B4T phần 4B4.1 mục 4).

- Thu từ thủy sản (Số liệu ô 4B5T phần 4B5.1 mục 4).

- Thu từ ngành nghề SXKD, dịch vụ phi nông, lâm nghiệp, thủy sản; chế

biến… (Số liệu ô 4CT phần 4C1 mục 4).

- Thu khác tính vào thu nhập (Số liệu ô 4DTN phần 4D mục 4).

(2) Thu nhập bình quân/người/tháng của hộ: Bằng thu nhập của hộ chia cho

- Thu từ cho thuê nhà và đất ở (Số liệu câu 17 mục 7).

tổng số người trong hộ chia cho 12 tháng, trong đó, số liệu về tổng số người

(3) Chi tiêu của hộ: số liệu về tổng chi tiêu của hộ, bao gồm:

trong hộ được tính toán từ Câu 1 phần 1A mục 1.

- Chi giáo dục (Số liệu ô 2CT mục 2).

- Chi y tế (Số liệu ô 3CT mục 3).

- Chi tiêu dùng hàng ăn uống trong các dịp Lễ, Tết (Số liệu ô 5A1CT phần

5A1 mục 5).

28

- Chi tiêu dùng hàng ăn, uống thường xuyên (Số liệu ô 5A2CT phần 5A2 mục

5).

- Chi tiêu dùng hàng không phải lương thực, thực phẩm hàng ngày (Số liệu ô

5B1CT phần 5B1 mục 5).

- Chi tiêu dùng hàng không phải lương thực, thực phẩm hàng năm (Số liệu

5B2CT phần 5B2 mục 5).

- Chi khác tính vào chi tiêu (Số liệu ô 5B3CT phần 5B3 mục 5).

- Chi đồ dùng lâu bền trong 12 tháng qua (Số liệu câu 7 mục 6).

- Chi thường xuyên về nhà ở, điện, nước, rác thải sinh hoạt (Số liệu câu 27

(4) Chi tiêu bình quân/người/tháng của hộ: Bằng chi tiêu của hộ chia cho tổng

mục 7).

(5) Chi tiêu cho đời sống của hộ, bao gồm: Chi tiêu dùng hàng ăn, uống thường

số người trong hộ chia cho 12 tháng;

xuyên; Chi tiêu dùng hàng không phải lương thực, thực phẩm hàng ngày;

Chi tiêu dùng hàng không phải lương thực, thực phẩm hàng năm; Chi

thường xuyên về nhà ở, điện, nước, rác thải sinh hoạt; Chi tiêu dùng hàng

(6) Chi cho giáo dục của hộ: là số liệu tổng chi phí cho thành viên của hộ đi học

ăn, uống trong các dịp Lễ, Tết.

theo các quy định của nhà trường: chi học phí, chi sách giáo khoa, đồng

phục, nhà trọ….(Số liệu ô 2CT mục 2);

Đối với chi tiêu cho giáo dục, đề tài lấy mức chi bình quân/người cho giáo

dục của hộ năm 2014 đối với những thành viên trong độ tuổi đến trường (từ

(7) Chi cho y tế: sử dụng số liệu chi mua cho bảo hiểm y tế của hộ (Số liệu ô

3đến 18 tuổi và đang còn đi học).

(8) Chi ăn uống thường xuyên của hộ (Số liệu ô 5A2CT phần 5A2 mục 5);

(9) Tuổi của chủ hộ được tính bằng số năm (Số liệu câu 5 mục 1A);

3CT, mục 3);

29

(10) Trình độ học vấn của chủ hộ với các giá trị từ 1-6 tương ứng với tiểu học,

trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và

(11) Giới tính của chủ hộ với giá trị 1 là nam, 0 là nữ (Số liệu câu 2 mục 1A);

(12) Tình trạng hôn nhân của chủ hộ là các biến giả với nhóm đối chiếu là độc

đại học, trên đại học (Số liệu câu 2 mục 2);

thân, nhóm 1 là đang có vợ chồng, nhóm 2 là góa, nhóm 3 ly hôn, nhóm 4 ly

(13) Tham gia hội nông dân với giá trị 1 là tham gia, 0 là không tham gia (Số

thân (Số liệu câu 8 mục 1A);

(14) Tiền gửi về (Số liệu câu 2 phần 4D mục 4 về tiền mặt và trị giá hiện vật

liệu câu 15a mục 1);

dùng cho sinh hoạt do người ngoài thành viên hộ, biếu, mừng, giúp từ trong

nước);

Đơn vị của các biến số về thu nhập và chi tiêu là nghìn đồng. Trong nhiều

trường hợp, đề tài sử dụng các số liệu thu nhập và chi tiêu các khoản bình quân đầu

người trong hộ để đánh giá tốt hơn mức sống của hộ. Trong phương trình hồi quy,

các biến số này được quy về đơn vị là log để phân bố số liệu gần với phân phối

chuẩn hơn.

Bảng 3.1: Tóm tắt các biến trong mô hình

Tên biến Nguồn số liệu Đơn vị Kỳ vọng dấu 1* Kỳ vọng dấu 2**

Biến phụ thuộc

1. Chi tiêu bình quân đầu người/tháng của hộ (Chitieubq) Nghìn đồng

2. Thu nhập nông nghiệp của hộ (Tnnn) Nghìn đồng

Tính toán từ số liệu tổng chi tiêu của hộ (VHLSS 2014) Thu từ trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản (Nguồn số liệu theo diễn giải ở trên)

Biến độc lập Số người di cư mỗi hộ (Tsdicu) Người Số liệu từ câu 4 phần 1B (+) (-) mục 1

30

Tiền gửi về (Tiengui) (+) Nghìn đồng Số liệu câu 2 phần 4D mục 4

Năm Số liệu câu 5 mục 1A (-)

1 - 6 Số liệu câu 2 mục 2 (+) (+)

Số liệu câu 2 mục 1A (+) (+)

Người Số liệu tính toán từ Câu 1 Biến kiểm soát khác Tuổi của chủ hộ (Tuoi) Trình độ học vấn của chủ hộ (Hocvan) Giới tính của chủ hộ (1 nam/ 0 nữ) (Gioi) Quy mô hộ (Tsnguoi) (-) phần 1A mục 1

Số liệu câu 15a mục 1 (+)

(+/-)

(+/-) Số liệu câu 8 mục 1A

* Tác động đến biến phụ thuộc thứ nhất. ** Tác động đến biến phụ thuộc thứ hai.

Tham gia hội nông dân (1 có/ 0 không) (Hoind) Độc thân (1 có/ 0 không) (Docthan) Có vợ/ có chồng (1 có/ 0 không) (Covc) Góa (1 có/0 không) (Goa) Ly thân (1 có/0 không) (Lythan) Ly hôn (1 có/ 0 không) (Lyhon) (+/-) (+/-) (+/-)

3.4 Về phương pháp phân tích số liệu

Trong đề tài này, các phương pháp thống kê mô tả, phương pháp thống kê so

sánh và phương pháp hồi quy được kết hợp sử dụng. Phương pháp thứ nhất được sử

dụng để miêu tả các đặc trưng chung của đối tượng nghiên cứu. Hai phương pháp

sau được lựa chọn để thực hiện các đánh giá về tác động của lao động di cư nông

thôn tới mức sống hộ gia đình. Cụ thể:

Phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để mô tả các biến số chính được

sử dụng để phân tích bộ số liệu. Kỹ thuật này giúp cho việc nhận diện các đặc điểm

của người di cư và của hộ. Ngoài ra, kỹ thuật này cũng giúp mô tả các xu hướng

(nếu có) hoặc sự thay đổi trong thu nhập và chi tiêu cũng như các đặc điểm khác

của hộ.

