BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM …………….
NGUYỄN THỊ MINH DIỄM
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG LẠM PHÁT ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM …………….
NGUYỄN THỊ MINH DIỄM
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG LẠM PHÁT ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng Mã số : 60.34.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Thị Minh Diễm, học viên lớp Cao học ngày 1, khoá
19, chuyên ngành Tài Chính – Ngân Hàng, Trường Đại học Kinh Tế TP
HCM.
Tôi xin cam đoan rằng Luận văn với đề tài “Nghiên cứu tác động lạm
phát ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTMCP VN ” là công trình nghiên
cứu khoa học của cá nhân tôi, cùng với sự hướng dẫn của Cô PGS.TS Trầm
Thị Xuân Hương. Các dữ liệu, số liệu tham khảo được sử dụng trong Luận
văn thạc sĩ này đều được trích dẫn đầy đủ nguồn tài liệu tham khảo.
Tác giả
Nguyễn Thị Minh Diễm
DANH MỤC NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT
Diễn giải
Ký hiệu CSTT
USD
VND
HĐV
LS
LSTCV
LSHĐV
LP
LPMT
NH
NHTM
NHTW
VN
Chính sách tiền tệ Đồng đôla Mỹ Đồng Việt Nam Huy động vốn Lãi suất Lãi suất tái cấp vốn Lãi suất huy động vốn Lạm phát Lạm phát mục tiêu Ngân hàng Ngân hàng thương mại Ngân hàng trung ương Việt Nam
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng biểu Trang
Bảng 2.1: Bảng mã hóa các ngân hàng nghiên cứu 35
Bảng 2.2 : Sự tương quan giữa các khái niệm nghiên cứu 37
Bảng 2.3 : Kết quả hồi qui phương trình của kiểm định Pooled 38
Bảng 2.4 : Kết quả hồi quy của kiểm định Fixed effects
Regression
Bảng 2.5: Kết quả hồi quy của kiểm định Random effects
39
Bảng 2.6 : Kết quả kiểm định Hausman Test
39
Bảng 2.7 : Kết quả kiểm định Lagrange Multiplier
40
Bảng 2.8 : Kết quả kiểm định hệ số VIF
40
41
Bảng 2.9 : Kiểm định phương sai thay đổi 41
Bảng 2.10 : Kiểm định tự tương quan 42
Bảng 2.11 : Kết quả hồi quy GLS 42
Bảng 3.1 : So sánh chỉ số kinh tế vĩ mô giữa các nước áp dụng 63
lạm phát mục tiêu với các nước khác
DANH MỤC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ
Hình và đồ thị
Hình 1.1 : Lạm phát do cầu kéo Trang 7
10
28
32
33
44
Hình 1.2 : Lạm phát do chi phí đẩy Đồ thị 2.1 : Diễn biến lạm phát ở VN giai đoạn 2007 - 2012 Đồ thị 2.2 : Tổng tài sản của 12 NHTMCP VN Đồ thị 2.3 : Huy động vốn của 12 NHTMCP VN Đồ thị 2.4 : Mối quan hệ giữa chỉ số giá, lãi suất tái cấp vốn và chi phí huy động vốn của 12 NHTMCP VN
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngân hàng là một trong những kênh huy động và điều hoà vốn quan
trọng trong nền kinh tế. Ngân hàng còn là một công cụ quan trọng trong việc
ổn định thị trường tài chính và quản lý kinh tế của nhà nước. Ngân hàng cũng
có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu hoá. Hoạt động ngân hàng
gắn liền với việc huy động vốn, sau đó dùng số vốn này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ ngân hàng. Như vậy có thể thể thấy huy động vốn là
một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Ngân hàng thương
mại.
Lạm phát - một trong những chỉ báo kinh tế vĩ mô và thường xuyên
được sử dụng trong phân tích kinh tế. Tác động của lạm phát diễn ra rất rộng
đối với nhiều lĩnh vực và ngân hàng cũng không phải là ngoại lệ. Thật vậy,
khi lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh
hưởng lớn đến hoạt động của các ngân hàng thương mại. Sự không ổn định
của giá cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư
và dân chúng, gây khó khăn cho việc huy động vốn của ngân hàng.
Kinh tế Việt Nam thời gian gần đây đã đạt được những kết quả nhất
định trong việc kiểm soát lạm phát, cân bằng cán cân thương mại và ổn định
tỷ giá. Tuy nhiên, nhiều rủi ro tiềm ẩn đang gây thách thức cho nền kinh tế
nói chung và cho ngành ngân hàng nói riêng trong thời gian tới.
Xuất phát từ vị trí quan trọng của nguồn vốn đối với sự sống còn của
các NH, từ sự biến động không ngừng của nền kinh tế nói chung và của lạm
phát nói riêng, tôi lựa chọn đề tài “ Nghiên cứu tác động lạm phát ảnh hưởng
đến huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam” làm luận
văn thạc sĩ kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là tập trung vào các nội dung sau :
2
Nghiên cứu lý luận cơ bản về lạm phát, về huy động vốn của ngân
hàng, từ đó làm cơ sở đưa ra lý thuyết về tác động lạm phát ảnh hưởng đến
huy động vốn của NHTM.
Tìm hiểu tình hình lạm phát nước ta qua các giai đoạn, tình hình huy
động vốn của NHTMCP VN, qua đó đánh giá được tác động lạm phát ảnh
hưởng đến huy động vốn của các ngân hàng này.
Đưa ra các giải pháp về huy động vốn cho NHTMCP VN nói riêng
cũng như cho hệ thống NHTM VN nói chung trong điều kiện nền kinh tế có
lạm phát cao.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là: Lạm phát, huy động vốn của Ngân hàng
thương mại và tác động lạm phát ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTMCP
VN
Phạm vi nghiên cứu về mặt không gian là Ngân hàng thương mại cổ
phần Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian là các năm từ năm 2007 đến năm
2012.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng chủ yếu các phương pháp như phương
pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê mô tả, phương
pháp phân tích dữ liệu bảng bằng mô hình hồi quy bội với phần mềm Stata
11.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.
Kết quả nghiên cứu của đề tài nhằm đánh giá được mức độ tác động lạm
phát ảnh hưởng đến huy động vốn, từ đó đề ra các giải pháp về huy động vốn
cho ngân hàng thương mại cổ phần VN trong điều kiện nền kinh tế có lạm
phát cao , giúp cho các ngân hàng này có đủ nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu
kinh doanh, khẳng định vị thế của mình trong thời kỳ phát triển và hội nhập
quốc tế.
3
Trong quá trình thực hiện luận văn, do năng lực và thời gian còn hạn
chế, chắc chắn sẽ không tránh những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của
quý Thầy Cô để luận văn được hoàn thiện hơn.
6. Kết cấu của luận văn
Chương 1 : Cơ sở lý luận về tác động lạm phát ảnh hưởng đến huy động
vốn của NHTM
Chương 2 : Thực trạng tác động lạm phát ảnh hưởng đến huy động vốn
của NHTMCP VN
Chương 3 : Giải pháp về huy động vốn cho NHTMCP VN trong điều
kiện nền kinh tế có lạm phát cao.
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG LẠM PHÁT
ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Các vấn đề cơ bản về lạm phát
1.1.1. Một số khái niệm về lạm phát
Lạm phát gần như là căn bệnh kinh niên trong nền kinh tế thị trường.
Có nhiều nhà kinh tế đã đưa ra định nghĩa đúng cho thuật ngữ này, nhưng nói
chung chưa có một sự đồng ý hoàn toàn. Theo thời gian nhận thức về quan hệ
giữa tiền tệ và kinh tế ngày càng cao hơn, nên nhận thức về lạm phát cũng có
nhiều thay đổi. Có thể nêu những dòng quan điểm cơ bản theo thời gian về
lạm phát như ở dưới đây:
Theo K. Marx, lạm phát là hiện tượng tiền giấy tràn ngập các kênh lưu
thông tiền tệ, vượt quá các nhu cầu của kinh tế thực tế làm cho tiền tệ bị mất
giá và phân phối lại thu nhập quốc dân. Như vậy, lạm phát chỉ xuất hiện khi
lượng tiền giấy trong lưu thông vượt quá nhu cầu tiền tệ của lưu thông hàng
hoá trong nền kinh tế.
Trường phái của Keynes cho rằng “việc tăng nhanh cung tiền tệ sẽ làm
cho mức giá cả tăng kéo dài với tỷ lệ cao, do vậy gây nên lạm phát”. Theo
quan điểm này, một nhân tố nào khác ngoài tiền tệ không thể gây nên lạm
phát cao được.
Ngược lại, Paul A. Samuelson lại cho rằng : “lạm phát biểu thị một sự
tăng lên trong mức giá chung. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ thay đổi của mức giá
chung…” (Kinh tế học – P.A.Samuelson và W.D. Nordhaus tập 2, NXB
Chính trị quốc gia – 1997, trang 391). Trên cơ sở đó ông đưa ra các phương
pháp cụ thể để tính tỷ lệ lạm phát, như phương pháp tính theo chỉ số giá tiêu
dùng (CPI), chỉ số giá sản xuất (PPI) và chỉ số giảm phát (GDP). Trái với
5
quan điểm của trường phái Keynes, Ông cho rằng lạm phát có thể do nguyên
nhân cầu kéo hoặc nguyên nhân chi phí đẩy, tức là lạm phát có thể xảy ra
ngoài nguyên nhân tiền tệ.
Vào những năm 70 của thế kỷ 20, trước những tranh cãi kéo dài về
nguyên nhân của tình trạng giá cả tăng cao ở Mỹ và các nước phương tây do
cuộc khủng hoảng dầu lửa, Milton Friedman đã nổi tiếng với tuyên bố “ lạm
phát dù lúc nào và ở đâu cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Ông còn nhấn mạnh:
“Lạm phát ở bất cứ nơi nào luôn là một hiện tượng tiền tệ với nghĩa là, nó
được và có thể được tạo ra chỉ bằng cách tăng lượng tiền nhanh hơn so với
tăng sản lượng” (Từ điển mới về kinh tế học, 1987). Như vậy, theo Ông một
sự tăng giá cả tạm thời có thể do nhiều nguyên nhân nhưng không thể xảy ra
lạm phát cao mà không có một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ nhanh được.
Từ các quan điểm trên, chúng ta có hiểu một cách thận trọng về lạm
phát như sau: Lạm phát là hiện tượng xảy ra khi mức giá trong nền kinh tế
tăng kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định. Mức giá chung tức là mức
trung bình của giá cả các hàng hoá trong nền kinh tế, thể hiện được xu thế
biến động chung của mức giá cả - biểu thị sức mua của tiền tệ đối với các
hàng hoá khác. Và mức giá chung này phải tăng và kéo dài trong một thời
gian nhất định, thường là từ vài tháng trở lên mới có thể coi là đã xảy ra lạm
phát.
1.1.2. Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát, tuy nhiên có một phương pháp phân
loại khá phổ biến đó là căn cứ vào tốc độ và tác động của nó. Theo cách phân
loại này, người ta chia lạm phát ra thành 3 loại : lạm phát vừa phải, lạm phát
phi mã và lạm phát siêu tốc.
1.1.2.1. Lạm phát vừa phải
Lạm phát vừa phải là loại lạm phát xảy ra với giá cả hàng hoá tăng
chậm và có thể dự đoán trước được, thường được giới hạn ở mức một con số
6
một năm. Ví dụ lạm phát ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1996 đến 2006 là mức
lạm phát vừa phải.
Khi giá cả hàng hoá tương đối ổn định, người dân vẫn tin tưởng vào
tiền tệ và vì vậy các chức năng của nó vẫn được thực hiện một cách bình
thường. Đối với mức lạm phát này, mức tác hại lên nền kinh tế không đáng
kể, thậm chí trong thực tế nó còn có thể, có tác dụng mở rộng tín dụng, một
mặt kích cầu, một mặt gia tăng đầu tư, mở rộng và phát triển sản xuất, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp.
1.1.2.2. Lạm phát phi mã
Lạm phát này xảy ra khi giá cả bắt đầu tăng với tỷ lệ hai hoặc ba con số
như 20%, 50%, 100% hoặc 300% một năm. Lạm phát ở Việt Nam giai đoạn
1981 – 1991 và gần đây nhất là lạm phát trong các năm 2007 – 2008 và 2010
– 2011 là lạm phát phi mã.
Khi lạm phát phi mã xảy ra, do tiền bị mất giá rất nhanh nên người dân
không còn muốn nắm giữ tiền mà chuyển sang săn lùng mua hàng hoá, vàng,
ngoại tệ cất giữ. Tình trạng này càng làm cho giá cả tăng nhanh và biến động
bất thường. Thị trường tài chính sẽ tàn lụi vì dòng vốn chạy ra nước ngoài.
Lãi suất thực có thể giảm bằng không hoặc âm, hiệu quả kinh tế suy giảm,
nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, thu nhập thực tế của người lao động bị xói
mòn nghiêm trọng, thất nghiệp tăng cao.
1.1.2.3. Lạm phát siêu tốc
Lạm phát siêu tốc là loại lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hoá tăng rất
nhanh với tốc độ từ 4 con số trở lên một năm. Ví dụ như ở Bolivia năm 1985
là 11.800%/ năm, Nhật Bản năm 1949 là 23.700%/năm, Ba Lan năm 1992 là
560.000%/năm và nghiêm trọng nhất là Đức thời kỳ 1922- 1923 : từ tháng
Giêng năm 1922 đến tháng 11 – 1923 chỉ số giá tăng từ 1 lên đến
10.000.000.000 (Kinh tế học – P.A. Samuelon và WD. Nordhaus tập 2, NXB
Chính trị quốc gia – 1997, trang 398).
7
Biểu hiện đặc trưng cơ bản của lạm phát siêu tốc là giá cả hàng hoá
tăng nhanh quá mức, và biến động bất thường không thể dự đoán trước được.
Xuất hiện hiện tượng ‘củ khoai tây nóng’, người dân phải chạy trốn khỏi tiền
và chuyển sang cất trữ ‘mọi thứ’. Nền kinh tế có thể bị biến dạng và rơi vào
khủng hoảng trầm trọng, thất nghiệp tràn lan, đời sống nhân dân giảm sút
nghiêm trọng.
Trong ba loại lạm phát trên thì lạm phát phi mã và lạm phát siêu tốc là
hai loại lạm phát ảnh hưởng rất tiêu cực đối với sản xuất và đời sống nhân
dân. Do vậy người ta luôn cảnh giác và phòng ngừa các loại lạm phát này.
1.1.3. Nguyên nhân lạm phát
1.1.3.1. Lạm phát do cầu kéo
Khi tổng cầu hàng hoá tăng nhanh vượt quá khả năng cung ứng hàng
hoá của nền kinh tế, kéo giá cả hàng hoá tăng lên theo.
Giá cả
AS
P1
E1
E0
P0
AD1
AD0
Sản lượng thực tế
0
Q0
Q1 (Nguồn: Lê Thị Tuyết Hoa, Nguyễn Thị Nhung, Tiền tệ Ngân hàng
(2011), Nhà xuất bản thống kê)
Hình 1.1 : Lạm phát do cầu kéo
8
Hình 1.1 cho thấy khi tổng cầu tăng từ AD0 đến AD1 thì điểm cân bằng
cung cầu cũng dịch chuyển từ E0 đến E1 và mức giá tăng tương ứng từ P0 đến
P1 .
Tổng cầu AD là tổng các sản phẩm mà toàn xã hội sẵn sàng mua ở một
mức giá nhất định khi các nhân tố khác không đổi. Nó gồm có 4 bộ phận cấu
thành là chi tiêu của các hộ gia đình, cầu đầu tư, chi tiêu của chính phủ và
xuất khẩu ròng của nền kinh tế. Tổng cầu tăng dẫn đến lạm phát, thông
thường do các nguyên nhân :
- Do bội chi NSNN thường xuyên và kéo dài: Trường hợp thâm hụt ngân
sách tạm thời chỉ làm giá cả tăng một cách tạm thời từng đợt rồi trở lại mức
giá ban đầu khi ngân sách cân bằng trở lại. Khi ngân sách thâm hụt thường
xuyên, kéo dài sẽ làm giá cả hàng hoá tăng kéo dài, và nếu lại được tài trợ
bằng tiền phát hành thì sẽ càng làm tổng cầu tăng mạnh, kéo giá cả hàng hoá
tăng cao. Trường hợp ngân sách thâm hụt thường xuyên, với khối lượng lớn
và được bù đắp bằng việc phát hành trái phiếu vay công chúng thì sẽ ảnh
hưởng làm mặt bằng lãi suất trên thị trường tăng lên, tình thế đó đe doạ việc
thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp, buộc NHTW phải can
thiệp để duy trì mức lãi suất ban đầu bằng cách cung ứng tiền và càng làm giá
cả hàng hoá tăng nhanh.
- Thu nhập thực tế của các hộ gia đình tăng làm nhu cầu chi tiêu tăng,
tổng cầu tăng lên và giá cả tăng theo. Giá tăng cao làm cho thu nhập thực tế
của người lao động suy giảm, công nhân sẽ tạo áp lực đòi tăng lương cải thiện
đời sống. Nếu yêu sách tăng lương được thoả mãn, tổng cầu lại tăng và giá cả
lại được kéo lên. Quá trình này không có biện pháp kiềm chế kịp thời sẽ dẫn
đến vòng xoáy liên tục giữa tăng lương và lạm phát.
- Do NHTƯ thi hành chính sách tiền tệ mở rộng, như giảm lãi suất tái
chiết khấu, tăng bơm tiền ra lưu thông qua ngõ thị trường mở hoặc giảm tỷ lệ
dự trữ bắt buộc. Hành vi này sẽ gây hiệu ứng làm giảm lãi suất trên thị
9
trường, kích thích tiêu dùng của các hộ gia đình, kích thích việc mở rộng đầu
tư và từ đó làm tăng tổng cầu và giá cả lên.
- Do có sự chênh lệch cao giữa giá cả hàng hoá cùng loại giữa nước
ngoài và trong nước, từ đó làm tăng tổng cầu và giá cả hàng hoá tăng lên.
- Ngoài ra có thể do các nguyên nhân về tâm lý, như ảnh hưởng của các
cuộc khủng hoảng về chính trị, quân sự, kinh tế hoặc do thiên tai như: động
đất, bão, núi lửa, sụt bùn, lở núi,…làm cho dân chúng hoang mang đổ xô đi
mua vét hàng hoá, làm sức cầu hàng hoá gia tăng nhanh, kéo giá cả hàng hoá
tăng lên.
