intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài chính doanh nghiệp - Chương 18: Tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu quả

Chia sẻ: Vo Manh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:33

90
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn tham khảo tài liệu Tài chính doanh nghiệp - Chương 18: Tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu quả để nắm bắt những kiến thức về các kiến thức lý thuyết cũng như kỹ năng trong việc tài trợ đối với doanh nghiệp và thị trường kinh doanh một cách hiệu quả.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài chính doanh nghiệp - Chương 18: Tài trợ doanh nghiệp và thị trường hiệu quả

  1. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả  TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP Chương 18: TÀI TRỢ DOANH NGHIỆP VÀ  THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ Mở đầu: Để mở đầu chương này, chúng ta bắt đầu từ việc  đối chiếu các quyết  định đầu tư và các quyết định tài trợ.  Mục đích khi trước ta giữ cho quyết định ngân sách vốn không đổi là để  tách rời các quyết định đầu tư  với các quyết định tài trợ. Tức là ta giả  định:   quyết định ngân sách vốn và quyết định tài trợ độc lập với nhau. Vậy giả định  này có hợp lý? Câu trả lời là tùy theo từng trường hợp cụ thể:  Trong nhiều trường hợp, giả định này là hợp lí.  Ví dụ:  Trường hợp quyết định đầu tư  không bị  chi phối bởi quyết   định tài trợ.  Thông thường khi doanh nghiệp đứng trước những cơ hội đầu tư   thì điều đầu tiên họ quan tâm là lựa chọn dự án nào để đạt được   NPV tối ưu nhất trong những dự án còn lại chứ không phải là việc   suy nghĩ dự án đó nhất thiết phải kết hợp với một nguồn tiền cụ   thể  nào đó. Tức là sau khi quyết định thực hiện dự  án đó họ  mới   đi đến bước kế tiếp là suy nghĩ về nguồn tài trợ. Trường hợp quyết  định tài trợ  không bị  chi phối bởi quyết   định đầu tư. Doanh nghiệp thường tự do thay đổi cấu trúc vốn của mình thông   qua các hoạt động mua bán hay phát hành chứng khoán. Và trên  
  2. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả thực tế hoạt động này không phải lúc nào cũng đòi hỏi cần có một   dự án đầu tư riêng biệt kèm theo.  Tuy nhiên, một số trường hợp, ta lại cần phải xem xét kết hợp cả  hai quyết định đầu tư và tài trợ. Ta sẽ xét chúng vào những chương phía  sau. Bây giờ, chúng ta sẽ  quay lại với việc đối chiếu hai quyết định đầu tư  và tài trợ. Dù quyết định đầu tư hay tài trợ thì mục tiêu của chúng đều hội tụ  về  một điểm chung, đó là  tối đa hóa NPV.    Thuật ngữ  “hiện giá thuần  khoản vay”   hay hiện giá thuần các cơ  hội tài trợ  nói chung có thể  là có vẻ  như xa lạ với chúng ta. Nhưng trong phần nội dung chính tiếp theo đây chúng   ta sẽ  đề  cập đến cách tính toán chúng. Bây giờ  chúng ta hiểu, đối với các cơ  hội tài trợ ta cũng tìm những cơ hội tài trợ có NPV dương giống như trong các   cơ  hội đầu tư. Nhưng những cơ  hội như  vậy là rất khó tìm kiếm bởi vì  thị  trường vốn rất hiệu quả. Do đó, rất khó làm tăng giá trị bằng các quyết định  tài trợ khôn khéo.  Vậy thị trường vốn hiệu quả thì tác động đến việc đó như thế nào?  Đó là: Trong thị trường hiệu quả, cạnh tranh gay gắt của những nhà   đầu tư loại bỏ các cơ hội tạo tỷ suất sinh lợi và làm cho các phát hành nợ   và vốn cổ phần được định giá công bằng. Chúng ta sẽ  định nghĩa rõ ràng hơn về  giả  thuyết thị  trường hiệu quả  trong phần 18.2. Sau đó các phần 18.3 và 18.4 tiếp theo sẽ đưa ra những chứng  cứ ủng hộ cũng như chống lại thị trường hiệu quả, và kết thúc tại sáu bài học   về thị trường hiệu quả. Trước tiên, như  đã nói  ở  trên, chúng ta sẽ  trở  lại với NPV, cách tính  “hiện giá khoản vay” và đưa ra những điểm khác biệt của quyết định đầu tư  và tài trợ.