Phương pháp so sánh (ttest - so sánh giá trị trung bình) nhằm so sánh thu

nhập và các khoản chi tiêu giữa các nhóm khác nhau. Để đánh giá tác động của lao

31

động di cư nông thôn tới mức sống hộ gia đình ở nông thôn, luận văn tiến hành so

sánh mức sống của hộ trong trường hợp năm 2014 có lao động di cư nông thôn và

năm 2012 không có lao động di cư nông thôn. Sau khi tiến hành lọc mẫu, luận văn

giữ lại những trường hợp có tham gia điều tra mức sống hộ gia đình năm 2012 và

không có lao động di cư, năm 2014 có người di cư với mục đích là đi làm việc.

Ngoài phương pháp so sánh giá trị trung bình giữa các nhóm, đề tài còn sử

dụng phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất để xác định tác động của hiện

tượng lao động di cư nông thôn có kiểm soát các yếu tố khác (đặc điểm người di cư

và đặc trưng hộ) đến mức sống hộ gia đình.

Để đánh giá hai khía cạnh tác động của di cư như đã nêu ở trên, đề tài xác lập

ba mô hình hồi quy để xem xét: tác động của việc xuất cư và tác động của tiền gửi

về. Biến phụ thuộc của mô hình thứ nhất và mô hình thứ ba là chi tiêu bình quân

đầu người của hộ do việc phân bổ thu thập vào các khoản mục chi tiêu có thể phản

ánh được mức sống hộ gia đình, bởi trong đó bao gồm cả các khoản mục về chi cho

bảo hiểm y tế, chi cho đời sống và chi cho giáo dục nói chung (Econtech Pty Ltd,

2006; Medina & Cardona, 2010), còn biến phụ thuộc của mô hình thứ hai là thu

nhập từ nông nghiệp của hộ gia đình để xem xét tác động của việc xuất cư đến hoạt

động nông nghiệp của hộ. Việc lựa chọn chi tiêu bình quân đầu người của hộ như

một biến số đại diện để đo lường mức sống hộ gia đình cũng được khẳng định là

hợp lý khi phần so sánh các mục chi tiêu con bình quân phản ánh mức sống của hộ

như bảo hiểm y tế, đời sống đều cho thấy các mục chi này của năm 2014 khi có

người di cư lớn hơn năm 2012 và có ý nghĩa thống kê (được trình bày ở dưới).

Trong mô hình hồi quy thứ nhất, biến giải thích chính là tổng số người di cư

trong hộ, biến phụ thuộc là tổng chi tiêu (lograrith), các biến kiểm soát là đặc điểm

của chủ hộ bởi chủ hộ được xem là người có ảnh hưởng quan trọng nhất đối với tình

trạng kinh tế - xã hội của hộ (Mberu, 2006). Cụ thể, các biến thể hiện đặc điểm của

chủ hộ bao gồm tuổi, giới tính, tình trạng hôn nhân và trình độ học vấn. Với phương

pháp này, việc phân rã tác động của di cư sẽ được rõ ràng hơn so với phương pháp

32

ttest nói trên bởi kỹ thuật này kiểm soát được các tác nhân khác như đặc điểm của

chủ hộ, những yếu tố có thể tác động tới mức sống hộ gia đình.

Phương trình sau biểu diễn mô hình hồi quy xem xét tác động thứ nhất của di

(1)

cư nông thôn:

LogY = α + αM + αZ + ε

Trong đó, logYi là logarith chi tiêu bình quân của hộ thứ i, Mi là tổng số

người di cư của hộ i, Zi là vector thể hiện đặc điểm của chủ hộ, αlà hằng số,α là

hệ số thể hiện tác động của việc xuất cư.

Do sử dụng biến giải thích là tổng số người di cư, biến phụ thuộc là tổng chi

tiêu, luận văn có tính đến khả năng tác động của biến giải thích đến biến phụ thuộc

là không trực tiếp và phải thông qua biến trung gian là tiền gửi về nên đã lựa chọn

biến phụ thuộc khác là thu nhập từ nông nghiệp theo gợi ý từ các nghiên cứu trước

đó (Brauw, 2007; Taylor, et al., 2003). Phương trình sau thể hiện mô hình hồi quy

xem xét tác động của việc có người di cư tới hoạt động sản xuất nông nghiệp của

(2)

hộ:

LogN = α + αM + αZ + ε

Trong đó, logNi là logarith thu nhập nông nghiệp của hộ thứ i, Mi là tổng số

người di cư của hộ i, Zi là vector thể hiện đặc điểm của hộ và chủ hộ, α là hằng số,

α là hệ số thể hiện tác động của việc xuất cư.

Trong mô hình hồi quy thứ hai, biến phụ thuộc và các biến giải thích khác

được giữ nguyên từ phương trình (1), biến giải thích chính là tiền gửi về. Phương

trình sau biểu diễn mô hình hồi quy xem xét tác động thứ hai của di cư nông thôn

(3)

tới mức sống hộ gia đình nông thôn:

LogY = α + αR + αZ + ε

Trong đó, logYi là logarith chi tiêu bình quân của hộ thứ i, Ri là tiền gửi về

của người di cư (lograrith), Ri là logarith tiền gửi về của người di cư, Zi là vector

thể hiện đặc điểm của chủ hộ, α là hằng số, α là hệ số thể hiện tác động của việc

xuất cư, α là hệ số hồi quy thể hiện tác động của tiền gửi về.

33

CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1 Thực trạng di cư nông thôn tại Việt Nam

Trước khi đi vào phân tích tác động của lao động di cư nông thôn tới mức sống

hộ gia đình trong phần tiếp theo, phần này của luận văn đưa ra một số mô tả về thực

trạng di cư nông thôn tại Việt Nam dựa trên việc phân tích số liệu của đề tài và kết

quả từ một số điều tra lớn khác nhằm xác định xu hướng của di cư nông thôn, đặc

điểm chính của hộ có di cư và của người di cư.

Hiện tượng di cư không phải là hiện tượng mới trong xã hội Việt Nam, đây là

hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính quy luật. Sau chiến tranh, xu thế di cư là một

phần do chương trình tái định cư theo kế hoạch của Nhà nước đưa cư dân về các

khu kinh tế mới. Tuy nhiên, bên cạnh đó, hiện tượng di dân tự do cũng diễn ra do

tác động của chính sách Đổi mới từ năm 1986, khi nền kinh tế tập trung chuyển đổi

theo hướng thị trường. Những chính sách tác động dẫn đến hiện tượng di dân như

sự xóa bỏ hệ thống bao cấp chặt chẽ liên quan đến việc đăng ký hộ khẩu của hộ gia

đình và áp dụng cơ chế khoán cho hộ gia đình đã bắt đầu tạo nên thị trường đất đai,

cho phép người dân linh hoạt hơn khi di chuyển sau khi chuyển nhượng đất đai.

Thêm nữa, sự khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, sự xuất hiện của đầu tư trực

tiếp nước ngoài thu hút lượng lớn lao động và khuyến khích người dân di cư đến

các khu kinh tế phát triển, có nhiều việc làm. Điều này tạo nên các dòng di cư tự do

ở Việt Nam như di cư nông thôn – nông thôn, nông thôn - thành thị, thành thị -

nông thôn, thành thị - thành thị. Hiện nay, quá trình đô thị hóa với sự phát triển

mạnh mẽ của các đô thị kéo theo một số lượng lớn lao động từ nông thôn ra thành

thị. Người nông dân thoát ly khỏi ruộng đồng đến các thành thị để tìm kiếm kế sinh

nhai với thu nhập tốt hơn. Số lượng lớn người dân nông thôn ra thành thị tạo ra

dòng di dân nông thôn – thành thị. Đây là một hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính

quy luật, biểu hiện rõ nét nhất của sự phát triển không đồng đều giữa các vùng,

miền, lãnh thổ (Tổng cục Thống kê, 2010). Trong mẫu nghiên cứu, những người

sống ở nông thôn mà di cư đi nơi khác với mục đích làm việc, có độ tuổi từ 15 trở

lên được xác định là lao động di cư nông thôn.

34

Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình

Tên biến Định nghĩa biến Đơn vị tính Trung bình GT lớn nhất Số quan sát Độ lệch chuẩn GT nhỏ nhất Chi tiêu bình quân đầu 772 1.801 1.280 260 17.649 Chitieubq Ngàn đồng người/tháng của hộ

Thu nhập nông nghiệp Tnnn 772 41.178 64.084 0 785.440 Ngàn đồng của hộ (năm)

Tsdicu Số người di cư mỗi hộ 772 1,38 0,65 1 6 Người

772 10.334 16.369 0 163.000

Tiengui Ngàn đồng Tiền gửi về (năm) Tuoi Tuổi của chủ hộ 772 52,9 10,3 17 93 Tuổi

Quy mô hộ 772 3,3 1,38 1 10 Tsnguoi Người

Giới tính của chủ hộ (1 Gioi 772 Nam: 597 Nữ: 175 nam/ 0 nữ)

Tham gia hội nông dân Hoind 772 Có: 307 Không: 465 (1 có/ 0 không)

Bảng 4.2: Tình trạng hôn nhân của chủ hộ

Có vợ/ Tổng Tình trạng hôn Độc thân Góa Ly thân Ly hôn chồng cộng nhân của chủ hộ

Số lượng (hộ) 12 653 92 6 9 772

Phần trăm (%) 1,6 84,6 11,9 0,8 1,2 100

Về tình trạng hôn nhân, số lượng chủ hộ độc thân chiếm khá ít, chỉ 1,6%.

Còn số lượng hộ gia đình mà chủ hộ đã ly thân hoặc ly hôn cũng chiếm số lượng rất

nhỏ, lần lượt 0,8% và 1,2%. Đa phần các hộ gia đình đều đã có vợ hoặc có chồng.

Trong đó chủ hộ là nam chiếm tới 77%.

35

Tình trạng hôn nhân của chủ hộ

12% 1%1% 1%

Độc thân

Có vợ/chồng

Góa

Ly thân

85%

Ly hôn

Hình 4.1: Tình trạng hôn nhân của chủ hộ

Theo như kết quả trong bảng 4.1 thì chi tiêu bình quân đầu người/tháng của

hộ có người di cư trung bình là 1,8 triệu đồng/tháng, trong đó cao nhất là hơn 17

triệu đồng /tháng và thấp nhất là 260 nghìn đồng/tháng. Vể số người di cư, trung

bình mỗi hộ có khoảng 1,4 người di cư đi làm ăn xa, trong đó hộ có số người di cư

đông nhất là 6 người và thấp nhất là 1 người. Đáng chú ý, tiền gửi về cho gia đình

của những người di cư đi làm ăn xa trung bình là trên 10 triệu đồng/hộ/năm, trong

đó, hộ cao nhất là 163 triệu đồng /năm và hộ thấp nhất là không nhận được tiền gửi

về nhà. Quy mô của hộ gia đình có người di cư nông thôn trung bình là 3,3 người,

trong đó, hộ có quy mô nhỏ nhất là 1 người, hộ có đông thành viên nhất là 10

người. Về tuổi của chủ hộ của các gia đình có người di cư cũng dao động rất rộng,

chủ hộ trẻ tuổi nhất là 17 tuổi, chủ hộ lớn tuổi nhất là 93 tuổi (xét đến thời điểm

năm 2014), còn trung bình thì tuổi chủ hộ ở nông thôn có người di cư là 52,9 tuổi.

Lao động di cư nông thôn đều ở độ tuổi lao động, tuổi trung bình còn khá trẻ

Tổng điều tra mức sống hộ gia đình năm 2014 cho thấy tuổi của lao động di cư

nông thôn rất trẻ với mức độ tập trung cao quanh nhóm từ 20-30 tuổi, chiếm

64,61% số lao động di cư nông thôn. Tuổi trung vị của lao động di cư nông thôn là

24 tuổi, điều này có nghĩa là một nữa số lao động di cư nông thôn có độ tuổi từ 24

36

trở xuống. Ngoài ra, kết quả điều tra còn cho thấy sự đa dạng trong nhóm tuổi của

lao động di cư nông thôn, độ tuổi thấp nhất của lao động di cư nông thôn là 15 và

Do tuoi cua lao dong di cu nong thon nam 2014

0 4

38.14

0 3

26.47

0 2

t n e c r e P

13

10.15

0 1

5.408

2.277

1.898

1.708

.5693

.3795

0

10

20

30

50

60

40

Age

cao nhất là 64 tuổi.

Hình 4.2: Độ tuổi của lao động di cư nông thôn năm 2014

Bảng 4.3: Tuổi của lao động di cư nông thôn

Tỉ trọng Tuổi TB Trung vị Số quan sát Tuổi thấp nhất Tuổi cao nhất (%)

Nam 635 60,25 15 60 25,9 25

Nữ 419 39,75 15 64 27 24

Tổng cộng 1054 100 15 64 26,4 24

37

Tỉ lệ nam/nữ trong lao động di cư nông thôn theo kết quả cuộc điều tra là

60,75%/ 39,75%. Độ tuổi trung bình của lao động nữ là 27 tuổi, trong khi đối với

nam là 25,9 tuổi. Tuổi trung vị của lao động nữ là 24 trong khi đối với nam là 25

tuổi. Có thể nhận thấy, những người lao động di cư nông thôn ở trong mẫu nghiên

cứu đều đang ở độ tuổi lao động.

Do tuoi cua lao dong di cu nong thon nam 2014

Nam

Nu

40.33

0 4

36.69

29.45

0 3

21.96

0 2

t n e c r e P

13.37

12.76

12.44

0 1

6.683 6.921

4.409

3.819

2.864 2.387

1.575

1.26 .9449

.9547 .716

.315 .1575

0

60

20

40

20

40

60

Age

Graphs by 3: Gioi tinh

Hình 4.3: Độ tuổi của lao động di cư nông thôn 2014 phân theo nam/nữ

Trình độ chuyên môn được đào tạo của lao động di cư nông thôn còn thấp

Hình 4.4 cho thấy, trình độ chuyên môn được đào tạo của lao động di cư còn khá

thấp, trong đó có tới hơn 30% không có bằng cấp hoặc chỉ mới học xong tiểu học.

Có tới 26,1% lao động di cư nông thôn chỉ mới tốt nghiệp cấp 2 (trung học cơ sở).

Với thực trạng này, ta có thể dự đoán là nhóm lao động này chỉ có thể tham gia vào

những công việc giản đơn đòi hỏi kỹ năng thấp với mức thu nhập thấp và không ổn

định, nhóm lao động này chiếm hơn 50% tổng số lao động di cư nông thôn.

38

Ngoài ra, theo kết quả cuộc điều tra, có 6,1% lao động di cư nông thôn có bằng cao

8.4%

7.7% .2%

6.1%

1.9%

2.7%

21.9%

2.6%

5.4%

17%

26.1%

Tieu hoc THPT Trung cap nghe Cao dang nghe Dai hoc

Khong bang cap THCS So cap nghe TH CN Cao dang Thac si

đẳng, 7,7% có bằng đại học và 0,2% có bằng cấp sau đại học.

Hình 4.4: Trình độ chuyên môn đào tạo của lao động di cư nông thôn năm 2014

Số người di cư mỗi hộ

Có 69,82% hộ trong mẫu nghiên cứu chỉ có 1 lao động di cư nông thôn,

24,22% số hộ có 2 người đi làm ăn xa và 4,92% số hộ là có 3 người di cư đi làm ăn

xa (Bảng 4.4), tỉ lệ hộ có 5 đến 6 người đi làm ăn xa chiếm rất nhỏ (0,26%) và

0,78% số hộ có 4 người di cư đi làm ăn xa. Trung bình, số lao động di cư nông thôn

của một hộ là 1,4 người.

Bảng 4.4: Số người di cư mỗi hộ tại nông thôn năm 2014

Số người di cư nông thôn 1 2 3 4 5 6

Số hộ 539 187 38 6 1 1

Phần trăm (%) 69,82 24,22 4,92 0,78 0,13 0,13

39

Quy mô hộ: Trung bình một hộ gia đình ở nông thôn trong mẫu có 3,8 người,

trong đó hộ đông thành viên nhất là 11 người và hộ ít người nhất là 1 người. Do có

người di cư nên quy mô bình quân của hộ có lao động di cư ít hơn, trung bình 3,3

người/hộ, hộ đông người nhất là 10 người và hộ ít thành viên nhất là 1 người.

Về mức sống, dựa trên số liệu của mẫu nghiên cứu, luận văn tiến hành so

sánh thu nhập bình quân/tháng, chi tiêu bình quân/tháng, tỉ lệ chi ăn thường xuyên

so với tổng chi tiêu của hộ có lao động di cư nông thôn và hộ không có lao động di

cư trong năm 2014 để đánh giá mức sống của hộ ở nông thôn.

Bảng 4.5: Đặc trưng của hộ có và không có lao động di cư nông thôn năm 2014

Đơn vị Trung Thấp Số quan Nội dung Cao nhất tính bình nhất sát

Người 3,9 11 1 5.846 Tổng số người trong hộ không có lao động di cư

Người 3,3 10 1 772 Tổng số người trong hộ có lao động di cư nông thôn

2.017,9 83.625 102 5.846 Thu nhập bình quân/người/tháng của hộ không có lao động di cư Ngàn đồng

2.384,1 40.216 211 772 Thu nhập bình quân/người/tháng của hộ có lao động di cư nông thôn Ngàn đồng

1.626 61.395,6 173,6 5.846 Chi tiêu bình quân/người/tháng của hộ không có lao động di cư Ngàn đồng

1.801,4 17.648,6 260,3 772 Chi tiêu bình quân/người/tháng của hộ có lao động di cư nông thôn Ngàn đồng

1.206,7 10.450,4 149,3 5.846 Chi đời sống bình quân của hộ không có lao động di cư Ngàn đồng

1.317,7 8.307 209,2 772 Chi đời sống bình quân của hộ có lao động di cư nông thôn Ngàn đồng

% 48,6 93,4 1,75 5.846 Tỷ lệ chi ăn thường xuyên/tổng chi của hộ không có lao động di cư

% 46,6 78,6 6,3 772 Tỷ lệ chi ăn thường xuyên/tổng chi của hộ có lao động di cư nông thôn

40

Số liệu mô tả ở bảng trên cho thấy rõ các mục thu nhập và chi tiêu của hộ có

lao động di cư nông thôn đều cao hơn hộ không có lao động di cư. Như vậy, hộ có

lao động di cư nông thôn có mức sống cao hơn hộ không có lao động di cư nông

thôn.

Bên cạnh đó, tỷ lệ chi ăn thường xuyên/tổng chi tiêu của hộ không có lao

động di cư cao hơn hộ có lao động di cư cũng cho thấy nhóm thứ nhất phải sử dụng

nhiều thu nhập của mình hơn vào ăn uống là nhu cầu cơ bản nhất của hộ. Điều đó

cũng cho thấy tỷ lệ ngân sách để chi cho những khoản khác như y tế, giáo dục, đầu

tư tích lũy của hộ không có lao động di cư nông thôn cũng sẽ ít hơn. Đây cũng là

một bằng chứng nữa chứng tỏ mức sống của hộ gia đình có lao động di cư nông

thôn cao hơn những hộ không có lao động di cư.

4.2 Kết quả phân tích định lượng về tác động của lao động di cư nông thôn

tới mức sống hộ gia đình nông thôn

Phần trên đã trình bày kết quả của phương pháp thứ nhất – thống kê mô tả

trong việc mô tả đặc điểm của hộ và của người di cư. Phần này của báo cáo sẽ tập

trung trình bày kết quả của hai phương pháp tiếp theo là so sánh giá trị trung bình

ttest và hồi quy.

Sử dụng phương pháp so sánh giá trị trung bình ttest để đánh giá tác động

của lao động di cư nông thôn tới mức sống của hộ, luận văn tiến hành so sánh các

chỉ báo về mức sống của hộ năm 2012 và năm 2014 trong trường hợp năm 2012 hộ

không có lao động di cư và năm 2014 hộ có lao động di cư nông thôn. Phần so sánh

này được phân tích dựa trên số liệu panel kết nối các hộ năm 2012 và năm 2014.

Kết quả bảng 4.6 cho thấy hầu hết các tiêu chí thể hiện mức sống hộ gia đình

năm 2014 (thời điểm có người di cư) đều tốt hơn năm 2012 (chưa có người di cư).

Trung bình, tổng thu nhập bình quân đầu người trên tháng tăng hơn 50% từ 1.581

nghìn đồng lên đến 2.457 nghìn đồng. Do thu nhập tăng lên, hộ có thể nới lỏng các

khoản chi tiêu của mình trong năm 2014. Cụ thể, chi tiêu bình quân đầu người trong

tháng tăng từ mức trung bình 1.420 nghìn đồng lên 1.746 nghìn đồng (tăng khoảng

23%). Chi đời sống bình quân cũng có mức tăng đáng kể, tăng 27% từ 997 nghìn

41

đồng/người/tháng lên 1.271 nghìn đồng/người/tháng. Chi bình quân cho bảo hiểm y

tế của các thành viên trong hộ của có mức tăng cao từ 67 nghìn đồng/người/tháng

lên 132 nghìn đồng/người/tháng, tăng tới hơn 97%. Các kiểm định so sánh giá trị

trung bình của các tiêu chí này đều có ý nghĩa thống kê.

Bảng 4.6: Kiểm định so sánh sự khác biệt về các nhân tố liên quan tới mức sống của hộ năm 2014 và năm 2012 (nghìn đồng)

Kiểm định khác Chỉ tiêu Trung bình Thống kê t biệt (2014-2012)

2014 2012 Pr(lTl> ltl)

Thu nhập của hộ (năm) 81.685 80.979 0,9241 0,0953

2.457 1.581 0,0069 2,7243 Thu nhập bình quân đầu người của hộ (tháng)

Chi tiêu của hộ (năm) 61.952 71.930 0,1686 - 1,3803

1.746 1.420 0,0418 2,0451 Chi bình quân đầu người của hộ (tháng)

1.271 997 0,0001 3,9667 Chi đời sống bình quân đầu người hộ (tháng)

132 67 0,0417 2,0468 Chi bảo hiểm y tế bình quân (tháng)

Chi giáo dục (năm) 2.469 5.313 0,0038 - 2,9208

Số người bình quân hộ 3,2 4,4 0,0000 - 6,4744

Số quan sát 268 hộ

Tuy nhiên, có một trường hợp cá biệt là chi giáo dục của hộ lại thể hiện một

sự sụt giảm mạnh sau khi có lao động di cư nông thôn. Cụ thể, mức chi cho giáo

dục của hộ trong năm giảm từ 5.313 nghìn đồng/năm xuống còn 2.469 nghìn

đồng/năm, giảm tới 53,5%. Sự sụt giảm đáng kể này có thể xuất phát từ việc sụt

giảm số người đi học của các hộ này. Cụ thể, trong năm 2012 số người đi học trung

42

bình của các hộ này là 1,02 người/hộ, tuy nhiên con số này của năm 2014 chỉ còn

0,67 người/hộ, giảm hơn 34%. Kéo theo sự sụt giảm về số người đi học là việc sụt

giảm của các khoản chi phí giáo dục có liên quan khác của hộ như chi học phí, chi

sách giáo khoa, dụng cụ học tập, quần áo, giày dép, học thêm... Tuy nhiên, để có

những bằng chứng chắc chắn hơn về các nhân tố tác động làm giảm chi tiêu của hộ

cho giáo dục cần có một nghiên cứu khác chuyên sâu hơn vào đề tài. Trong phạm vi

nghiên cứu của đề tài này, luận văn chỉ có thể đưa ra những kiến giải khả dĩ nhất.

Bảng 4.7: Kiểm định so sánh sự khác biệt về các nhân tố liên quan đến chi giáo dục của hộ năm 2014 và năm 2012 (nghìn đồng)

Kiểm định khác Thống kê Chỉ tiêu Trung bình biệt (2014-2012) t

2014 2012 Pr(lTl> ltl)

Số người đi học của hộ 0,67 1,02 0,001 - 3,3405

Chi học phí của hộ (năm) 615 1.373 0,0075 - 2,6957

Chi sách giáo khoa (năm) 172 323 0,0081 - 2.6677

Các loại quỹ hàng năm 193 300 0,0628 - 1,8687

318 420 0,0909 - 1,6966

1.060 1.906 0,0881 - 1,7117

Chi phí quần áo, dụng cụ học tập (năm) Chi phí học thêm và các chi phí khác (năm) Số quan sát 268 hộ

Như vậy, quyết định di cư của hộ xét trên tổng thể đã giúp tăng đáng kể thu

nhập của những người ở lại. Cũng nhờ có những khoản thu nhập tăng lên hộ có thể

nới lỏng chi tiêu của mình cho các mục khác nhau, đặc biệt là các mục chi thể hiện

mức sống tốt hơn. Như vậy, phương pháp so sánh giá trị trung bình cho thấy mức

sống của hộ ở nông thôn năm 2014 khi có người di cư đã được cải thiện đáng kể so

với năm 2012. Nếu phương pháp thống kê mô tả chỉ đơn thuần so sánh mức sống

của hộ có di cư và không có di cư (năm 2014) mà không chỉ rõ chiều tác động của

mối quan hệ (do mức sống tốt hơn cho phép hộ thực hiện việc di cư hay do di cư

làm thay đổi mức sống của hộ) thì phương pháp thứ hai đã chỉ rõ hơn chiều tác

43

động. Cụ thể, việc có người di cư vào năm 2014 đã giúp cho mức sống của hộ ở

nông thôn được cải thiện đáng kể so với năm 2012, thời điểm chưa có người di cư.

Phương pháp hồi quy được sử dụng để kiểm định tác động của di cư một

cách phức tạp hơn. Ngoài việc xem xét tác động của hai biến giải thích chính là di

cư và tiền gửi về, mô hình hồi quy còn cho phép lượng hóa xem tác động đó là bao

nhiêu và đồng thời kiểm soát các yếu tốt khác có thể tác động đến tổng chi tiêu - chỉ

số tổng hợp thể hiện mức sống hộ gia đình.

Kết quả hồi quy của mô hình 1 (Bảng 4.8) cho thấy R bình phương là

0,0978; hệ số của tổng số người di cư là 0,018 và không có ý nghĩa thống kê. Tổng

thể, kết quả hồi quy mô hình 1 cho thấy biến số tổng số người di cư không phải là

biến số giải thích tốt cho sự thay đổi trong chi tiêu của hộ, bản thân mô hình cũng

chỉ giải thích được 10% phương sai của biến phụ thuộc. Do vậy, luận văn sẽ không

đi sâu trình bày kết quả của mô hình hồi quy 1 phân tích tác động của di cư tới mức

sống của hộ.

Bảng 4.8: Tác động của lao động di cư nông thôn đến chi tiêu bình quân của hộ gia đình ở nông thôn. Ước lượng Thống kê t P > ltl

Logarith chi tiêu bình quân/người/tháng hệ số

Tổng số lao động di cư 0,018 0,521 0,64

Trình độ học vấn của chủ hộ 0,166*** 0,000 9,12

Giới tính chủ hộ (nam 1/nữ 0) - 0,048 0,268 -1,11

Số quan sát 772

R-square 0,0978

Mức ý nghĩa ***1%, **5%, *10%

Tương tự, sử dụng mô hình hồi quy 2, luận văn cũng không thu được kết quả

giải thích tốt hơn cho tác động của việc xuất cư tới hoạt động sản xuất nông nghiệp

của hộ. Cụ thể, R bình phương của mô hình là 0,0698, hệ số của tổng số người di cư

là - 0,027 và không có ý nghĩa thống kê.

44

Bảng 4.9: Tác động của lao động di cư nông thôn đến thu nhập từ nông nghiệp của hộ gia đình

Logarith thu nhập từ nông nghiệp Ước lượng hệ số Thống kê t P > ltl

Tổng số lao động di cư - 0,027 0,719 - 0,36

Trình độ học vấn của chủ hộ 0,024 0,642 0,47

Giới tính chủ hộ (nam 1/nữ 0) 0,750*** 0,000 5,97

Tham gia hội nông dân (có 1/ không 0) 0,225** 0,026 2,23

Số quan sát 641

R-square 0,0698

Mức ý nghĩa ***1%, **5%, *10%

Từ kết quả hồi quy của mô hình 1 và mô hình 2, chúng ta vẫn chưa tìm thấy

bằng chứng cho sự tác động của việc xuất cư đến mức sống của hộ gia đình ở nông

thôn.

Kết quả hồi quy của mô hình 3 được trình bày trong Bảng 4.10. Cụ thể, R

bình phương là 0,22 tức là các biến giải thích và kiểm soát được đưa vào mô hình

giải thích được 22% phương sai của tổng chi tiêu; hệ số tác động của tiền gửi về là

0,06 hay 1% tăng lên của tiền gửi về giúp tăng khoảng 0,06% chi tiêu bình

quân/người/tháng của hộ và tác động này có ý nghĩa thống kê ở mức 1%.

Ngoài một số biến kiểm soát liên quan đến trạng thái hôn nhân của chủ hộ

không có ý nghĩa thống kê, các biến còn lại như trình độ học vấn và quy mô hộ có ý

nghĩa thống kê ở mức 1%, tuổi chủ hộ có ý nghĩa thống kê ở mức 5% và giới tính

của chủ hộ có ý nghĩa thống kê ở mức 10%.

Như vậy, với mô hình hồi quy số 3, tác động của tiền gửi về tới chi tiêu bình

quân của hộ (phản ánh các khoản chi tiêu có liên quan đến mức sống của hộ gia

đình) được xem xét kỹ càng hơn. Kết quả cho thấy tác động của tiền gửi về là tích

cực. Đây cũng là phát hiện trùng hợp với kết quả đã được tìm thấy thông qua việc

sử dụng hai phương pháp trước.

45

Bảng 4.10: Tác động của tiền gửi về đến chi tiêu bình quân của hộ gia đình ở nông thôn

Ước lượng hệ số Thống kê t P > ltl

0,06*** 4,04 0,000 Logarith chi tiêu bình quân/người/tháng Logarith tiền gửi về của lao động di cư

- 0,004** - 2,01 0,045 Tuổi chủ hộ

0,121* 1,83 0,068 Giới tính chủ hộ (nam 1/nữ 0)

-0,158 - 0,61 0,542 Chủ hộ độc thân

-0,105 - 0,51 0,607 Chủ hộ đang có vợ/chồng

- 0,134 - 0,65 0,517 Chủ hộ đang góa vợ/chồng

- 0,231 - 0,90 0,370 Chủ hộ đã ly hôn

0,139*** 6,74 0,000 Trình độ học vấn của chủ hộ

- 0,114*** - 8,09 0,000 Quy mô hộ

527 Số quan sát

0.2235 R-square

***1%, **5%, *10% Mức ý nghĩa

4.3 Bàn luận về kết quả phân tích

4.3.1 Tác động của việc có người xuất cư

Trước tiên, luận văn vẫn chưa thể đưa ra nhận định về tác động của việc xuất

cư đến mức sống của hộ gia đình ở nông thôn do tác động này không thể hiện một

cách trực tiếp mà gián tiếp thông qua biến số khác là tiền gửi về. Trong phạm vi cho

phép, luận văn chỉ xem xét tác động của việc xuất cư tới thu nhập từ nông nghiệp

của hộ. Mặc dù, các quan điểm lý thuyết trình bày về nội dung này (Chương I) đã

chứng minh rằng di cư tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất nông nghiệp của

hộ, tuy nhiên, các kết quả hồi quy trong mô hình 1 và 2 vẫn chưa chứng minh được

quan điểm này.