1.1.3.2. Lạm phát do chi phí đẩy
Khi chi phí sản xuất tăng, với cùng một khoản vốn đầu tư như nhau thì
đương nhiên sẽ dẫn đến giảm sản lượng sản xuất. Hàng hoá trở nên khan
hiếm, cung không đủ cầu đẩy giá cả hàng hoá tăng lên.
Vấn đề đặt ra là tại sao chi phí sản xuất lại tăng lên ? Có nhiều nguồn
gốc khác nhau song có thể quy về những nguồn gốc cơ bản sau :
- Chi phí tăng lên do tiền lương. Theo các nhà kinh tế học, việc đẩy chi
phí tiền lương tăng lên là do các công đoàn gây sức ép đòi tăng lương, giảm
giờ làm. Tuy nhiên các nhà kinh tế khác cho rằng chính công đoàn ở các nước
tư bản đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc độ tăng của lạm
phát và giữ không cho lạm phát giảm xuống quá nhanh, vì các hợp đồng tiền
lương của các công đoàn thường là dài hạn và khó thay đổi.
- Các cuộc khủng hoảng về các loại nguyên liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt
thép,…sẽ làm cho giá cả của các loại hàng hoá này tăng lên và điều đó đã đẩy
chi phí sản xuất tăng lên. Hai cuộc lạm phát do cung khá trầm trọng ở các
nước nhập khẩu dầu mỏ thời kỳ 1973 – 1982 có nguyên nhân xuất phát từ
việc tổ chức OPEC hạn chế lượng dầu cung ứng làm giá dầu thô tăng lên hơn
10 lần. Tình trạng lạm phát tăng cao gần tới mức hai con số ở Việt Nam trong
hai năm 2004 – 2005 cũng có nguyên nhân rất quan trọng là do phải nhập giá
xăng dầu cao hơn hai lần so với thời kỳ trước đó.
10
- Cũng có thể do sản xuất không có hiệu quả. Vốn bỏ ra nhiều hơn nhưng
sản phẩm thu lại không tăng lên hoặc tăng chậm hơn tốc độ tăng của chi phí
sản xuất.
Lạm phát do sức đẩy của chi phí được thể hiện trên đồ thị hình 1.2 như
sau :
AS1
Giá cả
AS0
E1
P1
E0
P0
AD
0
Sản lượng thực tế
Q1
Q0
(Nguồn: Lê Thị Tuyết Hoa, Nguyễn Thị Nhung, Tiền tệ Ngân hàng,
(2011), Nhà xuất bản thống kê)
Hình 1.2 : Lạm phát do chi phí đẩy
Hình 1.2 cho thấy khi chi phí sản xuất tăng, sản lượng giảm: đường
AS0 dịch chuyển sang AS1, điểm cân bằng cung cầu cũng dịch chuyển tương
ứng từ E0 đến E1 làm giá cả tăng từ P0 đến P1 và sản lượng thực tế giảm từ Q0
đến Q1 .
1.1.3.3. Lạm phát do cơ cấu
Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền công
‘danh nghĩa’ cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm ngành kinh
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM …………….
NGUYỄN THỊ MINH DIỄM
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG LẠM PHÁT ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM …………….
NGUYỄN THỊ MINH DIỄM
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG LẠM PHÁT ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng Mã số : 60.34.02.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦM THỊ XUÂN HƯƠNG
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Thị Minh Diễm, học viên lớp Cao học ngày 1, khoá
19, chuyên ngành Tài Chính – Ngân Hàng, Trường Đại học Kinh Tế TP
HCM.
Tôi xin cam đoan rằng Luận văn với đề tài “Nghiên cứu tác động lạm
phát ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTMCP VN ” là công trình nghiên
cứu khoa học của cá nhân tôi, cùng với sự hướng dẫn của Cô PGS.TS Trầm
Thị Xuân Hương. Các dữ liệu, số liệu tham khảo được sử dụng trong Luận
văn thạc sĩ này đều được trích dẫn đầy đủ nguồn tài liệu tham khảo.
Tác giả
Nguyễn Thị Minh Diễm
DANH MỤC NHỮNG CỤM TỪ VIẾT TẮT
Diễn giải
Ký hiệu CSTT
USD
VND
HĐV
LS
LSTCV
LSHĐV
LP
LPMT
NH
NHTM
NHTW
VN
Chính sách tiền tệ Đồng đôla Mỹ Đồng Việt Nam Huy động vốn Lãi suất Lãi suất tái cấp vốn Lãi suất huy động vốn Lạm phát Lạm phát mục tiêu Ngân hàng Ngân hàng thương mại Ngân hàng trung ương Việt Nam
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng biểu Trang
Bảng 2.1: Bảng mã hóa các ngân hàng nghiên cứu 35
Bảng 2.2 : Sự tương quan giữa các khái niệm nghiên cứu 37
Bảng 2.3 : Kết quả hồi qui phương trình của kiểm định Pooled 38
Bảng 2.4 : Kết quả hồi quy của kiểm định Fixed effects
Regression
Bảng 2.5: Kết quả hồi quy của kiểm định Random effects
39
Bảng 2.6 : Kết quả kiểm định Hausman Test
39
Bảng 2.7 : Kết quả kiểm định Lagrange Multiplier
40
Bảng 2.8 : Kết quả kiểm định hệ số VIF
40
41
Bảng 2.9 : Kiểm định phương sai thay đổi 41
Bảng 2.10 : Kiểm định tự tương quan 42
Bảng 2.11 : Kết quả hồi quy GLS 42
Bảng 3.1 : So sánh chỉ số kinh tế vĩ mô giữa các nước áp dụng 63
lạm phát mục tiêu với các nước khác
DANH MỤC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ
Hình và đồ thị
Hình 1.1 : Lạm phát do cầu kéo Trang 7
10
28
32
33
44
Hình 1.2 : Lạm phát do chi phí đẩy Đồ thị 2.1 : Diễn biến lạm phát ở VN giai đoạn 2007 - 2012 Đồ thị 2.2 : Tổng tài sản của 12 NHTMCP VN Đồ thị 2.3 : Huy động vốn của 12 NHTMCP VN Đồ thị 2.4 : Mối quan hệ giữa chỉ số giá, lãi suất tái cấp vốn và chi phí huy động vốn của 12 NHTMCP VN
11
doanh không hiệu quả, doanh nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải tăng tiền
công cho người lao động. Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh doanh kém
hiệu quả, nên khi phải tăng tiền công cho người lao động, các doanh nghiệp
này buộc phải tăng giá thành sản phẩm để đảm bảo lợi nhuận và từ đó phát
sinh lạm phát
1.1.3.4. Lạm phát do xuất khẩu
Khi xuất khẩu tăng, dẫn đến sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu
khiến lượng hàng hóa cung cho thị trường trong nước giảm, khiến tổng cung
trong nước thấp hơn tổng cầu. Và điều này làm tăng giá sản phẩm, gây nên
lạm phát.
1.1.3.5. Lạm phát do nhập khẩu
Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng, có thể do thuế nhập khẩu tăng hoặc
do giá cả trên thế giới tăng, thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng
lên. Khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.
1.1.3.6. Lạm phát tiền tệ
Cung tiền tăng khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên
nhân gây ra lạm phát. Theo học thuyết về khối lượng tiền tệ của Fisher, chúng
ta sẽ thấy rõ vấn đề này qua công thức khối lượng tiền tệ :
MV = PY
Trong đó :
- M : Cung tiền tệ
- V : Tốc độ vòng quay
- P : Mức giá cả
- Y : Tổng sản phẩm
PY tương đương GNP danh nghĩa. Học thuyết này cho rằng khi tăng
lượng tiền cung ứng thì mức giá cả cũng tăng theo tương ứng, vì V và Y gần
như không đổi trong ngắn hạn. Thực tế, khi cung lượng tiền lưu hành trong
nước tăng do NHTW mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi
mất giá so với ngoại tệ hay do NHTW mua công trái theo yêu cầu của nhà
12
nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên. Khi lượng tiền trong lưu
thông quá lớn thì sự tiêu dùng theo đó mà tăng rất lớn theo xã hội. Áp lực
cung hạn chế dẫn tới tăng giá trên thị trường, và do đó sức ép lạm phát tăng
lên.
1.1.4. Đo lường lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả
hàng hóa của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của
chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ
số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện.
Để đo lường mức giá chung này, các nhà thống kê xây dựng hai chỉ số giá để
đo lường, đó là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hay còng gọi là chỉ số giá
Laspeyres và GDP điều chỉnh (GDP deflator) hay còn gọi là chỉ số giá
Paasche. Sự khác biệt duy nhất giữa hai chỉ số này là quan điểm của rổ hàng
hóa làm trọng số tính toán.
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) : là tỷ số phản ánh giá cả của một rổ hàng
hóa trong nước nhiều năm so với năm gốc. Nghĩa là rổ hàng hóa được lựa
chọn để tính giá là không thay đổi qua nhiều năm. Do đó, CPI có một số
nhược điểm cơ bản sau :
- Thứ nhất, CPI chỉ dựa trên một rổ hàng hóa do đó mức độ bao phủ của
CPI đến tất cả các loại hàng hóa bị hạn chế. Điều này làm cho CPI không
phản ánh hết biến động giá của hàng hóa trên nền kinh tế.
- Thứ hai, trọng số của các hàng hóa trong rổ hàng hóa dựa chủ yếu vào
tỷ phần chi tiêu của một số loại hàng hóa cơ bản của người dân vào năm gốc,
do đó không phản ánh đúng và đầy đủ cơ cấu chi tiêu của toàn xã hội.
- Thứ ba, trọng số của các hàng hóa trong rổ hàng hóa là cố định theo
năm gốc nên không phản ánh được sự biến đổi trong cơ cấu hàng hóa tiêu
dùng theo thời gian.
13
GDP deflator thì ngược lại với CPI, là một tỷ số phản ánh giá của một
rổ hàng hóa trong nhiều năm so với giá của chính rổ đó, mà không so với giá
của năm gốc. Như vậy, rổ hàng hóa được lựa chọn để tính giá là có sự khác
biệt trong giai đoạn tính toán. Về cơ bản, sự khác biệt giữa các rổ hàng hóa
trong các thời điểm tính giá là không nhiều bởi vì cơ cấu tiêu dùng của dân
chúng thường mang tính ổn định trong ngắn hạn. GDP deflator là loại chỉ số
có mức bao phủ rộng nhất, nó bao gồm tất cả hàng hóa và dịch vụ được sản
xuất trong nền kinh tế và trọng số tính toán được điều chỉnh tùy thuộc vào
mức độ đóng góp tương ứng của các loại hàng hóa và dịch vụ vào giá trị gia
tăng. Về khái niệm, đây là chỉ số đại diện tốt nhất cho việc tính toán tỷ lệ lạm
phát trong nền kinh tế. Về mặt thống kê chỉ số này thường được tính toán
chậm hơn so với CPI. Điều này có thể phản ánh trễ diễn biến giá cả của nền
kinh tế vì nó được tính toán căn cứ vào GDP theo giá cố định (thực) và GDP
theo giá gốc hiện hành (danh nghĩa), mà kết quả thống kê của hai loại GDP
này trong nền kinh tế thường được công bố trễ từ một quý đến một năm. Vì
vậy người ta thường dùng chỉ số CPI để đại diện cho lạm phát. Chỉ số giá tiêu
dùng thường được đo lường thông qua công thức sau :
1 0pi 0 0pi
∑ qi *100 CPIt = ∑ qi
Trong đó :
CPIt : Chỉ số giá tiêu dùng năm t
qi
0 : Khối lượng sản phẩm loại i mà một gia đình tiêu dùng ở năm gốc 0 0 : Đơn giá sản phẩm loại i ở năm gốc 1 : Đơn giá sản phẩm loại i ở năm t
pi
pi
(Nguồn : Nguyễn Như Ý& Trần Thị Bích Dung, Kinh tế vĩ mô, 2011, NXB
Tổng hợp TP HCM)
Tóm lại, có nhiều cách để đo lường lạm phát và nó tùy thuộc vào chỉ số
giá chung nào của nền kinh tế được áp dụng. Do đó, việc phân tích lạm phát
14
phải dựa trên nhiều chỉ số đối chứng khác nhau và trong một bối cảnh thời
gian tương đối dài để tránh các nhận định nhất thời.
1.2. Huy động vốn của NHTM
1.2.1. Khái niệm huy động vốn của NHTM
Huy động vốn là hoạt động cơ bản, có tính chất sống còn đối với bất kỳ
một NHTM nào, vì hoạt động này tạo ra nguồn vốn chủ yếu của các NHTM.
Chỉ có các NHTM mới được quyền huy động vốn dưới nhiều hình thức khác
nhau.
Vốn từ huy động là tài sản bằng tiền của các tổ chức và cá nhân mà
ngân hàng đang tạm thời quản lý và sử dụng với trách nhiệm hoàn trả, vốn
huy động là nguồn vốn chủ yếu, nguồn tài nguyên to lớn nhất và quan trọng
của NHTM.
1.2.2. Đặc điểm của huy động vốn
- Huy động đem lại nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng,
nguồn vốn này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM, các
NHTM hoạt động được chủ yếu nhờ vào nguồn vốn này.
- Huy động vốn đem lại nguồn vốn cho ngân hàng, tuy nhiên nguồn vốn
này không ổn định, vì khách hàng có thể rút tiền của họ mà không bị ràng
buộc. Vì vậy, các NHTM phải duy trì một khoản “dự trữ thanh toán” để sẵn
sang đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng.
- Chi phí huy động vốn tương đối cao và chiếm tỷ trọng chi phí đầu vào
rất lớn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM.
- Huy động vốn mang tính cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng.
- Vốn huy động chỉ được sử dụng trong các hoạt động tín dụng và bảo
lãnh, các NHTM không được sử dụng vốn này để đầu tư.
1.2.3. Tầm quan trọng của huy động vốn
1.2.3.1. Đối với nền kinh tế
Tạo ra kênh dẫn nhập vốn quan trọng hàng đầu của kinh tế. Thông qua
huy động vốn của NH, các khoản tiền nhàn rỗi, nhỏ lẻ của đối tượng trong
15
nền kinh tế tập trung thành một khối lượng vốn lớn, sử dụng vốn cho vay đầu
tư sinh lời đáp ứng cho các yêu cầu của nền kinh tế.
Ngân hàng quản lý thu chi tiền cho khách hàng đã góp phần kiểm soát
lạm phát và các hoạt động của nền kinh tế cũng như diễn biến xu hướng biến
động trong nền kinh tế để Nhà nước kịp thời đua ra các giải pháp hợp lý.
Thông qua việc huy động vốn, NHTM cho ra đời các chứng chỉ tiền gởi, kỳ
phiếu, trái phiếu, tạo nên hàng hoá quan trọng trên thị trường tài chính.
1.2.3.2. Đối với khách hàng
Huy động vốn của ngân hàng giúp cho khách hàng thuận lợi thực hiện
tích luỹ để dành các khoản thu nhập nhàn rỗi cho các nhu cầu tài chính trong
tương lai.
Với những hình thức huy động vốn phong phú, khách hàng có thể lựa
chọn dễ dàng một hình thức huy động theo mục đích của mình về lãi suất,
thời hạn, thanh toán…có thể nói đây là hình thức đầu tư an toàn, không thể
thiếu trong danh mục đầu tư của bất kỳ nhà đầu tư trên thị trường tài chính.
Lãi suất NH được coi là thu nhập tối thiểu, là cơ sở để so sánh với thu nhập
của các hình thức đầu tư khác trên thị trường trước khi nhà đầu tư quyết định
lựa chọn hình thức đầu tư hợp lý.
Việc nắm giữ quyền sở hữu các CTCG, sổ tiết kiệm,…ngoài việc được
quyền hưởng lãi, khách hàng còn có thể dễ dàng mua bán, chuyển nhượng các
CTCG trên thị trường, tạo nên tính thanh khoản cao, thuận lợi cho người sử
dụng nó. Nhờ vậy khách hàng có thể dễ dàng chuyển đổi các tài sản này thành
tiền mặt bất cứ lúc nào bằng cách cầm cố, chiết khấu cho NHTM, hoặc bán lại
trên thị trường tiền tệ.
Nghiệp vụ huy động vốn của NHTM tạo điều kiện thuận lợi cho khách
hàng có thể tiếp cận các tiện ích, dịch vụ của ngân hàng, đáp ứng yêu cầu
nhanh chóng của các quan hệ giao dịch hàng ngày.
16
1.2.3.3. Đối với NHTM
Huy động vốn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tài sản nợ của NHTM, tạo
nên nguồn vốn quan trọng của ngân hàng, quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn, NHTM hình thành
nguồn vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh, thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, đầu
tư, kinh doanh, thanh toán,…tạo ra lợi nhuận cho NHTM, đảm bảo cho sự
phát triển vững mạnh của NHTM.
Huy động vốn là cơ sở để NH thu hút khách hàng đến giao dịch góp
phần nâng cao uy tín và thương hiệu của NH.
1.2.4. Các hình thức huy động vốn
Một trong những hoạt động chủ yếu nhất của NHTM là huy động vốn
để cấp tín dụng, các hình thức huy động vốn của NHTM được tóm tắt bằng sơ
đồ sau :
1.2.4.1. Nhận tiền gửi
Tiền gửi không kỳ hạn (Non term deposit)
Tiền gửi không kỳ hạn là hình thức tiền gửi mà khách hàng gửi vào
NHTM với mục đích để được NH thanh toán và thu chi hộ theo yêu cầu của
khách hàng. Tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là tiển gửi giao dịch, tiền
gửi thanh toán.
Với loại tiền gửi này, khách hàng được phép rút ra bất cứ lúc nào hoặc
có thể yêu cầu NH thực hiện thanh toán mà không hạn chế số lần giao dịch.
Tuy nhiên tại một thời điểm nhất định khách hàng vẫn luôn duy trì số dư tiền
gửi nhất định, nên NHTM có thể sử dụng nguồn vốn này cấp tín dụng ngắn
hạn.
Do số dư thường xuyên biến động, để đảm bảo an toàn thì NHTM thực
hiện dự trữ bắt buộc với tỷ lệ cao hơn so với các loại tiền gửi khác.
Đây là nguồn vốn tiềm năng có quy mô lớn mà chi phí huy động vốn
thấp nhất, gắn liền và liên quan đến hầu hết mọi hoạt động giao dịch của NH.