  3. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả 18.1. Chúng ta luôn trở lại với NPV Tuy giả  định của chúng ta là quyết định đầu tư  và tài trợ  độc lập với  nhau nhưng chúng lại có điểm cơ  bản giống nhau trong tiêu chuẩn để  đưa ra  quyết định. Đó là việc tính toán hiện giá thuần. Điều đó la dễ  hiểu. Chẳng hạn khi ta quyết định mua một dây chuyền  mới hay quyết định bán một trái phiếu, ta điều phải định giá. Đó là hoạt động  định giá tài sản có rủi ro trong hai trường hợp khác nhau : tài sản thực và tài  sản tài chính. Cụ thể về tính hiện giá thuần của cơ hội tài trợ, chúng ta hãy cùng theo  dõi một ví dụ sau.  Theo chính sách khuyễn khích doanh nghiệp nhỏ  chính phủ  đề  nghị  cho doanh nghiệp bạn vay 100.000$ trong 10 năm với lãi suất 3% năm.   Doanh nghiệp bạn phải trả  lãi 3.000$  mỗi năm và nợ  gốc vào năm   cuối cùng.  Bạn có nên chấp nhận lời đề nghị này không ? Để  trả  lời câu hỏi này, chúng ta đi tính NPV của khoản vay theo   phương pháp thông thường. Đầu tiên chúng ta quan sát bảng bên.  Năm Dòng tiền ($) 0 +100.000 1 ­3.000 2 ­3.000 3 ­3.000 4 ­3.000 5 ­3.000 6 ­3.000 7 ­3.000 8 ­3.000 9 ­3.000 10 ­3.000
  4. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả Bảng.  Các   dòng   tiền   phát  sinh   hàng   năm  trong   10   năm   nếu   Doanh nghiệp chấp nhận khoản cho vay của Chính Phủ. Theo đó, tại năm 0, chúng ta nhận khoản vay 100.000$ nên dòng   tiền có dấu dương và những năm sau đó ta phải trả  lãi 3.000$ / năm  nên dòng tiền mang dấu dương biểu thị sự đi ra. NPV= Số tiền vay – PV (dòng lãi) – PV(nợ gốc)                           Trong đó, r : chi phí cơ hội của vốn. Muốn tính NPV ta phải biết r. Vậy cơ  sở nào để  ta xác định r  ?  Chúng ta sẽ  lập luận như sau : Khoản vay trên là một tìa sản tài   chính, vậy ta có thể đem bán chúng với giá bằng hiện giá của các   dòng tiền với suất chiết khấu là tỷ  suất sinh lợi của các chứng   khoán khác mà Doanh nghiệp bạn phát hành. Giả sử r=10%, ta có : NPV      = +43.012$. Vậy cơ hội này đáng giá 43.012$. Sự khác biệt giữa quyết định đầu tư và quyết định tài trợ : 1. Theo một cách nào đó, các quyết định đầu tư  đơn giản hơn các quyết  định tài  trợ. 2. Các quyết định tài trợ cũng dễ dàng lập hơn các quyết định đầu tư theo  nhiều cách. Bởi vì :
  5. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả Thứ nhất, các quyết định tài trợ dễ  đảo ngược do đó giá trị từ bỏ  cao  hơn. Thứ  hai, việc kiếm tiền hay mất tiền bởi các chiến lượt thông minh  hay ngu xuẩn cũng ít hơn. Bởi vi do tính chất cạnh tranh, khó tìm được  chính sách đầu tư nào có NPV khác 0 một cách đáng kể. 3. Đối với đầu tư : Các Doanh nghiệp không cho là mình đang đối mặt với thị  trường   cạnh tranh hoàn hảo. Do giới hạn trong một ngành kinh doanh và trong  cùng một khu vực địa lý, doanh nghiệp có ít đối thủ  cạnh tranh. Thêm   vào đó Doanh nghiệp lại tự  tin vào tài sản độc đáo riêng, do đó họ  kì   vọng tạo ra một siêu tỷ suất sinh lợi và tiềm kiếm những dự án có NPV   dương. 4. Đối với tài trợ : Trong thị  trường tài chính, thì đối thủ  cạnh tranh của Doanh nghiệp   bạn không chỉ bó hẹp trong phạm vi ngành hay khu vực địa lí mặc định  nào đó mà bao gồm tất cả các doang nghiệp cũng đang tìm kiếm nguồn  vốn như bạn kể cả các tổ chức thuộc khu vực công cần huy động tiền. Các nhà tài chính tài tử  thì nhìn thị  trường dưới những « phân đoạn »  khác nhau và tiền sẽ dịch chuyển từ phân đoạn này sang phân đoạn kia.   Những điểm rút ra sau ví dụ : 1. NPV của khoản nợ dương có nghĩa số  tiền ta huy động được lớn   hơn giá trị số nợ được tạo ra bởi khoản vay đó. 2. Nhưng nếu bán một chứng khoán phát sinh một giá trị NPV dương  cho người bán thì nó lại phát sinh một giá trị  NPV âm tương  ứng  cho người mua. 3. Vậy trong ví dụ  trên, tuy danh nghĩa là cho vay nhưng thực tế  là  Chính Phủ đã cấp cho doanh nghiệp một khoản trợ cấp 43.012$.
  6. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả 4. Câu hỏi đặt ra : Cơ  may doanh nghiệp tìm kiếm NPV dương từ  những hoạt động tài trợ  như  vậy trên thị  trường vốn là bao nhiêu  khi phải thuyết phục những nhà đầu tư mua chứng khoán phát sinh  NPV âm cho họ  của Doanh nghiệp bạn. Do đó, vấn đề  chúng ta   muốn nói đến là các doanh nghiệp nên chấp nhận những chứng  khoán mình phát hành ra được định giá một cách phải chăng do thị  trường vốn hoàn hảo. Chúng ta sẽ đi vào chủ đề chính đó là thị trường vốn hoàn hảo.
  7. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả 18.2 Một thị trường hiệu quả là gì ? 18.2.1. Một khám phá đáng kinh ngạc : Các thay đổi giá cả là ngẫu nhiên Năm 1963, nhà thống kê người Anh ­ Maurice Kendall đã phát hiện ra  hành vi của giá cả  chứng khoán và hàng hóa :  giá cả  cổ  phần và của hàng   hóa có vẻ đi theo một « bước ngẫu nhiên », và các chu kì giá thường xuyên   là không hiện hữu. Làm rõ khái niệm bước ngẫu nhiên : Chúng ta sẽ  chơi trò chơi gieo đồng xu. Ban đầu bạn có 100$.   Cuối mỗi tuần đồng xu được gieo lên nếu mặt ngửa, bạn thắng 3%,   nếu mặt sấp bạn mất 2.5%. Ta có thể  quan sát các kết quả  có thể  có sau 2 tuần gieo đồng   xu như sau : ½ khả  năng xuất hiện mặt sấp (thua 2,5%) và ½ khả  năng xuất   hiện mặt ngửa (3%). Vậy kết quả kì vọng của trò chơi này trong mỗi   lần tung đồng xu là : ½*(­2,5%)+1/2*(3%) = 0,25%
  8. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả Vậy ta nói quá trình này có bước ngẫu nhiên là 0,25%, vì cứ mỗi   tuần lại có một chuyển biến dương là 0.25%. Nó là bước ngẫu nhiên   bởi vì các thay đổi trong tuần nay độc lập với tuần trước đó. Hình 18.2 .  Mỗi một chấm trong hình biểu thị  cho sự  thay đổi giá cổ  phần  Microsoft trong nhiều ngày liên tục.  Đơn cử một chấm có vòng bao quanh ở góc phía Đông Nam nói lên  : chỉ  2 ngày mà một gia tăng 1%  theo sau bởi sự sụt giảm 1%. Nếu trên thực tế tồn   tại một xu hướng có hệ  thống là « theo sau sụt giảm sẽ là một sự  gia tăng »  thì trên hình sẽ  phải có nhiều chấm  ở  góc phía Đông Nam và ít chấm  ở  góc   phía Đông Bắc. Và như  ta quan sát thấy trên hình,  ủng hộ  cho giả định này là  rất ít. Bởi ta thấy được sự phân tác đều các chấm trên hình mô tả. 
  9. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả Để chính xác hơn trong đánh giá mối liên hệ cũng như việc kì vọng tìm  ra một mẫu hình cho sự  thay đổi giá cổ  phần của Microsoft, Maurice Kendall   đã tính toán  hệ  số  tương quan giữa thay đổi giá cả  mỗi ngày và ngày kế   tiếp. Kết  quả  tính ra  đó là +0,054. Con số  này nói lên : nếu giá cổ  phần  Microsoft tăng 1% cao hơn trung bình ngày hôm qua, dự đoán tốt nhất về thay  đổi giá cả  của ngày hôm nay đó là một gia tăng 0.054% cao hơn trung bình.   Khuynh hướng này là không đáng kể. Quan sát biểu đồ 18.2, ta thấy thay đổi giá cổ  phần Microsoft ngày hôm  nay hầu như không cho các nhà đầu tư manh mối nào về thay đổi giá cả trong   ngày mai. Nếu các bạn không tin thì chúng ta sẽ đi phân tích vào chính sự nghi   ngờ của bạn. Giả sử trên thị trường , sự thay đổi giá cổ phần được mong đợi liên tục   trong nhiều tháng và theo đó ta có thể dự báo trước chu kì của giá cả. Giá bắt  đầu   tháng   rồi   là   70$   đồng   thời   mong   đợi   giá   sẽ   lên   đến   90$.   Nhận   thấy  chuyển động đó, các nhà đầu tư sẽ đồng loạt đỏ dồn vào món hời này cho đến  khi cổ phần này cung ứng một tỷ suất sinh lợi thông thường. Nó mang tính tự  hủy diệt khi các nhà đầu nhận tư nhận  ra và như ngay lập tức nó bị hủy diệt   bởi loạt những động thái mua và bán. Hình 18.3.
  10. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả 18.2.2. Ba hình thức của thị trường hiệu quả : Từ  các phân tích  ở  trên ta thấy giá cả  trong một thị  trường cạnh tranh   phải đi theo một bước ngẫu nhiên.  Nếu các thay đổi giá cả trong quá khứ có thể sử dụng để dự đoán giá cả  tương lai thì các nhà đầu tư sẽ kiếm được những siêu tỷ suất sinh lợi dễ dàng  nhưng do thị  trường cạnh tranh nên những siêu tỷ  suất sinh lợi như  vậy là   không thể  kéo dài vì tính chất điều chỉnh ngay lập tức của giá cả  khi các nhà   đầu tư tận dụng những thông tin quá khứ. Và kết quả là tất cả thông tin về giá  cả quá khứ sẽ được phản ánh trong giá cổ phần hôm nay. A. Ba mức độ  của thị  trường hiệu quả : được phân biệt bởi mức độ   thông tin đã được phản ánh trong giá chứng khoán. 1. Hình thức hiệu quả yếu : Giá cả phản ánh sẵn thông tin của giá cả quá khứ ­giá cả theo một  bước ngẫu nhiên. Không thể  tạo ra được siêu tỷ  suất sinh lợi liên tục bằng nghiên  cứu tỷ suất sinh lợi trong quá khứ. 2. Hình thức hiệu quả vừa phải : Giá cả không những đã phản ánh thông tin của giá cả quá khứ mà  còn phản ánh tất cả các thông tin đã công bố khác. Giá cả  sẽ  điều chỉnh ngay lập tức trước những thông tin công  cộng như : đề nghị sáp nhập, công bố tỷ suất sinh lợi quý vừa qua,  phát hành cổ phần mới,… 3. Hình thức hiệu quả mạnh : Giá cả  phản ánh tất cả  thông tin có thể  có được bằng cách phân  tích thông tin tỉ mỉ về cả công ty và nền kinh tế.
  11. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả Chúng ta sẽ  quan sát thấy những nhà đầu tư  may mắn và không  may mắn nhưng không tìm thấy siêu giám đốc đầu tư  nào có thể  liên tục đánh bại thị trường. B. Phân loại chuyên gia phân tích : 1. Nhà phân tích cơ bản : Phân tích vi mô­ về kinh doanh của công ty để cố gắng phát hiện   ra khả năng sinh lợi để rọi ánh sáng mới vào giá trị cổ phần. Các sự cạnh tranh giữa các nhà phân tích cơ bản sẽ đảm bảo rằng  giá cả phản ánh tất cả các thông tin có liên quan, do đó sự thay đổi  giá cả là không thể dự đoán. Hình thức nghiên cứu  nguyên nhân  – gốc rễ  vấn đề  để  đưa ra  đánh giá trên giá cả hiện tại : nó được định giá cao hay thấp. 2. Nhà phân tích kĩ thuật : Phân tích vi mô + vĩ mô : nghiên cứu hồ sơ giá cả và tìm kiếm xu  hướng hay các chu kỳ. Sự nỗ lực của những nhà phân tích kỹ thuật sẽ đảm bảo rằng giá  cả  hiện tại phản ánh tất cả  các thông tin trong chuổi giá cả  quá  khứ, do đó sự thay đổi giá cả tương lai không thể dự báo được từ  các dữ liệu quá khứ. Hình   thức   nghiên   cứu  kết   quả  từ   đó   ước   lượng   và   đưa   ra   xu  hướng để dự báo các giá trị tương lai. C. Các thị trường hiệu quả : chứng cứ. Hình 18.4. Mỗi điểm trong các biểu đồ rải rác cho thấy tỷ suất sinh   lợi trong các tuần lễ kế tiếp của bốn chỉ số thị trường chứng khoán   giữa tháng 8/1987 và tháng 4/1998. Bốn chỉ số này là FTSE 100 (Anh),   chỉ  số  trung bình công nghiệp Dow Jones (Mỹ), DAX (Đức), và CAC   40 (Pháp).
  12. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả Các điểm rải rác rộng cho thấy rằng hầu như không có tương quan  giữa tỷ suất sinh lợi trong cùng một tuần và tuần kế tiếp. Để  thử  nghiệm hình thức yếu của thị  trường hiệu quả, các  nhà nghiên cứu đã sử dụng nhiều phương pháp : Đo lường khả  năng sinh lợi của một vài  quy luật giao dịch   mà các nhà phân tích kĩ thuật đã công bố tìm thấy. Thử  nghiệm  thống kê mô tả  như  trong hình  để  tìm kiếm  những mẫu mực tỷ  suất sinh lợi, mối quan hệ  giữa tỷ suất   sinh lợi chứng khoán trong các tuần lễ kế tiếp nhau. Kết quả đạt được từ những phương pháp nghiên cứu trên đó là có   vẻ  như  trên khắp thế  giới chỉ  có một vài mẫu mực   tỷ  suất sinh lợi từ   tuần này sang tuần khác. Hình 18.5. Giá cả  cổ  phần của công ty mục tiêu trước và sau ngày công   bố.
  13. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả Ta thấy giá cả của công ty mục tiêu tăng vọt vào ngày công bố nhưng từ  đó trở  đi không có chuyển động giá bất thường nào. Công bố  sáp nhập như  phản ánh đầy đủ vào giá cả ngay vào ngày công bố. Để  thử  nghiệm hình thức vừa của thị  trường hiệu quả, các  nhà nghiên cứu đã sử dụng  phương pháp : Đo lường  xem giá cả  chứng  khoán phản  ứng  nhanh  đến  mức nào đối với các mục tin tức khác nhau chẳng hạn như một lời   đề nghị sáp nhập trong hình phân tích ở trên. Kết quả : Đối với một thông tin sáp nhập : Giá cả  điều chỉnh  ngay lập tức tại thời điểm công bố (t=0). Thông báo thu nhập mới nhất : Điều chỉnh trong giá cả  sẽ xảy ra trong khoảng 5­10 phút sau khi thông báo.  Hình 18.6. Tỷ  suất sinh lợi hàng năm bình quân của 1.493 quỹ  hỗ  tương Mỹ   và chỉ số thị trường 1962­1992.
  14. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả Để  thử  nghiệm hình thức mạnh của thị  trường hiệu quả, các  nhà nghiên cứu đã sử dụng  phương pháp : So sánh tỷ suất sinh lợi của các quỹ hỗ tương hay hưu bổng   với tỷ suất sinh lợi trước và sau chi phí của một danh mục chuẩn  gồm những chứng khoán tương tự.
  15. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả Kết quả : tỷ  suất sinh lợi của các quỹ  thu được thấp hơn  các danh mục chuẩn sau chi phí và chỉ  vừa bằng các mức chuẩn  trước chi phí. Các  quỹ   quản  lí   chuyên  nghiệp   đã  từ   bỏ   việc  theo  đuổi  thành quả cao. Đổ lại họ tiến hành mua « tỉ số » để tối đa hóa việc  đa dạng danh mục và tối thiểu hóa chi phí quản lí danh mục.
  16. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả 18.3. Những bất thường thị trường Những bằng chứng thực nghiệm đã  đưa ra hàng loạt những bất thường  trong thị  trường, đây cũng chính là những bằng chứng giải thích cho tính kém  hiệu quả của thị trường. Nhưng chúng ta không thể  bác bỏ tính hiệu quả của   thị  trường một cách tuyệt đối. Chúng ta sẽ  đi tìm hiểu 3 bất thường đã là  những bài toán đố  thách thức cho các nhà nghiên cứu cả  lí thuyết lẫn thực  nghiệm về thị trường hiệu quả. 1. Hiệu ứng doanh nghiệp nhỏ: Bài toán từ thực nghiệm:  Khi quan sát trên thị trường Mỹ giai đoạn 1926­ 1997, người ta  nhận ra rằng khi đầu tư vào cổ phần các doanh nghiệp cùng với một  khoản đầu tư  như  nhau,  ở  đây để  đơn giản ta cho khoản đầu tư  đó  bằng 1$ thì kết quả  khi đầu tư  vào cổ  phần doanh nghiệp nhỏ  thì  đến năm 1997 đã tăng giá lên 5.520$, trong khi doanh nghiệp lớn chỉ  đem lại 1.828$.  Sự  bất thường là tỷ  suất sinh lợi một cách bất thường của  chứng   khoán   của   các   doanh   nghiệp   nhỏ.  Tại   sao   những   doanh   nghiệp nhỏ  có mức vốn hoá thị  trường thấp lại kiếm được lợi   nhuận vượt trội mặc dù các doanh nghiệp này có hệ  số  beta lớn   hơn, trong khi sự chênh lệch trong beta không đủ lớn để giải thích   sự  chênh lệch trong tỷ  suất sinh lợi?   Mà theo mô hình CAPM, tỷ  suất sinh lợi có mối tương quan xác định với beta của nó. Điều đó được giải thích bởi 3 lí do sau:
  17. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả Thứ nhất, có thể nhà đầu tư đã yêu cầu một tỷ suất sinh lợi   cao hơn khi đầu tư vào các doanh nghiệp nhỏ vì yếu tố rủi  ro nào đó mà không được ghi lại trong mô hình CAPM. Thứ hai, thành quả cao mà cá doanh nhiệp nhỏ đạt được có  thể  chỉ  là một sự  trùng hợp ngẫu nhiên. Nghĩa là sự  bất  thường   này   chỉ   giới   hạn   vùng   nghiên   cứu   nhỏ   hay   một  khoảng thời gian ngắn. Và một nghiên khác đã đưa ra những  bằng chứng cho sự ngẫu nhiên này. Bài nghiên cứu này chỉ  ra   rằng:   cho   đến   đầu   những   năm   1960,   cổ   phần   doanh   nghiệp nhỏ  và doanh nghiệp lớn là như  nhau. Trong những   năm gần đây, đã có một sự đảo ngược nghĩa là xảy ra hiệu   ứng doanh nghiệp lớn. Thứ  ba,  đây là một ngoại lệ  quan trọng của lí thuyết thị   trường hiệu quả. Ngoại lệ này đã cung cấp cho các nhà đầu  cơ hội để tạo một tỷ suất sinh lợi cao trong gần 2 thập kỉ.  2. Nhà đầu tư phản ứng chậm với thông tin mới: Các kiểm định về  tính hiệu quả của thị trường dựa trên thông  tin thường sử dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện. Ở chương này  ta nghiên cứu 2 sự kiện: phát hành cổ phần mới và công bố thu nhập. 3. Bài toán phát hành mới: Khi các doanh nghiệp lần đầu tiên phát hành cổ  phần ra công  chúng, các nhà đầu tư đổ xô đến mua. Họ hi vọng rằng, sẽ thực hiện   được lãi vốn ngay lập tức. Tuy nhiên, Loughran và Ritter chỉ  những   người đủ may mắn mới kiếm được món lãi sớm này. 
  18. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả Nhưng theo nghiên cứu thì các phát hành mới giữa 1970­ 1990,  họ  kết luận rằng các món lãi sớm này đã biến thành lỗ. Tổng cộng  trong 5 năm theo sau việc phát hành ra công chúng ban đầu, các cổ  phần thực hiện có thành quả  tệ  hơn 30% so với một danh mục cổ  phần của các doanh nghiệp có qui mô tương tự. Biểu đồ.  Tỷ suất sinh lợi từ 4.753 cung  ứng ra công chúng từ  năm 1970­ 1990 trong mỗi kì 5 năm theo sau phát hành, đối chiếu  với tỷ  suất sinh lợi từ  một mẫu các doanh nghiệp tương  ứng   không phát hành. Tại sao lại có sự  khác biệt về  lợi nhuận trung bình hằng   năm giữa hai công ty tương ứng nhau như vậy? 
  19. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  Tài trợ Doanh nghiệp và thị trường hiệu quả Câu trả lời có thể là: đối với doanh nghiệp phát hành cổ  phần  lần đầu các giám đốc tài chính vẫn chưa đủ  kinh nghiệm để  quản lí  và đầu tư  hiệu quả  từ  nguồn tài trợ  mới này. Trong khi đó, nguồn  vốn huy động được đã được các doanh nghiệp tương  ứng thực hiện   lên kế hoạch đầu tư và sử dụng ( thường vốn cổ phần sẽ được đầu  tư  dài hạn vào các dự  án an toàn, có NPV>0) nên xét trong 5 năm từ  sau khi doanh nghiệp lần đầu tiên phát hành thì lợi nhuận từ  nguồn   vốn từ việc phát hành lần đầu tiên thấp hơn là điều dễ hiểu. 4. Bài toán công bố tỷ suất sinh lợi : Đây là nghiên cứu kiểm định thị  trường loại vừa, nghĩa là khi  công bố thu nhập được đưa ra, thì ngay lập tức thông tin này sẽ được  phản ánh vào giá cổ  phần. Nhưng thực tế  quan sát thì không   như  vậy, khi một thông tin nào đó xuất hiện trên thị trường, về bản chất   thông tin đó đúng nhưng dưới con mắt phân tích của các nhà đầu tư  khác nhau, các thông tin đó được biểu hiện với các mức độ  và hình   thái khác nhau.  Thường  một điều mà các nhà đầu tư hay mắc phải là neo vào   các thông tin về thu nhập trước đó, tức là chịu  ảnh hưởng của hàng  loạt các thông tin trong quá khứ hơn. Trong khi, trong thị trường hiệu   quả  thông tin được đưa ra sẽ  không có một mối liên hệ  nào với các  thông tin đã được công bố trước đó. Có vẻ như nhà đầu tư đã không nhận biết ngay lập tức ý nghĩa  đầy đủ  của việc công bố thu nhập, và chỉ  nhận ra khi có thêm thông  tin. Biểu đồ. Tỷ  suất sinh lợi vượt trội khi có công bố  về  thông tin   thu nhập của doanh nghệp (%)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2