Tài liệu nghiên cứu quần xã thực vật phần 9
lượt xem 8
download
chăn thả của nó như hoà thảo, họ Đậu, sa thảo, cây thảo khác, cây dại,... cũng có thể theo họ alphabe... 9.2.1. Độ nhiều Độ nhiều là số lượng cá thể của bất kì loài nào đó trong diện tích tính, khi tính đến độ nhiều bao giờ cũng gặp khó khăn với việc xác định cá thể (đặc biệt là cây hoà thảo, thân rễ,...) trong trường hợp như thế có thể giới hạn số cá thể bởi số thân cây. Như vậy, hoặc số cá thể hoặc số thân cây sẽ được tính là độ nhiều trên...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tài liệu nghiên cứu quần xã thực vật phần 9
- chăn thả của nó như hoà thảo, họ Đậu, sa thảo, cây thảo khác, cây dại,... cũng có thể theo họ alphabe... 9.2.1. Độ nhiều Độ nhiều là số lượng cá thể của bất kì loài nào đó trong diện tích tính, khi tính đến độ nhiều bao giờ cũng gặp khó khăn với việc xác định cá thể (đặc biệt là cây hoà thảo, thân rễ,...) trong trường hợp như thế có thể giới hạn số cá thể bởi số thân cây. Như vậy, hoặc số cá thể hoặc số thân cây sẽ được tính là độ nhiều trên diện tích tính. Thông thường, người ta sử dụng một thang phân loại để chỉ độ nhiều và thường dùng là : Thang bằng số - đơn giản nhất là thang 5 số đó là : 5 : rất nhiều ; 4 : nhiều ; 3 : không nhiều (TB) ; 2 : ít ; 1 : rất ít. Trong bảng 6 bậc của Drus không dùng số mà các từ sau : - Sóc (Sociales) : Thực vật gần như khép tán, tạo thành nền. - Cop3 (Copiosae3) : Thực vật gặp rất nhiều. - Cop2 (Copiosae2) : Thực vật gặp nhiều. - Cop1 (Copiosae1) : Thực vật có khá nhiều. - Sp (Sparsae) : Thực vật phân tán, số lượng không nhiều. - Sol (Solitariae) : Thực vật gặp rất ít. Ngoài ra, còn có thể dùng Un (Unicum) chỉ loài có số lượng cá thể đơn độc trên diện tích tính. Khi sử dụng thang của Drus cần thiết phải đếm số lượng cá thể của loài với việc xác định độ phủ của nó. Thông thường thì loài được đặt ở mức độ Soc có độ phủ là trên 90% diện tích tính, Cop3 là 90 - 70%, Cop2 là 70 - 50%, Cop1 50 - 30%, Sp là 30 - 10%, Sol < 10%. Trong trường hợp loài nào đó có số lượng cá thể nhiều, nhưng kích thước lại không lớn thì thường thêm một cột nữa giữa độ nhiều và độ phủ đó là cột số lượng, lúc đó bảng của Drus sẽ dùng số lượng cá thể không dùng độ phủ. 9.2.2. Sự trội hay sự ưu thế Dấu hiệu này được đặc trưng bởi : - Thứ nhất, là độ phủ tức độ che lấp trên diện tích của phần trên mặt đất của loài nào đó trong quần xã (diện tích tính). - Thứ hai, là diện tích chiếm của nó. - Thứ ba, là trọng lượng của nó. Xác định độ phủ của thực vật trong quần xã có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau. 9.2.2.1. Phương pháp xác định độ phủ chiếu Với thảm cỏ phân biệt độ phủ thật và độ phủ chiếu : Độ phủ thật đó là phần trăm diện tích bị phần gốc của cây chiếm còn độ phủ chiếu là phần che lấp của diện tích bị phần trên mặt đất chùm (loài nào đó). Khi nghiên cứu vấn đề này, trước tiên là xác 89
- định độ phủ chiếu, sau đó xác định độ phủ thật dựa vào thảm cỏ cắt bỏ để lại gốc để tính. Ramenskii nghiên cứu vấn đề này đưa ra ba chỉ tiêu xác định độ phủ của quần xã, đó là đó phủ chung (hình chiếu toàn bộ thảm cỏ), độ phủ của tầng - tức là mức được phủ của các tầng dưới bởi tầng trên và độ phủ chiếu của từng loài hay nhóm loài. Để xác định độ phủ của quần xã cỏ người ta dùng một khung có kẻ ô bằng dây kim loại (khoảng 10 ô vuông), ô vuông có kích thước là 2 x 5cm hay 3 x 7,5cm, chiếu khung đó từ trên xuống ta sẽ tính được độ phủ của loài và độ phủ chung. Hình 32. Khung xác định độ phủ của thảm cỏ Tất nhiên, độ phủ của từng loài cộng lại bao giờ cũng lớn hơn độ phủ chung, vì có sự che