Với giới hạn phạm vi của đề tài, không thể xem xét tác động của việc có

người di cư tới mức sống hộ gia đình một cách toàn diện và trực tiếp do thiếu các

biến số cần thiết. Chẳng hạn, nhiều nghiên cứu gợi ý có thể đánh giá tác động của

việc xuất cư tới phúc lợi của những người yếu thế ở lại chẳng hạn việc chăm sóc

46

sức khỏe thể chất và tinh thần cho người già và trẻ em, sự phát triển của trẻ em khi

bố hoặc mẹ di cư, việc học của con cái những người di cư … (Nguyen, et al., 2006).

4.3.2 Tác động phân bổ của tiền gửi về

Tiền gửi về là một phần thu nhập của lao động di cư kiếm được gửi về nhà ở

nông thôn. Tiền gửi về có thể tác động tới việc tham gia vào thị trường lao động,

nhu cầu ở địa phương thông qua các tác động đa chiều như đầu tư cho y tế, giáo dục

của hộ, đầu tư cho đất đai và nhà cửa, giảm thiểu rủi ro, góp phần phân chia lại thu

nhập giữa các khu vực.

Trong mẫu nghiên cứu, năm 2014 tiền gửi về bình quân của lao động di cư

nông thôn là 10,3 triệu đồng/năm. Hộ có lao động gửi tiền về nhiều nhất là 163 triệu

đồng/năm và thấp nhất là 0 đồng.

Trong khi việc xuất cư không có mối liên hệ trực tiếp tới mức sống hộ gia

đình thì tiền gửi về lại có tác động trực tiếp và tích cực tới mức sống hộ gia đình ở

nông thôn. Tiền gửi về giúp tăng thu nhập của hộ, thông qua đó nới lỏng chi tiêu hộ.

Nếu như hộ không có người di cư, chi cho ăn uống thường xuyên chiếm 48,6%.

Ngược lại, khi hộ co người di cư, tỷ lệ này giảm xuống ở mức 46,6%. Tỷ trọng chi

cho ăn uống trong tổng thu nhập càng giảm chứng tỏ mức sống của hộ càng được

cải thiện. Hộ có nhiều tiềm lực tài chính hơn để chi cho các mục khác thể hiện mức

sống cao hơn như chi cho bảo hểm y tế, chi cho đời sống và chi cho giáo dục.

Có thể thấy, tác động của tiền gửi về tới mức sống hộ gia đình là tác động

tích cực và trực tiếp. Kết quả phân tích của luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương

pháp khác nhau đã cho các kết quả thống nhất. Tác động của tiền gửi về lên các mặt

của mức sống như y tế, đời sống đều là tích cực, trong khi, chưa có bằng chứng cho

sự tác động của việc xuất cư đến mức sống của hộ gia đình ở nông thôn. Do đó, tiền

gửi về là chỉ báo tốt hơn đánh giá tác động của lao động di cư nông thôn tới mức

sống của hộ gia đình thông qua biến đại diện là chi tiêu bình quân đầu người/tháng

của hộ. Tiền gửi về của lao động di cư nông thôn làm tăng chi tiêu của hộ, góp phần

xóa đói giảm nghèo ở địa phương (Dang Nguyen Anh, et al.,2003; Deshingkar,

2006; United Nations Vietnam, 2010).

47

CHƯƠNG V: KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

Kết quả nghiên cứu của đề tài đóng góp thêm một vài phát hiện về tác động

của lao động di cư nông thôn tới nơi đi, trong đó tiền gửi về có tác động tích cực tới

mức sống hộ gia đình nông thôn. Thông qua các nghiên cứu trên thế giới và các

nghiên cứu đã tiến hành về Việt Nam, luận văn nhận thấy việc xây dựng các chính

sách có liên quan tới vấn đề lao động di cư nông thôn cần xuất phát từ quan điểm

rằng nguyên nhân chủ yếu của lao động di cư là kiếm việc làm, tăng thu nhập, giúp

đỡ gia đình và các bằng chứng thực nghiệm cũng đã chứng minh những người di cư

đã tìm thấy lợi ích của việc di cư và ngay cả những người ở lại cũng được hưởng.

Do vậy, các chính sách cần dựa trên những nguyên tắc sau:

1. Xóa bỏ các rào cản đối với việc di chuyển dân cư

Việc cho phép luân chuyển lao động di cư có thể giúp tối đa hóa lợi ích của

các bên liên quan. Khi xem xét di cư ở nông thôn là một quá trình tất yếu thì quan

điểm tiếp cận phù hợp không phải là hạn chế nó mà cần định hướng các dòng di cư

để hiện tượng này đem lại nhiều ích lợi nhất. Khi nhìn nhận di cư có tác động tích

cực đối với sự phát triển của hộ gia đình nông thôn, của cộng đồng và cả quốc gia

(Dang, Goldstein, & McNally, 1997), các chính sách có liên quan cũng như các ưu

tiên đầu tư cũng cần phải được triển khai đồng bộ.

Bên cạnh đó, cần triển khai các biện pháp trong thực tế nhằm đảm bảo quyền

cơ bản của những người di cư như luật định cũng như cung cấp dịch vụ cho những

người di cư tạm thời. Các nhà quản lý cần ngồi lại với nhau để hình thành các dịch

vụ xã hội linh hoạt, dễ tiếp cận và các biện pháp can thiệp khác hướng đến những

người di cư. Việc làm này sẽ giúp tự do hóa các dòng di cư, vừa định hướng và

quản lý được di cư nông thôn theo hướng có lợi.

Cần xây dựng các cơ chế tiếp cận thông tin cả ở nơi đi và nơi đến cho người

di cư, có chú trọng tới đối tượng thanh niên. Các thông tin này bao gồm quyền của

lao động di cư, các cơ hội việc làm, các quá trình quản lý hành chính của việc đăng

ký hộ khẩu, tiếp cận với các dịch vụ y tế và các dịch vụ xã hội khác, thông tin về

dạy nghề và tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ khác cho nạn nhân của nạn buôn bán

48

phụ nữ hoặc bị lạm dụng. Các trung tâm dịch vụ hỗ trợ việc làm của Chính phủ cần

được cải thiện nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng và đến được nhiều hơn với các lao

động di cư.

2. Chính sách về di cư hướng đến phát triển

Chính sách tại nơi đến

Khi nhìn nhận di cư trong nước như động lực cho sự phát triển đô thị và có

tác động tích cực tới các khu vực đô thị, các cơ quan chính phủ cần đưa vào quá

trình lập kế hoạch và chiến lược quốc gia những hỗ trợ đối với lao động di cư để họ

có thể đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển của khu vực thành thị. Thứ nhất là cần

nâng cao năng lực cho chính quyền địa phương nhằm hỗ trợ việc hòa nhập của

người di cư và thực thi các chương trình xóa đói giảm nghèo. Có thể thực hiện mục

tiêu này thông qua việc nâng cao nhận thức cho chính quyền địa phương về các vấn

đề mà người dân di cư phải đối đầu khi đến một nơi mới, qua việc giảm sự kỳ thị

đối với người di cư và qua việc nâng cao năng lực và tăng cường kinh phí để giải

quyết sự tăng dân số trong địa bàn xã/phường của mình. Thứ hai, cần hỗ trợ người

di cư hòa nhập với cộng đồng tại nơi đến thông qua ghi nhận sự đóng góp của người

di cư vào phát triển, đồng thời tăng cường vốn sống xã hội cho người di cư để họ có

thể tham gia vào các hiệp hội, các tổ chức quần chúng, với cộng đồng và các hội

văn hóa. Xây dựng các điểm cung cấp thông tin và nơi gặp gỡ xã hội cho người di

cư để họ có thể có thông tin về nơi ở mới và môi trường làm việc, về các quyền của

mình và các thủ tục hành chính và đăng ký hộ khẩu họ phải tuân theo, các thông tin

liên quan tới việc học hành cho con cái, và các thông tin về sức khỏe và sức khỏe

sinh sản. Đây có thể được coi là một bước quan trọng nhằm giảm vị trí yếu thế của

người di cư.

Chính sách tại nơi đi

Các chính sách tại nơi đi cũng cần được thực hiện đồng bộ với các chính

sách tại nơi đến. Các địa phương có người di cư trở về cần tranh thủ tận dụng những

kỹ năng và kiến thức mà họ thu nhận được đồng thời hỗ trợ việc chuyển giao những

thông tin này cho những người khác tại cộng đồng địa phương của họ. Cần mở rộng

49

các cơ hội và hỗ trợ cho người di cư khi trở về thành lập cơ sở kinh doanh của mình

tại cộng đồng địa phương chẳng hạn thông qua việc thành lập các chương trình vay

vốn và quỹ hỗ trợ. Bên cạnh đó, nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực của việc di

cư, chính quyền địa phương cũng cần cung cấp các thông tin và giáo dục về lây

nhiễm HIV cho người di cư và cho cộng đồng nói chung và phụ nữ cần được tăng

cường hiểu biết để có thể áp dụng các thông tin này vào thực tế và tự bảo vệ mình

không lây nhiễm. Việc xây dựng các chương trình chương trình cộng đồng cho

người già, trẻ em và những người ở lại cũng cần được quan tâm để việc có người di

cư không ảnh hưởng nhiều tới cuộc sống và hoạt động sản xuất của hộ gia đình và

những người ở lại.

3. Tăng cường nghiên cứu về tác động nhiều chiều của lao động di cư

nông thôn.

Cần có số liệu chính xác và có sự hiểu biết hơn nữa về các quá trình di cư

trong nước và tác động của nó tới nơi đi, nơi đến và trên bình diện cả nước nhằm

tạo cơ sở cho quá trình hoạch định chính sách. Hiện tại, Việt Nam đang thiếu số liệu

chuyên về di cư cũng như những nghiên cứu thực nghiệm đánh giá tác động của di

cư theo nhiều chiều. Chính vì thế, các nhà hoạch định chính sách không thể đưa ra

các định hướng chính xác và có lợi cho phát triển đối với vấn đề di cư khi việc hiểu

về hiện tượng còn chưa được đầy đủ và toàn diện. Để khắc phục việc này chúng ta

cần cải thiện các hoạt động nghiên cứu và thu thập số liệu với quy mô lớn nhằm

đảm bảo ghi được đầy đủ tất cả các động thái di cư bao gồm di cư lâu dài, di cư

ngắn hạn và di cư con lắc. Cần sử dụng các kết quả nghiên cứu để làm cơ sở cho

quá trình lập kế hoạch và phân bổ ngân sách cấp trung ương và các cấp thấp hơn,

đặc biệt là cho quá trình xây dựng kế hoạch đô thị, xóa đói giảm nghèo và các

chương trình phúc lợi xã hội hướng tới những đối tượng yếu thế nhất.

4. Xét trong dài hạn, tạo công ăn việc làm tại quê nhà cho lao động ở

nông thôn vẫn là giải pháp phát triển bền vững.

Thực trạng hiện nay, khu vực thành thị đã đạt tới trạng thái bão hòa, quỹ đất

và cơ sở vật chất ở khu vực thành thị đã không còn đáp ứng được sự gia tăng dân số

50

do di cư từ khu vực nông thôn. Vì vậy, trong dài hạn cần có những giải pháp tạo

việc làm tại chỗ nhằm giải quyết hiệu quả lực lượng lao động trẻ tại khu vực nông

thôn và phát triển kinh tế địa phương. Xét điều kiện kinh tế - xã hội nông thôn Việt

Nam, kết hợp với việc học hỏi một số kinh nghiệm giải quyết việc làm cho lao động

nông thôn ở một số quốc gia. Luận văn đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:

- Thứ nhất là thực hiện cải cách ruộng đất và phát triển các mô hình trang trại

nông nghiệp tại khu vực nông thôn. Đây là điều kiện tiên quyết để có thể

công nghiệp hóa nông thôn, cơ khí hóa và tự động hóa trong nông nghiệp,

một vấn đề mà trước đây Việt Nam luôn gặp khó khăn do tình trạng manh

mún đất nông nghiệp. Việc phát triển các mô hình trang trại sẽ giúp phát

triển đáng kể kinh tế khu vực nông thôn và tạo ra nhiều công ăn, việc làm

cho lao động tại địa phương.

- Thứ hai là phát triển các xí nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn

nhằm tạo đầu ra tại chỗ cho nông sản tại địa phương và tạo việc làm. Các

chính sách hỗ trợ của chính phủ đối với giải pháp này là vô cùng cần thiết

như việc hỗ trợ kỹ thuật và xúc tiến thương mại nhằm tạo điều kiện cho các

doanh nghiệp nhỏ và vừa ở địa phương có thể tiếp cận các thị trường tiềm

năng trong nước cũng như đáp ứng được tiêu chuẩn của các thị trường xuất

khẩu.

- Giải pháp thứ ba trong việc giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn là

sự liên kết theo mô hình tam giác giữa nhà nước, công ty và hộ gia đình.

Trong đó, công ty giao nguyên liệu cho hộ gia đình gia công những công

đoạn phù hợp. Nhà nước hỗ trợ vốn và kỹ thuật, bồi dưỡng tay nghề cho

nông dân cũng như tạo quan hệ hợp đồng gia công giữa các hộ gia đình, các

doanh nghiệp nhỏ với các doanh nghiệp lớn. Mô hình này có thể áp dụng cho

các ngành nghề truyền thống, phi nông nghiệp tại địa phương.

51

KẾT LUẬN

Các kết quả phân tích của đề tài cho thấy một phần tác động tích cực của lao

động di cư nông thôn đối với mức sống hộ gia đình tại nông thôn. Việc di cư đóng

góp đáng kể cho tổng thu nhập của hộ và giúp hộ dễ dàng hơn trong việc phân bổ

tài chính cho các mục chi tiêu thiết yếu của hộ. Tác động tích cực của lao động di

cư nông thôn (thông qua tiền gửi về) được khẳng định với độ tin cậy cao do đề tài

sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau và các phương pháp đều cho ra kết

quả thống nhất. Đóng góp của đề tài thể hiện ở việc cung cấp thêm bằng chứng về

tác động tích cực của lao động di cư nông thôn tới mức sống hộ gia đình dựa trên số

liệu Điều tra mức sống hộ gia đình mới nhất. Việc kết hợp sử dụng nhiều phương

pháp định lượng khác nhau cũng là một cái mới nhằm đưa ra những nhận định tin

cậy và khoa học. Ngoài ra, đề tài cũng mở rộng thêm một bước hướng tiếp cận của

Lucas khi đánh giá tác động của di cư tới mức sống của hộ chứ không chỉ dừng lại

ở ba khía cạnh tác động của di cư nói chung.

Bên cạnh những đóng góp, đề tài còn một số hạn chế. Đề tài sử dụng số liệu

đại diện cho cả nước nhưng kết quả suy rộng cho tổng thể cần phải được tiến hành

một cách thận trọng do hạn chế về biến số dẫn tới mẫu còn lại để phân tích không

lớn. Hạn chế của số liệu là bỏ qua một lượng lớn những người di cư dưới 6 tháng và

các hộ gia đình di cư. Do đặc điểm của việc chọn mẫu trong Điều tra mức sống hộ

gia đình, điều tra chỉ lựa chọn các hộ gia đình thực tế cư trú trên địa bàn xã hoặc

phường và những người mới di chuyển khỏi hộ ra khu vực thành thị ít nhất 6 tháng.

Ngoài ra, những kết quả phân tích có được không hàm ý mối quan hệ nhân quả vốn

chỉ có thể xem xét được trong các điều tra đặc thù, trong đó các yếu tố khác có tác

động đến mức sống hộ đều được kiểm soát. Kết quả rút ra của đề tài sẽ được khẳng

định hơn nếu ứng dụng kết hợp các phương pháp và kỹ thuật khác như mô hình biến

công cụ, xây dựng hệ số Gini… Đây cũng chính là gợi ý về mặt phương pháp cho

các nghiên cứu tiếp theo về đề này.

Ngoài việc ứng dụng nhiều phương pháp phân tích khác, luận văn cũng gợi ý

một số nội dung cần được nghiên cứu thêm trong lĩnh vực này. Thứ nhất, đi sâu

52

phân tích các cách thức mà di cư trong nước có thể đóng góp vào sự phát triển của

cộng đồng nơi đi. Dựa trên các kết quả nghiên cứu để xây dựng các chính sách và

thiết kế các chương trình nhằm đẩy mạnh các lợi ích của việc di cư. Thứ hai, hai

lĩnh vực quan trọng cần nghiên cứu, phân tích thêm là tác động thứ nhất và thứ ba

theo gợi ý của Lucas bao gồm tác động của việc xuất cư và tác động của việc trở về.

Muốn vậy, cần có những điều tra, nghiên cứu chuyên sâu về tác động của di cư tới

hộ gia đình nông thôn để xem xét được một cách toàn diện các tác động này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt

1. Đặng Nguyên Anh. 2007. Xã hội học Dân số. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học

Xã hội.

2. Tổng cục Thống kê. 2010. Di cư và đô thị hóa ở Việt Nam: Thực trạng, xu hướng

và những khác biệt. Hà Nội: NXB Thống kê.

3. United Nations Vietnam. 2010. Di cư trong nước- Cơ hội và thách thức đối với

sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Hà Nội: UN.

Tài liệu Tiếng Anh

1. Acharya, A. K., & Cervante, J. J. 2009. Female migration and urban informal

sector in Monterrey Metropolitan region. Journal of Social Sciences, 21(1), 13-24.

2. Adepoju, A. 1977. Migration and development in tropical Africa: Some research

priorities. African Affairs, 76(33), 210-225.

3. Barham, B., & Boucher, S. 1998. Migration, remittances, and inequality:

estimating the net effects of migration on income distribution. Journal of

Development Economics, 55(2), 307-331.

4. Brauw, A. D. 2007. Seasonal migration and agriculture in Vietnam: FAO.

5. Chappell, L., & Glennie, A. 2009. Maximising the development outcomes of

migration: A policy perspective. Global Development Network and Institute for

Public Policy Research.

6. Cu Chi Loi. 2005. Rural to urban migration in Vietnam. IDE Discussion Papers.

7. Dang, A., Goldstein, S., & McNally, J. 1997. Internal migration and

development in Vietnam. The International Migration Review, 31(2), 312-337.

8. Dang Nguyen Anh, Tacoli, C., & Hoang Xuan Thanh. 2003. Migration in

Vietnam- A review of information on current trends and patterns, and their policy

implications: Migration Development & Pro-poor Policy Choices in Asia.

9. Deshingkar, P. 2006. Internal migration, poverty and development in Asia.

Paper presented at Asia 2015 conference.

10. Econtech Pty Ltd. 2006. The economic impacts of migration: A comparison of

two approaches. Caberra: Econtech.

11. International Fund for Agricultural Development. 2007. Proceedings of round

table on Migration and Rural Development: Thirtieth Session of IFAD's Governing

Council.

12. Kearney, M. 1986. From the Invisible Hand to the Visible Feet:

Anthropological Studies of Migration and Development. Annual Review of

Anthropology, Vol 15, 331-361.

13. Lee, E. S. 1966. A Theory of Migration. Demography, Vol 3, 47-57.

14. Lucas, R. E. B. 2005. International migration regimes and economic

development - Lessons from low income countries. Massachusetts: Edward Elgar

Publishing.

15. Mberu, B. U. 2006. Internal migration and household living conditions in

Ethiopia. Demographic Research, 12(21), 509-540.

16. Medina, C., & Cardona, L. 2010. The effect of remittanaces on household

consumption, education attendance and living standards: The case of Colombia.

Lecturas de Economia, 72, 11- 43.

17. Nguyen, L., Yeoh, B. S. A., & Toyota, M. 2006. Migration and the well-being

of the 'left behind' in Asia. Asian Population Studies, 2(1), 37-44.

18. Nguyen Thu Phuong, Tran Ngo Thi Minh Tam, Nguyen Thi Nguyet, &

Oostendorp, R. 2008. Determinants and impacts of migration in Vietnam:

DEPOCEN.

19. Poros, M. V. 2001. The role of migrant networks in linking local labour

markets: the case of Asian Indian Migration to New York and London. Global

networks, Vol 1, 243-260.

20. Rempel, H., & Lobdell, R. A. 1978. The role of urban-to-rural remittances in

rural development. Journal of Development Studies, 14(3), 324.

21. Stark, O. 1980. On the role of urban-to-rural remittances in rural development.

Journal of Development Studies, 16(3), 369.

22. Stark, O., & Bloom, E. 1985. The new economics of labor migration.

American Economic Review, 75, 173-178.

23. Taylor, J. E., Rozelle, S., & Brauw, A. d. 2003. Migration and incomes in

source communities: A new economics of migration perspective from China.

Economic Development and Cultural Change, 52(1), 75-101.

24. Todaro, M. 1969. A model of labour migration and urban unemployment in

less developed countries. American Economic Review, 59(1), 138-139.

25. Todaro, M., & Smith, S. 2009. Economic Development (10th ed.): Pearson.

26. Vladicescu, N., Cantarji, V., & Jigau, I. 2008. The impact of migration and

remittances on communities, families and children in Moldova. New York: Division

of Policy and Practice UNICEF.

27. Zelinsky, W. 1971. The hypothesis of the mobility transition. Geographical

Review 61, 219-249.

PHỤ LỤC

I. Kiểm định sự khác biệt Ttest:

1. Kiểm định sự khác biệt về các nhân tố liên quan tới mức sống của hộ năm 2014 và năm 2012:

- Thu nhập của hộ

- Thu nhập bình quân đầu người trên tháng của hộ

- Chi tiêu của hộ

- Chi bình quân đầu người trên tháng của hộ

- Chi đời sống bình quân đầu người trên tháng của hộ

- Chi bảo hiểm y tế bình quân đầu người trên tháng của hộ

- Chi giáo dục

- Số người bình quân hộ

2. Kiểm định so sánh sự khác biệt về các nhân tố liên quan đến chi giáo dục của hộ năm 2014 và năm 2012.

- Số người đi học của hộ

- Chi học phí của hộ

- Chi sách giáo khoa

- Các loại quỹ hàng năm

- Chi phí quần áo, dụng cụ học tập

- Chi phí học thêm và các chi phí khác

II. Hồi quy

1. Mô hình 1: Tác động của lao động di cư nông thôn đến chi tiêu bình quân của hộ gia đình ở nông thôn.

2. Mô hình 2: Tác động của lao động di cư nông thôn đến thu nhập từ nông nghiệp của hộ gia đình.

3. Mô hình 3: Tác động của tiền gửi về đến chi tiêu bình quân của hộ gia đình ở nông thôn.