17
Tiền gửi có kỳ hạn (Forward deposit, term deposit)
Tiền gửi có kỳ hạn (tiền gửi định kỳ) là hình thức tiền gửi huy động các
khoản tiền để dành tạm thời chưa sử dụng mà khi gửi vào khách hàng chỉ
được rút ra sau một khoản thời gian nhất định.
Đây là nguồn vốn tương đối ổn định, xác định kỳ hạn cụ thể nên có thể được
sử dụng không chỉ để cấp tín dụng ngắn hạn mà còn có thể sử dụng để cấp tín
dụng trung dài hạn.
Mục đích gửi tiền là hưởng lãi nên khách hàng có xu hướng chung
chọn ngân hàng có lãi suất cao. Với lý do đó, các NHTM thường sử dụng
công cụ lãi suất để huy động nguồn vốn này. Ngoài mục đích hưởng lãi,
khách hàng còn gửi vào với mục đích dự phòng cho tương lai và an toàn về
tài sản.
Tiền gửi này có những tiện ích như là khách hàng được rút trước hạn
dưới hình thức tiền mặt hay thanh toán chuyển khoản, cầm cố vay hoặc chiết
khấu tại các NHTM, chứng minh năng lực tài chính, hoặc có thể chuyển sang
các hình thức tiền gửi khác, tuỳ theo quy định của từng NHTM.
Tiền gửi tiết kiệm (Saving deposit, thrift deposit)
Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động vốn chủ yếu khoản tiền để
dành của cá nhân với mục đích sinh lời và an toàn về tài khoản. Tiền gửi tiết
kiệm bao gồm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn (Non term saving deposit) là hình thức
tiền gửi mà người gửi được rút tiền ra bất cứ lúc nào bằng tiền mặt hay thanh
toán chuyển khoản.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn (Term saving deposit) là hình thức tiền gửi
tiết kiệm mà người gửi chỉ được rút ra sau một kỳ hạn nhất định. Loại tiền
này thường là tiền tạm thời nhàn rỗi trong một thời gian nhất định, do đó loại
tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn thường chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn
vốn huy động của NHTM và mang tính ổn định hơn tiền gửi thanh toán. Với
18
hình thức tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, NH có thể sử dụng để cho vay ngắn,
trung và dài hạn.
Tiền gửi khác
Ngoài các hình thức tiền gửi nêu trên, hiện nay các NHTM còn có tiền
gửi ký quỹ L/C, tiền gửi đặc cọc, tiền gửi séc bảo chi…Đây là tiền gửi của
khách hàng gắn liền với các nghiệp vụ khác của NH.
1.2.4.2. Phát hành giấy tờ có giá
Chứng từ có giá là giấy chứng nhận do NHTM phát hành để huy động
vốn, xác nhận nghĩa vụ trả nợ một số tiền trong một khoảng thời hạn nhất
định với điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết giữa NHTM với người
mua chứng từ có giá.
Các NHTM có thể phát hành chứng từ trực tiếp hay thông qua tổ chức
bảo lãnh phát hành. Đối tượng mua chứng từ có giá là tổ chức, cá nhân hoặc
doanh nghiệp.
1.2.4.3. Đi vay
Trong trường hợp thiếu vốn, NH chủ động đi vay trên thị trường nhằm
đảm bảo thanh khoản. Các NHTM có thể vay từ các nguồn sau :
Vay NHTM: Đây là khoản vay trực tiếp các NH khác hay thông qua thị
trường liên ngân hàng với mục đích đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn. Với
nguồn vốn này NH có thể phải chấp nhận chi phí cao hơn vốn huy động, vì
vậy chỉ trong trường hợp NH thiếu hụt vốn khả dụng trong thời gian ngắn thì
NH vay các NHTM khác để thoả mãn nhu cầu vốn khả dụng. Nếu NHTM
không thoả mãn được nhu cầu đó từ phía các NHTM khác thì vay NHTW
Vay NHTW: khi NHTM xảy ra tình trạng thiếu hụt vốn thì có thể vay
NHTW dưới hình thức tái cấp vốn. Đây là nguồn vốn mà NHTM có được
thông qua quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHTW tuỳ theo tình hình thực
thi chính sách tiền tệ thắt chặt hay mở rộng. NHTW thông qua nhu cầu vay
vốn của NHTM, NHTW phát hành thêm tiền vào lưu thông, bổ sung vốn khả
dụng cho NHTM.
19
1.2.5. Nguyên tắc huy động vốn
Tuân thủ pháp luật trong huy động vốn: Khi huy động vốn NHTM phải
hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng vô điều kiện; tham gia bảo hiểm tiền gửi
theo quy định hiện hành; giữ gìn bí mật số dư và hoạt động của tài khoản
khách hàng; không được che giấu các khoản tiền lớn và bất thường; không
được cạnh tranh bất hợp lý như đưa thông tin giả, khuyến mãi bất hợp
pháp,…
Thỏa mãn yêu cầu kinh doanh với chi phí thấp nhất, NHTM phải áp
dụng nhiều phương thức huy động vốn cùng với kết hợp chặt chẽ giữa huy
động vốn với hiện đại hóa dịch vụ ngân hàng, và đa dạng hóa phương thức trả
lãi đi đôi với dự thưởng để thu hút khách hàng.
Ngăn ngừa sự giảm sút bất thường của nguồn vốn huy động : bằng các
tạo uy tín cho khách hàng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu rút tiền trong mọi tình
huống, ngăn chặn phao tin đồn nhảm và có phương án đáp ứng nhu cầu thanh
khoản kịp thời khi có sự cố xảy ra.
1.3. Tác động lạm phát ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTM
1.3.1. Các nhân tố của lạm phát tác động đến huy động vốn của NHTM
1.3.1.1. Nhân tố giá cả
Tình trạng phát triển của nền kinh tế là một yếu tố vĩ mô có tác động
trực tiếp đến mọi hoạt động của NHTM, trong đó có huy động vốn. Trong
điều kiện nền kinh tế phát triển ổn định, thu nhập dân cư được đảm bảo và ổn
định thì nguồn tiền vào ra của các NHTM cũng ổn định, số vốn huy động
được của NHTM ngày càng tăng lên và cơ hội đầu tư cho vay của NHTM
cũng được mở rộng do lòng tin của các nhà đầu tư vào nền kinh tế được đảm
bảo.
Nếu nền kinh tế phát triển quá nóng, lạm phát tăng lên, điều đó đồng
nghĩa với việc giá cả hàng hóa dịch vụ cũng tăng lên, thì lúc này với mức thu
nhập như trước hoặc thậm chí giảm do các doanh nghiệp sa thải bớt lao động
các cá nhân sẽ không đủ tiền sài, dẫn đến cũng không có khoản tiền nhàn rỗi
20
gửi ngân hàng. Còn đối với các doanh nghiệp, trong thời kỳ lạm phát cao, để
cắt giảm chi phí các doanh nghiệp thường thanh toán cho nhau bằng tiền mặt
nên việc huy động tiền gửi không kỳ hạn của các ngân hàng cũng gặp khó
khăn.
Hơn thế nữa, lạm phát làm cho đồng tiền mất giá, người dân sẽ không
gửi tiền vào ngân hàng, mà dùng tiền để mua hàng hóa có giá trị để cất trữ
như vàng, bất động sản,… khi đó khả năng huy động vốn của ngân hàng
không những bị giảm xuống mà lượng tiền dân cư đã ký gửi vào NHTM cũng
có nguy cơ bị rút ra. Và như vậy NHTM sẽ gặp khó khăn trong công tác huy
động vốn, quản lý dự trữ, và cấp tín dụng.
1.3.1.2. Nhân tố tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ
và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định.
Xem xét về mặt lý thuyết, lạm phát vừa có tác động tích cực và thiếu
tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Một tỷ lệ lạm phát thấp có tác dụng thúc đẩy
tăng trưởng. Theo nghiên cứu của Tobin (1965), Mundell (1965) mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng là tỷ lệ thuận. Các nghiên cứu này cũng trùng
với quan điểm của trường phái Keynes và trường phái tiền tệ khi cho rằng
trong ngắn hạn, các chính sách nhằm hỗ trợ tăng trưởng của Chính phủ sẻ làm
gia tăng lạm phát. Tuy nhiên, tỷ lệ lạm phát cao sẽ tác động tiêu cực lên tăng
trưởng.
Một số nghiên cúu của Rscher (1993), Barro (1995), Bruno và Easterly
(1998) đều chỉ ra mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát mang dấu âm.
Còn nghiên cứu của Khan và Senhadji (2001) ở 140 nuớc giai đoạn 1960 -
1998 đã tìm thấy “ngưỡng” lạm phát từ 11-12% đối với các nước đang phát
triển và khoảng 1-3% đối với các nước công nghiệp. Nếu nền kính tế ở dưới
ngưỡng này, mối quan hệ tăng trưởng - lạm phát mang dấu dương và ngược
lại.
21
Thực tế ở Việt Nam, mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng cũng
phù hợp về mặt lý thuyết. Với mức lạm phát cao thì lạm phát tác động tiêu
cực đến tăng trưởng (giai đoạn trước 1992). Còn nền kinh tế duy trì một tỷ lệ
lạm phát thấp có tác dụng hỗ trợ tăng trưởng (giai đoạn 1992 - 2007).
Như vậy khi lạm phát tăng cao sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế bị
giảm sút, từ đó gây giảm sút tổng cầu, thu nhập thực bình quân đầu người
giảm, gia tăng thất nghiệp, nó gây ra sự bất ổn cho môi trường kinh tế xã hội,
làm thông tin trong nền kinh tế bị bóp méo, khiến các quyết định đầu tư, tiêu
dùng, tiết kiệm trở nên khó khăn hơn; lạm phát được xem như một loại thuế
đánh vào nền kinh tế, và khi đó việc huy động vốn của các ngân hàng thương
mại sẽ trở nên khó khăn hơn rất nhiều.
1.3.1.3. Nhân tố lãi suất
Chính sách tiền tệ thông qua các công cụ của mình và qua các kênh
truyền dẫn, để tác động đến mức sản lượng và giá cả trong nền kinh tế. Tại
hầu hết các công nghiệp có thị trường tài chính phát triển, đặc biệt là tại các
nước theo đuổi khuôn khổ mục tiêu lạm phát, công cụ phổ biến của chính
sách tiền tệ là lãi suất. Việc thay đổi lãi suất điều hành của ngân hàng trung
ương sẽ tác động đến sản lượng và giá cả theo bốn kênh chủ yếu : lãi suất thị
trường, tín dụng, giá tài sản và tỷ giá.
Lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động
làm thay đổi hành vi sản xuất tiêu dùng của xã hội. Một sự gia tăng về lãi suất
làm giảm sức hấp dẫn trong việc chi tiêu hiện tại hơn là chi tiêu trong tương
lai của các nhân và công ty, tín dụng trong nước, tổng lượng tiền và cầu thực
tế đều giảm. Ngược lại khi lãi suất giảm xuống sẽ có tác động ngược lại. Như
vậy sự thay đổi của lãi suất thực sẽ có tác động nhạy cảm đến sản lượng và
giá cả. Vì vậy, NHTW rất coi trọng việc điều tiết lãi suất nhằm đạt được mục
tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là kiềm chế lạm phát và góp phần tăng
trưởng kinh tế.
22
Các loại lãi suất của chính sách tiền tệ có : lãi suất cơ bản, lãi suất tái
cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu.
Lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền
tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong ngắn hạn. Theo Luật Ngân hàng
Nhà nước, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho Đồng Việt Nam, do Ngân hàng
Nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh
doanh. Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên
ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất
huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung-cầu vốn.
Theo Luật Dân sự, các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao
gấp rưỡi lãi suất cơ bản.
Tuy được nhắc đến trong Luật Ngân hàng Nhà nước và luật này có hiệu
lực từ ngày 1 tháng 10 năm 1998, song lãi suất cơ bản chỉ được công bố lần
đầu vào ngày 30 tháng 5 năm 2000. Trong lần đầu được công bố, lãi suất cơ
bản ở mức 7,2%/năm. Vào thời điểm tháng 6 năm 2008, lãi suất cơ bản là
14%/năm. Điều này có nghĩa là các tổ chức tín dụng có thể quyết định mức lãi
suất cho vay của mình cao tới 21%/năm.
Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương
nước ngoài tương tự như lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
là Fed Funds Rate của Hoa Kỳ, London Interbank Offered Rate (LIBOR)
của Anh, Tokyo Inter-Bank Offered Rate (TIBOR) của Nhật Bản, Euro
Interbank Offered Rate của Liên minh châu Âu. Các lãi suất trên đôi khi cũng
được dịch sang tiếng Việt là lãi suất cơ bản.
Lãi suất tái chiết khấu : là lãi suất thực hiện trên cơ sở đối tượng là
các giấy tờ có giá. VD: Hối phiếu, lệnh phiếu, trái phiếu, ...Các ngân hàng sẽ
chấp nhận trả tiền cho người cầm (hoặc sở hữu các giấy đó để đổi lại một
khoản lời mà ta gọi là lãi suất chiết khấu và thu lại khoản tiền của họ đối với
người thanh toán ghi trên đó khi đến hạn. Các ngân hàng này lại cần tiền
nhưng các giấy tờ đó chưa đến hạn thanh toán họ bán lại các khoản sẽ thu này
23
cho NH TW để đổi lấy tiền mặt và bớt lại cho NHTW một khoản, ta gọi đó là
lãi suất tái chiết khấu.
Lãi suất tái cấp vốn cũng gần giống như vậy nhưng đối tượng ở đây là
các khoản cho vay của các NHTM, và sau đó họ bán lại các khoản này cho
NHTW để đổi lấy lương tiền mặt.
Trong phạm vi nghiên cứu của bài, tác giả sử dụng lãi suất tái cấp vốn
để nghiên cứu các nhân tố của lạm phát ảnh hưởng huy động vốn của NHTM,
vì những nhược điểm của lãi suất cơ bản và vì ở thị trường Việt Nam lãi suất
cơ bản gần như không tồn tại.
Khi lạm phát tăng lên, NHTW thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt
bằng cách tăng lãi suất tái cấp vốn lên nhằm mục đích hạn chế việc đi vay của
các NHTM, từ đó hạn chế việc tạo tiền của NHTM, tiền ra lưu thông sẽ được
hạn chế. Khi NHTW tăng lãi suất lên, lãi suất trên thị trường cũng có xu
hướng tăng lên. Lúc này các NHTM vì muốn huy động được vốn, thu hút hút
khách hàng gửi tiền và để cạnh tranh với các kênh đầu tư khác đã tăng lãi suất
tiền gửi lên, từ đó huy động vốn của NHTM có thể sẽ được tăng lên.
1.3.1.4. Nhân tố tỷ giá
Tỷ giá hối đoái thường gọi tắt là tỷ giá, là sự so sánh về mặt giá cả giữa
hai đồng tiền của hai nước khác nhau. Cũng có thể gọi tỷ giá hối đoái là giá
của một đồng tiền này tính bằng giá của một đồng tiền khác.
Xét về mặt lý thuyết, nếu các yếu tố khác như nhau, khi tỷ lệ lạm phát
của một nước tăng tương đối so với lạm phát của một nước khác, mức cầu
đồng tiền nước đó giảm do xuất khẩu giảm vì giá cao hơn so với nước kia.
Ngoài ra, người tiêu dùng và các doanh nghiệp trong nước có lạm phát cao có
xu hướng tăng nhập khẩu. Cả hai yếu tố này tạo áp lực giảm giá đồng tiền của
nước có lạm phát cao. Tỷ lệ lạm phát thường khác nhau giữa các quốc gia, tạo
nên các kiểu mậu dịch quốc tế để điều chỉnh thích hợp ảnh hưởng của lạm
phát đến tỷ giá hối đoái.
24
Bởi vì tỷ giá hối đoái cân bằng sẽ thay đổi theo thời gian khi cung-cầu
các đồng tiền thay đổi. Sự thay đổi trong tỷ lệ lạm phát tương đối sẽ ảnh
hưởng đến các hoạt động thương mại, từ đó tác động đến cung-cầu tiền, và vì
thế tác động đến tỷ giá hối đoái.
Ví dụ: Trong năm 2008 tỷ lệ lạm phát của Việt Nam rất cao so với các
năm trước đó trong khi tỷ lệ lạm phát của Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan… và
một số nước vẫn ở mức bình thường, do đó trong năm 2008 nhu cầu nhập
khẩu của Việt Nam tăng cao dẫn tới nhu cầu USD tăng làm cho tỷ giá
USD/VND tăng cao.
Tác động lạm phát đến tỷ giá ảnh hưởng đến mọi hoạt động của nền
kinh tế, trong đó có việc tạo vốn của ngân hàng. Khi tỷ giá tăng lên, tức là
đồng Việt Nam mất giá dân chúng không muốn giữ đồng nội tệ mà chuyển
sang cất giữ đồng ngoại tệ và vàng, vì vậy huy động vốn nội tệ trong dân cư
sẽ giảm.
1.3.2. Kết quả tác động lạm phát ảnh hưởng đến huy động vốn của NH
Tỷ lệ lạm phát cao đưa đến rất nhiều tác hại đối với đời sống xã hội và
điều hành kinh tế. Việc huy động vốn của NHTM bình thường đã chịu ảnh
hưởng rất nhiều bởi sức ép cạnh tranh gay gắt của các kênh huy động khác,
nay chịu thêm tác động của tỷ lệ lạm phát cao khiến cho hoạt động này ngày
càng trở nên khó khăn.
Hệ thống ngân hàng thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, do vậy
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là huy động vốn để cho vay. Để đảm bảo
hiệu quả cho việc kinh doanh này, các ngân hàng luôn phải cố gắng duy trì
một mức lãi suất thực dương và ổn định. Tuy nhiên khi lạm phát gia tăng, lãi
suất thực giảm, thậm chí âm. Do vậy, tình thế buộc các ngân hàng muốn huy
động được vốn để kinh doanh phải điều chỉnh gia tăng lãi suất danh nghĩa cho
phù hợp với tình trạnh lạm phát. Ngoài việc tăng lãi suất huy động, các
NHTM thường dùng một số biện pháp khác như tăng cường khuyến mãi,
25
quảng cáo, tặng quà, rút thăm trúng thưởng,…tất cả những hành động này làm
tăng chi phí huy động vốn của NHTM lên.
Trong thời kỳ lạm phát tăng cao, dưới tác động tiêu cực của lạm phát
đã làm tăng chi phí huy động của các ngân hàng lên cao, đồng thời làm giảm
khả năng huy động vốn của ngân hàng, vì các nguyên nhân cơ bản sau :
Do tâm lý lo sợ trước tình hình lạm phát tăng cao, đồng tiền mất giá
nên người dân có xu hướng tìm đến các kênh đầu tư an toàn hơn như mua
vàng và ngoại tệ, thay vì gửi tiền nhàn rỗi vào Ngân hàng như trước đây, từ
đó làm giảm khả năng huy động vốn của các Ngân hàng.
Giá cả các mặt hàng thiết yếu trong sản xuất và tiêu dùng tăng cao làm
cho người dân và các doanh nghiệp sẽ phải chi tiêu nhiều hơn, dẫn đến nguồn
tiền nhàn rỗi trong dân cư và doanh nghiệp giảm đi, trong điều kiện đó, các
Ngân hàng khó có thể gia tăng được nguồn tiền huy động.
Khi lạm phát tăng cao, mặc dù mặt bằng lãi suất huy động của các
Ngân hàng cũng đã tăng theo nhưng nếu vẫn chưa thể ngang bằng với tốc độ
trượt giá, thì người gửi tiền vào Ngân hàng phải chịu thiệt hại do lãi suất thực
âm, từ đó không khuyến khích các dòng vốn chảy vào Ngân hàng.
26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 đã hệ thống khái quát về lạm phát, về huy động vốn của
NHTM, qua đó làm nổi bật được tác động lạm phát ảnh hưởng đến huy động
vốn của các NHTM. Đây chính là cơ sở lý thuyết quan trọng làm căn cứ đánh
giá tình hình lạm phát, huy động vốn, cũng như tác động lạm phát ảnh hưởng
đến huy động vốn của ngân hàng TMCP sẽ được trình bày trong chương 2.
27
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG LẠM PHÁT ẢNH HƯỞNG
ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTMCP VN
2.1. Diễn biến lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007 – 2012
Sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á vào năm 1997, chính sách tiền
tệ và chính sách tài khóa mở rộng đã được sử dụng để khôi phục đà tăng
trưởng kinh tế, hạn chế tình trạng giảm phát thông qua chính sách kích cầu
kéo dài từ năm 1997 đến năm 2003. Kết quả là Việt Nam đã đạt được tăng
trưởng ở mức cao qua nhiều năm, năm 2007 tăng trưởng GDP ở mức 8,46%,
tỷ lệ lạm phát là 12,75%. Giai đoạn lạm phát bùng nổ vào năm 2008 như là
kết quả tất yếu của chính sách kích cầu trước đó, kết quả là lạm phát năm
2008 tăng cao ở mức 19,87%. Sang năm 2009 nền kinh tế trong nước có dấu
hiệu suy thoái cộng với ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm
2008 đã làm cho lạm phát giảm xuống ở mức 6,52%. Tuy nhiên đến năm
2010, lạm phát có dấu hiệu tăng trở lại và ở mức 17,75%, nguyên nhân chủ
yếu là do các gói hỗ trợ mở rộng cung tiền, các biện pháp mở rộng chi tiêu và
đầu tư của Chính phủ giai đoạn cuối năm 2008 và năm 2009 đã phát huy tác
dụng. Với chính sách tài khóa mở rộng nhằm kích thích tăng trưởng suốt năm
2010 và các giải pháp nới rộng cung tiền các tháng cuối năm 2010 nên đã đẩy
lạm phát năm 2011 lên mức 18,13%. Năm 2012, theo số liệu của Ngân hàng
Nhà nước, nhờ thực hiện quyết liệt và đồng bộ hàng loạt giải pháp, tốc độ
tăng trưởng cung tiền cả năm chỉ khoảng 20% và tín dụng chỉ tăng khoảng
7%, nên lạm phát đã giảm mạnh đáng kể so với năm 2011.
28
Đồ thị 2.1 : Diễn biến lạm phát ở VN giai đoạn 2007 - 2012
Lạm phát (%)
25
20
19.87
18.13
17.75
15
12.75
Lạm phát (%)
10
6.81
6.52
5
0
2007
2008
2009
2010
2011
2012
(http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=413&thangtk)
Một cách tổng quát, có rất nhiều nguyên nhân gây áp lực tạo nên lạm
phát cao. Trong đó, có những nguyên nhân chủ quan xuất phát từ tiền tệ, tín
dụng, tài khóa, những xuất phát từ cơ cấu nền kinh tế và hiệu quả đầu tư;
cùng những nguyên nhân khách quan, như: xu thế giá cả hàng hóa thế giới
ngày càng tăng cao; sự tăng lên của chi phí sản xuất; sự tăng giá của các mặt
hàng chủ chốt và dịch vụ thiết yếu...
(1) Tiền tệ, tín dụng: Cung tiền trong những năm qua có sự nới lỏng
quá mức là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát cao ở nước
ta. Nếu như năm 2000 tổng phương tiện thanh toán (M2) của Việt Nam chỉ ở
mức dưới 60% GDP, thì đến cuối năm 2010 đã lên đến trên 130% GDP (tổng
dư nợ tín dụng trên 110% GDP).
Tốc độ tăng cung tiền cao hơn tốc độ tăng GDP theo giá thực tế đã tồn
tại trong thời gian dài. Vào năm 2007, tốc độ tăng trưởng M2 là 43,7%, tín
dụng là 53,9%; mức tăng kỷ lục này là một trong những nguyên nhân quan
trọng gây ra lạm phát cao vào năm 2008. Đến năm 2009 và 2010, tăng trưởng
29
M2 và tín dụng lại tăng lên mức khoảng 30%/năm, đã dẫn đến lạm phát năm
2010 và 2011 lại bị đẩy lên cao.
Trong năm 2011, lạm phát mục tiêu đề ra nhỏ hơn 7%/năm, thấp hơn
nhiều so với mức lạm phát thực tế bình quân của 3 năm trước đó (2008-2010)
là 12,73%. Để đạt được mục tiêu này, Ngân hàng Nhà nước bắt buộc phải cắt
giảm cung tiền (M2 còn 12,4%) và giảm tăng trưởng tín dụng đột ngột (còn
14,4%), gây ra những hệ quả không mong muốn, như: lãi suất cho vay và nợ
xấu tăng cao, thanh khoản căng thẳng…, nhưng lạm phát vẫn ở mức quá cao
18,13%.
Nguyên nhân của mức lạm phát năm 2011 quá cao so với mục tiêu đề
ra là do những hệ quả của việc mở rộng cung tiền quá mức và tăng trưởng tín
dụng quá “nóng” trong giai đoạn trước đó (trung bình cung tiền M2 và tín
dụng tăng 31,17%/năm và 35,17%/năm trong giai đoạn 2004-2010).
Năm 2012, theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, nhờ thực hiện quyết
liệt và đồng bộ hàng loạt giải pháp, tốc độ tăng trưởng M2 cả năm chỉ khoảng
20% và tín dụng chỉ tăng khoảng 7%, nên lạm phát đã giảm mạnh đáng kể so
với năm 2011.
(2)“Chi phí đẩy”: Chi phí sản xuất, cùng giá cả hàng hóa tăng trong
thời gian qua cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tăng giá thành và
giá bán sản phẩm, từ đó gây ra lạm phát cao ở nước ta (nguyên nhân do "chi
phí đẩy"). Năm 2011, chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất
tăng bình quân 21,3% so với cùng kỳ năm 2010, cao hơn so với tốc độ tăng
CPI. Chi phí sản xuất tăng một phần là do việc tăng giá điện, than, xăng dầu
theo lộ trình, mặt khác do giá hàng hóa nhập khẩu vào nước ta tăng trong các
năm gần đây.
Lãi suất vốn vay ở mức cao, nhất là trong năm 2011, cũng làm tăng giá
thành sản phẩm và gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của
nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
30
Năm 2013, việc nới lỏng hơn về tiền tệ, tài khóa để thúc đẩy tăng
trưởng trong nửa cuối năm 2012, và sẽ tiếp tục trong năm 2013 chắc chắn
cũng sẽ tạo nhiều áp lực lên lạm phát. Đặc biệt, để tháo gỡ khó khăn cho sản
xuất, kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu, Chính phủ sẽ có nhiều
chính sách giảm lãi suất, ưu đãi thuế cho một số lĩnh vực ưu tiên. Nếu không
kiểm soát tốt, những chính sách này sẽ có những “tác dụng phụ”, tác động xấu
đến mục tiêu kiềm chế lạm phát.
“Chúng ta đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng từ năm 2012, nhưng
không tác động nhiều đến tăng tổng cầu và tăng trưởng kinh tế. Nếu tiếp tục
nới lỏng sẽ gây lạm phát”, TS. Nguyễn Đức Thành cảnh báo.
(3) Do chính sách tài khóa: Việc thực hiện chính sách kích cầu để ngăn
chặn suy giảm kinh tế vào năm 2009 đã gây áp lực đến mặt bằng giá (nguyên
nhân do "cầu kéo"). Đồng thời bội chi ngân sách các năm từ năm 2006-2010
đều ở mức trên 5% GDP (trừ năm 2008 đạt 4,6%), cá biệt năm 2009 lên đến
6,9% và năm 2010 là 5,6%. Tuy nhiên, nếu tính cả trái phiếu chính phủ, thì tỷ
lệ bội chi còn cao hơn.
Năm 2011 và năm 2012, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện quyết liệt các
giải pháp tiết kiệm chi thường xuyên, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi
NSNN (xuống 4,9% vào năm 2011; 4,8% vào năm 2012) và giảm nợ công để
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội (Nghị quyết
số 11/NQ-CP và các Nghị quyết khác của Chính phủ). Việc thực hiện các giải
pháp này đang thu được những kết quả bước đầu trong kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô ở nước ta.
(4) Nguyên nhân về cơ cấu kinh tế, cơ cấu và hiệu quả đầu tư: Theo
các chuyên gia kinh tế, đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến mất ổn định
các cân đối vĩ mô và đẩy lạm phát tăng cao trong thời gian vừa qua.
Những yếu kém trong nội tại nền kinh tế là: cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu
tư bất hợp lý và kém hiệu quả, kéo dài, tích tụ trong nhiều thời kỳ, chậm được
đổi mới. Nền kinh tế phát triển theo chiều rộng và dựa nhiều vào tăng vốn đầu
31
tư; công nghệ lạc hậu, năng suất thấp. Cơ cấu ngành, lĩnh vực chậm được
chuyển đổi; tình trạng gia công kéo dài quá lâu, công nghiệp phụ trợ chậm
phát triển, hàng hóa xuất khẩu chủ yếu dựa vào nguyên vật liệu nhập khẩu từ
bên ngoài.
Bên cạnh đó, việc điều chỉnh giảm giá trị tiền nội tệ để khuyến khích
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu cũng phần nào làm tăng giá thành sản xuất, đẩy
giá bán lẻ tăng cao. Sự mất cân đối về cán cân thương mại cũng gây thiếu hụt
ngoại tệ, tác động đến giá cả, lạm phát trong nước.
2.2. Tình hình hoạt động của NHTMCP VN.
Để nghiên cứu tác động lạm phát ảnh hưởng đến huy động vốn của
NHTM, tác giả đi vào tìm hiểu và phân tích trên 12 ngân hàng TMCP VN,
gồm 4 ngân hàng có quy mô lớn, 4 ngân hàng có quy mô trung bình, 4 ngân
hàng có quy mô nhỏ.
Nhóm 1 : Các ngân hàng có qui mô lớn, tức có tổng tài sản trên
150.000 tỷ đồng. Nhóm này gồm các ngân hàng ACB, BIDV, CTG và VCB.
- Nhóm 2 : Các ngân hàng có qui mô trung bình, tức có tổng tài sản từ
60.000 – 150.000 tỷ đồng. Nhóm này gồm các ngân hàng DCB, SEAB, SHB
và VIB.
- Nhóm 3 : Các ngân hàng có qui mô nhỏ, tức có tổng tài sản từ 60.000
tỷ đồng trở xuống. Thuộc nhóm này có các ngân hàng ABB, GDB, HDB và
PGB.
Tình hình hoạt động của một số ngân hàng TMCP trên địa bàn TP
HCM sẽ được tác giả phân tích qua một số các chỉ tiêu như tổng tài, huy động
vốn và mạng lưới hoạt.
2.2.1. Tổng tài sản
Ngân hàng nhóm 1 : CTG dẫn đầu về qui mô tổng tài sản. BIDV,
VCB và ACB lần lượt giữ vị trí thứ 2, 3 và 4. Năm 2012 tổng tài sản của CTG
đạt 503.530 tỷ đồng, đứng thứ 2, tăng 9,4% so với năm 2011, trở thành ngân
hàng có quy mô tài sản lớn thứ 2 trên thị trường ngân hàng Việt Nam. Bên
32
cạnh đó ngân hàng có tổng tài sản thấp nhất nhóm là ngân hàng ACB. Tổng
tài sản đạt 176.308 tỷ đồng, giảm 37% so với năm 2011. Tổng tài sản giảm là
do giảm nguồn vốn huy động vàng theo chủ trương của NHNN, ngoài ra còn
có nguyên nhân là tín nhiệm của ngân hàng ACB giảm do khoản nợ hơn
7.400 tỷ đồng cho 6 công ty bầu Kiên vay, nên người dân hạn chế gửi tiền vào
ACB, và thậm chí khách hàng đã rút tiền ra rất nhiều.
600000
500000
400000
300000
Tài sản (tỷ đồng)
200000
100000
0
CTG BIDV VCB ACB SHB SEAB VIB DCB HDB ABB GDB PGB
Đồ thị 2.2 : Tổng tài sản của 12 NHTMCP VN
(Nguồn : Báo cáo tài chính của 12 NHTMCP VN, ngày 31/12/2012 )
Ngân hàng nhóm 2 : SHB dẫn đầu nhóm này với tổng tài sản đạt
116.538 tỷ đồng. Theo sau là SEAB đạt 75.067 tỷ đồng, VIB đạt 65.023 tỷ
đồng, và DCB đạt 64.462 tỷ đồng.
Ngân hàng nhóm 3 : Với tổng tài sản đạt 52.783 tỷ đồng, HDB đứng
đầu nhóm 3, theo sau lần lượt là ABB, GDB, cuối cùng là PGB, tổng tài sản
chỉ đạt 19.250 tỷ đồng.
2.2.2. Huy động vốn
Ngân hàng nhóm 1 : CTG tiếp tục đứng đầu nhóm 1 về huy động vốn:
Huy động vốn bằng VND của CTG chiếm tỷ trọng 81% trong tổng nguồn
vốn. Thị phần nguồn vốn của CTG chiếm khoảng 12% nguồn vốn toàn ngành.
Vietinbank là ngân hàng dẫn đầu trong việc khai thác các nguồn vốn quốc tế.
33
Tổ chức xuất bản tin tức tài chính – ngân hàng uy tín hàng đầu Châu Á
(FinanceAsia) bình chọn Vietinbank là ngân hàng huy động vốn hiệu quả nhất
VN xuất phát từ nhiều yếu tố, trong đó có việc phát hành thành công 250 triệu
USD trái phiếu Quốc tế vào tháng 5/2012, thể hiện tín nhiệm của nhà đầu tư
Quốc tế đối với triển vọng phát triển của Vietinbank.
Bên cạnh đó huy động vốn của ACB cũng là thấp nhất trong nhóm, tính
đến ngày 31/12/2012 huy động vốn đã giảm so với năm 2011 là 73.717 tỷ
đồng, tương đương 31,64%, huy động vốn giảm mạnh là sự cố rút tiền xảy ra
trong tuần cuối tháng 8/2012.
500000
450000
400000
350000
300000
250000
HĐV (tỷ đồng)
200000
150000
100000
50000
0
CTG BIDV VCB ACB SHB SEAB DCB VIB HDB ABB GDB PGB
Đồ thị 2.3 : Huy động vốn của 12 NHTMCP VN
(Nguồn : Báo cáo tài chính của 12 NHTMCP VN, ngày 31/12/2012)
Ngân hàng nhóm 2 và 3: SHB dẫn đầu nhóm về huy động vốn với
doanh số huy động là 104.131 tỷ đồng, theo sau lần lượt là các ngân hàng
SEAB, DCB, VIB, HDB, ABB, GDB VÀ PGB. Nhìn chung về huy động vốn
của các ngân hàng đều tăng hơn so với năm 2011 là do lạm phát giảm xuống
còn một con số, cung ứng tiền (M2) tăng trưởng ở mức 22,4% hơn so với năm
2011 là 12,4%.
34
2.2.3. Mạng lưới hoạt động
Nhóm 1 : CTG đứng đầu về mạng lưới hoạt động với 1.100 điểm giao
dịch, theo sau là BIDV với 629 điểm giao dịch, VCB với 328 điểm giao dịch,
và ACB với 325 điểm giao dịch. Trong đó CTG, BIDV và VCB đều có công
ty con hoặc văn phòng đại diện tại thị trường nước ngoài.
Nhóm 2 và 3 : Mạng lưới hoạt động của các ngân hàng nhóm này hạn
chế hơn hẳn so với nhóm 1, do phụ thuộc một phần vào qui mô tài sản. Theo
đó, chỉ có 4 ngân hàng có trên 100 chi nhánh, phòng giao dịch, bao gồm VIB
(158 ĐGD), SHB (128), HDB (119) và DCB (100). Mạng lưới của các ngân
hàng còn lại trong nhóm đều dưới 100 điểm.
Từ phân tích huy động vốn và mạng lưới hoạt động của các ngân hàng,
ta thấy rằng ngân hàng nào có mạng lưới hoạt động nhiều thì sẽ dễ huy động
vốn hơn.
2.3. Nghiên cứu định lượng tác động lạm phát ảnh hưởng đến huy động
vốn của NHTMCP VN
2.3.1. Mô hình nghiên cứu
Hồi quy tuyến tính bội thường được dùng để kiểm định và giải thích lý
thuyết nhân quả (Cooper và Schindler, 2003). Ngoài chức năng là một công
cụ mô tả, hồi quy tuyến tính bội cũng được sử dụng như một công cụ kết luận
để kiểm định các giả thuyết và dự báo các giá trị của tổng thể nghiên cứu
(Duncan, 1996). Như vậy, đối với nghiên cứu này, hồi quy tuyến tính bội là
phương pháp thích hợp để kiểm định các giả thuyết nghiên cứu.
Trong mô hình nghiên cứu, đề tài xác định các nhân tố tác động của
lạm phát ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTM. Trong giới hạn về khả
năng thu thập dữ liệu của tác giả, cũng như các đặc trưng của nền kinh tế Việt
Nam và của các NHTM, tác giả chỉ giới hạn kiểm nghiệm một số nhân tố có
tác động ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTM, đó là giá cả, tốc độ tăng
trưởng kinh tế, lãi suất tái cấp vốn (đại diện cho chính sách tiền tệ) và tỷ giá.
35
Một mô hình hồi quy bội được phát triển như sau :
hdv = β0+β1cpi +β2tdttkt +β3ls +β4tygia + ε
Trong đó :
: các hệ số của phương trình hồi quy βi
ε : phần dư
hdv : huy động vốn của một số NHTMCP VN (%)
cpi : chỉ số giá tiêu dùng (%)
tdttkt : tốc độ tăng trưởng kinh tế của VN (%)
ls : lãi suất (%)
tygia : Tỷ giá USD/VND
Bốn biến cpi, tdttkt, ls và tygia sẽ là các biến độc lập; hdv sẽ là biến
phụ thuộc trong mô hình hồi quy tuyến tính nêu trên.
2.3.2. Dữ liệu và phần mềm sử dụng để kiểm định
Bốn biến độc lập và một biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu đề
nghị là các dữ liệu thứ cấp có sẵn, trích từ nguồn là các báo cáo thường niên,
báo cáo tài chính đã được kiểm toán của các NHTM, báo cáo của NHNN và
Tổng cục thống kê.
Do số liệu không đầy đủ để chạy time series nên tác giả dùng dữ liệu
bảng (panal data) để mô tả. Kích thước mẫu chính thức gồm 72 mẫu được
thống kê theo số liệu hàng năm, chiều dài từ năm 2007 đến năm 2012, và
được nghiên cứu trên 12 ngân hàng TMCP VN với việc mã hóa ngân hàng
như sau :
Bảng 2.1 : Bảng mã hóa các ngân hàng nghiên cứu
Tên Ngân hàng Mã NH Số mã hóa
NHTMCP Á Châu ACB 1
NHTMCP Đầu tư và phát triển VN BIDV 2
NHTMCP Công Thương VN CTG 3
NHTMCP Ngoại Thương VN VCB 4
36
NHTMCP Đại Dương DCB 5
NHTMCP Đông Nam Á SEAB 6
NHTMCP Sài gòn – Hà nội SHB 7
NHTMCP Quốc tế VN VIB 8
NHTMCP An Bình ABB 9
NHTMCP Bản Việt GDB 10
NHTMCP Phát triển nhà TP HCM HDB 11
NHTMCP Xăng dầu Petrolimex PGB 12
Phần mềm sử dụng cho việc thực hiện các kiểm định là phần mềm
Stata, phiên bản 11.
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp kiểm định Pooled Regression, mô hình
những ảnh hưởng cố định Fixed effects (Fixed Effects Model) và những tác động
ngẫu nhiên Random effects (Random Effects Model), (Gujarati, 2003; Green, 2003)
để ước lượng dữ liệu bảng theo Zeitun (2009) để đo lường tác động lạm phát ảnh
hưởng đến huy động vốn của NHTM.
Để kiểm định và so sánh kiểm định nào trong 3 phương pháp kiểm định trên là
phù hợp với mẫu nghiên cứu hơn, tôi sử dụng kiểm định Hausman Test với giả
thuyết H0: chọn Random effects, nếu kết quả hồi quy cho giá trị p-value < α thì bác
bỏ giả thuyết H0 và ngược lại nếu giá trị p-value ≥ α thì chấp nhận giả thuyết H0.
Kiểm định Lagrange Multiplier (LM) để so sánh giữa Pooled và Random effect,
kiểm định nào phù hợp hơn, giả thuyết H0: chọn Pooled, nếu kết quả hồi quy cho
giá trị p-value < α thì bác bỏ giả thuyết H0 và ngược lại nếu giá trị p-value ≥ α thì
chấp nhận giả thuyết H0. Kiểm định Likelihood để so sánh giữa kiểm định Pooled
và Fixed effect, giả thuyết H0: chọn Pooled, nếu kết quả hồi quy cho giá trị p-value
< α thì bác bỏ giả thuyết H0 và ngược lại nếu giá trị p-value ≥ α thì chấp nhận giả
thuyết H0.
Phương pháp xử lý số liệu :
37
Để kiểm định phương sai thay đổi, tôi sử dụng kiểm định Breusch-Pagan
(1980). Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến bằng cách dùng nhân tử phóng đại
phương sai VIF và dùng kiểm định Xtserial để kiểm định tự tương quan.
Việc lựa chọn các biến giải thích từ phương trình hồi quy theo tiêu chí mức có
ý nghĩa thống kê, tác giả sử dụng mức có ý nghĩa 1% và 5%. Tuy nhiên, trong
trường hợp Việt Nam, với giả định là dữ liệu thu thập chưa đầy đủ, có thể chấp
nhận thêm mức có ý nghĩa 10%.
Ý nghĩa của các thông số trong kiểm định được giải thích như sau :
- Giá trị bội R chỉ rõ độ lớn của mối quan hệ giữa các biến độc và phụ
thuộc.
- Hệ số xác định (R2) đo lường tỷ lệ tổng biến thiên của biến phụ thuộc được giải thích bằng các biến độc lập trong mô hình. Giá trị R2 càng cao thì
khả năng giải thích của mô hình hồi quy càng lớn và việc dự đoán biến phụ
thuộc càng chính xác.
- Nếu giá trị F có ý nghĩa đáng kể về mặt thống kê thì P < 0,05, lúc này
giả thuyết thuần của mối quan hệ không tuyến tính bị bác bỏ.
2.3.3. Phân tích tương quan
Một phương pháp chung để đánh giá giá trị phân biệt là kiểm nghiệm ma
trận tương quan cho các biến độc lập và biến phụ thuộc. Kết quả hệ số tương
quan nhỏ hơn 0,85 chỉ ra rằng giá trị phân biệt có khả năng tồn tại giữa các
biến biến (John và Benet – Martinez, 2000).
Bảng 2.2: Sự tương quan giữa các khái niệm nghiên cứu
Qua bảng 2.2 ta thấy tất cả hệ số tương quan tuyệt đối giữa các biến tối
đa là 0.6858 nghĩa là không vượt quá hệ số điều kiện 0,85. Điều đó chứng
38
minh rằng giá trị phân biệt đã đạt được. Như vậy, 4 yếu tố tác động đến huy
động vốn ngân hàng có tương quan với nhau và các thang đo trong nghiên
cứu này đã đo lường được các khái niệm nghiên cứu khác nhau. Tương quan
Spearman’s có ý nghĩa thống kê ở mức 0,05; n = 72
2.3.4. Lựa chọn phương pháp kiểm định
Trên cơ sở số liệu là các BCTN, BCTC của các NHTM, các báo cáo
của NHNN và Tổng cục thống kê, tác giả đã tiến hành khai báo dữ liệu bảng
vào phần mềm Stata. Kết quả phân tích hồi quy phương trình các nhân tố tác
Regression, kiểm định Fixed effects và kiểm định Random effects được cho ở các
động ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTM theo kiểm định Pooled
bảng sau :
Bảng 2.3 : Kết quả hồi qui phương trình của kiểm định Pooled Regression
tương quan âm với huy động vốn của ngân hàng với mức ý nghĩa 10%, tốc độ tăng
trưởng kinh tế có tương quan dương với huy động vốn của ngân hàng với mức ý
nghĩa 5%. Các biến còn lại là lãi suất và tỷ giá đều không có ý nghĩa thống kê.
Theo kết quả từ bảng 2.3 cho thấy, mô hình có ý nghĩa thống kê với p-value có giá trị 0.0001, R2 hiệu chỉnh của mô hình tương đối thấp 0.2458. Biến giá cả có
39
Bảng 2.4 : Kết quả hồi quy của kiểm định Fixed effects
Kết quả xử lý số liệu từ bảng 2.4 cho thấy R2 hiệu chỉnh có giá trị 0.3336, mô
hình có ý nghĩa thống kê với giá trị p-value 0.0001. Giá cả tương quan âm với huy
động vốn và có ý nghĩa ở mức 10%, tốc độ tăng trưởng kinh tế tương quan dương
với huy động vốn và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%, lãi suất và tỷ giá đều không có
ý nghĩa thống kê.
Bảng 2.5: Kết quả hồi quy của kiểm định Random effects
Bảng 2.5 trình bày kết quả hồi quy từ kiểm định Random effects. Tương tự
như kết quả hồi quy của Pooled và Fixed effects. Để xác định xem phương pháp
40
kiểm định nào phù hợp nhất, tác giả tiến hành kiểm định so sánh từng cặp kiểm định
với nhau.
Đầu tiên kiểm định Likelihood Ratio Test để so sánh kiểm định Pooled
Regression với Fixed effects, kết quả p-value có giá trị 0.3073, nếu như vậy giả
thuyết H0 (H0 : chọn Pooled Regression) được chấp nhận nên chọn Pooled
Regression. Tiếp tục tác giả kiểm định Hausman Test để kiểm định so sánh Fixed
effects và Random effects.
Bảng 2.6 : Kết quả kiểm định Hausman Test
Qua bảng 2.6 giá trị p-value là 1.000 như vậy chấp nhận giả thuyết H0 (với giả
thuyết H0: chọn Random effects) . Kiểm định Lagrange Multiplier tiếp tục được
thực hiện để kiểm định so sánh Pooled Regression và Random effects.
Bảng 2.7 : Kết quả kiểm định Lagrange Multiplier
Kết quả của p-value là 0.6952 như vậy chấp nhận giả thuyết H0 (với giả thuyết
H0: chọn Pooled Regression). Kết quả cuối cùng cho thấy kiểm định Pooled
Regression là phù hợp hơn 2 phương pháp kiểm định còn lại.
41
Pooled Regression hay không cần tiến hành xem xét mô hình có hiện tượng đa
Tuy nhiên, để quyết định có thể sử dụng kết quả hồi quy của kiểm định
cộng tuyến hay không, có phương sai thay đổi không và có bị tự tương quan
hay không.
2.3.5. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến
nhân tố phóng đại phương sai (Variance Inflation Faction - VIF). Nếu hệ số VIF
của các biến nhỏ hơn 10 và 1/VIF nhỏ hơn 2,5 tức không có hiện tượng đa cộng
tuyến cao, ngược lại thì được coi là có cộng tuyến cao.
Để kiểm định mô hình có bị hiện tượng đa cộng tuyến không ta sử dụng
Bảng 2.8 : Kết quả kiểm định hệ số VIF
Kết quả từ bảng 2.8 cho thấy VIF của tất cả các biến dao động từ 2.17 – 9.16,
VIF trung bình là 5.84. Mô hình có hiện tượng đa cộng tuyến nhưng không nghiêm
trọng.
Tác giả tiến hành kiểm định phương sai thay đổi bằng kiểm định hettest, với
giả thuyết H0 : không có hiện tượng phương sai thay đổi, nếu giá trị p-value < α thì
bác bỏ giả thuyết H0 và ngược lại nếu giá trị p-value ≥ α thì chấp nhận giả thuyết
H0
2.3.6. Kiểm định phương sai thay đổi
Bảng 2.9 : Kiểm định phương sai thay đổi
thuyết H0 bị bác bỏ. Mô hình xảy ra hiện tượng phương sai thay đổi.
Kết quả hồi quy cho giá trị p-value 0.0000 (kết quả từ bảng 2.9) như vậy giả
42
2.3.7. Kiểm định tự tương quan
Khi tiến hành kiểm định tự tương quan (Auto Correlation) với giả thuyết H0 :
Không có hiện tượng tự tương quan, nếu giá trị p-value p-value < α thì bác bỏ giả
thuyết H0 và ngược lại nếu giá trị p-value ≥ α thì chấp nhận giả thuyết H0 , kết quả
từ bảng 2.9 cho thấy p-value có giá trị 0.0000. Như vậy giả thuyết H0 bị bác bỏ. Mô
hình xảy ra hiện tượng tự tương quan.
Bảng 2.10 : Kiểm định tự tương quan
2.3.8. Kiểm định GLS
Tổng hợp từ những kiểm định trên, mô hình hồi quy vừa xảy ra hiện tượng
phương sai thay đổi, vừa xảy ra hiện tượng tự tương quan. Để khắc phục hai hiện
tượng trên, tác giả sử dụng kiểm định GLS với kết quả như sau:
Sau khi khắc phục hiện tượng đa cộng tuyến và tự tương quan, kết quả cho
thấy mô hình có ý nghĩa thống kê với p-value có giá trị 0.0000, hệ số hồi quy của
giá cả có giá trị -16.7802, của tốc độ tăng trưởng kinh tế là 79.28789, của lãi suất là
25.8262, của tỷ giá là -0.000312 và đều có ý nghĩa thống kê ở mức 5%.
Bảng 2.11 : Kết quả hồi quy GLS
2.3.9. Kết luận nghiên cứu
Từ kết quả phân tích mô hình hồi quy biểu diễn mối quan hệ giữa huy
động vốn và các nhân tố tác động, ta có phương trình sau :
43
hdv = 1.20832 – 16.7802cpi + 79.28789tđttkt + 25.8262laisuat – 0.000312tygia
Tác động của từng nhân tố đến huy động vốn của NHTM như sau :
Nhân tố có tác động nghịch biến với huy động vốn là giá cả. Theo kết
quả phân tích cho thấy giá cả và huy động vốn của NHTM có quan hệ ngược
chiều. Hệ số -16,7802 thể hiện rằng khi giá cả tăng lên 1% thì huy động vốn
của NHTM giảm 16.7802%. Thật vậy khi lạm phát tăng lên, điều đó đồng
nghĩa với việc giá cả hàng hóa dịch vụ cũng tăng lên, thì lúc này với mức thu
nhập như trước hoặc thậm chí giảm do các doanh nghiệp sa thải bớt lao động
các cá nhân sẽ không đủ tiền sài, dẫn đến cũng không có khoản tiền nhàn rỗi
gửi ngân hàng. Còn đối với các doanh nghiệp, trong thời kỳ lạm phát cao, để
cắt giảm chi phí các doanh nghiệp thường thanh toán cho nhau bằng tiền mặt
nên việc huy động tiền gửi không kỳ hạn của các ngân hàng cũng gặp khó
khăn. Hơn thế nữa, lạm phát làm cho đồng tiền mất giá, người dân sẽ không
gửi tiền vào ngân hàng, mà dùng tiền để mua hàng hóa có giá trị để cất trữ
như vàng, bất động sản,… khi đó khả năng huy động vốn của ngân hàng
không những bị giảm xuống mà lượng tiền dân cư đã ký gửi vào NHTM cũng
có nguy cơ bị rút ra. Và như vậy NHTM sẽ gặp khó khăn trong công tác huy
động vốn, quản lý dự trữ, và cấp tín dụng.
Tốc độ phát triển kinh tế có mối quan hệ cùng chiều với huy động vốn
của ngân hàng thương mại, cụ thể là khi tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng lên
1% thì vốn huy động của ngân hàng tăng lên 79.28789%. Khi tốc độ phát triển
kinh tế tăng lên, điều đó có nghĩa là môi trường kinh tế được ổn định, đời
sống người dân tốt hơn, nên việc huy động vốn của ngân hàng từ tiền gửi và
phát hành giấy tờ có giá ra thị trường cũng trở nên thuận lợi hơn. Ngược lại
tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm thì huy động vốn của ngân hàng thương mại
cũng giảm, vì khi lạm phát tăng cao sẽ làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế bị
giảm sút, từ đó gây giảm sút tổng cầu, thu nhập thực bình quân đầu người
giảm, gia tăng thất nghiệp, nó gây ra sự bất ổn cho môi trường kinh tế xã hội,
44
làm thông tin trong nền kinh tế bị bóp méo, khiến các quyết định đầu tư, tiêu
dùng, tiết kiệm trở nên khó khăn hơn, và lúc này việc huy động vốn của các
ngân hàng thương mại cũng trở nên khó khăn hơn rất nhiều.
Nhân tố lãi suất cũng có tác động cùng chiều với huy động vốn. Trong
thời kỳ lạm phát tăng cao, chính sách tiền tệ thắt chặt của NHTW được đưa ra
để kiềm chế lạm phát, việc làm này để thể được thực hiện bằng nhiều công cụ,
trong đó có công cụ tăng lãi suất tái cấp vốn để giảm đi vay của các NHTM.
Tuy nhiên, khi NHTW tăng lãi suất thì lãi suất trên thị trường cũng tăng lên.
Và lúc này để cạnh tranh với các hình thức đầu tư khác trên thị các ngân hàng
đã tăng lãi suất huy động lên, đưa ra nhiều hình thức khuyến mãi, nên đã thu
hút khách hàng gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn.
Đồ thị 2.4 : Mối quan hệ giữa chỉ số giá, lãi suất tái cấp vốn
90
80
70
60
50
CPI(%)
40
LS(%)
30
CPHĐV(%)
20
10
0
2007
2008
2009
2010
2011
2012
-10
-20
và chi phí huy động vốn của 12 NHTMCP VN
(Nguồn : Cục thống kê, NHNN, Báo cáo tài chính
của 12 NHTMCP VN và tính toán của tác giả)
Như vậy khi lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng
gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân
hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát
45
với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là
bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động
ngoài mong đợi, mặt bằng lãi suất huy động tăng cao, có ngân hàng đưa lãi
suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng
vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống NHTM.
Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao,
điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ
xuất hiện. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng
cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với
mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách
hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong
thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến
tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra
là điều khó tránh khỏi.
Tỷ giá có tác động âm đến huy động vốn của NHTM. Khi lạm phát
trong nước tăng cao hơn so với các nước sẽ tạo áp lực tăng tỷ giá. Lúc này
đồng Việt Nam bị mất giá, dân chúng sẽ không muốn nắm giữ đồng nội tệ mà
chuyển sang cất giữ đồng ngoại tệ hoặc những tài sản có giá khác, nên việc
huy động vốn bằng nội tệ của ngân hàng bị sụt giảm.
Tóm lại, lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường
vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Sự không ổn định của giá
cả, bao gồm cả giá vốn, đã làm suy giảm lòng tin của các nhà đầu tư và dân
chúng, gây khó khăn cho sự lựa chọn các quyết định của khách hàng cũng
như các thể chế tài chính - tín dụng. Vì vậy xét ở góc độ các NHTM cần có
những biện pháp kiềm chế lạm phát.
46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Dựa trên cở sở lý thuyết trình bày ở chương 1, chương 2 đã đi vào tìm
hiểu diễn biến của lạm phát qua các thời kỳ, sau đó phân tích tình hình hoạt
động của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, qua đó phân tích định
lượng tác động của lạm phát ảnh hưởng đến huy động vốn của NH TMCP
VN. Từ việc phân tích cho thấy khi lạm phát tăng cao, hoạt động huy động
vốn của các ngân hàng thương mại trở nên khó khăn hơn. Ngược lại khi lạm
phát giảm, ở mức vừa phải thì việc huy động vốn của NH sẽ dễ dàng hơn.
47
CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP VỀ HUY ĐỘNG VỐN CHO NHTMCP VN
TRONG ĐIỀU KIỆN NỀN KINH TẾ CÓ LẠM PHÁT CAO
3.1. Mục tiêu lạm phát đến năm 2015
Tại Việt Nam, những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế toàn cầu, diễn biến xấu của kinh tế thế giới do khủng hoảng
nợ công và lạm phát cao trong thời gian gần đây và những yếu kém nội tại
của nền kinh tế đã tích tụ trong nhiều năm qua sẽ tác động đến sự phát triển
của đất nước. Những yếu tố cơ bản gây bất ổn định kinh tế vĩ mô vẫn chưa
được giải quyết. Cơ cấu kinh tế bất hợp lý; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế yếu kém… Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế bị chậm
lại. Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp.
Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là
những điểm nghẽn của sự phát triển.
Cả 5 năm 2011-2015, các năm 2013-2015, nền kinh tế Việt Nam có
nhiều thuận lợi và cơ hội phát triển, nhưng vẫn tiếp tục đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức.
Quan điểm phát triển, tư tưởng chỉ đạo chung là phải nắm vững và giải
quyết tốt mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa
tăng trưởng cao và ổn định kinh tế vĩ mô; giữa kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; giữa
phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội,
bảo đảm an sinh xã hội; giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an
ninh. Trong quản lý, điều hành, cần phấn đấu để đạt kết quả toàn diện, song
tùy tình hình mà xếp thứ tự ưu tiên cho hợp lý nhất. Trong năm 2013-2015,
ưu tiên hàng đầu là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an
sinh xã hội gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; tạo
tiền đề vững chắc cho tăng trưởng cao hơn ở những năm cuối của kế hoạch 5
năm.
48
Về các chỉ tiêu kinh tế, Quốc hội cơ bản thống nhất với đề xuất của
Chính phủ với mức tăng GDP trung bình 5 năm khoảng 6,5-7%, thấp hơn so
với mục tiêu Đại hội Đảng đề ra là 7-7,5%. Chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng
5-7% vào năm 2015 trong khi nhập siêu cũng giảm về mức 10% kim ngạch
xuất khẩu ở cùng thời điểm.
Đối với ngân sách, Quốc hội cũng cho phép Chính phủ có lộ trình giảm
bội chi về dưới 4,5% vào năm cuối của nhiệm kỳ. Nợ công vào cùng thời
điểm không được quá 65% GDP (nợ Chính phủ và nợ quốc gia không quá
50%) trong khi tỷ lệ huy động thuế và phí vào ngân sách không quá 22-23%
GDP mỗi năm.
Tuy nhiên, so với kế hoạch được Chính phủ trình trước đó, Nghị quyết
xuất hiện nhiều chỉ tiêu mới, được xem cơ sở đo đếm cho mục tiêu phát triển
bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế, vốn
được thống nhất ngay từ đầu kỳ họp.
Cụ thể, Quốc hội yêu cầu Chính phủ phải có biện pháp điều hành để
giảm mức tiêu tốn năng lượng (tính trên GDP) khoảng 2,5-3% mỗi năm, trong
khi năng suất lao động xã hội, tính đến 2015, phải tăng 29-32% so với 2010.
Tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao cũng cần đạt khoảng 30% trong tổng giá trị
sản xuất công nghiệp và tỷ lệ đổi mới công nghệ đạt 13% mỗi năm.
Để đạt được những mục tiêu trên, Quốc hội đề nghị đẩy nhanh quá
trình tái cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt ở 3 khu vực: đầu tư (trọng tâm là đầu tư
công), thị trường tài chính (trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại, các
tổ chức tài chính) và doanh nghiệp (trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng
công ty nhà nước).
Đối với các nhiệm vụ cần thực hiện hàng năm, Quốc hội yêu cầu chính
sách tiền tệ phải đặt mục tiêu hàng đầu là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát
để bảo đảm tương thích giữa tăng tổng phương tiện thanh toán, tăng dư nợ tín
dụng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế tăng chỉ số giá tiêu dùng.
49
Giảm dần tỷ lệ huy động vốn đầu tư từ tín dụng ngân hàng, đẩy mạnh kênh
huy động vốn qua thị trường chứng khoán và các định chế tài chính khác.
Đối với nhóm các chỉ tiêu xã hội, Quốc hội yêu cầu số lao động được
tạo việc làm là 8 triệu người; Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu
vực thành thị đến năm 2015 dưới 4%; Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong tổng
số lao động đang làm việc đạt 55%; Thu nhập thực tế của dân cư đến năm
2015 gấp 2-2,5 lần năm 2010; Giảm hộ nghèo bình quân 2% một năm và đối
với các huyên, xã khó khăn là 4%; Diện tích nhà ở bình quân năm 2015 đạt
mức 22m2 sàn một người (đô thị là 26m2); Tốc độ phát triển dân số khoảng
1%; Đến năm 2015 đạt 8 bác sĩ và 23 giường trên một vạn dân...
Về giáo dục, Quốc hội yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục,
đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, quan tâm đến nhân lực lãnh
đạo, quản lý, quản trị doanh nghiệp, khoa học và công nghệ, văn hóa nghệ
thuật; nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là bậc đại học; coi trọng đào tạo
nghề, thực hiện đào tạo một triệu lao động nông thôn hàng năm; điều chỉnh
chính sách về giáo dục mầm non, giáo dục ở miền núi; làm tốt công tác xã hội
hóa giáo dục để bảo đảm nhu cầu học tập của các đối tượng, nhất là giáo dục
mầm non.
Bên cạnh đó, cơ quan này nhấn mạnh việc tiếp tục đổi mới cơ chế,
chính sách, huy động các nguồn lực, đẩy mạnh đầu tư phát triển mạnh mẽ
thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới căn bản cơ chế quản lý khoa
học công nghệ, phát triển kinh tế tri thức....
Nghị quyết của Quốc hội cũng khẳng định quyết tâm thực hiện hiệu
quả Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, xử lý nghiêm các hành vi
chống người thi hành công vụ; kiên quyết phòng, chống và xử lý nghiêm,
hiệu quả nạn tham nhũng, đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ án tham nhũng
trọng điểm. Đến năm 2015, Quốc hội đề ra mục tiêu ngăn chặn, đẩy lùi tội
phạm, tệ nạn xã hội, giảm mạnh tai nạn, ùn tắc giao thông.
50
Quốc hội cũng nhất trí quan tâm củng cố quốc phòng, an ninh, đối
ngoại vững mạnh, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
đặc biệt là trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc.
3.2. Định hướng về huy động vốn của NHTM đến năm 2015
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, áp lực cạnh tranh
của ngành ngân hàng nói chung và của các NHTM trên địa bàn TP HCM trên
địa bàn nói riêng cũng ngày càng gay gắt hơn. Tình hình đó đặt ra yêu cầu đối
với các NHTM phải nỗ lực hơn nữa trong mọi hoạt động của mình, tìm hiểu
và phát huy thế mạnh của mình, học hỏi những tiến bộ công nghệ hiện đại, tạo
bước đột phá mới trong việc ổn định và gia tăng huy động vốn từ thị trường.
Nhiệm vụ trước mắt là nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế của
NHTM VN với thương hiệu mạnh và chất lượng dịch vụ hiện đại.
Tiếp tục thực hiện cổ phần hóa NHTM quốc doanh còn lại theo lộ trình
gia nhập WTO theo nguyên tắc thận trọng và đảm bảo ổn định kinh tế xã hội.
Tập trung mọi nguồn lực cho công tác huy động vốn, đặc biệt là huy
động nguồn vốn trung, dài hạn đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Năm 2012, phấn
đấu đưa chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hệ thống từ 15 – 17%, tỷ trọng huyđộng
vốn cho đầu tư phát triển bình quân ở mức 41,1 – 41,5%GDP/năm.
Tăng cường năng lực tài chính: Tiếp tục gia tăng quy mô vốn điều lệ,
tài sản có, giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có, xử lý dứt điểm
nợ tồn động.
Bên cạnh việc đẩy mạnh hoạt động trong nước, các NHTM sẽ mở rộng
phạm vi hoạt động ra thị trường tài chính thế giới với các sản phẩm dịch vụ đa
dạng, hiện đại.
Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm soát nội
bộ: bổ nhiệm những người có đầy đủ kinh nghiệm và năng lực vào Ban kiểm
soát để tăng cường hiệu quả kiểm tra nội bộ nhằm giảm thiểu tối đa các rủi ro
có thể xảy ra.
51
Bên cạnh đó không ngừng xây dựng, hoàn thiện các quy chế, quy trình
nghiệp vụ.
3.3. Giải pháp về huy động vốn cho NHTMCP VN trong điều kiện nền
kinh tế có lạm phát cao.
3.3.1. Giải pháp kiềm chế lạm phát từ phía các NHTM
Để giảm tác động của lạm phát đối với huy động vốn nói riêng và hoạt
động của ngân hàng nói chung, thì chính bản thân các ngân hàng cần có biện
pháp góp phần kiềm chế lạm phát, việc làm này không chỉ mang lại lợi ích
riêng cho chính ngân hàng mà còn mang lại lợi ích chung cho nền kinh tế.
Đứng trên góc độ của các NHTM, thì việc kiềm chế lạm phát có thể thông
qua các việc làm sau :
Thứ nhất, kiểm soát tăng trưởng tín dụng. Mỗi NHTM tự điều chỉnh
cơ cấu tín dụng theo hướng giảm dư nợ và tỷ trọng tín dụng trung, dài hạn để
phù hợp với quy mô và thời hạn huy động vốn. Tăng vòng quay vốn tín dụng,
sẽ giảm bớt khó khăn do thiếu vốn. Trước mắt chỉ nên dành vốn vào những
dự án nhanh tạo ra khối lượng hàng hoá đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội.
Thứ hai, điều hành giá mua và bán vốn (lãi suất) ổn định và theo
xu hướng giảm dần. Tăng lãi suất là giảm cung tiền, kiềm chế tăng trưởng
tín dụng nóng. Tuy nhiên, lãi suất liên tục tăng cao không chỉ có khó khăn rất
lớn cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn vay, mà còn kho khăn cho
NHTM trong việc huy động vốn trung và dài hạn, nhưng nó chỉ là biện pháp
trong ngắn hạn. Khi gói giải pháp tài chính - tiền tệ đã được triển khai một
cách đồng bộ, lạm phát được kiểm soát ở mức độ nhất định, thì một trong
những công cụ cần điều chỉnh ngay - đó là lãi suất kinh doanh của các
NHTM.
Thực tế cho thấy, sau khi NHNN điều chỉnh tăng các loại lãi suất vào
các thời điểm lạm phát tăng cao, đã xuất hiện cuộc chạy đua lãi suất giữa các
NHTM, mà mở đầu là các NHTMCP nhỏ, buộc các NHTM lớn cũng phải
theo nếu không muốn mất khách hàng, kéo theo một lượng vốn nhất định. Lãi
52
suất tăng cao để thu hút tiền về, kiềm chế tăng trưởng tín dụng nóng là rất cần
thiết. Song cũng chính từ cuộc đua lãi suất của các NHTM vừa qua đã có tác
động tiêu cực đối với thị trường tài chính, nền kinh tế và môi trường kinh
doanh của chính các ngân hàng. Đối với các NHTM: chi phí huy động vốn
cao, làm giảm khả năng sinh lời, khiến ngân hàng phải tăng cường nới rộng
tín dụng, làm tăng khả năng rủi ro trong hoạt động. Đối với thị trường tài
chính: lãi suất tiết kiệm càng cao, càng làm cho giá chứng khoán giảm xuống,
huy động vốn của các doanh nghiêp trên thị trường tài chính càng khó khăn,
gây áp lực lớn về vốn trung và dài hạn lên các NHTM. Còn đối với nền kinh
tế: lãi suất huy động và cho vay ở mức cao, đã làm giảm đầu tư tư nhân, làm
tăng chi phí vay mượn, và giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh
tế. Tình trạng này kéo dài sẽ làm cho nền kinh tế trở nên xấu hơn, vi mô tiếp
tục bất ổn hơn, ảnh hưởng lớn đến an sinh xã hội. Như vậy, tăng lãi suất chỉ là
biện pháp cấp bách trong ngắn hạn, một khi tăng lãi suất bắt đầu tỏ ra không
hiệu quả xét cả ở khía cạnh vĩ mô và vi mô, thì việc duy trì lãi suất ổn định và
theo xu hướng giảm dần, cần được đặt ra đối với các NHTM.
Để xu hướng này diễn ra như mong muốn, thì NHNN có vai trò rất
quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát với những chế tài cụ thể và đủ mạnh
đối với các NHTM cố tình tăng lãi suất huy động vốn quá cao vượt quá
ngưỡng an toàn, đưa những chi phí bất hợp lý vào giá của khoản vay, để làm
lành mạnh môi trường đầu tư, cho vay của chính các ngân hàng.
Liên quan đến lãi suất tín dụng là phạm trù tỷ giá hối đoái. Ở Việt
Nam, do tiền đồng chưa phải la đồng tiền chuyển đổi, trong khi tình trạng
đôla hoá lại ở mức cao, vì vậy xử lý lãi suất không thể tách rời việc xử lý tỷ
giá hối đoái. Vừa qua tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh với biên độ +/- đê
khuyến khích xuất khẩu và chủ động nhập khẩu. Cho đến nay vẫn có nhiều ý
kiến cho rằng nên phá giá đồng tiền Việt Nam với biên độ rộng hơn nữa để
khuyến khích xuất khẩu.
53
Thứ ba, phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh
toán không dùng tiền mặt. Phát triển các dịch vụ phi tín dụng vừa có điều kiện
tăng thu nhập cho ngân hàng, vừa thu hút khách hàng đến với ngân hàng để
tăng khả năng huy động vốn với chi phí thấp. Để tăng tỉ lệ dịch vụ phi tín
dụng, về phía các ngân hàng cần:
Nâng cao chất lượng và tính tiện ích của dịch vụ theo hướng:
(i) Đối với dịch vụ truyền thống: đây là yếu tố nền tảng không chỉ có ý nghĩa
duy trì khách hàng truyền thống, tạo nguồn thu nhập lớn nhất cho ngân hàng,
mà còn phát triển các dịch vụ mới trên nền tảng của dịch vụ truyền thống để
thu hút các khách hàng tiềm năng. (ii) Đối với các dịch vụ hiện đại, cần thực
hiện chiến lược Marketing sâu rộng, có chính sách khuyến khích khách hàng
(chính sách phí, khuyễn mãi...) sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử như
dịch vụ mở tài khoản cá nhân, thanh toán, chi trả thu nhập theo hướng không
dùng tiền mặt qua thẻ ATM.
Bên cạnh kênh truyền thống để cung ứng các dịch vụ ngân hàng bán lẻ
đến người sử dụng, cần phát triển các kênh phân phối hiện đại như các loại
hình giao dịch tại nhà, qua điện thoại, internet, ngân hàng tự phục vụ (self-
service outlest)...
Thứ tư, nâng cao hiệu quả quản trị tài sản nợ - có, đặc biệt là quản
trị thanh khoản. Tình trạng lộn xộn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng
trong thời gian qua, suy cho cùng đều bắt nguồn từ việc các ngân hàng chưa
quản lý tốt rủi ro thanh khoản. Do sự yếu kém từ quản trị tài sản Nợ, tài sản
Có và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu hiệu, trong khi các NHTM lại
muốn sử dụng triệt để phần vốn này cho các hoạt động kinh doanh sinh lời. Vì
vậy một vài ngân hàng thiếu thanh khoản phải vay với lãi cao trên thị trường
là điều khó tránh khỏi. Để khắc phục tình trạng này, các ngân hàng phải xây
dựng qui trình kiểm soát và quản lý thanh khoản nhằm đáp ứng kịp thời các
nghĩa vụ thanh toán đến hạn, đảm bảo an toàn trong hoạt động, giảm thiểu rủi
ro thanh khoản.
54
Thứ năm, nâng cao vị thế, chất lượng hoạt động, phục vụ của ngân
hàng để tạo niềm tin cho dân chúng gửi tiền vào ngân hàng bằng những hành
động thiết thực. Niềm tin phải được xây dựng trên cơ sở thông tin minh bạch
và kịp thời. Mọi sự tù mù sẽ là cơ hội cho tin đồn lộng hành. Vì vậy mỗi ngân
hàng cần phải minh bạch hoá thông (chính sách lãi suất, chính sách đầu tư,
chính sách khách hàng, tình hình nợ xấu...). Xây dựng hệ thống thông tin để
hình thành cơ sở dữ liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, phân tích để đưa ra
những quyết sách điều hành nhanh nhạy và khoa học. Chú ý đến quyền lợi
của khách hàng, bao gồm cả khách hàng gửi tiền và khách hàng vay cũng như
khách hàng sử dụng những dịch vụ của ngân hàng.
Thứ sáu, các NHTM cần tăng cường liên kết, hợp tác, trao đổi chia
sẻ kinh nghiệm hoạt động ngân hàng trên các lĩnh vực; kết nối các nghiệp
vụ, sản phẩm dịch vụ, tạo ra hệ thống phục vụ khách hàng rộng lớn, hiệu quả,
tiết giảm chi phí. Tăng cường sự đồng thuận giữa các NHTM, thành viên
trong hiệp hội Ngân hàng Việt Nam trong nhiều chính sách của NHTM vì lợi
ích và sự ổn định, kiềm chế lạm phát và phát triển kinh tế đất nước, vì lợi ích
và sự phát triển của số đông cộng đồng doanh nghiệp, của các tầng lớp dân
cư, vì lợi ích hiệu quả kinh doanh của từng NHTM, cũng như của cả hệ thống
NHTM Việt Nam.
3.3.2. Giải pháp về ổn định huy động vốn
3.3.2.1. Tổ chức tốt công tác phân tích, đánh giá và dự báo thông tin
Trong nền kinh tế thị trường hội nhập, các yếu tố như lạm phát, tỷ giá,
giá vàng, lãi suất,…thường xuyên biến động và có tính chất khó lường, khó
dự báo. Bên cạnh đó còn có tác động của các nhân tố khách quan như cung
cầu, tình hình phát triển kinh tế, xã hội,… Vì vậy đòi hỏi các NHTM phải tổ
chức tốt công tác phân tích, đánh giá, dự báo, thông tin để phục vụ cho công
tác quản lý, quản trị kinh doanh của ngân hàng làm cơ sở cho việc xây dựng
chiến lược kinh doanh phù hợp, đảm bảo đúng đắn trong quyết định kinh
doanh. Hiện nay công tác phân tích, đánh giá và dự báo thông tin của một số
55
ngân hàng còn hạn chế, dẫn đến quyết định kinh doanh thường đi sau các
ngân hàng khác, và đến khi triển khai thì không còn hấp dẫn đối với khách
hàng hoặc không còn phù hợp với tình hình kinh doanh lúc đó. Đặc biệt trong
tình hình lạm phát cao, lãi suất thường xuyên biến động, các ngân hàng nên tổ
chức một bộ phận khảo sát thăm dò lãi suất thị trường để đưa ra những chính
sách lãi suất chính xác kịp thời, tránh để xảy ra trường hợp khi khách hàng
tiền gửi chuyển sang giao dịch với các NH khác, NH này mới bắt đầu thay đổi
chính sách.
3.3.2.2. Bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực
Trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng và tất cả các lĩnh vực nói chung,
yếu tố con người là yếu tố quan trọng và cần được chú ý bồi dưỡng đào tạo.
Một ngân hàng có nguồn vốn lớn, công nghệ hiện đại mà không có một đội
ngũ nhân viên giỏi nghiệp vụ, nắm vững công nghệ, quản trị được rủi ro thì
không thể tồn tại trong cơ chế thị trường.
Các ngân hàng cần xác định một cách khách quan, toàn diện và chính
xác trình độ chuyên môn và công nghệ của chính mình, từ đó có kế hoạch đào
tạo cán bộ nhân viên nắm vững và thực hành thành thạo nghiệp vụ chuyên
môn. Đồng thời phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và nâng cao phẩm
chất đạo đức của cán bộ nhân viên trong công việc. Đổi mới phong cách giao
tiếp, đặc biệt là tạo phong cách thân thiện, tận tình, chu đáo, cởi mở tạo lòng
tin cho khách hàng gửi tiền.
Nâng cao năng suất lao động của nhân viên, ngân hàng phải có hệ
thống đánh giá hiệu quả lao động chính xác. Hiện nay, tuy một số NHTM đã
xây dựng chương trình quản lý công việc, kết nối công việc thực hiện trong
ngày của từng nhân viên với chương trình nhưng vẫn chưa được toàn diện,
vẫn có một số công việc đánh giá theo phương pháp định tính.
Xây dựng văn hóa doanh nghiệp hướng đến khách hàng. Ngày nay, văn
hóa doanh nghiệp luôn được các NHTM chú trọng, quan tâm vì nó tác động
đến nhiều mặt, ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của NH. Mọi thành
56
viên trong ngân hàng cầm tìm hiểu rõ nhu cầu và mong muốn của cả khách
hàng bên trong (cán bộ, nhân viên) và khách hàng bên ngoài, luôn cố gắng tất
cả vì sự hài lòng của khách hàng. Để có được nét văn hóa này, bản thân ngân
hàng phải không ngừng tuyên truyền và gây dựng lòng tự hào đối với mỗi
nhân viên.
Ngân hàng cần có chính sách đãi ngộ thỏa đáng cho nhân viên làm việc
hiệu quả để động viên tinh thần làm việc của họ. Một chính sách đãi ngộ thỏa
đáng chính là động lực để tạo một môi trường làm việc trong sạch và cạnh
tranh làm mạnh. Chính sách đãi ngội thỏa đáng sẽ là cơ sở để nhân viên gắng
bó lâu dài với ngân hàng và ra sức cống hiến nhiều hơn cho sự phát triển của
ngân hàng.
3.3.2.3. Tìm kiếm thị trường tiềm năng và mở rộng mạng lưới hoạt động
trong và ngoài nước
Tuy hiện nay, việc cho phép thành lập chi nhánh, phòng giao dịch bị
hạn chế nhưng nếu thoả mãn các điều kiện trong quyết định số 13/2008/QĐ-
NHNN của NHNN thì các NHTM vẫn có thể mở thêm chi nhánh. Việc mở
mạng lưới chi nhánh rất tốn kém nhưng bù lại nó mang lại cho ngân hàng
nhiều lợi ích cho việc huy động vốn. Tuy nhiên, các ngân hàng cần tiến hành
phân tích đánh giá lại tính hiệu quả của mạng lưới hoạt động, của từng chi
nhánh, phòng giao dịch. Việc đánh giá tiềm năng của chi nhánh, phòng giao
dịch có thể dựa trên các tiêu chí của từng địa bàn như: tăng trưởng GDP bình
quân trên đầu người, số lượng các tổ chức tài chính – tín dụng, mức huy động
tiền gửi và nhu cầu cho vay,…Với những chi nhánh, phòng giao dịch hoạt
động không hiệu quả, lợi nhuận không đủ bù đắp chi phí thì có thể cho đóng
cửa hoặc chuyển địa điểm sang khu vực khác.
3.3.2.4. Nghiên cứu thị trường
Thực hiện thường xuyên việc nghiên cứu thị trường, đối thủ cạnh tranh
nhằm nắm bắt thị hiếu khách hàng và nhận biết kịp thời thay đổi nhu cầu của
khách hàng, phát triển và bổ sung các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới.
57
Trước hết, cần thực hiện phân đoạn thị trường theo các tiêu chí như vùng địa
lý, các yếu tố nhân khẩu học, các yếu tố tâm lý, các yếu tố thuộc thói quen
hành vi,…Không phải mọi khách hàng đều có nhu cầu như nhau đối với các
dịch vụ ngân hàng và mang lại lợi nhuận như nhau cho ngân hàng, do đó cần
có sự phân đoạn để có những chính sách chăm sóc khách hàng phù hợp.
Việc nghiên cứu đối thủ cạnh tranh phải thực hiện thường xuyên, trên
cơ sở so sánh sản phẩm, lãi suất, các hoạt động quảng cáo, mạng lưới ngân
hàng,…với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp (các ngân hàng cùng địa bàn, cùng
đẳng cấp, cùng quy mô). Với cách này có thể xác định được các lĩnh vực cạnh
tranh thuận lợi và bất lợi, từ đó đưa ra những chiến lược đúng đắn trong kinh
doanh, đặc biệt là trong huy động vốn.
3.3.2.5. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền.
Để cho khách hàng có một cái nhìn cụ thể hơn về ngân hàng và các sản
phẩm dịch vụ cung ứng của ngân hàng, chính sách quảng cáo luôn được coi
trọng. Đa dạng các loại tờ rơi, sách giới thiệu về sản phẩm, dịch vụ và để sẵn
phía quầy giao dịch để khách hàng có thể đọc khi đến giao dịch hoặc tổ chức
phát tận nhà, cơ quan để tăng cường thu hút sự quan tâm của khách hàng đến
ngân hàng. Đồng thời nên tăng cường quảng cáo trên các phương tiện thông
tin đại chúng bằng hình ảnh, bài viết, phóng sự hay tài trợ cho các chương
trình game show trên truyền hình,…
3.3.2.6. Tăng cường chính sách chăm sóc khách hàng.
Trong thời đại cạnh tranh và bùng nổ thông tin như hiện nay, phong
cách phục vụ tỏ ra quan trọng hơn bao giờ hết. Cạnh tranh và bùng nổ thông
tin khiến cho các lợi thế cạnh tranh khác như đầu tư công nghệ, đa dạng hoá
sản phẩm, lãi suất,… rất dễ bị đối thủ cạnh tranh bắt chước nhanh chóng,
khiến cho lợi thế cạnh tranh chẳng mấy chốc bị triệt tiêu. Chỉ có tạo ra cung
cách phục vụ, tạo ấn tượng đẹp trong lòng khách hàng mới có thể tạo ra điểm
khác biệt với các đối thủ cạnh tranh.
58
Các ngân hàng cần duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Điều
này giúp các NHTM tiết kiệm chi phí thẩm định khi khách hàng có nhu cầu
sử dụng các sản phẩm khác như vay vốn, như vậy vừa nâng cao khả năng thu
hút khách hàng mới thông qua quan hệ làm ăn hay lời giới thiệu từ chính
khách hàng của mình. Chi phí tìm kiếm khách hàng mới thường gấp 5 lần chi
phí để duy trì khách hàng cũ; doanh thu bình quân của khách hàng cũ thường
gấp 2 lần doanh thu bình quân của khách hàng mới. Hơn nữa do là khách
hàng truyền thống của ngân hàng nên việc đàm phán lãi suất, chính sách phí
sẽ dễ dàng hơn khi có sự thay đổi trong cạnh tranh. Để duy trì mối quan hệ
với khách hàng, hàng năm các ngân hàng nên tổ chức hội nghị khách hàng,
vừa là để thắt chặt mối quan hệ vừa có điều kiện tìm hiểu nguyện vọng của
khách hàng, vừa hiểu rõ thực lực tài chính cũng như hoạt động kinh doanh
của khách hàng từ đó có những cải tiến phù hợp. Tổ chức hội nghị khách
hàng nhằm nắm bắt nhanh nhất nhu cầu của khách hàng và tự đánh giá, khẳng
định vị trí của mình trong lòng mỗi khách hàng.
Có những yếu tố tưởng chừng rất nhỏ, không đáng quan tâm nhưng có
thể là thế mạnh, mang lại hiệu quả cạnh tranh bằng sự khác biệt. Ví dụ như
ngân hàng có thể cải tiến thời gian làm việc hướng về phục vụ khách hàng
bằng cách mở cửa giao dịch lúc 7h sáng đến 6h chiều, làm việc cả ngày thứ
bảy. Việc làm này sẽ thu hút được những người bận rộn, đi làm giờ hành
chánh vẫn có thể đến giao dịch với ngân hàng. Một việc làm khác là ngân
hàng có thể phục vụ nước uống miễn phí, có kẹo bánh cho khách hàng dùng
trong khi chờ đợi đến lượt,…
Có thể có những chương trình khuyến mãi, quà tặng cho khách hàng.
Nhóm khách hàng cá nhân thường ưa thích các món quà tặng khuyến mãi khi
gửi tiền như áo mưa, nón bảo hiểm, bốc thăm trúng thưởng, túi xách,…Dù là
những món quà có giá trị không lớn nhưng lại là sợi dây liên kết khá chặt chẽ
giữa ngân hàng và khách hàng, tạo sự ghi nhớ của khách hàng về ngân hàng.
59
3.3.2.7. Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại
Dịch vụ phát triển sẽ cho phép các ngân hàng thu hút nguồn tiền gửi từ
tài khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp và các nhân một cách thuận
lợi, điều này góp phần nâng cao chất lượng nguồn vốn huy động, không chỉ
đảm bảo nguồn vốn tăng trưởng ổn định mà lãi suất chi trả cho loại tiền gửi
này thấp. Các ngân hàng sử dụng loại vốn này sẽ đem lại hiệu quả kinh tế rất
cao. Dịch vụ phát triển còn là cơ sở quan trọng để các ngân hàng giảm bớt các
hình thức cạnh tranh huy động vốn không tích cực như cạnh tranh về lãi suất.
Sự phát triển dịch vụ ngân hàng, hơn hết mang ý nghĩa chiến lược là tạo ra sự
phát triển bền vững cho các ngân hàng trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập
như hiện nay.
Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại, các ngân hàng cần chú trọng hơn
nữa vào việc phát triển các dịch vụ như internet banking, phone banking,
SMS banking, home banking,… để nâng cao chất lượng dịch vụ và phục vụ
khách hàng tốt nhất.
Để phát triển tốt các dịch vụ ngân hàng hiện đại trên, đòi hỏi các ngân
hàng phải không ngừng cải tiến, nâng cấp và hiện đại công nghệ và trang thiết
bị quản lý. Hiện nay hệ thống công nghệ thông tin tại một số NHTM đang
được quan tâm đầu tư hiện đại hóa, tạo điều kiện đa dạng hóa sản phẩm với
mức độ tiện ích cao nhất.
Công nghệ thông tin phải là công cụ hỗ trợ tốt nhất cho cán bộ nhân
viên từ đó tạo điều kiện cho các hoạt động nhập liệu hay truy xuất thông tin
cân thiết được nhanh chóng, thuận tiện.
Tóm lại mỗi ngân hàng cần phân tích điều kiện cụ thể của mình và tình
hình huy động vốn trong từng thời điểm để có những biện pháp hữu hiệu
nhằm huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi cho ngân hàng mình.
3.4. Một số kiến nghị
3.4.1. Đối với Chính phủ
3.4.1.1. Ổn định nền kinh tế vĩ mô và tăng cường công tác dự báo
60
Hoạt động của các NHTM chịu sự tác động mạnh mẽ của điều kiện
kinh tế vĩ mô, vì vậy Chính phủ cần có nhiều chính sách vĩ mô nhằm đẩy
mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập bình quân đầu người, kiềm giữ
lạm phát ở mức thấp, một con số. Lạm phát cao không những làm méo mó giá
cả mà còn giảm nguồn tiền tiết kiệm, giảm đầu tư. Lạm phát thấp cùng với
tình hình kinh tế đang có sự chuyển biến tốt giúp doanh nghiệp gia tăng sản
xuất, gia tăng số lượng hàng hóa bán ra, kích thích tiêu dùng của người dân,
góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, tăng thu ngân sách nhà nước, qua
đó góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng cho các NHTM, tạo lòng tin cho người
dân và nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn của các NHTM.
Khi lạm phát tăng cao, Chính phủ và NHNN thực thi chính sách thắt
chặt bằng nhiều biện pháp như Chính phủ có thể tăng thu NSNN, giảm chi
NSNN, còn NHNN thì tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, buộc các NHTM mua giấy
tờ có giá, tăng lãi suất tái cấp vốn, quy định hạn mức tăng trưởng tín dụng,
trần lãi suất huy động tiền đồng và ngoại tệ,…khiến cho các NHTM gặp khó
khăn. Chính vì thế việc tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác dự báo kinh
tế là điều cần thiết cho hoạt động của các NHTM trong mọi thời kỳ.
3.4.1.2. Hoàn thiện môi trường pháp lý về ngành ngân hàng
Việt Nam được xem là nước có nền kinh tế chính trị xã hội tương đối
ổn định. Chính vì vậy nguồn vốn đầu tư nước ngoài không ngừng gia tăng qua
các năm. Đây là một lợi thế mà Việt Nam cần tiếp tục duy trì và phát huy.
Một đất nước có chính trị ổn định, hành lang pháp lý rõ ràng, chặt chẽ sẽ thu
hút được các doanh nghiệp trong và ngoài nước mạnh dạn đầu tư, tạo sự an
tâm cho dân chúng, từ đó giúp các NHTM thực hiện được chức năng và
nhiệm vụ của mình, đảm bảo hiệu quả hoạt động của hệ thống NH.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ, môi trường
hoạt động của hệ thống NH Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập như: sự cạnh
tranh không lành mạnh giữa các NHTM, hệ thống văn bản pháp lý về hoạt
động NH còn chưa đầy đủ, rõ ràng. Vì vậy, Quốc hội và Chính phủ cần tiếp
61
tục chỉ đạo trong việc xây dựng, chỉnh sửa và bổ sung Luật NHNN, Luật các
tổ chức tín dụng.
Tiếp tục xây dựng những văn bản pháp luật điều chỉnh các dịch vụ mới
như: bao thanh toán, các công cụ phái sinh,..theo chuẩn mực quốc tế; tao cơ
sở pháp lý vững chắc trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh của
NHTM.
Nhà nước cần tiếp tục kiểm soát và nâng dần các tiêu chuẩn khi thành
lập các NH mới nhằm hạn chế việc thành lập hàng loạt ngân hàng. Để có thể
xây dựng hệ thống NHTM VN ngày càng vững mạnh, Nhà nước phải không
ngừng xem xét, ban hành các quy định, quy chế cho ngành ngân hàng. Đối
với các NHTM không đáp ứng được các tiêu chuẩn chung, có thể sáp nhập,
mua lại những NH này.
3.4.1.3. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của mọi nền kinh tế, là
điều kiện căn cơ để giúp nước ta tự hoàn thiện và hòa nhập vào xu thế phát
triển của thế giới, tận dụng được dòng vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên
tiến hiện đại phục vụ cho yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục mở rộng hoạt động của các NHTM VN
ra thị trường quốc tế. Hiện nay, có một số NHTM VN đã mở chi nhánh tại
một số nước như Vietinbank mở chi nhánh tại Đức, Sacombank mở chi nhánh
sang Campuchia, Lào và văn phòng đại diện tại Trung Quốc, BIDV mở văn
phòng đại diện tại Campuchia,…cho phép các NHTM thực hiện thêm nhiều
nghiệp vụ ngân hàng đầu tư và tiền tệ mới phù hợp với thông lệ quốc tế. Có
như vậy các NHTM VN mới có nâng cao thương hiệu, mở rộng mạng lưới,
gia tăng thị phần, tăng khả năng cạnh tranh với các NH nước ngoài.
3.4.2. Đối với NHNN
3.4.2.1. Điều hành chính sách tiền tệ theo hướng nâng cao năng lực, vai
trò hiệu quả và linh hoạt theo sát tín hiệu thị trường.
62
NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt và đồng bộ các công cụ chính sách
tiền tệ , đảm bảo kiểm soát lượng tiền cung ứng phù hợp với định hướng điều
hành tổng phương tiện thanh toán, tín dụng nhằm thực hiện mục tiêu chính
sách tiền tệ. Trong đó, lãi suất điều hành ở mức hợp lý phù hợp với cân đối vĩ
mô đảm bảo khả năng thanh toán và an toàn hệ thống; điều hành tỷ giá và thị
trường ngoại hối linh hoạt theo tín hiệu thị trường, phù hợp với quan hệ cung
– cầu ngoại tệ trên thị trường; giữ ổn định tỷ giá; tiếp tục cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế và tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, giữ ổn định giá trị đồng
Việt Nam, hỗ trợ phát triển bền vững và chống đo la hóa nền kinh tế. Trong
thời gian tới, khi hoạt động thị trường tiền tệ ổn định bền vững và điều kiện
kinh tế vĩ mô cho phép, NHNN nên xem xét dần tháo gỡ các biện pháp hành
chính đã áp dụng tạm thời trong điều kiện thị trường tiền tệ và hoạt động ngân
hàng chưa thật sự ổn định, nhằm tạo điều kiện cho các TCTD hoạt động hiệu
quả, lành mạnh, phù hợp với cơ chế thị trường.
3.4.2.2. Áp dụng cơ chế mục tiêu lạm phát
Chính sách tiền tệ hiện đại dựa trên nền tảng kiến thức được tích lũy
của lý thuyết tiền tệ. Sự thay đổi các cơ chế của chính sách này xuất phát từ
những biến động trong các nền kinh tế phát triển và kinh tế thế giới. Từ giữa
thập niên 1990, cơ chế mục tiêu lạm phát – một mô hình chính sách tiền tệ
mới được áp dụng rộng rãi tại nhiều nước và giúp các nước này bình ổn thành
công môi trường kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế. Đó là xu hướng khách
quan mà các nước đang phát triển sớm hay muộn sẽ phải đi theo.
Khi xem xét, so sánh các biến số kinh tế vĩ mô, các nước áp dụng
MTLP phát triển ổn định hơn so với các nước không áp dụng. Bảng dưới đây
cho thấy cả 2 giai đoạn 2000-2006 và giai đoạn 2007-2012, lạm phát, tăng
trưởng GDP thực và kỳ vọng lạm phát trong ngắn hạn tại các nước áp dụng
đều ít biến động hơn so với các nước không áp dụng .
63
Bảng 3.1 : So sánh chỉ số kinh tế vĩ mô giữa các nước áp dụng
lạm phát mục tiêu với các nước khác
Lạm phát thực tế
GDP
2000-2006
2007-2012
Kỳ vọng lạm phát trong ngắn hạn 2007-2012 2000-2006
2000-2006
2007-2012
Mean
Stdv Mean
Stdv
Mean
Stdv Mean
Stdv Mean
Stdv
Mean
Stdv
Advanced-IT
2.20
1.38
2.30
1.60
2.12
0.24
2.25
0.51
2.99
1.63
1.26
2.53
Adv - other
1.47
0.70
1.41
1.59
1.44
0.24
1.28
0.55
1.97
1.66
0.40
3.38
Eme-IT
4.14
1.19
4.50
1.76
4.29
0.73
4.19
0.54
4.51
1.80
3.65
3.85
Eme- other
7.29
3.01
5.25
2.72
7.33
2.69
4.65
1.20
7.13
4.50
4.13
5.53
(http://luattaichinh.wordpress.com/2013/04/28/lam-pht-muc-tiu-linh-hoat-xu-huong-
moi-cho-cstt-thoi-ky-hau-khung-hoang/)
Chú thích:
Mean: Trung bình
Stdv: Độ lệch chuẩn.
Các nước trong nhóm: Advanced-IT: Nền kinh tế phát triển và áp dụng
Adv- other: Nền kinh tế phát triển và không áp dụng
Eme- IT: Nền kinh tế mới nổi và áp dụng
Eme- other: Nền kinh tế mới nổi không áp dụng
Tại các nền kinh tế phát triển, sự khác biệt giữa việc có áp dụng và
không áp dụng không nhiều, kỳ vọng lạm phát vẫn ổn định ngay cả khi tăng
trưởng và lạm phát biến động tại các nước áp dụng với các nước áp dụng
chính sách khác. Nguyên nhân là do cơ chế điều hành CSTT dù không nói rõ
nhưng đều hàm ý sử dụng
Xác định sự cần thiết áp dụng cơ chế MTLP của chính sách tiền tệ, cần
thực hiện hai điều kiện cơ bản sau đây :
Thứ nhất, đảm bảo tính độc lập tương đối của NHNN. NHNN phải
được quyền lựa chọn mục tiêu và công cụ của chính sách tiền tệ. Mục tiêu
cuối cùng là ổn định tỷ lệ lạm phát. Hiện nay, NHNN VN là cơ quan ngang
bộ của Chính phủ. Cơ chế quyết định lượng tiền hiện nay ở nước ta vẫn chồng
chéo và phức tạp. Không chỉ Quốc hội và Chính phủ, mà một số cơ quan khác
cũng tham gia chỉ đạo và giám sát việc hoạch định và thực hiện chính sách
64
tiền tệ. Lượng tiền cung ứng hàng năm cho nền kinh tế do NHNN đề xuất và
được Chính phủ quyết định. Trên cơ sở định mức được duyệt, NHNN chỉ
được quyền điều tiết mà không thể thay đổi lượng tiền để thích ứng với những
diễn biến của nền kinh tế. Đặc biệt, trong điều kiện nền kinh tế mở, cầu tiền
rất dễ biến động trong khi tốc độ lưu thông tiền tệ thường thay đổi.
Thứ hai, hiện nay, NHNN đang thực hiện chính sách tiền tệ đa mục
tiêu, “ôm đồm” cả lạm phát lẫn tăng trưởng kinh tế, rồi cán cân thanh toán.
Trong vai trò mục tiêu trung gian, chúng ta cũng sử dụng đa mục tiêu. NHNN
điều hành không chỉ tổng lượng tiền và dư nợ tín dụng, mà còn cả tỷ giá ở
một chừng mực nhất định. Điều đó trái với nguyên tắc của cơ chế MTLP. Tỷ
giá thả nổi được xem là cần thiết trong việc thực hiện cơ chế MTLP nhưng
kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nước phải giữ tỷ giá thả nổi ổn định, tránh
các dao động mạnh của tỷ giá, làm biến động mạnh chi phí nhập khẩu hàng
hóa. Vì vậy khi áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi, cần thực thi đồng thời những
biện pháp kiểm soát vốn. Bên cạnh đó, theo kinh nghiệm của các nước, cơ chế
MTLP được thực hiện hiệu quả tại các nước biết chọn thời điểm thích hợp để
bắt đầu áp dụng nó. Thời điểm thích hợp là khi nền kinh tế của họ đang trong
pha tăng trưởng kinh tế và duy trì tỷ lệ lạm phát thấp trong thời gian dài.
3.4.2.3. Chỉ đạo các NHTM thực hiện đồng bộ các giải pháp về huy động
vốn
NHNN cần chỉ đạo các NHTM thực hiện đồng bộ các giải pháp về huy
động vốn và cho vay có hiệu quả, trong đó chú trọng việc mở rộng mạng lưới,
đa dạng hóa các hoạt động huy động vốn, gia tăng vốn huy động trung và dài
hạn. Chủ động kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với tốc độ tăng
huy động vốn, cân đối nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là cân đối về kỳ hạn giữa
nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn của NHTM.
65
3.4.2.4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát hoạt động của hệ
thống các TCTD
Để góp phần đảm bảo ổn định, an toàn và phát triển bền vững của toàn
hệ thống các TCTD góp phần đảm bảo ổn định, an toàn và phát triển bền
vững của toàn hệ thống TCTD, NHNN phải tập trung nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác giám sát hoạt động của hệ thống các TCTD thông qua việc
áp dụng dần dần mô hình đánh giá rủi ro, dự báo tài chính theo thông lệ quốc
tế có điều chỉnh vào điều kiện thực tế của VN.
66
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Dựa trên cơ sở lý thuyết đã được hệ thống hóa, kết quả phân diễn biến
lạm phát trong thời gian qua cũng như tình hình hoạt động của NHTMCP và
nghiên cứu tác động lạm phát ảnh hưởng đến huy động vốn của các ngân
hàng này, chương 3 đã đề xuất những giải pháp nhằm thu hút tiền gửi của
khách hàng, đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững nguồn vốn huy động
trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát cao. Bên cạnh đó hoạt động huy động
vốn của các NHTM còn chịu tác động của nhiều yếu tố khách quan, do đó
trong chương 3 của luận văn cũng đưa ra một số kiến nghị đối với Chính phủ
và NHNN VN.
67
KẾT LUẬN
Huy động vốn không mang lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng nhưng
nó đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với toàn bộ các hoạt động kinh
doanh khác của ngân hàng. Hơn nữa nguồn vốn huy động của NHTM đóng
vai trò chủ lực đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế. Nên việc
“nghiên cứu tác động lạm phát ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTMCP
VN” là điều rất cần thiết. Đề tài đã đi sâu và giải quyết được một số vấn đề cơ
bản sau đây :
Thứ nhất, xem xét được diễn biến của lạm phát trong thời gian qua. Kết
quả cho thấy diễn biến lạm phát rất phức tạp. Tuy rằng lạm phát đã được đẩy
lùi, nhưng không thể chủ quan, vì theo như chu kỳ nó có thể trở lại.
Thứ hai, đánh giá được tình hình hoạt động của một số NHTMCP VN.
Thứ ba, đi sâu nghiên cứu tác động lạm phát ảnh hưởng đến huy động
vốn của NHTMCP VN, làm cơ sở đưa các giải pháp và kiến nghị nhằm thu
hút nguồn vốn huy động và hạn chế ở mức thấp nhất những tác động không
tích cực của lạm phát đối với hoạt động huy động vốn của các ngân hàng này.
Do thời gian nghiên cứu cũng như kiến thức, kinh nghiệm của bản thân
còn hạn chế nên luận văn sẽ khó tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp chân thành của quý Thầy Cô và các bạn đọc để
luận văn này được hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Thanh Hà (chủ biên) (2012), Lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Đại học
Quốc gia TP HCM.
2. Lê Thị Mận (2010), Lý thuyết tài chính tiền tệ, NXB Lao động xã hội. 3. Lê Thị Tuyết Hoa & Nguyễn Thị Nhung (2011), Tiền tệ Ngân hàng, NXB
Thống kê.
4. Nguyễn Đăng Dờn (chủ biên) (2001), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại,
NXB Đại học Quốc gia TP HCM.
5. Nguyễn Minh Kiều (2007), Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, NXB Thống kê. 6. Nguyễn Thị Thanh Tuyền (2012), “Kiểm định mối quan hệ lãi suất cơ bản và lạm phát tại Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, trường ĐH Kinh Tế TPHCM
7. Nguyễn Thị Vân (2012), “Tác động của lạm phát đến phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, trường ĐH Kinh Tế TPHCM
8. Phạm Huy Hùng (2008), “Ảnh hưởng của lạm phát đến hoạt động ngân hàng và các giải pháp kiềm chế lạm phát”, Hội thảo “Lạm phát, các giải pháp kiềm chế lạm phát và hỗ trợ doanh nghiệp trong tình hình hiện nay”.
9. Trần Huy Hoàng (chủ biên) (2007), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB
Lao động xã hội.
10. Trần Thị Thúy Vân (2012), “Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến lạm phát
ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, trường ĐH Kinh Tế TPHCM
11. Báo cáo tài chính của NHTMCP Á Châu từ năm 2007 – 2012 12. Báo cáo tài chính của NHTMCP Đầu tư và phát triển VN từ năm 2007 –
2012
13. Báo cáo tài chính của NHTMCP Công Thương VN từ năm 2007 – 2012 14. Báo cáo tài chính của NHTMCP Ngoại Thương VN từ năm 2007 – 2012 15. Báo cáo tài chính của NHTMCP Đại Dương từ năm 2007 – 2012 16. Báo cáo tài chính của NHTMCP Đông Nam Á từ năm 2007 – 2012 17. Báo cáo tài chính của NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội từ năm 2007 – 2012 18. Báo cáo tài chính của NHTMCP Quốc tế VN từ năm 2007 – 2012 19. Báo cáo tài chính của NHTMCP An Bình từ năm 2007 – 2012
20. Báo cáo tài chính của NHTMCP Bản Việt từ năm 2007 – 2012 21. Báo cáo tài chính của NHTMCP Phát triển nhà TP HCM từ năm 2007 –
2012
22. Báo cáo tài chính của NHTMCP Xăng dầu Petrolimex từ năm 2007 – 2012 23. http://www.sbv.gov.vn/portal/faces/vi/vim/vipages_cstt/laisuat/banglaisuat?_adf.ctrl-
state=goauwpj8v_4&_afrLoop=1128047842504700 24. http://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=413&thangtk 25. http://vneconomy.vn/p0c6/tai-chinh.htm
PHỤ LỤC 1
DOANH SỐ HUY ĐỘNG VỐN CỦA 12 NHTMCPVN
TỪ NĂM 2007 – 2012
Đơn vị tính : triệu đồng
Ngân hàng
ACB
BIDV
CTG
VCB
DCB
SEAB
2007
74943072 159946130 151459336 178797600 12337700 22549523
2008
91173530 221927433 174905680 196506976 12436062 17729905
2009 134502210 269125951 220591438 230953398 30768411 24646214
2010 183132170 333320868 339699277 277932524 50427115 48622827
2011 232981904 371660799 406888979 315928320 57377665 94572014
2012 159265155 446842441 450601419 345420380 59398157 67510789
Ngân hàng
SHB
VIB
ABB
GDB
HDB
PGB
2007
9948553 31339858 14478917
1257161 12455615
4079979
2008
11768699 31875990
9317517
2264836
7772213
5051136
2009
24647435 52825503 21392070
2189702 17131668
9092392
2010
45937553 86059401 32489798
6076269 30494411 13995000
2011
64311277 87453870 36322927 13290365 39685609 14801811
2012 104131405 53620587 40636100 17102923 46367606 15858194
(Nguồn : Báo cáo tài chính của 12 NHTMCP VN
từ ngày 31/12/2007 – 31/12/2012 và tính toán của tác giả)
PHỤ LỤC 2
TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA MỘT SỐ NHTMCPVN
TỪ NĂM 2007 – 2012
Đơn vị tính : %
VCB
SEAB
Ngân hàng
ACB 0.886032
BIDV 0.232395
CTG 0.196125
DCB 0.171816 14.24922 1.701844
2007
0.21657
0.387514
0.154803
0.099047 0.007972
-0.21373
2008
0.475233
0.212675
0.261202
0.175294 1.474128 0.390093
2009
0.361555
0.238531
0.539948
0.203414 0.638925 0.972831
2010
0.272206
0.115024
0.197792
0.136709 0.137834 0.945013
2011
-0.31641
0.202286
0.107431
0.09335 0.035214
-0.28614
2012
Ngân hàng
SHB 11.40971
VIB 1.092598
ABB 6.701543
GDB 1.358651
HDB 2.839884
PGB 3.312505
2007
0.182956
0.017107
-0.35648
0.801548
-0.37601
0.23803
2008
1.094321
0.657219
1.295898
-0.03317
1.20422
0.800069
2009
0.863786
0.629126
0.518778
1.77493
0.780002
0.539199
2010
0.399972
0.016204
0.117979
1.187258
0.301406
0.05765
2011
0.619178
-0.38687
0.118745
0.286866
0.168373
0.071368
2012
(Nguồn : Báo cáo tài chính của 12 NHTMCP VN
từ ngày 31/12/2007 – 31/12/2012 và tính toán của tác giả)
PHỤ LỤC 3
CHI PHÍ HUY ĐỘNG VỐN CỦA 12 NHTMCPVN
TỪ NĂM 2007 – 2012
Đơn vị tính : triệu đồng
Ngân hàng
ACB 3227028
BIDV 10579935
CTG 8085890
VCB 7333973
DCB 279518
SEAB 1005702
2007
7769589
15903047
13873456
7340053
1270898
2342737
2008
6813361
14235364
10976345
8794892
1300431
923348
2009
10796566
20590477
18830186
12392225
2961332
2432822
2010
18667877
31918155
35727190
20933053
4833514
6597979
2011
15191107
23258783
32240738
20839925
4783911
7283021
2012
Ngân hàng
GDB
PGB
SHB 306112
VIB 1240563
ABB 441682
55735
HDB 486748
98380
2007
1132570
3279493
1223980
118992
970679
425043
2008
1018747
2586595
957497
138921
804461
541671
2009
2520683
4727048
2096998
378503
1830750
949743
2010
5883524
8100793
3223598
1031748
4031823
1721454
2011
8075961
5722070
2980993
1747796
4345159
1276234
2012
(Nguồn : Báo cáo tài chính của 12 NHTMCP VN
từ ngày 31/12/2007 – 31/12/2012 và tính toán của tác giả)
PHỤ LỤC 4
TỐC ĐỘ TĂNG CHI PHÍ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA MỘT SỐ NHTMCPVN
TỪ NĂM 2007 – 2012
Đơn vị tính : %
Ngân hàng
ACB
BIDV
CTG
VCB
DCB
SEAB
0.932301185 0.397571328 0.230511812 0.390951047 8.054387613 1.014195675
2007
1.407660857
0.50313277 0.715761159 0.000829019 3.546748331 1.329454451
2008
-0.12307317
-0.10486562
-0.20882403 0.198205517
0.0232379
-0.60586783
2009
0.584616755 0.446431366 0.715524248 0.409025261 1.277192715 1.634783419
2010
0.729056906 0.550141602 0.897336011 0.689208597 0.632209425 1.712068125
2011
-0.18624346
-0.27129926
-0.09758539
-0.00444884
-0.01026230 0.103826035
2012
Ngân hàng
SHB
VIB
ABB
GDB
HDB
PGB
11.67597002 0.932928226 5.042492065 1.769991551 2.390885152 1.352969314
2007
2.699854955 1.643552161 1.771179265 1.134960079 0.994212611 3.320420817
2008
-0.10049974
-0.21128204
-0.21771842 0.167481848
-0.17123889 0.274391062
2009
1.474297348 0.827517644 1.190083102 1.724591674 1.275747364 0.753357665
2010
1.334099131 0.713710756 0.537244194 1.725864788 1.202279394 0.812547184
2011
0.372640105
-0.29364075
-0.07525907
0.69401443 0.077715713
-0.25863020
2012
(Nguồn : Báo cáo tài chính của 12 NHTMCP VN
từ ngày 31/12/2007 – 31/12/2012 và tính toán của tác giả)
PHỤ LỤC 5
CPI, TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, LÃI SUẤT TÁI CẤP VỐN
VÀ TỶ GIÁ TỪ NĂM 2007 - 2012
Năm
CPI (%)
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%)
Lãi suất (%)
Tỷ giá (USD/VND)
2007
12,75
8,46
6,5
16.114
2008
19,87
6,31
9,5
16.977
2009
6,52
5,32
8,0
17.941
2010
11,75
6,78
9,0
18.932
2011
18,13
5,89
15,0
20.828
2012
6,81
5,03
9,0
20.828
(Nguồn : Tổng cục thống kê và báo cáo của NHNN VN từ năm 2007 - 2012)