phủ lẫn nhau của các loài và các tầng. Thông thường, các nhà nghiên cứu đánh giá độ phủ bằng mắt và cũng xác định bằng % của diện tích. Nhiều khi người ta đánh giá độ phủ bằng bảng thang bậc, kèm theo bảng thang là % như độ 1 dưới 10%, độ 2 từ 10 – 20% độ 3 từ 20 - 30%,... Ngoài ra, cũng có thể kết hợp bảng thang với bảng Drus. Xác đinh độ phủ thật : Xác định độ phủ thật của thảm cỏ có thể dùng dụng cụ chuyên môn. Có thể xác định bằng thước (đường hay tuyến dải), trên thước có chia cm, đặt thước đó trên đất và theo chiều dài của nó xác định khoảng không, độ phủ của từng gốc cây hoà thảo, độ phủ theo dải của thước sẽ được tính thành %. Xác định độ phủ trong rừng : Độ phủ trong rừng cũng được xác định bằng độ phủ của thân và của cả vòm tán. Độ phủ thân được xác định bằng hình chiếu diện tích chiếm của thân ở độ cao ngang ngực, hay ở độ cao l,3m tính từ mặt đất. Sau đó, đánh giá độ phủ bằng mắt hoặc trực tiếp đo đường kính thân. Sau khi đã đếm số thân của loài, người ta biểu thị độ phủ của loài theo phần 10. Thí dụ như sồi 5/10, dẻ 4/10, xoan 1/10 và tiếp tục với hỗn hợp các cây rừng mà ưa thêm loài sồi. Tổng số của các gốc biểu thị phải bằng 1, không phụ thuộc vào độ rậm hay thưa của nó từ đó cho biết tỉ lệ độ phủ của loài trong tổ hợp. Xác định độ phủ tán : Còn gọi độ khép tán, nó biểu thị quan hệ giữa diện tích bề mặt và độ che của tán cây gỗ (là tổng số tán của các loài), nó cũng biểu thị trong tỉ lệ phần mười. Thí dụ độ che của tán là 9/10 tức là còn 1/10 đất chưa bị che. Người ta thường xác định lúc giữa trưa, vì lúc đó tia sáng chiếu thẳng nhất, nếu chiếu nghiêng sẽ cho tỉ lệ khác. 90
- Ngoài ra, nên xác định độ phủ vào mùa hè sẽ chính xác hơn và cây cũng có bộ lá đầy đủ vào thời kì đó. 9.2.2.2. Phương pháp thể đích xác định độ ưu thế Phương pháp này được áp dụng trong việc đánh giá cho rừng. Để xác định khối lượng cây rừng, cũng như dự trừ của nó, ta cần biết diện tích lát cắt thân ở độ cao ngang ngực và chiều cao của cây. Khi đánh giá dự trữ thì diện tích lát cắt thường được đánh giá bằng mắt, cũng có thể bằng thước đo, chiều cao xác định bằng dụng cụ đo chiều cao. Trong trường hợp điều tra không chi tiết (điều tra nhanh) bằng kinh nghiệm của các nhà nghiên cứu có thể xác định độ cao của cây và diện tích lát cắt bằng mắt. Khi đã biết diện tích lát cắt, chiều cao của cây thì có thể xác định được trữ lượng bằng bảng tra cứu riêng, đơn giản cũng có thể tính thể tích của cây bằng 1/2 của tích số diện tích lát cắt với chiều cao. Biết trữ lượng của từng cây sẽ tính được trữ lượng toàn bộ trên diện tích tính. Đối với thảm cỏ, việc tính khối lượng khá đơn giản, người ta dùng bình đựng nước để tính (khối lượng chiến). 9.2.2.3. Phương pháp trọng lượng xác định độ ưu thế Phương pháp này chỉ áp dụng cho các quần xã cỏ, với quần xã cỏ thường dùng diện tích tính là 1m2 người ta sẽ cắt toàn bộ phần trên mặt đất ở độ cao sát đất, sau đó phân chia nó theo loài, rồi cân trọng lượng từng loài ở trạng thái tươi rồi trạng thái khô không khí, sau đó tính % của chúng. Trong nông nghiệp người ta không phân chia cỏ theo loài mà theo nhóm kinh tế, thường chia thành 6 nhóm : Hoà thảo, đậu, cây thuộc thảo, cây thảo chua (cói, bấc, Iridaceae...), cây có hại (cây có gai, cây độc, cứng sắc...), cỏ khô. Đối với thảo nguyên, bán hoang mạc cũng chia nhóm nhưng có thể hơi khác như có thêm nhóm ngải, đoản mệnh, mọng nước... Ngoài ra, trong nhóm hoà thảo, sa thảo cũng như nhóm họ Đậu còn có thể chia nhóm phụ, tốt và trung bình cho chăn thả. Tốt nhất là cân trọng lượng của cây trong ngày và ở trạng thái tươi, sau đó hãy phân loài, nhóm và cuối cùng phơi khô rồi cân theo loài hay nhóm. Dụng cụ cắt có thể là dao hay kéo ở nơi nào đó có thể được (thưa) người ta có thể cắt theo loài luôn để tiện phân chia, nên cắt lúc nó phát triển tất nhất (nếu là một lần), trong nông nghiệp người ta cắt cao hơn mặt đất 3cm. Để có độ chính xác cần có diện tích thử là 4m2 hay 5 - 6 ô tính có diện tích là l/4m2 và trên một diện tích cắt từ 2 - 3 lấn trong 1 năm. Thông thường phương pháp tính này cho số liệu vượt qua sản lượng của nó, vì thông thường người ta cắt thu hái bao giờ cũng để gốc cao hơn, rơi rụng nhiều, khi cắt cũng như phơi. Theo số liệu của Laputca thì bằng phương pháp trọng lượng số liệu vượt khoảng từ 10 - 30% nó tuỳ thuộc từng loại hình đồng cỏ, nên khi cho sản lượng sinh học cần cho biết cả sản lượng nông nghiệp. 91
- 9.2.3. Độ gặp Độ gặp đó là đặc điểm phân bố của các cá thể bất kì trên diện tích tính. Độ gặp trong chừng mực nào đó phụ thuộc vào độ nhiều, song không hoàn toàn chặt chẽ. Nếu độ nhiều lớn thì độ gặp luôn luôn cũng lớn, nhưng độ nhiều trung bình thì độ gặp có thể lớn và cũng có khi ít (nhỏ), điều này nó phụ thuộc vào tính đồng nhất về phân bố cá thể của loài đó trên diện tích tính. Còn độ nhiều là ít (thấp) thì độ gặp bao giờ cũng ít. Vì vậy, độ gặp đó là đặc điểm phân bố của loài trên đơn vị diện tích, nó không phải luôn luôn tương ứng với độ nhiều. Phương pháp được sử dụng để xác định độ gặp là phương pháp của Raunkiaer - đó là trên diện tích tính, người ta đặt một số ó nhỏ phân bố đồng đều trên diện tích tính, kích thước các ô này càng nhỏ, càng nhiều càng tốt. Thông thường người ta dùng khoảng 50 ô như vậy có diện tích là l/10m2 (l.000cm2) cho diện tích trên. Những ô để tính độ gặp này thường có hình tròn, đường kính là 35,6cm đặt các ô thí nghiệm đó trong ô theo mô hình xác định (khoảng cách xác định). Trong các ô đó sẽ được thống kê đầy đủ số cá thể theo loài. Sau đó lập bảng thống kê cho cả 50 ô tính đó và tính % độ gặp trong ô thí nghiệm của quần xã. Người ta gọi con số đó là hằng số độ gặp, được kí hiệu là R - biểu thị % của số loài gặp trong ô trên số ô được đếm - cụ thể ở đây là 50. Phương pháp của Raunkiaer đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian. Khi nghiên cứu 92
- nhiều (rộng) khó tiếp nhận, trong trường hợp như thế người ta dùng phương pháp khác tốn ít thời gian hơn - phương pháp của các nhà địa thực vật Tân Tây lan (nghiên cứu đồng cỏ). Phương pháp này cũng được các nhà sinh thái học áo, Mỹ sử dụng. Dụng cụ phương pháp này dùng là một khung bằng gỗ hay kim loại, trong đó có 10 kim mỗi kim cách nhau 5cm. Hình 34 : Dụng cụ để tính độ gặp trong đồng cỏ Vì dụng cụ tính không dài nên phải di chuyển nó theo đường xác định trên diện tích tính. Độ gặp của mỗi loài được biểu thị bằng phần trăm của số cá thể loài đó chạm đúng vào kim. Thông thường phương pháp này phải đặt khoảng 50 lần trong 1 ô để đếm (ghi). Kết quả nhận được của phương pháp này cũng khá chính xác. 9.2.4. Tính đơn độc, tính liên kết hay tính tập hợp của loài Đó là dấu hiệu về sự phân bố của loài trên đơn vị diện tích dưới dạng cá thể đơn độc hay thành nhóm nhỏ, to. Trong bảng (phân chia) khi mô tả trên diện tích tính, thông thường cá thể đơn độc không đếm, loài nào đó mà mọc thành đám thì sẽ được kí hiệu bằng độ nhiều nào đó, thí dụ thường dùng là gr (gregariae), nếu đám dày đặc kí hiệu là cum (cumulosae), nếu khóm thưa và trong khóm đó còn có loài khác mọc xen vào thì dùng kí hiệu liên kết như sp - gr, hay Cop1 - cum... Braun - Branker (1951) đã đưa ra một bảng đánh giá như sau : 1 - mọc đơn độc, 2 - thành đám hay khóm, 3 - thành dải nhỏ (đám chưa lớn), 4 - đám lớn hay dải rộng, 5 - bụi hay đám rất lớn. Bảng này được nhiều nhà nghiên cứu Pháp, Thuỷ Sĩ, Đức, Ba Lan... sử dụng trong nghiên cứu. Người ta có thể dùng nó cùng độ nhiều như Anemone nemorosa 4.3. nghĩa là độ nhiều của nó là 4. độ tập hợp là 3. Có thể dùng ff tính : U và U0,5 để đánh giá, với mục đích để kiểm tra việc xác định dạng phân bố ngoài trời đã làm cụm hay ngẫu nhiên. 9.2.5. Sức sống của loài Sức sống đó là dấu hiệu để chỉ cho loài bị áp chế hay ngược lại phát triển rất tốt trong quần xã. Khi nghiên cứu chi tiết để xác định sức sống của loài người ta dùng phương pháp cân trọng lượng khô của các cá thể của các loài trên đơn vị diện tích tính. Khi xác định 93
- như vậy, ở một số quần xã thực vật ta có thể so sánh về sức sống các quần thể của loài đó (nghĩa là toàn bộ các cá thể của loài đó) trong các quần xã thực vật khác nhau. Theo Uranob (1960) độ lớn của quần thể đó là số lượng các chất hữu cơ được tạo ra bởi quần thể đó trên đơn vị diện tích trong đơn vị thời gian (năm). Độ lớn này phụ thuộc vào số lượng cá thể, nó sẽ lớn lên theo sự tăng số lượng của nó, nhưng chỉ đạt giới hạn xác định. Khi sự tăng số lượng cá thể của loài vượt qua ngưỡng tối thích thì sức sống của quần thể sẽ bị giảm sút. Khi ở trạng thái tối thích sẽ có tỉ lệ phần trăm các cá thể có khả năng sinh sản bình thường là lớn nhất. Uranob đã đề nghị một bảng thang bậc đánh giá sức sống của quần thể như sau : I. Những cá thể có kích thước trung bình hay cỡ lớn của quần thể, có tổng độ phủ chiếu từ 8% trở lên, đồng thời có không ít hơn 1/4 số cá thể đã trưởng thành hoàn thành được chu trình sống. IIa. Độ phủ chiếu nhỏ hơn 8%,nhưng lớn hơn 0,25%, đồng thời không ít hơn 1/4 số cá thể đã trưởng thành và hoàn thành chu trình sống. IIb. Khi độ phủ chiếu lớn hơn hay bằng 8%, có ít hơn 1/4 số cá thể của quần thể đạt được ra hoa kết quả (hoàn thành chu trình sống). IIIa. Độ phủ chiếu nhỏ hơn 8% nhưng lớn hơn 0,25%, hoàn thành chu trình sống được thực hiện ít hơn 1/4 số cá thể trưởng thành của quần thể. IIIb. Độ phủ chiếu không nhỏ hơn 8%, nhưng tất cả các cá thể của quần thể mất khả năng sinh sản. IV. Độ phủ chiếu nhỏ hơn 8%, nhưng không ít hơn 0,25%. Tất cả các cá thể mất khả năng sinh sản. V. Độ phủ chiếu nhỏ hơn 0,25%, tất cả các cá thể mất khả năng sinh sản. Trong bảng xếp loại này trọng lượng cá thể sẽ được coi là độ phủ chiếu, người ta lấy 8% làm chuẩn vì theo kết quả nghiên cứu của Ramenski thì giới hạn thấp nhất của độ phủ loài tạo thành nền cho lớp phủ là 8%. 9.2.6. Sự phân tầng Khi đánh giá loài này hay loài khác thuộc vào tầng nào thì cần phải làm sáng tỏ như đã nói về sự khác nhau của tầng và màn. Tầng thường được kí hiệu bằng chữ la mã : I - là tầng trên cùng, II - tầng tiếp theo và..., nếu ta nói loài nào đó thuộc tầng nào đó và không thật rõ ràng thì tốt hơn cả là ghi theo chiều cao cá thể của nó bằng em hay mét. Để đánh dấu độ cao của cây thuộc họ thảo cũng như xếp tầng cho nó, tất nhất dùng một khung có chia ô hay tấm cát tông làm màn đằng sau để xác định. Để nghiên cứu chi tiết hơn sự phân tầng của thảm cỏ người ta dùng khung có chìa ô 10 chị dựng đứng và vẽ nó trên giấy, người ta theo dõi và vẽ vài lần như vậy qua các mùa sẽ nhận được bức tranh về sự biến động tầng qua các mùa. Thông thường cùng với sự biến động tầng của thảm cỏ (trong quần xã) cũng nhận thấy sự thay đổi chiều cao của vùng tích luỹ cơ bản khối lượng cỏ, qua đó cũng cho ta 94
- biết được độ đậm đặc về tích luỹ, vùng tích luỹ các phần lá, thân, hoa... Việc đánh giá vùng tích luỹ này có ý nghĩa lớn trong kinh tế nông nghiệp. 9.2.7. Thể khảm hay vi thực vật quần Để nghiên cứu các vi thực vật quần trong giới hạn của ô thí nghiệm là điều rất khó, ví như ô thí nghiệm ở thảo nguyên hay đồng cỏ thường là trong giới hạn của mét vuông, việc mô tả theo phương pháp tuyến hay dải cũng vậy. Vì vậy, những diện tích tính khoảng 1m2 đó nên phân bố thế nào đó trong quần xã để nó phản ánh đúng thực trạng, nghĩa là có các vi thực vật quần trong quần xã khi bố trí ô thí nghiệm, không nên chỉ dồn vào một số vi thực vật quần, mỗi ô thí nghiệm nhỏ này cũng cần có chụp ảnh hay vẽ hình chiếu phân bố của nó, trong mỗi ô đó phải xác định loài ưu thế trong đó và các điều kiện môi trường cơ bản như vi địa hình, độ ẩm đất, lớp cỏ chết và một số loài ưu thế phụ... Việc mô tả các vi thực vật quần theo tuyến đi cũng rất quan trọng ở những nơi có địa hình đặc biệt. Trong trường hợp này cũng cần có ảnh chụp hay vẽ vi địa hình, dưới dạng lát cắt theo bình độ mặt bằng nào đó. Khi đó cần có mô tả thành phần loài trên từng phần của lát cắt đó cùng các yếu tố khác của vi thực vật quần theo chiều thẳng đứng (phẫu diện đứng), dùng phương pháp này sẽ cho ta số liệu khá chính xác về từng kiểu vi thực vật quần trên các vi địa hình khác nhau, chúng ta cũng dễ dàng hiểu về đặc điểm sinh thái của các vi thực vật quần khác nhau. Trong rừng, các vi thực vật quần phải có sự tham gia đầy đủ của các tầng, kể cả tầng cây gỗ cao và các vi thực vật quần của các vùng không có cây gỗ. Trong rừng việc vẽ thể khảm không thể làm ở các ô tính nhỏ mà phải làm trên ô tiêu chuẩn lớn. Trước tiên xác định ranh giới của vi thực vật quần, sau đó liên kết nó lại thành vi quần hợp, trong bảng mô tả này tên cây gỗ được ghi trước sau tên cây là con số độ phủ để trong ngoặc, sau đó là cây dưới tán, những cây có độ ưu thế như nhau được nối bằng dấu (-), còn loài ưu thế lớn nối với ưu thế phụ bằng dấu (+). Thí dụ : Imperata cylindrica (0,4) - Ischaemum indicum (0,2) - Fimbristyhis an ma. 9.2.8. Tính chu kì Để nghiên cứu tính chu kì khi mô tả quần xã cần mô tả các pha của chu kì của mỗi loài. Để làm điều đó người ta dùng các từ viết tắt như s = trạng thái sinh dưỡng, rn= ra nụ, h = ra hoa rộ, q = có quả, ha = hạt chín, c = cây chết già. Alêkhin cũng đề nghị một loạt dấu hiệu sử dụng trong bảng danh lục để mô tả như: - Kí hiệu trạng thái sinh dưỡng đến khi ra nụ λ = bắt đầu có nụ, ϑ = hoa nở, 0 = hoa nở rộ, C = hoa bắt đầu tàn, + cây đã có hoa rụng hết nhưng hạt chưa chín, hạt đã chín (có sự rung hạt), ∞ = trạng thái sinh dưỡng sau khi hạt chín và rụng. Cũng có thể sử dụng thang bảng khác để chỉ như: 1 - thời kì sinh dưỡng, 2 - có nụ, 3 - hoa đang nở, 4 - có hoa, 5 - kết thúc thời kì sinh dưỡng, 6 - trạng thái hay thời kì nghỉ. Tính chu kì có thể đề cập đến trong nghiên cứu định vị hay nghiên cứu điều tra. Từ nghiên cứu định vị ta sẽ có được số liệu về sự phát triển qua các mùa, các năm 95
- của quần xã đó. Trường hợp nghiên cứu điều tra sẽ cho ta vật hậu của các quần xã trong thời điểm nghiên cứu. Trong nghiên cứu định vị cũng như trong điều tra cần lưu ý vấn đề là khi đề cập đến tính chu kì của các loài đã tạo thành quần xã ở tất cả các ô thí nghiệm hoặc trong quần xã trên một số diện tích thí nghiệm, thường diện tích này không nhỏ hơn 4m2 ở quần xã cỏ và không nhỏ hơn 100m2 quần xã rừng, trên 1 ha cần làm không ít hơn 10 cái ô như vậy. Với số lượng như vậy nó cho ta thấy được mối quan hệ số lượng giữa các cá thể trong cùng một loài ở các trạng thái vật hậu khác nhau của cùng thời điểm trong quần xã đó. Còn với ô định vị cần đánh số cố định cả ô thí nghiệm và ô tiêu chuẩn. Trong nghiên cứu chi tiết người ta còn chia trạng thái sinh dưỡng ra các cá thể mầm, cây con, cây trưởng thành. Điều này có ý nghĩa rất lớn đến đánh giá tái sinh loài. Trong đồng cỏ phần trên mặt đất chết hằng năm, để đánh giá tái sinh hay động thái và diễn thế đồng cỏ được chính xác Rabốtnốp đã đề ra phương pháp tính tuổi cây thuộc thảo bằng hệ rễ. Ông cũng cho biết cây thảo trong đồng cỏ đại bộ phận sống trên 10 năm. 9.2.9. Ngoại mạo Dấu hiệu này được đề cập đến trong tất cả các quần xã khi mô tả và được biểu hiện bằng lời. Một thí dụ điển hình về việc mô tả này là bức tranh của Aleokhin mô tả thảo nguyên từ sau tuyết bắt đầu tan : "Những mầm xanh đầu tiên nhú lên trên thảm cỏ chết màu vàng xám, một tuần sau bắt đầu xuất hiện những chồi hoa đầu tiên, những chồi hoa sớm xuất hiện ngày càng nhiều, những cây họ hành, cây họ cói có hoa sớm, phát triển mạnh tạo ngoại mạo của thảo nguyên vào đầu mùa xuân, dần dần thay đổi bởi các loài khác..." - đó là mô tả ngoại mạo. 9.2.10. Những dấu hiệu về nơi sống Tất cả những yếu tố đã đề cập đến ở trên là các yếu tố của cấu trúc quần xã, nhưng ngoài chúng ra khi nghiên cứu quần xã cần phải tính đến các dấu hiệu của nơi sống. + Trước tiên đó là yếu tố địa hình, nếu ô tiêu chuẩn nằm trên núi cần phải đề cập đến độ cao so với mặt nước biển, sau đó là đặc điểm chung của địa hình : dãy núi, thung lũng, bình nguyên, đỉnh núi... Nếu ô tiêu chuẩn ở trên sườn đồi (núi) thì cần đề cập đến hướng phơi và độ dốc sườn đồi, thường sử dụng địa bàn để xác định và đo độ dốc, cũng có thể xác định độ dốc bằng mắt. Trong nhiều trường hợp không chỉ xác định hướng và độ dốc của vi địa hình mà còn phải xác định cả hướng phơi, độ dốc của đại địa hình. + Tiếp theo là xác định đặc điểm của đất, trong nhiều trường hợp chỉ nghiên cứu lớp đất mặt 25 - 30cm. Những đặc điểm sau của đất cần chú ý : - Màu sắc của đất : Có ý nghĩa quan trọng vì quan hệ với nó là thành phần hoá 96
- học của đất. Khi xác định màu nếu có khó khăn và không chuẩn xác thì dùng liên từ nâu - xám, nâu - sẫm... mỗi màu có một tập hợp đặc tính và thành phần xác định : màu đen thường chứa trong chúng nhiều mùn, màu đỏ thường có nhiều oxít sắt... - Cấu trúc đất : Là đặc điểm của đất có kết hạt như thế nào, thường đất có kết hạt hay thành hỗn hợp cũng có thể đất không có cấu tượng. Những dạng cơ bản của cấu trúc là : Dạng hạt thô (hạt đất không đều kích thước 5 - mềm hay hơn). Dạng hạt (kích thước hạt nhỏ hơn 5cm), dạng hạt nhỏ (kích thước hạt 0,5 – 1cm hay hơn). Dạng hạt mịn (kích thước hạt dưới 0,5cm hay nhỏ hơn)... Cấu trúc của đất phụ thuộc vào thành phần cơ giới và chất kết dính chứa trong thành đó, còn đặc điểm thuộc về cấu trúc thì phụ thuộc vào chế độ nhiệt và ẩm độ cung như từ sự có mặt hay vắng mặt các muối vô cơ. Ngoài ra, cấu trúc đất còn phụ thuộc từ thành phần cơ giới ; đúng vậy, đất cát, cát pha, cũng như đất sét thường không có cấu trúc, đất phù sa thường có cấu trúc. Đổ dầy lớp đất và các tầng của nó : đất phát triển thường biểu thị các tầng sau : A1 - Tầng tích luỹ và chuyển tiếp, thường có màu đen. A2 - Tầng chuyển tiếp hay tàn tích (tầng bị rủa trôi). B - Tầng tích tụ. C - Hầu như chưa bị biến đổi trong quá trình hình thành đất còn có thể gọi tầng đá mẹ. Ngoài ra, còn có chia tầng A0 đó là tầng thảm mục, tầng thảm thực vật chết (tất nhiên trong đó còn có nhiều động vật, rễ). Để nghiên cứu độ dầy của lớp đất có thể tận dụng các di tích cửa tự nhiên như sụt, bờ đường, trước đó cần dùng xẻng sửa lại cho mới để dễ quan sát. Trong nhiều trường hợp phải đào phẫu diện. - Bộ xương của đất : Những hòn đá tảng hay đá cuội nằm trong đất gọi là bộ xương của đất. Đất thường không có bộ xương, có thể có rất ít hay nhiều dạng đá lồi đầu ở nơi này nơi khác. Dạng hình tròn của nó tạo ra do tác dụng của nước và đôi khi cả gió. Dạng vuông cạnh của đá được hình thành ở những nơi nước sói mòn đất, hoặc được mang đến từ trên núi bởi các dòng nước tạm thời. Theo kích thước hòn đá trong đất mà người ta đưa ra chỉ số phân loại... Đặc điểm bộ xương của đất Dạng hạt Kích thước hạt Vuông Tròn 1 – 3mm Cát thô Cát thô 3mm – 3cm Sạn Sạn 3cm – 10cm Hòn Cuội Hơn 10cm Tầng, khối Đá Thành phần cơ giới : Đất có hạt nhỏ hơn 1 mm - 0,25mm gọi là cát, gọi là bụi khi 97
- có kích thước 0,001 - 0,25 mm, sét có kích thước nhỏ hơn 0,001 mm. Còn nếu lớn hơn 1 tâm thì gọi là xương trong đất. Đất có các hạt nhỏ gọi là đất cát, nếu cát này trộn với các phần từ nhỏ khác (bụi, sét) gọi cát pha (cát nhiều), nếu sét nhiều gọi là sét pha, nếu không có cát gọi là đất sét hay bụi. Trong thiên nhiên thường có nhiều dạng đất cát pha vì loại này rất thuận lợi cho cây sinh trưởng, còn đất cát thì lớp mặt sẽ bị khô mạnh khi trời khô, nhưng ở những lớp dưới lại ẩm, nước dễ chảy xuống nên rất khó đưa ẩm lên các lớp trên. Ngược lại đất sét nước rất khó ngấm qua, nó bị tích tụ mạnh nên nước dễ dàng được nâng lên tầng trên, khi bị phơi khô lớp mặt trở nên cứng rắn, rất có hại cho thực vật. Thành phần cơ giới vì thế có quan hệ chặt chẽ với độ phì của đất. Xác định thành phần cơ giới đất được tiến hành trong phòng thí nghiệm. - Các mẩu hữu cơ : Các mẩu hữu cơ luôn có trong đất cũng như ở trên lớp mặt. Tr6ng trường hợp ở trên lớp mặt thường tạo thành lớp thảm mục. Lớp này có thể dầy hay mỏng tuỳ thuộc ống quần xã cụ thể. Nếu không bị phân huỷ hết nó có thể trở thành than bùn hay bán than bùn (nơi ẩm). Để nghiên cứu nó người ta lấy mẫu theo ô diện tích là 50 x 50cm, phơi khô sau đó phân chia thành các nhóm. - Đánh giá về giá trị nông học hay lâm học : Trong phần kết luận của mô tả đất phải cho ý kiến đánh giá về khả năng nông lâm nghiệp của nó, nghĩa là đất thuộc kiểu gì, tính đa dạng của nó như thế nào. Chú ý : Tất cả những đặc điểm của đất cần được làm sáng tỏ ở hai tầng trên của nó (cần nghiên cứu chi tiết). Trong một số trường hợp cần được nghiên cứu ở tất cả các tầng (đến đá mẹ). Trong phòng thí nghiệm có thể làm theo nhiều ý đồ khác nhau, nhưng chủ yếu cần làm là : thành phần cơ giới, hàm lượng mùn, hàm lượng cacbonát canxi, pH, thường có dụng cụ xác định pH ngoài trời. Với yêu cầu chi tiết cần phân tích cả thành phần hoá học của đất, nấm, vi sinh vật và động vật đất, với vi sinh vật cần làm sáng tỏ nhóm yếm khí, hiếu khí và số lượng trong khối lượng đất. - Mực nước ngầm : Rất quan trọng cho sự xác định loại hình rừng hay đồng cỏ thuộc loại ẩm hay lầy... cần xác định mực nước ngầm trong các quần hợp và so sánh mực nước ngầm ở các quần xã khác nhau, từ đó có thể cho ta hiểu xu hướng biến đổi thảm thực vật khi biến động mực nước ngầm, cũng như sự tác động của con người đến mực nước ngầm hay qua lớp phủ đến mực nước ngầm. Để xác định cần làm vào những thời điểm mà nó ít biến động và làm vài nơi cho một quần hợp. Cách làm là : đào thành 1 cái giếng để nước chảy ra, qua mực nước xác định.. - Đánh giá về giá trị kinh tế : Đó là chỉ số quan trọng trong nghiên cứu địa thực vật. Ngoài thực địa nêu tóm tắt nhưng chính xác về đặc điểm của đất, xu hướng có thể tác động để làm tốt lên. + Những đặc điểm kinh tế của quần xã rừng cần được làm sáng tỏ bởi từ cấp lượng gỗ và khả năng phục hồi từ hạt của nó. Nếu cấp lượng gỗ quá thấp cần tìm cách 98
- thay đổi thành phần cây gỗ bằng cách đưa giống vào, những giống này phải phù hợp với điều kiện sống. Nếu khả năng phục hồi từ hạt kém hay không có, cần tìm cách tác động để các giống này có khả năng phục hồi từ hạt, các phương pháp chặt tỉa, hoặc đưa giống vào, đều chỉ thích hợp với điều kiện khí hậu và đất đai của vùng này. Đặc điểm kinh tế của đồng cỏ cắt và chăn thả gồm ba chỉ số cơ bản cần so sánh : tỉ lệ tham gia trong thảm cỏ của các nhóm cây có lợi và có hại ; trạng thái của thảm cỏ trong mối quan hệ với sự mất đi do chăn thả, cũng như mối quan hệ về sản lượng của các phần ; độ phì của đất. Với đồng cỏ cắt cần đề cập đến các chướng ngại trong đồng cỏ khi sử dụng cơ giới. Đánh giá về giá trị chăn thả của thảm cỏ cần phải tính đến độ ăn được của cây cỏ (từng loài) với từng loại gia súc khác nhau. Phương pháp đánh giá có nhiều, có thể dùng phương pháp Larinna. Cần nhấn mạnh là độ ăn được không phải luôn luôn quan hệ với giá trị dinh dưỡng của cây cỏ, đặc biệt là những loài thực vật trong loại hình khô, trạng thái có giá trị chăn thả của nó thường kém. Độ ăn được của mỗi loài cung khác nhau theo mùa vụ, thường ở trạng thái non thì tốt hơn, hoặc ở một số loài giá trị chăn thả từng phần có khác nhau đa số lá có giá trị cao hơn. 9.3. NHỮNG BẢNG ĐỂ MÔ TẢ Ô TIÊU CHUẨN Tuỳ thuộc vào từng kiểu thảm thực vật mà bảng mô tả ô tiêu chuẩn có đặc điểm khác nhau. Bảng mô tả các ô tiêu chuẩn của thảm cỏ giống bảng mô tả thảm cỏ dưới rừng. Còn bảng mô tả các loài cây gỗ thì có những nét khác. Sau đây là một lsố bảng mẫu mô tả cho các thực vật quần đồng cỏ và rừng. Đối với các thực vật quần thảo nguyên cần chú ý đến lớp cỏ chết và mức độ được phủ của mặt đất. Đối với các loại hình đầm lầy cần nhấn mạnh độ ẩm và các vi địa hình. Vòi thảm cỏ diện tích mô tả là 1m2 hay 50 x 50cm và để nghiên cứu thảm cây mục (chết) trong rừng cũng dùng diện tích tương tự. 1. Bảng mô tả thực vật quần đồng cỏ No................................. ngày...... tháng..... năm 200..... Tên thực vật quần Nước, hay vùng.......................................................miền Kinh, vĩ tuyến............................................ tên địa điểm Xung quanh.................................................................... Độ cao so với mặt biển................................ hướng phơi Độ dốc (độ)............................. đặc điểm chung địa hình ……………………………………………………………… Tiểu địa hình và nguồn gốc............................................ 99
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
TUYỂN TẬP CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM SINH HỌC 12 CHƯƠNG IX. QUẦN XÃ SINH VẬT
16 p | 585 | 145
-
Phương pháp nghiên cứu quần xã thực vật
117 p | 204 | 53
-
Vật lý 7 - ĐỊNH LUẬT PHẢN XẠ ÁNH SÁNG
6 p | 571 | 15
-
Giáo án vật lý lớp 6 - HIỆN TƯỢNG KHÚC XẠ ÁNH SÁNG
8 p | 186 | 12
-
Tài liệu nghiên cứu quần xã thực vật phần 1
11 p | 110 | 12
-
Tài liệu nghiên cứu quần xã thực vật phần 2
11 p | 110 | 11
-
Tài liệu nghiên cứu quần xã thực vật phần 3
11 p | 91 | 9
-
DIỄN THỂ SINH THÁIKHÁI NIỆM
5 p | 103 | 9
-
Tài liệu nghiên cứu quần xã thực vật phần 10
18 p | 112 | 8
-
Tài liệu nghiên cứu quần xã thực vật phần 7
11 p | 76 | 8
-
Tài liệu nghiên cứu quần xã thực vật phần 4
11 p | 55 | 8
-
Tài liệu nghiên cứu quần xã thực vật phần 8
11 p | 78 | 7
-
Tài liệu nghiên cứu quần xã thực vật phần 6
11 p | 79 | 7
-
Tình hình nghiên cứu Phan Bội Châu ở nước ngoài những năm gần đây
7 p | 95 | 6
-
Tài liệu nghiên cứu quần xã thực vật phần 5
11 p | 59 | 5
-
QUẦN XÃ SINH VẬTĐỊNH NGHĨA
5 p | 99 | 4
-
PHẢN XẠ ÂM - TIẾNG VANG
6 p | 89 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn