Tài liệu môn Thị trường ngoại hối
lượt xem 162
download
Tài liệu "Thị trường ngoại hối" sẽ giúp bạn nắm bắt lý thuyết chung về thị trường ngoại hối, thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam, giải pháp phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam trong bối cảnh hội nhập. Cùng tham khảo nhé.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tài liệu môn Thị trường ngoại hối
- A. Lý thuyết chung về thị trường ngoại hối. I.Khái niệm và đặc điểm của thị trường ngoại hối. 1. Khái niệm: -Thị trường ngoại hối (The Foreign Exchange Market, viết tắt là FOREX hay FX) là bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường tài chính. Thị trường tài chính gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ, trong đó, thị trường ngoại hối là một bộ phận của thị trường tiền tệ. Theo nghĩa rộng, thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động mua bán ngoại tệ, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá và công cụ thanh toán bằng ngoại tệ. Theo nghĩa hẹp, thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các giao dịch mua bán các loại ngoại tệ 2. Đặc điểm Thị trường ngoại hối là thị trường mua bán những hàng hóa đặc biệt, do đó, nó cũng mang những đặc điểm riêng biệt so với các loại thị trường khác, mà hai đặc điểm nổi bật là: Thứ nhất, là thị trường giao dịch mang tính quốc tế. Thị trường ngoại hối không đóng khung trong phạm vi một quốc gia mà lan rộng ra toàn cầu nhằm phục vụ cho các nhu cầu mua bán, giao dịch ngoại tệ. Thứ hai, thị trường ngoại hối là thị trường hoạt động liên tục 24/24 h/ngày. II.Phân loại thị trường ngoại hối: a. Căn cứ vào tính chất giao dịch 1.Thị trường giao ngay ( spot transactions ) 2.Thị trường phái sinh ( derivatives transactions) *Thị trường kỳ hạn (forwards transactions *Thị trường hoán đổi (swaps transactions) *Thị trường tương lai ( futures transactions) *Thị trường quyền chọn( options transactions) b. Căn cứ vào tính chất kinh doanh 1.Thị trường liên ngân hàng ( Interbank). 2.Thị trường giữa ngân hàng với khách hàng c. Căn cứ theo tính chất pháp lý 1.Thị trường chính thức ( thị trường hợp pháp). 2.Thị trường phi chính thức ( thị trường chợ đen, thị trường ngầm). d. Căn cứ vào quy mô thị trường 1.Thị trường ngoại hối quốc tế 2.Thị trường ngoại hối nội địa e. Căn cứ vào phương thức giao dịch 1.Thị trường giao dịch trực tiếp ( Direct Interbank). 2. Thị trường giao dịch qua môi giới ( Indirect Interbank). f. Căn cứ vào địa điểm giao dịch 1
- 1. Giao dịch tập trung trên sở giao dịch ( Exchange). 2. Giao dịch phi tập trung ( OTC). III. Chức năng của thị trường ngoại hối - Cọ sát cung cầu về ngoại tệ, thỏa mãn nhu cầu khác nhau về ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu về khả năng thanh toán, hạn chế rủi ro trong các hoạt động kinh doanh ngoại tệ và bằng ngoại tệ. - Hoạt động của thị trường ngoại hối là cơ sở hình thành và điều tiết tỉ giá. - Là công cụ điều tiết sự di chuyển của các luồng vốn ngắn hạn bằng ngoại tệ. IV. Những chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường ngoại hối 1. Các đối tượng khách hàng ( cá nhân, tổ chức có nhu cầu về ngoại tệ) 2. Các trung gian tài chính : các sàn giao dịch, các NHTM và các thể chế trung gian tài chính khác. 3. Cơ quan quản lý của nhà nước: NHTW các nước... 4. Các nhà môi giới tự do. 5. Các nhà đầu tư ngoại tệ. Trong đó: -NHTW vừa đóng vai trò là chủ thể đặc biệt hoạt động trên thị trường ngoại hối, vừa đóng vai trò là người tổ chức, quản lý, điều hành, vừa trực tiếp tham gia giao dịch nhằm thực thi chính sách tiền tệ, chính sách tỉ giá. -NHTM là các chủ thể chủ yếu hoạt động trên thị trường ngoại hối và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đóng vai trò là hạt nhân của thị trường ngoại hối. -Các nhà môi giới là trung gian giữa các ngân hàng, qua đó góp phần tích cực vào hoạt động của thị trường bằng cách làm cho cung cầu về ngoại tệ tiếp cận với nhau. -Khách hàng giao dịch mua bán lẻ ( tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân ) tham gia giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán, kinh doanh, đầu cơ. V. Mô hình tổ chức hoạt động của thị trường ngoại hối Thị trường bán lẻ Thị trường liên ngân hàng Thị trường bán lẻ ( Retail Market) ( Retail Market) NHTW Công ty, Công ty, NHTM NHTM Cá nhân Cá nhân ( Interbankgiới Môi Market) 2
- VI. Xu hướng phát triển của thị trường ngoại hối quốc tế. Năm 2007, theo khảo sát của BIS, doanh số giao dịch bình quân ngày của thị trường ngoại hối thê giới là 3200 tỉ USD. Nếu tính cả doanh số của thị trường các sản phẩm phái sinh phi truyền thống, doanh số giao dịch bình quân ngày lên đến 3600 tỉ USD. Thị trường ngoại hối ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung. Nền kinh tế thế giới càng ngày càng bùng nổ, thị trường ngoại hối cũng theo đó sẽ có những bước phát triển mới trong tương lai. Có thể chỉ ra vài xu hướng phát triển của thị trường ngoại hối thế giới như - Củng cố và tập trung thị phần: thị phần của các tổ chức kinh doanh ngoại hối lớn ngày càng tăng. Năm 2008, 10 nhà kinh doanh ngoại hối lớn nhất thế giới đã chiếm gần 80% tổng doanh số giao dịch. Dưới đây là danh sách 10 nhà kinh doanh ngoại hối lớn nhất thế giới. Top 10 currency traders % of overall volume, May 2010 Rank Name Market share 1 Deutsche Bank 18.06% 2 UBS AG 11.30% 3 Barclays Capital 11.08% 4 Citi 7.69% 5 Royal Bank of Scotland 6.50% 6 JPMorgan 6.35% 7 HSBC 4.55% 8 Credit Suisse 4.44% 9 Goldman Sachs 4.28% 10 Morgan Stanley 2.91% 3
- -Hệ thống giao dịch điện tử và internet: Tỉ trọng giao dịch ngoại hối thông qua hệ thống giao dịch điện tử và internet ngày càng cao, ước tính đến năm 2010, lên đến 80% tổng giao dịch. -Những công cụ ngoại hối phái sinh mới, hiện đại phát triển mạnh mẽ, chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong tổng giao dịch của thị trường. B. Thị trường ngoại hối Việt Nam. I. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam. 1. Giai đoạn trước 1991 Đặc trưng của giai đoạn trước năm 1991 là Việt Nam phát triển kinh tế hướng nội, đóng cửa, nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương và ngoại hối. Với cơ chế như vậy đã triệt tiêu môi trường và mọi điều kiện cho sự hình thành và phát triển các thị trường nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng. Lúc này, ngoại tệ thu được từ hoạt động ngoại thương được nắm giữ bởi Nhà nước nhằm phục vụ cho những mục đích khác nhau theo kế hoạch Nhà nước. Các doanh nghiệp tạo ra thu nhập bằng ngoại tệ có thể giữ một tỉ lệ xác định cho hoạt động của họ theo kế hoạch được Nhà nước giao, phần còn lại phải bán cho Ngân hàng. Doanh nghiệp và cá nhân có thể mua ngoại tệ từ ngân hàng nhưng phải được nhà nước chấp thuận. Trước 1989, chế độ tỉ giá của Việt Nam là chế độ tỉ giá cố định và đa tỉ giá. Ứng với mỗi loại giao dịch khác nhau, nhà nước quy định một loại tỉ giá khác nhau: tỉ giá mậu dịch, tỉ giá phi mậu dịch, tỉ giá kết toán nội bộ và tỉ giá kiều hối. Các tỉ giá chính thức thường đ ịnh giá quá cao đồng Việt Nam, như những năm 1987, 1988, tỉ giá USD/VND ở thị trường chợ đen cao gấp 5, 6 lần tỉ giá mậu dịch trên thị trường chính thức. Trước yêu cầu đổi mới, 26/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành nghị định 53/HĐBT về việc tách hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp, bao gồm NHNN và hệ thống các NHTM. Trong đó, NHNN thực hiện chức năng quản lý vĩ mô, ban hành chính sách tiền tệ, tín dụng và ngân hàng. Hệ thống NHTM thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và tín dụng, trong đó chỉ duy nhất NH Ngoại thương được phép hoạt động và kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế và mở tài khoản ở nước ngoài, còn các ngân hàng khác chỉ đ ược phép hoạt động trong nước. Như vậy, cho đến thời điểm sau khi có nghị đ ịnh 53/HĐBT thì một thị trường ngoại hối có tổ chức ở Việt Nam vẫn chưa được hình thành. Nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới đất nước, ngày 18/10/1988, HĐBT đã ban hành nghị định 161/HĐBT về Điều lệ Quản lý ngoại hối. Một trong những điểm mới về quản lý và kinh doanh ngoại hối theo tinh thần của nghị đ ịnh 161 là : “ Nhà nước CHXHCN Việt Nam thông qua NHNN thực hiện thống nhât quản lý nhà nước về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. Mọi việc kinh doanh 4
- ngoại hối đều được thực hiện theo quy định của NHNN. NH Ngoại thương là cơ quan được phép kinh doanh ngoại hối. Ngoài ra, các ngân hàng chuyên doanh khác, các ngân hàng liên doanh với nước ngoài, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, cá tổ chức kinh tế trong nước muốn kinh doanh ngoại hối hoặc dịch vụ thu ngoại tệ đều phải được NHNN Viêt Nam cho phép.” Như vậy, có thể nói, lần đầu tiên ở Việt Nam, thế độc quyền trong kinh doanh ngoại hối đã được dỡ bỏ. Đây được xem như sự khởi đầu, tạo ra môi trường và điều kiện cho hoạt động của thị trường ngoại hối có tổ chức, hình thành một sân chơi chứa đựng yếu tố cạnh tranh của thị trường. Trong thực tế, trước yêu cầu phát triển các nghiệp vụ Ngân hàng quốc tế, NHNN đã lần lượt cấp giấy phép kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế... cho hầu hết các NHTM hoạt động ở Việt Nam. 2. Giai đoạn 1991-1994 Hình thành trung tâm giao dịch ngoại tệ - bước khởi đầu của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Trước năm 1991, thị trường ngoại hối tập trung chưa hình thành. Đến tháng 3/1989, Nhà nước áp dụng chế độ một tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt theo sát giá thị trường, tạo tiền đề cần thiết cho sự hình thành của thị trường ngoại hối. Ngày 16/8/1991, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 107-NH/QĐ về việc ban hành Qui chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ. Sau khi quy chế được ban hành, hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội ( 11/1991) và TP Hồ Chí Minh (8/1991) đã được thành lập. Như vậy, năm 1991 là năm đánh dấu sự hình thành nền móng một thị trường ngoại hối có tổ chức ở Việt Nam. Việc thành lập hai trung tâm đã đánh dấu bước ngoặt đầu tiên của hệ thống ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự theo hướng thị trường. Hai trung tâm này là tiền thân của thị trường ngoại hối Việt Nam hiện nay. Mục tiêu cơ bản của việc hình thành Trung tâm giao dịch ngoại tệ là nhằm hình thành một thị trường ngoại hối có tổ chức giữa các ngân hàng và các tổ chức kinh tế. Đồng thời qua hoạt động của Trung tâm, Ngân hàng Nhà nước có thể nắm bắt được cung cầu thực tế về ngoại tệ và có thể xác định được một tỷ giá hối đoái tương đối hợp lý, phản ánh sức mua thực tế của Đồng Việt Nam so với các ngoại tệ khác. Thành viên tham gia Trung tâm, bao gồm: Ngân hàng Nhà nước, các Ngân hàng thương mại và các tổ chức kinh tế được phép kinh doanh xuất nhập khẩu và các tổ chức được phép kinh doanh dịch vụ thu ngoại tệ. Lúc đầu Trung tâm chỉ tiến hành giao dịch 1 buổi/1 tuần, sau đó tăng lên 3-4 buổi /tuần. Trung tâm giao dịch ngoại tệ lúc đầu chỉ tổ chức ở TP Hồ Chí Minh, sau đó, tổ chức thêm một Trung tâm giao dịch tại Hà Nội. Tỷ giá áp dụng thanh toán khi kết thúc phiên giao dịch là tỷ giá được ấn định khi đạt được cân bằng giữa cung và cầu ngoại tệ. Hoạt động của Trung tâm từ năm 1991-1994 là cơ bản đã đạt được những mục tiêu: 5
- + Bước đầu đã hình thành được phương thức xác định tỷ giá linh hoạt dựa trên cung cầu về ngoại tệ tại các Trung tâm; + Tỷ giá được hình thành thông qua hoạt động của Trung tâm tương đối sát với cung cầu về ngoại tệ và phản ánh tương đối khách quan sức mua của đồng Việt Nam và được thị trường chấp nhận; + Thông qua các phiên giao dịch Ngân hàng Nhà nước nắm bắt kịp thời cung cầu ngoại tệ để có những biện pháp thích hợp xác định tỷ giá VND phù hợp với yêu cầu của chính sách tiền tệ. Tuy đạt được những thành công nhất định ban đ ầu, nhưng đây mới chỉ là mô hình sơ khai, mang tính thử nghiệm chuẩn bị cho sự hình thành của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Do đó không thể tránh khỏi những hạn chế, tồn tại: +Tính thiết thực của nó đối với người tham gia không cao, các phiên họp rời rạc, mua bán qua trung gian mất chi phí, thủ tục rườm rà, phương thức mau bán không thuận lợi như phải có mặt, dăng kí và chờ đợi. + Qui mô hoạt động của Trung tâm còn nhỏ hẹp, mới chỉ có 4 ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ tham gia giao dịch trên thị trường. Do đó, hoạt động của Trung tâm không phản ánh một cách không chính xác cung-cầu về ngoại tệ của nền kinh tế. + Cơ chế thanh toán qua Trung tâm giao dịch ngoại tệ chưa khuyến khích các ngân hàng thương mại bán ngoại tệ tại Trung tâm. Bởi vì bán một khoản ngoại tệ lớn thì phải chia nhỏ ra từng đơn vị mua. Trong khi đó, nếu các đơn vị kinh tế mua lại không có tài khoản giao dịch tại ngân hàng thì việc thu hồi số tiền bằng VND rất phức tạp và thường không đáp ứng được nhu cầu của NHTM. Vì vậy, các NHTM thường bán ngoại tệ cho NHNN bên ngoài phiên giao dịch, sau đó, tại các phiên giao dịch, NHNN bán lại ngoại tệ cho các đơn vị kinh tế, và điều này đã biến NHNN thành trung gian mua bán giữa NHTM và các đơn vị kinh tế, làm lu mờ vai trò điều tiết của NHNN. Điều này đã giải thích tại sao các sàn giao dịch chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong tổng cung và cầu ngoại tệ của nền kinh tế. Trong suốt thời gian tồn tại của mình, tổng giá trị giao dịch của hai trung tâm được ghi nhận là 660,5 triệu USD , nhỏ hơn 3% tổng doanh thu xuất nhập khẩu trong suốt thời kì tương ứng, với giá trị khoảng 22 tỉ USD ( 1992-1994) + Sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động của Trung tâm còn thiếu linh hoạt, nhiều khi làm cho quan hệ cung cầu về ngoại tệ bị bóp méo. Do những hạn chế nêu trên, đòi hỏi phải có mô hình mới thay thế mô hình Trung tâm giao dịch ngoại tệ. Đó chính là mô hình thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Từ hoạt động thực tế của hai trung tâm, những tín hiệu tích cực từ hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và nhu cầu phát triển một thị trường ngoại hối hoàn chỉnh ở Việt Nam, Thống đốc NHNN Việt Nam đã quyết định chấm dứt hoạt động của hai trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh từ ngày 1/12/1994. 6
- 3. Giai đoạn 1994-1999: Giai đoạn hình thành của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Ngày 20/9/1994, Quyết định 203A/QĐ-NH13 về Quy chế tổ chức và hoạt động của Thị trường Ngoại tệ liên ngân hàng đã chính thức được ban hành. Ngày 15/10/1994, Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam bắt đầu đi vào hoạt động với 23 thành viên. Thị trường Ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam ra đời là nhằm mục đích: + Hình thành thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các Ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ làm cơ sở cho việc triển khai thị trường hối đoái hoàn chỉnh theo tinh thần của Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước. + Ngân hàng Nhà nước sử dụng có hiệu quả Quỹ dự trữ ngoại tệ với tư cách là người bán và người mua cuối cùng. Việc hình thành Thị trường Ngoại tệ liên ngân hàng đánh dấu một bước phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam. Đây là mô hình giao dịch kinh doanh ngoại tệ tiên tiến hơn hẳn mô hình Trung tâm giao dịch ngoại tệ về: Qui mô và doanh số hoạt động, số lượng thành viên tham gia, cơ chế xác định tỷ giá, phương thức giao dịch, vai trò điều tiết của Ngân hàng Nhà nước… 4. Giai đoạn 1999 đến nay: Hoàn thiện hoạt động của Thị trường Ngoại tệ liên ngân hàng. - Để tiếp tục hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, vào ngày 26/3/1999, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành qui chế mới về tổ chức và hoạt động của Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo Quyết định số 101/1999/QD-NHNN13 thay thế cho Quyết định số 203A/QD-NH13. - Sau thời kỳ hoạt động thiếu ổn định, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đã từng bước đi vào hoạt động một cách có hiệu quả, ngày càng chứng tỏ vai trò cầu nối cung - cầu ngoại tệ giữa các Tổ chức tín dụng: + Thông qua thị trường, Ngân hàng Nhà nước phần nào nắm bắt được diễn biến của cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế, từ đó có những can thiệp khi cần thiết nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. + Hoạt động kinh doanh ngoại hối giữa các ngân hàng trên thị trường ngoại tệ tương đối sôi động. Cơ chế kinh tế ngày càng thông thoáng đã mang lại nhiều nguồn ngoại tệ cho đất nước. Lượng ngoại tệ các Ngân hàng thương mại mua được từ các nguồn khác nhau tăng lên rõ rệt. Nguồn ngoại tệ thu hút được không những giúp Ngân hàng Nhà nước đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về ngoại tệ cho nền kinh tế và tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước mà còn góp phần giảm bớt hiện tượng đôla hóa trên thị trường. + Bên cạnh các giao dịch mua bán giao ngay, các ngân hàng thương mại đã và đang thực hiện một số các nghiệp vụ giao dịch ngoại hối mới như: giao dịch kỳ hạn, giao dịch hoán đổi, giao dịch quyền chọn…nhằm giảm thiểu rủi ro tỷ giá và tăng lợi nhuận. 7
- + Từ chỗ chỉ có 9 ngân hàng (1991) đến nay thị trường liên ngân hàng có 71 thành viên gồm 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 22 ngân hàng nước ngoài, 40 ngân hàng cổ phần và 5 ngân hàng liên doanh (số liệu tính đến tháng 12/2009). Từ năm 2005 đánh dấu sự phát triển vượt bậc hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần ở nước ta cả về quy mô và chất lượng. Cùng với việc đồng loạt tăng vốn điều lệ, các ngân hàng thương mại cổ phần cũng tiến hành mở rộng quy mô, đa dạng hóa các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng nói chung và các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng nói riêng. Trong giai đoạn này, tuy đã có những bước phát triển đáng kể, song về cơ bản quy mô và phạm vi thị trường còn hẹp, hoạt động linh hoạt chưa cao; chưa phản ánh đúng quan hệ cung cầu về ngoại tệ của nền kinh tế, tình trạng mất cân đối, căng thẳng về cung cầu ngoại tệ vẫn xảy ra gây ảnh hưởng không nhỏ đến ổn định kinh tế vĩ mô và các hoạt động của nền kinh tế. II. Thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam. 1. Thực trạng môi trường pháp lý cho hoạt động ngoại hối. 1.1.Chính sách tỷ giá Chính sách tỷ giá là một trong những chính sách vĩ mô quan trọng của mỗi quốc gia. Nó không chỉ liên quan trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, vấn đề nợ quốc gia, mà nó còn ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như các ngân hàng. Cơ chế điều hành tỉ giá ở Việt Nam, theo thời gian đã từng bước được đổi mới theo hướng linh hoạt có quản lý của Nhà nước, được thực thi trên cơ sở hoạt động của thị tr ường NTLNH. Cơ chế điều hành tỉ giá này về cơ bản là phù hợp với điều kiện nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, so với diễn biến thị trường trong nước và quốc tế, chính sách tỉ giá của Việt Nam còn khá cứng nhắc, kém linh hoạt. - Tỉ giá giao dịch chính thức, tỉ giá hình thành trên thị trường NTLNH chưa phản ánh sát cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối mà nguyên nhân từ mức tỉ trọng thấp của doanh số thị trường liên ngân hàng và thêm vào đó là tính ch ất độc quyền của NHNN trong việc tính toán, điều hành và thông báo tỉ giá bình quân trên thị trường NTLNH. Xu hướng chung của VND kể từ khi đổi mới kinh tế năm 1986 tới nay là sự tăng lên của tỉ giá USD/VND, phản ánh sự giảm giá trị của VND so với USD. Trong đó, có hai thời kỳ mà VND dao động mạnh là 1985- 1991 và 1997-2003. Hai thời kì mà VND khá ổn định là 1991-1997 và 2003-2007. Giai đoạn 2007-2008 chứng kiến sự giảm giá của USD so với VND. Nhưng từ 2009 đến nay thì tỉ giá USD/VND đã tăng mạnh. Nhìn chung, tỉ giá chính thức và tỉ giá thị trường tự do luôn tồn tại sự khác biệt. - Chế độ tỉ giá còn chưa linh hoạt. Biên độ dao động tỉ giá mà NHNN cho phép ở mức quá hẹp ( hiện nay ở mức ±3%) và cũng không phản ánh đúng thực tế của tình hình cung cầu ngoại tệ. Do đó, đã hạn chế tính chủ động của các NHTM, gây khó khăn cho các NHTM trong các giao dịch ngoại hối với khách hàng, khi 8
- mà ngân hàng dường như chưa bao giờ niêm yết ở tỉ giá bằng tỉ giá chính thức, mà thay vào đó, hoặc phải niêm tỉ giá bán USD/VND ở mức áp trần, hoặc phải niêm yết tỉ giá mua USD/VND ở mức áp sàn. Cùng với đó, để tránh lỗ tỉ giá, các ngân hàng còn phải sử dụng các biện pháp lách trần, như tính thêm những khoản phụ phí cho khách hàng, sử dụng đồng tiền thứ 3 để quy đổi tỉ giá USD/VND... Allow a ble Va ria tions a round Offic ia l Exc ha nge Ra te , Ma r 198 9 - J une 2009 9% Upper band A s ian Lo wer band F inanc ial C ris is 4% -1% Wo rld F inanc ial C ris is -6% F eb 1999 A ug 1991 - 11% - Chế độ tỉ giá ở Việt Nam hiện nay được thông báo là chế độ tỉ giá thả nổi có điều tiết ( managed float). Yếu tố thả nổi ở đây được cho là: NHNN không thiết lập, công bố tỉ giá chính thức ( điều diễn ra trước năm 1999 ), mà chỉ thông báo tỉ giá bình quân trên thị trường NTLNH, được xác định dựa trên cơ sở quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng trong ngày giao dịch trước đó. Yếu tố điều tiết ở đây là: tỉ giá được phép dao động trong một biên độ xác định, được quy định bởi NHNN; NHNN đóng vai trò là chủ thể tham gia quan trọng trên thị trường ngoại hối nhằm mục đích thực hiện chính sách tiền tệ, và đặc biệt, có quyền sử dụng các biện pháp kinh tế và cả các biện pháp hành chính để can thiệp vào thị trường ngoại hối. Tuy gọi là thả nổi có điều tiết nhưng yếu tố “thả nổi” của Việt Nam dường như cũng bị kiểm soát, khi mà tỉ giá bình quân liên ngân hàng là do NHNN độc quyền tính toán và công bố. Rõ nhất trong đợt điều chỉnh tỉ giá vừa qua, NHNN đã quyết định nâng tỉ giá bình quân liên ngân hàng lên, từ 18.544 ngày 17/8/2010 lên 18.932 18/8/2010. So với tỷ giá bình quân liên ngân hàng ngày 17/8, tăng thêm 388 đồng/USD (tương ứng tăng 2,09%). Như vậy, NHNN cũng nắm quyền quy định đối với tỉ giá bình quân liên ngân hàng, tỉ giá mà về mặt lý thuyết là do cung cầu trên thị trường quyết định. Và do đó, xét về bản chất thì chế độ tỉ giá của Việt Nam gần với chế độ tỉ giá cố định có thể điều chỉnh (adjustable peg) hơn là chế độ tỉ giá thả nổi có điều tiết. NHNN đã duy trì quá lâu cơ chế tỉ giá ổn định đã không phản ánh đúng quan hệ cung cầu và lệch khá xa với tỉ giá thị trường không chính thức. Cái giá phải trả cho chính sách ổn định tỉ giá là NHNN phải mất đi dự trữ ngoại hối do phải liên tục tung 9
- USD ra thị trường can thiệp để giữ cho tiền đồng ổn định. Đến khi dự trữ ngoại hối thâm hụt quá nhiều thì NHNN lại liên tục để cho tiền đồng mất giá mạnh. Chính sách tỉ giá cứng nhắc, không linh hoạt đã dẫn đến tình trạng căng thẳng cung cầu ngoại tệ, ách tắc trong luân chuyển các luồng vốn ngoại tệ, gây khó khăn trong kinh doanh ngoại tệ của các NHTM và đáp ứng nhu cầu giao dịch ngoại tệ của các doanh nghiệp cũng như dân cư. 1.2. Chính sách quản lý ngoại hối. Hệ thống văn bản pháp lý chủ yếu về quản lý ngoại hối được hoàn thiện về căn bản phù hợp với yêu cầu hội nhập, đặc biệt là việc ban hành Pháp lệnh ngoại hối 2005 và các văn bản hướng dẫn. Được ban hành vào ngày 13/12/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/6/2006, Pháp lệnh Ngoại hối số 28/2005/PL- UBTVQH11 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội (“Pháp lệnh 28”) đã tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động ngoại hối, trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Tuy vậy, các văn bản hướng dẫn cụ thể đối với hoạt động kinh doanh ngoại hối, hoạt động của thị trường liên ngân hàng... ban hành còn chưa đầy đủ, chậm bổ sung, sửa đổi so với yêu cầu phát triển của thị trường ngoại hối và hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Mặc dù đã có hiệu lực kể từ ngày 1/6/2006, cho đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn nào quy định riêng về việc quản lý ngoại hối của FIEs (doanh nghệp có vốn đầu tư nước ngoài) để thay thế Thông tư 04/2001/TT-NHNN ngày 18/5/2001 của NHNN (“Thông tư 04”). Nói cách khác, việc quản lý ngoại hối của FIEs hiện nay vẫn chịu sự điều chỉnh của Thông tư 04. Thông tư 04 điều chỉnh hoạt động ngoại hối của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hoạt động ngoại hối bao gồm mở và sử dụng tài khoản tại ngân hàng trong và ngoài nước; chuyển đổi ngoại tệ; chuyển vốn vào và ra khỏi Việt Nam; chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; tỷ giá và thông tin báo cáo. Nghị định 160/2006/NĐ-CP về giao dịch ngoại hối đã được ban hành từ tháng 12/2006 nhưng đến nay, mới chỉ có 1 trong số 13 thông tư hướng dẫn Nghị định được ban hành. Đại diện cho hơn 30 tập đoàn tài chính quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam đã phải lên tiếng thúc giục NHNN nhanh chóng ban hành các thông tư còn lại. Bên cạnh đó, tính nghiêm minh trong việc thực thi các quy đ ịnh của pháp luật liên quan đến quản lý ngoại hối ở Việt Nam cũng là một vấn đề cần bàn đến. Pháp lệnh ngoại hối hướng đến mục tiêu: trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam ( Điều 3, Pháp lệnh ngoại hối). Điều 22 trong Pháp l ệnh cũng quy định rõ: “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán 10
- thông qua trung gian gồm thu hộ, uỷ thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép.” Như vậy, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo trên đất nước Việt Nam dùng ngoại tệ đều là bất hợp pháp ( trừ những giao dịch mà Pháp lệnh cho phép ). Nhưng có thê thấy, nhiều cửa hàng, đặc biệt là các cửa hàng điện tử, các trang web bán hàng qua mạng,... vẫn niêm yết công khai giá bán bằng cả USD và VND mà không bị xử lí. Công tác quản lý các giao dịch mua bán ngoại tệ, đặc biệt là trên thị trường chợ đen còn kém hiệu quả, dẫn đến tình trạng hoạt động sôi động của thị trường này. Và hiện tượng dollar hóa ở Việt Nam hiện nay một phần nào đó chính là do công tác quản lý ngoại hối ở Việt Nam còn nhiều y ếu kém. 1.3. Chính sách quản lý hoạt động kinh doanh ngoại hối của NHTM Kể từ ngày 8/12/2004, Quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN điều chỉnh giao dịch hối đoái của các tổ chức tín dụng (TCTD) được phép hoạt động ngoại hối đã chính thức có hiệu lực thi hành và thay thế Quy ết định số 17/1998/QĐ-NHNN7 về Quy chế giao dịch hối đoái năm 1998. Với những điểm đổi mới cơ bản về tư duy quản lý của NHNN trong việc thực hiện các giao dịch hối đoái và nhằm thúc đẩy sự phát triển thị trường ngoại hối VN, việc đưa vào thực thi Quyết định mới này đã làm cho thị trường ngoại hối VN có bước phát triển vượt bậc cả về chất lượng và quy mô. Thị trường ngoại hối đông đảo, sôi động hơn, linh hoạt, thông thoáng hơn, tự chủ hơn và cũng an toàn hơn. Theo đó, trước đây, trong số các thành viên tham gia thị trường ngoại hối, chỉ có các TCTD và các tổ chức kinh tế mới được phép thực hiện giao dịch hối đoái hoán đổi và kỳ hạn, còn các tổ chức khác và cá nhân chỉ được phép thực hiện các giao dịch hối đoái giao ngay. Nay theo quyết định mới ban hành, cả các tổ chức khác và cá nhân cũng được phép tham gia vào hầu hết các loại hình giao dịch hối đoái có trên thị trường như giao ngay, kỳ hạn và quyền lựa chọn tiền tệ. Quyết định mới về giao dịch hối đoái này không quy định quá chi tiết, chặt chẽ và áp đặt các nội dung về kỹ thuật giao dịch, điều khoản hợp đồng, đặt cọc, phí giao dịch và xử lý vi phạm như trước kia mà chỉ nêu ra định nghĩa và các nguyên tắc chung, còn nội dung cụ thể để cho các TCTD và khách hàng tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm trên cơ sở phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm đ ề cao tính tự chủ, linh hoạt của các TCTD và khách hàng trong quá trình giao dịch. Cả quy định trước đây về điều kiện và thủ tục xin cấp giấy phép giao dịch kỳ hạn, hoán đổi cũng được bãi bỏ. Theo quyết định mới, mọi TCTD được phép hoạt động ngoại hối theo giấy phép của NHNN đều được phép thực hiện mọi loại hình giao dịch hối đoái hiện có trên thị trường, bao gồm giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền lựa chọn, chứ không cần phải xin các giấy phép con cho từng loại hình giao dịch cụ thể như trước đây. 11
- Đồng thời, quyết định này đã thể hiện sự thay đổi lớn trong tư tưởng quản lý của NHNN theo hướng tạo sự thông thoáng hơn nữa cho thị trường thông qua việc cho phép thực hiện các giao dịch hoán đổi và chuyển đổi ngoại tệ mà không cần xuất trình chứng từ nhằm tăng khả năng chu chuyển ngoại tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế và tháo gỡ vướng mắc bấy lâu nay trong giao dịch của các thành viên thị trường ngoại hối. Quyết định mới không chỉ nới lỏng những quy định về kiểm soát trên thị trường mà còn cung cấp cho thị trường thêm một công cụ phòng ngừa rủi ro về tỷ giá, lãi suất mới, hứa hẹn có hiệu quả thiết thực cao, đó là Quy ền l ựa chọn tiền tệ (Option). Mặc dù đây là một loại hình giao dịch hối đoái và công cụ phòng ngừa rủi ro phổ biến và được ưa chuộng rộng rãi trên thị trường ngoại hối quốc tế, nhưng lại mới là lần đầu tiên giao dịch này được phép chính thức đưa vào sử dụng trên thị trường ngoại hối VN. Nó sẽ giúp cho các thành viên thị trường, đặc biệt là các doanh nghiệp yên tâm hơn và chủ động trong nhu cầu và chi tiêu ngoại hối, tránh được những rủi ro quá lớn do biến động tỷ giá, lãi suất, thậm chí có thể kiếm lời và bảo toàn nguồn vốn từ việc thực hiện giao dịch này. Đây thực sự là một công cụ hữu hiệu để các thành viên thị trường ngoại hối phòng ngừa rủi ro hối đoái. Đặc biệt, khi thực hiện các giao dịch này, họ cũng không cần phải xuất trình các chứng từ chứng minh nhu cầu sử dụng ngoại tệ, do đó đây cũng là một công cụ đắc lực để các thành viên thị trường bảo toàn và kiếm lời trên nguồn vốn ngoại tệ nếu họ khéo biết tính toán. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã đưa ra một số quyết định quan trọng như: -Quyết định số 504/QĐ-NHNN ngày 07/03/2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Về việc ban hành một số quy định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối, -Thông tư số 03/2008/TT-NHNN ngày 11/04/2008 Hướng dẫn về hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối của Tổ chức tín dụng. - Quyết định số 2635/QĐ-NHNN ngày 06/11/2008 về việc ban hành một số quy định liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các tổ chức tín đụng được phép hoạt động ngoại hối. -Thông tư số 25/2009/TT-NHNN ngày 15/12/2009 bố sung điều 1 Quyết định số 09/2008/QĐ-NHNN ngày 10/4/2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay là người cư trú 12
- Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế và hệ thống NHTM có những bước phát triển khá nhanh, kể từ năm 2004 đến nay, Quyết định 1452 đã ban hành khá lâu, một số điểm không phù hợp nhưng chưa được bổ sung thay thế. Đặc biệt là cần có quy định cụ thể hơn về các loại hình giao dịch hiện đại: Quy ền chọn, tương lai. Ngày 07/10/2010, Thống đốc Ngân hàng nhà nước đã ban hành Quyết định số 2367/QĐ-NHNN về việc phê duyệt Danh mục văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng. Theo đó, kể từ nay đến hết năm 2011, các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước được phân công chủ trì soạn thảo triển khai thực hiện xây dựng tổng cộng 61 văn bản quy phạm pháp luật trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt và ban hành theo đúng kế hoạch. Trong đó có bản Dự thảo Thông tư hướng dẫn giao dịch hối đoái thay thế Quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN và Quyết định 1081/2002/QĐ-NHNN. 2. Thực trạng mô hình tổ chức hoạt động Cấu trúc của thị trường ngoại hối Việt Nam bao gồm thị tr ường NTLNH ( interbank market) và thị trường ngoại tệ giữa ngân hàng với khách hàng (client/retail market). Bên cạnh đó, còn tồn tại thị trường ngoại hối không chính thức ( còn gọi là thị trường tự do, thị trường chợ đen – black/parallel market), giữ vai trò và chiếm tỉ trọng đáng kể trong các giao dịch về ngoại tệ của nền kinh tế. 2.1.Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Qua hơn 15 năm hình thành và phát triển từ 1991 đến nay, từ mô hình mang tính thử nghiệm ban đầu là trung tâm giao dịch ngoại tệ, mô hình hoạt động của thị trường NTLNH đã có những bước hoàn thiện và phát triển theo hướng hình thành mô hình giao dịch kinh doanh ngoại tệ tiên tiến, phù hợp với thông lệ quốc tế: - Quy mô doanh số giao dịch tăng. Doanh số giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng hàng ngày đã tăng từ khoảng $10 triệu năm 1995 lên khoảng $600 triệu năm 2009. - Số lượng thành viên tham gia tham gia mở rộng: Từ chỗ chỉ có 9 ngân hàng (1991), đến nay thị trường liên ngân hàng có 71 thành viên gồm 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 22 ngân hàng nước ngoài, 40 ngân hàng cổ phần và 5 ngân hàng liên doanh (số liệu tính đến tháng 12/2009) với những phương tiện kĩ thuật hiện đại được áp dụng… Tuy nhiên, xét về cơ bản thị trường NTLNH còn sơ khai: Thứ nhất , giao dịch giữa các NHTM trên thị trường NTLNH chỉ chiếm khoảng 25% tổng doanh số giao dịch của thị trường ngoại hối( năm 2009 ). Ở các nước có thị trường ngoại hối phát triển, tỷ lệ này là 80% ( Moosa 2004; BIS 13
- 2007), các nước mới nổi trong khu vực như Malaysia, Indonesia, Thailand, con số này cũng giữ ở mức độ cao. Như điều chỉ ra ở bảng dưới đây, thị trường NTLNH đóng một vai trò quan trọng ở các nước trong khu vực, chiếm từ 55- 95% tổng giao dịch. Ngược lại, trong cùng giai đoạn thì tỉ lệ này ở Việt Nam có giá trị nhỏ hơn 15%. Thị trường NTLNH giữ một vai trò khiêm tốn so với thị trường ngoại tệ giữa ngân hàng với khách hàng . Điều này chỉ ra r ằng, các NHTM Việt Nam tập trung chủ yếu vào việc mua bán ngoại tệ với khách hàng của mình hơn là với các ngân hàng khác. Do đó, các NHTM có xu hướng dựa vào nguồn lực ngoại tệ mình có trong việc tiến hành các hoạt động giao dịch ngoại hối và chỉ đến với thị trường NTLNH khi cần thiết để điều chỉnh hoặc thiết lập lại trạng thái ngoại tệ mong muốn của mình. Share of Interbank Transactions in Total Forex Market Turnover 1998 2001 2004 2007 India Both cross-border and local transactions 82% 76% 70% 78% Local transactions only 71% 71% 66% 64% Indonesia Both cross-border and local transactions 79% 94% 83% 69% Local transactions only 65% 90% 64% 55% Malaysia Both cross-border and local transactions 92% 75% 71% 86% Local transactions only 79% 76% 60% 80% Philippines Both cross-border and local transactions 84% 77% 80% 94% Local transactions only 76% 69% 73% 93% Thailand Both cross-border and local transactions 81% 81% 70% 77% Local transactions only 76% 69% 73% 93% Vietnam * 9% 14% Local transactions only 11% 11% Thứ hai, tỷ giá bình quân trên thị trường NTLNH chưa phản ảnh đúng đắn quan hệ cung-cầu ngoại tệ của nền kinh tế. Như trên ta đã nói, doanh số giao dịch trên thị trường NTLNH chỉ chiếm khoảng 25% tổng doanh số giao dịch toàn thị trường, nên tỉ giá hình thành trên thị trường NTLNH chưa phản ánh đúng thực 14
- chất quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường (thậm chí có ngày không phát sinh giao dịch nào). Mặt khác, gọi là tỉ giá bình quân liên ngân hàng, nghĩa là NHNN phải tính toán mới ra, trong khi đó NHNN lại là người độc quyền điều hành, độc quyền tính toán, độc quyền thông báo nên trong chừng mực nhất định thì mức tỉ giá bình quân liên ngân hàng còn chưa thoát li ý chí chủ quan trong điều hành tỉ giá của NHNN. Tỉ giá bình quân liên ngân hàng phản ánh không đúng cung cầu thực của thị trường nên trong nhiều thời điểm đã xảy ra tình trạng căng thẳng cung cầu ngoại tệ, gây ra ách tắc trên thị trường ngoại hối. Tỷ giá liên ngân hàng và quy định về biên độ giao động hiện nay theo lý thuyết là một công cụ để ngân hàng nhà nước kiểm soát tỷ giá mua vào bán ra của các ngân hàng. Nhưng trên thực tế thì không phải điều này luôn luôn chính xác. Thực tế cho thấy, tình trạng khan hiếm ngoại tệ thường xuyên xảy ra đặc biệt phổ biến trong hệ thống ngân hàng, mà biểu hiện rõ nhất là các NHTM luôn phải áp dụng tỉ giá kịch trần cho phép. Tuy tỉ giá bình quân liên ngân hàng mà NHNN công bố có xu hướng tăng, nhưng nhìn chung tăng rất chậm, trong khi biên đ ộ giao động cho phép ( hiện nay ở mức ±3% ) lại rất hẹp. Chính điều này đã tạo nên sự ách tắc ngoại tệ diễn ra khá thường xuyên và cuối cùng, NHNN lại phải can thiệp. Không những vậy, trên thị trường kinh doanh ngoại tệ chính thức giữa các ngân hàng, quỹ đạo của biên độ tỷ giá cũng bị dao động theo tình hình cung cầu. Và chắc chắn khi biên độ không phản ánh đúng những diễn biến của thị trường thì thật khó để nói rằng nó là một công cụ hỗ trợ ngân hàng nhà nước trong việc điều tiết tỷ giá và xa hơn là điều tiết thị trường tiền tệ. Thực tế các ngân hàng có rất nhiều cách để cân đối nguồn cung cầu ngoại tệ cho mình mà không vi phạm quy định của ngân hàng nhà nước mặc dù thực tế giá mua hoặc giá bán USD luôn cao hoặc thấp hơn biên độ cho phép. Một số cách thức mà các ngân hàng thường tiến hành khi giá thị trường thấp hơn giá trong biên độ cho phép là thu phí quản lý ngoại tệ, mua bán thông qua một ngoại tệ khác còn khi là giải pháp “đô cao, đô thấp” hoặc cũng có thể theo cách như trên là mua bán USD thông qua một ngoại tệ thứ ba. Ví dụ sau cho chúng ta thấy rõ cách thức trên là như thế nào: Khi ngân hàng không cần USD và mua với giá thấp hơn niêm yết Số lượng giao dịch là 1.000.000 USD Giá USD mua vào ngân hàng niêm yết là : USD/VND = 16.000 (giá sàn) Giá ngân hàng thực sự mua vào là : USD/VND = 15.484 Giá EUR mua vào của ngân hàng là : EUR/VND = 24.000 Hợp đồng 1: Ngân hàng làm một hợp đồng mua vào EUR với số lượng 645.166 EUR (1.000.000 x 15.484/24.000) Hợp đồng 2: Ngân hàng bán 645.166 EUR mua 1.000.000 USD với giá EUR/VND = 1,55 15
- Vì tỷ giá mua bán EUR/USD không bị hạn chế bởi biên độ nên các ngân hàng khi mua bán với nhau có thể thông qua nghiệp vụ này để có thể mua USD vào mà không bị vi phạm quy định. Khi ngân hàng cần USD và mua với giá cao hơn giá niêm yết Số lượng giao dịch là 1.000.000 USD Giá USD mua vào ngân hàng niêm yết là : USD/VND = 16.120 (giá trần) Giá ngân hàng thực sự mua vào là : USD/VND = 16.300 Hợp đồng 1 : Mua vào 2.000.000 với giá USD/VND = 16.120 Hợp đồng 2 : Bán ra 1.000.000 với giá USD/VND = 15.940 Nói chung là dù cách này hay cách khác thì biên độ quy định lúc ngày sẽ không còn ý nghĩa và chỉ mang tính tham khảo còn giá trị thực của cung cầu trên thị trường vẫn cứ vận hành theo cơ chế của riêng nó mà thôi. Thứ ba, các công cụ giao dịch ngoại hối phái sinh hiện đại mới trong giai đoạn thử nghiệm, chiếm tỷ trọng thấp. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn ở Việt Nam còn thấp, và các công cụ phái sinh hiện đại còn chưa phổ biến với ngay cả các NHTM. 2.2. Thị trường giao dịch ngoại tệ giữa các NHTM và khách hàng Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thì hệ thống các NHTM cũng phát triển một cách nhanh chóng, tăng cả về số lượng và chất lượng hoạt động. Theo đó, quy mô các giao dịch của NHTM với khách hàng cũng tăng trưởng với một tốc độ khá cao, đặc biệt là giao dịch ngoại tệ giữa NHTM và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu- nơi mà dòng ngoại tệ được luân chuyển một cách thường xuyên. Đáng chú ý là việc đưa ra một số công cụ phái sinh mới trên thị tr ường ngoại hối là kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn như những tín hiệu của sự phù hợp với thông lệ quốc tế trong kinh doanh ngoại hối. Nhưng bên cạnh đó, thị trường này vẫn còn đang tồn tại một số hạn chế căn bản: Thứ nhất, tuy có sự phát triển mạnh về quy mô của các NHTM và giao * dịch của chúng nhưng những công cụ phái sinh mới được đưa ra ở trên , ví như công cụ phái sinh hiện đại quyền chọn và hoán đổi hiện nay còn kém phát triển và chưa tạo ra công cụ hữu hiệu phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu (vì thông qua các nghiệp vụ phái sinh mà các DN có thể lựa chọn phương án tối ưu cho mình và có lợi nhất cho bản thân DN.) Thị trường các công cụ phái sinh ở Việt Nam có thể xem như chính thức ra đời vào năm 1998, khi các doanh nghiêp bắt đầu sử dụng công cụ kì hạn. Trong năm đầu tiên hoạt động, năm mà Việt Nam đang chịu những tác động mạnh từ cuộc khủng hoảng tài chinh Châu Á 1997, tổng giá trị giao dịch kì hạn đã chiếm 10,6% tổng doanh số giao dịch của toàn thị trường. Nhưng tỉ lệ này đã nhanh chóng giảm xuống 2,8% trong năm sau đó (1999). Giao dịch hoán đổi ngoại tệ bắt đầu được sử dụng vào năm 2001, và kể từ đó thì tổng doanh số giao d ịch của cả giao dịch kì hạn và hoán đổi đều nằm ở mức thấp, khoảng 5-6%. 16
- Tỉ trọng doanh số của các giao dịch phái sinh như vậy là quá thấp so với tiêu chuẩn quốc tế. Dữ liệu của BIS đã chỉ ra rằng, trên mức độ toàn cầu, doanh số của giao dịch giao ngay có xu hướng chiếm chỉ 1/3 tổng giao dịch của toàn thị trường ngoại hối, trong khi swap chiếm khoảng một nửa còn kì hạn chiếm khoảng 10%. Theo báo cáo của BIS tháng 4/2007, doanh số giao dịch của thị trường ngoại hối quốc tế là $3.21 trilion, trong đó: $1.005 trilion dành cho giao dịch giao ngay( spot). $362 bilion cho giao dịch kì hạn ( forwards). $1.714 trilion cho giao dịch hoán đổi (swap). Ở các thị trường châu Á mới nổi, tỉ trọng doanh thu dành cho giao dịch kì hạn và hoán đổi cũng chiếm tới 50% tổng doanh thu toàn thị trường. Shares of Forward and Swap Transactions in Total Forex Market Turnover for Selected Asian Emerging Economies, Selected Years 1998 2001 2004 2007 China Both cross-border and local n.a. n.a. n.a. 10% Local transactions only 2% 5% n.a. 10% India Both cross-border and local 53% 54% 49% 58% Local transactions only 62% 55% 49% 61% Indonesia Both cross-border and local 53% 13% 57% 40% Local transactions only 53% 13% 44% 49% Malaysia Both cross-border and local 70% 63% 50% 51% Local transactions only 74% 70% 59% 62% Philippines Both cross-border and local 53% 57% 49% 53% Local transactions only 53% 61% 48% 55% Thailand Both cross-border and local 71% 69% 60% 78% 17
- Local transactions only 70% 71% 66% 80% Vietnam 6%* Local transactions only 11% 6% 5% Nhìn vào bảng trên có thể thấy chỉ có Viêt Nam và Trung Quốc có tỉ trọng này nhỏ hơn 10%. Như vậy, trong khi các giao dịch swap và forwards có xu hướng chiếm một phần quan trọng trên thế giới cũng như nhiều nền kinh tế mới nổi ở Châu Á, nhưng điều này lại đang diễn ra ngược lại ở Việt Nam và Trung Quốc, khi mà giao dịch giao ngay chiếm tỉ trọng gần như tuyệt đối. Như vậy, điểm lại những mốc chính xuất hiện của các công cụ phái sinh cũng như quyền chọn ở Việt Nam, dễ nhận thấy rằng nó chưa được thị trường đón nhận như là một công cụ không thể thiếu trong phòng ngừa rủi ro. Như báo cáo tại hội thảo khoa học về “Giải pháp phát triển thị trường phái sinh ở Việt Nam” năm 2007, doanh số mua bán ngoại tệ trên thị trường giữa các ngân hàng với khách hàng ngày càng tăng lên: Năm 2004 tăng 30%, từ năm 2005-2007 trung bình tăng khoảng 20%/năm. Trong đó, các giao dịch giao ngay chiếm từ 90-95%, các giao dịch quyền chọn ngoại tệ chỉ chiếm từ 1-5%, một tỉ trọng rất nhỏ. Mặt khác, nếu có diễn ra với quy mô và số lượng lớn thì các công cụ này cũng chỉ được xem là giải pháp tình thế khi căng thẳng về VNĐ hơn là xem nó như là một công cụ ngoại hối , công cụ thị trường đúng nghĩa ( như điều đã xảy ra năm 1998). Thứ hai, tại một số thời điểm thì cung- cầu ngoại tệ vẫn căng thẳng, tỷ * giá USD/VND giao dịch thực tế giữa NHTM với khách hàng cao hơn nhiều so với tỷ giá niêm yết trong biên độ cho phép thông qua việc sử dụng đồng tiền thứ ba để tính tỷ giá USD/VND , tính phụ phí... Có tình trạng này là do dân chúng kỳ vọng biến động tỷ giá trong tương lai nên cố tình găm giữ USD. Khi ấy, việc nắm giữ ngoại tệ không những giúp cho họ chủ động hơn trong việc nhập khẩu sau này, phòng tránh được rủi ro tỷ giá mà còn là một hạng mục đầu tư sinh lợi tốt hiện nay. Có một điều dễ nhận thấy là từ khi đổi mới kinh tế đến nay thì tình hình biến động về tỷ giá của VND diễn ra thường xuyên, có những thời kì diễn biến phức tạp. Tình hình căng thẳng cung- cầu ngoại tệ làm kéo theo sự căng thẳng của thị trường ngoại tệ, khiến cho cả NHTM và khách hàng gặp khó khăn trong nhiều giao dịch ngoại tệ. Các NHTM thường áp tỉ giá kinh doanh của mình ở mức trần, cộng thêm vào đó là những khoản phụ phí không rõ ràng... đã khiến tỉ giá thực trong giao dịch bị đội lên. Nguyên nhân sâu xa của vấn đề này chính là từ chính sách tỉ giá kém linh hoạt mà Việt Nam hiện nay đang áp dụng. 18
- Da ily Officia l Ex cha nge Ra te , Uppe r a nd Low e r Bounds, a nd Ba nk Ask Ra te , Jul 04 - De c 06 V N D p e r U SD 16200 Of f c ial Rate Low er Bound Upper Bound A s k Rate 16000 15800 15600 1/07/04 1/01/05 1/07/05 1/01/06 1/07/06 19
- Offic ia l Exc ha nge Ra te , Uppe r a nd Low er Bounds , a nd Ba nk As k Ra te , J an 0 7 - J un 0 9 V ND p e r USD 17700 17300 Off c ial Rate 16900 Low er Bound Upper Bound A s k Rate 16500 16100 15700 2/1/07 2/7/07 2/1/08 2/ 7/ 08 2/1/09
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Câu hỏi ôn thi Tài chính tiền tệ
2 p | 1543 | 590
-
Bài giảng học môn Thanh toán quốc tế
24 p | 1190 | 446
-
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN KẾ TOÁN TÀI CHÍNH CHƯƠNG 1. KẾ TOÁN VỐN BẰNG TIỀN
13 p | 761 | 219
-
Bài tập môn Tài chính quốc tế
11 p | 734 | 128
-
Đáp án môn Thanh toán quốc tế
21 p | 494 | 91
-
Hệ thống ôn tập tài chính quốc tế
28 p | 341 | 70
-
Bài giảng môn THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
10 p | 155 | 41
-
Bài giảng Tài chính quốc tế (2013)
65 p | 162 | 25
-
Bài giảng: Thanh toán quốc tế - PGS.TS Trần Hoàng Ngân
63 p | 120 | 13
-
Bài tập môn Kế toán tài chính - Trường Đại học Ngoại Thương cơ sở 2
18 p | 24 | 5
-
Đề thi kết thúc học phần học kì 2 môn Quản trị rủi ro tài chính năm 2021-2022 có đáp án - Trường ĐH Đồng Tháp
3 p | 37 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn