intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TÀI LIỆU TÌM HIỂU QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP: Chương 2: Một số lý luận thực tiễn về định tội danh với hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp

Chia sẻ: Nguyen Thi Thuy Duong | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:56

284
lượt xem
69
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 2.1.1. LÝ LUẬN CHUNG Như đã phân tích ở mục 1.1, quá trình định tội danh là quá trình so sánh, đối chiếu các tình tiết của hành vi phạm tội diễn ra trên thực tế với các dấu hiệu của các mô hình pháp lý để chọn ra mô hình pháp lý nào phù hợp nhất. Như vậy, định tội danh đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là quá...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TÀI LIỆU TÌM HIỂU QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP: Chương 2: Một số lý luận thực tiễn về định tội danh với hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp

  1. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 TÀI LIỆU TÌM HIỂU QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP Chương 2: Một số lý luận thực tiễn về định tội danh với hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp 41
  2. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 CHƯƠNG 2: ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN 2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 2.1.1. LÝ LUẬN CHUNG Như đã phân tích ở mục 1.1, quá trình định tội danh là quá trình so sánh, đối chiếu các tình tiết của hành vi phạm tội diễn ra trên thực tế với các dấu hiệu của các mô hình pháp lý để chọn ra mô hình pháp lý nào phù hợp nhất. Như vậy, đ ịnh tội danh đối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là quá trình so sánh, đối chiếu các tình tiết, các đặc điểm của hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ tại Việt Nam nêu trên với các dấu hiệu của các mô hình pháp lý, các cấu thành tội phạm để tìm ra mô hình pháp lý, cấu thành tội phạm nào là thích hợp nhất. Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cần được định tội có các dấu hiệu, đặc điểm sau: 42
  3. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999  Các dạng hành vi phổ biến là hành vi sử dụng, áp dụng các đ ối tượng sở hữu công nghiệp; sản xuất, nhập khẩu, quảng cáo, lưu thông những sản phẩm, bộ phận sản phẩm có sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp.  Đối tượng của hành vi là các đối tượng sở hữu công nghiệp đang đ ược bảo hộ tại Việt Nam gồm sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn. Từ những đặc điểm nêu trên của các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, so sánh đối chiếu với các mô hình cấu thành tội phạm của các tội phạm trong Bộ luật Hình sự 1999, ta thấy:  Chỉ có tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp quy định tại điều 171 Bộ luật Hình sự 1999 có đối tượng tác động là sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn đang đ ược bảo hộ tại Việt Nam, tức là trùng với đối tượng của hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cần được định tội.  Các dạng hành vi nêu trong cấu thành tội phạm của tội xâm phạm quy ền sở hữu công nghiệp (điều 171 Bộ luật Hình sự 1999) là chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp các đối tượng sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ tại Việt Nam cũng tương đồng với các dạng hành vi của hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cần được định tội. Như vậy, ta thấy rằng mô hình pháp lý phù hợp nhất với hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp quy định 43
  4. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 tại điều 171 Bộ luật Hình sự 1999. Hay nói cách khác, quá trình định tội danh đ ối với hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp chính là quá trình đ ịnh tội đ ối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo điều 171 Bộ luật Hình sự 1999. Quá trình định tội danh đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp này, về mặt lý luận và về mặt pháp luật còn có nhiều khó khăn, vướng mắc cũng như những hạn chế, bất cập và những điểm cần lưu ý mà chúng ta sẽ đ ề c ập d ưới đây, nhằm làm sáng tỏ và giải quyết các vấn đề trong khả năng có thể, giúp cho quá trình định tội danh diễn ra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. 2.1.2. ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI TỘI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP THEO ĐIỀU 171 BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 2.1.2.1. Định tội danh theo khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [71,tr.62]. Dựa vào mức độ khái quát, khách thể của tội phạm được phân loại thành: khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.  Khách thể chung của tội phạm được hiểu là tổng hợp các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm [71,tr.65]. Bất cứ hành vi phạm tội nào, trong đó có tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, cũng đều xâm hại đến khách thể chung. Khách thể chung theo luật hình sự Việt Nam là các quan hệ xã hội đã được xác định tại điều 1 và khoản 1 điều 8 Bộ luật Hình sự 1999. Đó là: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; chế độ xã hội chủ nghĩa; quyền làm chủ của nhân dân; quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc; chế độ chính trị, chế độ kinh tế; nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn 44
  5. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 xã hội; lợi ích của nhà nước; quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức; tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác c ủa công dân; trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.  Khách thể loại của tội phạm là nhóm quan hệ xã hội cùng tính chất được nhóm các quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm [71,tr.65]. Trong bộ luật Hình sự 1999, các tội phạm được sắp xếp theo khách thể loại, nghĩa là các tội phạm xâm hại đến cùng một khách thể loại thì được xếp vào cùng một chương. Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo điều 171 Bộ luật Hình sự 1999 được xếp vào chương XVI “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế”. Như vậy, khách thể loại của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là trật tự quản lý kinh tế của nhà nước . Trật tự quản lý kinh tế này được hiểu là tổng thể các quy trình, thủ tục, nội dung, phạm vi, địa vị pháp lý của chủ thể khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hóa, sản phẩm cũng như sử dụng các nguồn tài nguyên để tạo ra lợi nhuận.  Khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội cụ thể bị tội phạm cụ thể trực tiếp xâm hại [71,tr.66]. Tội phạm cụ thể xâm hại đến khách thể trực tiếp khi nó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội là khách thể trực tiếp này. Chính thông qua gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại này mà tội phạm cụ thể đồng thời cũng xâm hại đến khách thể loại và khách thể chung. Nhìn chung, một tội phạm có thể xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội khác nhau, nhưng trong các quan hệ xã hội bị xâm hại đó chỉ có một quan hệ xã hội là khách thể trực tiếp mà thôi. Khi định tội danh đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, 45
  6. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 cần lưu ý rằng hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp này có thể xâm h ại đến nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Trước hết, hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp xâm phạm đến chế độ quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Bên cạnh đó, do các đối tượng sở hữu công nghiệp có giá trị thương mại cao, việc sử dụng chúng trong hoạt động kinh doanh thường tạo ra một giá trị vật chất vô cùng to lớn, nên hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp cũng đồng thời xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Tuy nhiên, trong hai quan hệ xã hội bị xâm hại trên, chế độ quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là quan hệ luôn bị gây thiệt hại bởi hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, và chính quan hệ này mới phản ánh một cách chính xác và đ ầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Vì vậy, chế độ quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là khách thể trực tiếp của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.  Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ [71,tr.67]. Đ ối tượng tác động của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (điều 171 Bộ luật Hình sự 1999) là sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa và các đối tượng sở hữu công nghiệp khác đang đ ược bảo hộ tại Việt Nam. Các đối tượng sở hữu công nghiệp khác, theo quy đ ịnh của pháp luật hiện hành là bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn. Trong quá trình định tội danh, khách thể trực tiếp cùng với đối tượng tác động của tội phạm là các yếu tố cần phải được xem xét để phân biệt giữa tội 46
  7. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 phạm này với tội phạm khác, giữa mô hình pháp lý này với mô hình pháp lý khác, nhằm đảm bảo cho quá trình định tội danh diễn ra một cách chính xác và đúng đắn. Đối với quá trình định tội danh cho tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, cần dựa vào khách thể trực tiếp và đối tượng tác động để tránh nhầm lẫn tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (điều 171 Bộ luật Hình sự 1999) với một số tội phạm khác tương tự hoặc có liên quan, như:  Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (điều 170 Bộ luật Hình sự 1999). Nếu khách thể trực tiếp của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là chế độ quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp thì khách thể trực tiếp của tội xâm phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là chế độ quản lý nhà nước về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp [71,tr.448]. Cùng là chế độ quản lý của nhà nước liên quan đến sở hữu công nghiệp, nhưng hai quan hệ xã hội này khác nhau và xuất hiện ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp: giai đoạn xác lập quyền sở hữu công nghiệp và giai đoạn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Muốn xác lập quyền sở hữu công nghiệp trên cơ sở văn bằng bảo hộ, các đối tượng sở hữu công nghiệp cần phải đáp ứng đầy đủ các quy định của pháp luật về nội dung (tính chất, đặc điểm, yêu cầu kỹ thuật… của đối tượng) và về hình thức (trình tự, thủ tục, lệ phí… xác lập). Các hành vi vi phạm trong giai đoạn này xâm hại tới quan hệ xã hội là chế độ quản lý của nhà nước về xác l ập quy ền sở hữu công nghiệp, trong đó có cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Sau đó, trên cơ sở văn bằng bảo hộ có hiệu lực, quyền sở hữu công nghiệp mới phát sinh và lúc này mới bắt đầu giai đoạn bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Trong giai đoạn quyền sở hữu công nghiệp đã phát sinh và đang được bảo hộ, các 47
  8. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 hành vi vi phạm sẽ xâm hại đến chế độ quản lý của nhà nước về bảo hộ quy ền sở hữu công nghiệp. Về đối tượng tác động, đối tượng tác động của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là các đối tượng sở hữu công nghiệp (sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và thiết kế bố trí mạch tích hợp bán d ẫn) đang được bảo hộ tại Việt Nam. Đây là đối tượng tác động với ý nghĩa là khách thể của quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Còn đối tượng tác động của tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp lại là hoạt động bình thường của chủ thể trong quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm, dưới hình thức tự làm biến dạng xử sự của chính mình [71,tr.69]. Ngoài các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm nêu trên, để phân biệt giữa tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (điều 170 Bộ luật Hình sự 1999) và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (điều 171 Bộ luật Hình sự 1999) còn có thể dựa vào chủ thể của tội phạm. Chủ thể của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là chủ thể thường, còn chủ thể của tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là chủ thể đặc biệt: người có thẩm quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Tuy nhiên, người không có thẩm quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ cũng có thể bị định tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quy ền sở hữu công nghiệp dưới hình thức đồng phạm.  Tội xâm phạm quyền tác giả (điều 131 Bộ luật Hình sự 1999) 48
  9. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 Như đã phân tích, quyền tác giả cùng với quyền sở hữu công nghiệp là bộ phận hợp thành quyền sở hữu trí tuệ. Chúng có một số điểm tương đồng như cùng là tài sản vô hình, phi vật chất, là thành quả của lao động sáng t ạo, là s ản phẩm trí tuệ của con người, bị giới hạn về thời gian bảo hộ và mang tính lãnh thổ tuyệt đối. Tuy nhiên, quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp có một số khác biệt cơ bản:  Thứ nhất, phần lớn các quyền sở hữu công nghiệp chỉ phát sinh trên cơ sở văn bằng bảo hộ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, trong khi đó, quyền tác giả phát sinh một cách tự động, chỉ cần tác phẩm được thể hiện dưới hình thức vật chất nhất định, không cần phải đăng kí hay công bố, cũng không cần phải quan tâm đến giá trị nghệ thuật của nó.  Thứ hai, bảo hộ quyền tác giả là bảo hộ hình thức sáng tạo chứa đựng nội dung sáng tạo, chứ không bảo hộ nội dung sáng tạo. Tác phẩm được bảo hộ phải mang tính nguyên gốc về hình thức thể hiện. Ngược lại, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp chính là bảo hộ nội dung sáng tạo [58,tr.49].  Thứ ba, trong lĩnh vực quyền tác giả, pháp luật nghiêng về bảo hộ quyền của người sáng tạo tác phẩm hơn là chủ sở hữu tác phẩm. Ngược lại, trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp pháp luật lại nghiêng về bảo hộ quyền của chủ sở hữu công nghiệp hơn là của tác giả đối tượng sở hữu công nghiệp [58,tr.50]. Quyền tác giả bao gồm hai nội dung quan trọng: quyền nhân thân phi tài s ản và quyền tài sản của tác giả đối với tác phẩm được bảo hộ. Như vậy, khách thể trực tiếp của tội xâm phạm quyền tác giả là quyền nhân thân phi tài sản và quyền tài sản của tác giả tác phẩm được bảo hộ. Khách thể loại của tội này là quyền tự do, dân chủ của công dân, trong khi khách thể loại của tội xâm phạm quyền sở 49
  10. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 hữu công nghiệp là trật tự quản lý kinh tế. Đối tượng tác động của tội này là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học được bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam, gồm: + tác phẩm viết + các bài giảng, bài phát biểu + tác phẩm sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật khác + tác phẩm điện ảnh, video + tác phẩm phát thanh, truyền hình + tác phẩm báo chí + tác phẩm âm nhạc + tác phẩm kiến trúc + tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng + tác phẩm nhiếp ảnh + công trình khoa học, sách giáo khoa, giáo trình + các bức hoạ đồ, bản vẽ, sơ đồ, bản đồ có liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học + tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển tập, hợp tuyển 50
  11. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 + phần mềm máy tính + tác phẩm khác do pháp luật quy định [4,Đ747] Như vậy có thể thấy, tuy cùng là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nhưng tội xâm phạm quyền tác giả (điều 131 Bộ luật Hình sự 1999) và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (điều 171 Bộ luật Hình sự 1999) hoàn toàn khác nhau về khách thể và đối tượng tác động. Ngoài ra, về hành vi khách quan, chúng có thể có hành vi giống nhau (chiếm đoạt) cũng có thể là những hành vi khác nhau (mạo danh tác giả, sửa đổi bất hợp pháp nội dung tác phẩm, công bố phổ biến bất hợp pháp tác phẩm / sử dụng bất hợp pháp đối tượng sở hữu công nghiệp).  Các tội xâm phạm sở hữu thông thường Các tội xâm phạm sở hữu thông thường có điểm tương đồng về hành vi khách quan (chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp) với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp bao gồm: tội cướp tài sản (điều 133 Bộ luật Hình sự 1999), tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (điều 134 Bộ luật Hình sự 1999), tội cưỡng đoạt tài sản (điều 135 Bộ luật Hình sự 1999), tội cướp giật tài sản (điều 136 Bộ luật Hình sự 1999), tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (điều 137 Bộ luật Hình sự 1999), tội trộm cắp tài sản (điều 138 Bộ luật Hình sự 1999), tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (điều 139 Bộ luật Hình sự 1999), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (điều 140 Bộ luật Hình sự 1999), tội sử dụng trái phép tài sản (điều 142 Bộ luật Hình sự 1999). Tuy nhiên, như đã phân tích, tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (điều 171 Bộ luật Hình sự 1999) có khách thể loại là trật tự quản lý kinh tế, khách thể 51
  12. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 trực tiếp là chế độ quản lý nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; còn các tội xâm phạm sở hữu nói trên có khách thể là quyền sở hữu tài sản (bao gồm quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) hoặc quyền sở hữu tài sản và nhân thân, hoặc quyền sử dụng tài sản. Về đối tượng tác động, đối tượng tác động của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp là các đối tượng sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ tại Việt Nam. Chúng là tài sản vô hình, phi vật chất, là thành quả của lao động sáng tạo và sự bảo hộ đối với chúng bị giới hạn về không gian, thời gian. Ngược lại, đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu nói trên là tài sản thông thường (vật có thực, tiền và giấy tờ khác trị giá bằng tiền), chúng mang tính vật chất, hữu hình, là thành quả của lao động sản xuất và sự bảo hộ đối với chúng là vô hạn về không gian và thời gian. Tóm lại, tuy có điểm tương đồng về hành vi khách quan, nhưng tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (điều 171 Bộ luật Hình sự 1999) và các tội xâm phạm sở hữu thông thường (điều 133, 134, 135, 136, 137, 138, 139, 140, 142 Bộ luật Hình sự 1999) hoàn toàn khác nhau về khách thể và đối tượng tác động.  Các tội sản xuất, buôn bán hàng giả (điều 156, 157, 158 Bộ luật Hình s ự 1999) Các tội sản xuất, buôn bán hàng giả bao gồm: tội sản xuất, buôn bán hàng giả (điều 156 Bộ luật Hình sự 1999), tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (điều 157 Bộ luật Hình sự 1999), tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (điều 158 Bộ luật 52
  13. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 Hình sự 1999). Các tội trên hoàn toàn giống nhau về khách thể, chủ thể, mặt khách quan, mặt chủ quan, chỉ khác ở tính chất đặc biệt của đối tượng tác động: đối tượng tác động của các tội quy định tại điều 157, 158 Bộ luật Hình sự 1999 là hàng giả các loại hàng hóa đặc biệt như: hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi; còn đối tượng tác động của tội sản xuất, buôn bán hàng giả (điều 156 Bộ luật Hình sự 1999) là hàng giả các loại hàng hóa thông thường, không phải các đối tượng nêu trên. Hiện nay, chưa có một văn bản nào giải thích chính thức thế nào là “hàng giả” - đối tượng tác động của các tội sản xuất, buôn bán hàng giả quy đ ịnh t ại điều 156, 157, 158 Bộ luật Hình sự 1999. Trong thực tế, Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA- BKHCNMT ngày 27/04/2000 của Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT- TTg ngày 27/10/1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả thường được áp dụng để giải thích khái niệm “hàng giả”. Theo thông tư này, hàng giả có các loại sau:  Hàng giả chất lượng hoặc công dụng:  Hàng hóa không có giá trị sử dụng hoặc giá trị sử dụng không đúng như bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó.  Hàng hóa đưa thêm tạp chất, chất phụ gia không được phép sử dụng làm thay đổi chất lượng; không có hoặc có ít dược chất, có chứa dược chất khác với tên dược chất ghi trên nhãn hoặc bao bì; không có hoặc không đ ủ hoạt chất, chất 53
  14. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 hữu hiệu không đủ gây nên công dụng; có hoạt chất, chất hữu hiệu khác với tên hoạt chất, chất hữu hiệu ghi trên bao bì.  Hàng hóa không đủ thành phần nguyên liệu hoặc bị thay thế bằng những nguyên liệu, phụ liệu không đảm bảo chất lượng so với tiêu chuẩn chất l ượng hàng hóa đã công bố, gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khoẻ người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường.  Hàng hóa thuộc danh mục tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng mà không thực hiện gây hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khoẻ người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi trường.  Hàng hóa chưa được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn mà sử dụng giấy chứng nhận hoặc dấu phù hợp tiêu chuẩn (đối với danh mục hàng hóa bắt buộc).  Giả về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc xuất xứ hàng hóa:  Hàng hóa có nhãn hiệu hàng hóa trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hóa của người khác đang được bảo hộ cho cùng loại hàng hóa, kể cả nhãn hiệu hàng hóa đang được bảo hộ theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, mà không được phép của chủ nhãn hiệu.  Hàng hóa có dấu hiệu hoặc có bao bì mang dấu hiệu trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ hoặc với tên gọi xuất xứ hàng hóa được bảo hộ. 54
  15. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999  Hàng hóa, bộ phận của hàng hóa có hình dáng bên ngoài trùng với kiểu dáng công nghiệp đang được bảo hộ mà không được phép của chủ kiểu dáng công nghiệp.  Hàng hóa có dấu hiệu giả mạo về chỉ dẫn nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa gây hiểu sai lệch về nguồn gốc, nơi sản xuất, nơi đóng gói, lắp ráp hàng hóa.  Giả về nhãn hàng hóa:  Hàng hóa có nhãn hàng hóa giống hệt hoặc tương tự với nhãn hàng hóa của cơ sở khác đã công bố.  Những chỉ tiêu ghi trên nhãn hàng hóa không phù hợp với chất l ượng hàng hóa nhằm lừa người tiêu dùng.  Nội dung ghi trên nhãn bị cạo, tẩy xoá, sửa đổi, ghi không đúng thời hạn sử dụng để lừa dối khách hàng. Có một số ý kiến cho rằng, cả 3 loại hàng giả nêu trên đều là đối tượng tác động của các tội sản xuất, buôn bán hàng giả [26,tr.53; 27,tr.85; 28,tr.19; 64,tr.290; 69,tr.1045]. Tuy nhiên, theo tác giả, đối tượng tác động của các tội sản xuất, buôn bán hàng giả chỉ là hàng giả về chất lượng hoặc công dụng, vì một số lý do sau:  Thứ nhất, về mặt hình thức, Thông tư liên tịch 10/2000/TTLT-BTM-BTC- BCA-BKHCNMT được ban hành là để hướng dẫn thi hành Chỉ thị 31/1999/CT- TTg; còn Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, được ban hành để chỉ đạo, đôn đốc, phối hợp và kiểm tra 55
  16. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 hoạt động của các cơ quan, đơn vị do mình phụ trách trong việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và của mình [6,Đ58]. Mặt khác, trong Thông tư liên tịch 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT không hề có quy định rằng Thông tư này ban hành để giải thích khái niệm “hàng giả” trong các điều 156, 157, 158 Bộ luật Hình sự 1999. Như vậy có nghĩa là, Thông tư liên tịch 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT hoàn toàn không liên quan, không có giá trị quy định chi tiết hay hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự 1999.  Thứ hai, về mặt lịch sử, trước khi Bộ luật Hình sự 1999 ra đời và có hiệu lực thi hành, pháp luật hình sự nước ta không quy định tội “xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”. Hành vi chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp sáng chế, giải pháp hữu ích có thể bị định tội “xâm phạm quyền tác giả, quyền sáng chế, phát minh” theo điều 126 Bộ luật Hình sự 1985. Hành vi sử dụng bất hợp pháp kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, tên gọi xuất xứ hàng hóa, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý có thể bị định tội “làm hàng giả, buôn bán hàng giả” theo điều 167 Bộ luật Hình sự 1985. Điều đó có nghĩa là, đối tượng tác động của tội làm hàng gi ả, buôn bán hàng giả theo điều 167 Bộ luật Hình sự 1985 bao gồm cả hàng giả về chất lượng, công dụng và hàng giả về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc xuất xứ hàng hóa. Cách hiểu này, trong bối cảnh lịch sử lúc đó, là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên, khi Bộ luật Hình sự 1999 ra đời và có hiệu lực thi hành, khái niệm “hàng giả” lẽ ra cần phải được xem xét và điều chỉnh cho phù hợp với sự quy định tội danh mới “tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” (điều 171 Bộ luật Hình sự 1999), nhưng có lẽ do thói quen, nhiều người vẫn có quan niệm “hàng giả” theo cách hiểu cũ.  Thứ ba, so sánh giữa hàng giả về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc xuất xứ hàng hóa quy định tại Thông tư liên tịch 56
  17. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT với hàng hóa sản xuất bởi hành vi vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, tên thương mại, tên gọi xuất xứ hàng hóa, chỉ dẫn địa lý; thì không có một tiêu chí cụ thể, một ranh giới rõ ràng nào để phân biệt giữa hàng giả về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc xuất xứ hàng hóa với hàng hóa vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, tên thương mại, tên gọi xuất xứ hàng hóa, chỉ dẫn đ ịa lý. Nếu hi ểu đ ối tượng tác động của các tội buôn bán, sản xuất hàng giả bao gồm cả loại hàng giả về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc xuất xứ hàng hóa nói trên thì hậu quả là: một hành vi sản xuất hàng giả về nhãn hiệu hàng hóa, ki ểu dáng công nghiệp, nguồn gốc xuất xứ hàng hóa có thể được định tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, cũng có thể được định tội sản xuất buôn bán hàng giả. Điều này vô hình chung đã vô hiệu hóa hiệu lực của điều luật 171 Bộ luật Hình sự 1999 “Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” – điều luật mà sự ra đời của nó được xem như một bước tiến vượt bậc của Bộ luật Hình sự 1999 so với Bộ luật Hình sự 1985. Tóm lại, theo quan điểm của tác giả, hàng giả theo nghĩa rộng bao gồm hàng giả về chất lượng hoặc công dụng (giả về nội dung) và hàng giả về nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc xuất xứ hàng hóa (giả về hình thức). Hàng giả theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm hàng giả về nội dung, tức là giả về chất lượng hoặc công dụng. Đối tượng tác động của các tội sản xuất, buôn bán hàng giả (điều 156, 157, 158 Bộ luật Hình sự 1999) chỉ là hàng giả theo nghĩa hẹp. Còn hàng giả về hình thức là đối tượng tác động của tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (điều 171 Bộ luật Hình sự 1999). Ngoài ra, hàng giả về nhãn hàng hóa theo quy định tại Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-BKHCNMT, tùy vào từng trường hợp cụ thể, có thể là đối tượng tác động của tội tội quảng cáo 57
  18. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 gian dối (điều 168 Bộ luật Hình sự 1999) hoặc tội lừa dối khách hàng (điều 162 Bộ luật Hình sự 1999). Trong trường hợp hàng hóa vừa giả về nội dung vừa giả về hình thức, có quan điểm cho rằng chỉ cần định tội “sản xuất, buôn bán hàng giả” vì giả về hình thức bị thu hút trong cấu thành tội phạm của các tội phạm giả về nội dung [35,tr.44]. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Tài liệu Hội nghị tập huấn chuyên sâu Bộ luật Hình sự 1999 thì trường hợp này sẽ bị truy cứu trách nhiệm về hai tội: tội sản xuất, buôn bán hàng giả tương ứng và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp [74,tr.190]. Tác giả cũng cho rằng cần phải định hai tội: tội sản xuất, buôn bán hàng giả và tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp. Bởi vì các cặp c ấu thành tội phạm có quan hệ thu hút phải thoả mãn điều kiện: những dấu hiệu của một cấu thành tội phạm trong sự so sánh với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm kia có tính chất như một bộ phận [48,tr.40]. Nghĩa là dấu hiệu bị thu hút đó phải luôn luôn tồn tại như một bộ phận trong cấu thành tội phạm kia. Trong khi đó, dấu hiệu giả về hình thức không phải là dấu hiệu bắt buộc luôn luôn tồn tại như một bộ phận trong cấu thành tội phạm của tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Mặt khác, hành vi làm giả hàng hóa vừa về nội dung vừa về hình thức có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn hành vi làm giả hàng hóa về nội dung, vì vậy chỉ một tội sản xuất, buôn bán hàng giả không phản ánh đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi sản xuất hàng giả về nội dung lẫn hình thức. 2.1.2.2. Định tội danh theo mặt khách quan của tội phạm Mặt khách quan của tội phạm được hiểu là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách 58
  19. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 quan [71,tr.71]. Những tình tiết, dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm: hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm, phương pháp, thủ đoạn…). Khi tiến hành định tội danh theo mặt khách quan của tội phạm, cần lưu ý một số vấn đề sau:  Định tội danh theo thời gian phạm tội: “Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” (điều 171 Bộ luật Hình sự 1999) tuy mới được quy định trong Bộ luật Hình sự 1999, nhưng lại không phải là tội phạm mới. Hành vi chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp các đối tượng sở hữu công nghiệp đang được bảo hộ tại Việt Nam đã được quy định trong Bộ luật Hình sự 1985 dưới hai tội danh: tội xâm phạm quyền tác giả, quyền sáng chế, phát minh (điều 126 Bộ luật Hình sự 1985) và tội làm hàng giả, buôn bàn hàng giả (điều 167 Bộ luật Hình sự 1985). Theo quy định tại Nghị quyết 32/1999/QH10 ngày 21/12/1999 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự, hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp thực hiện từ 0 giờ 00 ngày 01/07/2000 được định tội danh theo tội “xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp” (điều 171 Bộ luật Hình sự 1999). Đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01/07/2000 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì chỉ áp dụng điều 171 Bộ luật Hình sự 1999 nếu điều luật đó quy đ ịnh hình phạt nhẹ hơn. Mức tối đa của khung hình phạt cao nhất đối với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (điều 171 Bộ luật Hình sự 1999) là 3 năm tù. Mức tối đa của khung hình phạt cao nhất đối với tội xâm phạm quyền tác giả, quyền sáng chế, phát minh (điều 126 Bộ luật Hình sự 1985) là 1 năm tù. Mức tối đa của khung hình phạt cao nhất đối với tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả (điều 167 Bộ luật 59
  20. ÑÒNH TOÄI DANH ÑOÁI VÔÙI HAØNH VI XAÂM PHAÏM QUYEÀN SÔÛ HÖÕU COÂNG NGHIEÄP THEO BOÄ LUAÄT  HÌNH SÖÏ 1999 Hình sự 1985) là tử hình. Vì vậy, điều luật 171 Bộ luật Hình sự 1999 là điều luật quy định hình phạt nhẹ hơn so với điều 167 Bộ luật Hình sự 1985, nhưng lại là điều luật quy định hình phạt nặng hơn so với điều 126 Bộ luật Hình sự 1985. Vì vậy, nếu một người thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tương ứng với hành vi khách quan của tội xâm phạm quyền tác giả, quyền sáng chế, phát minh trước 0 giờ 00 ngày 01/07/2000 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì sẽ bị định tội danh theo tội xâm phạm quy ền tác giả, quyền sáng chế, phát minh (điều 126 Bộ luật Hình sự 1985). Ngược lại, nếu nếu một người thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tương ứng với hành vi khách quan của tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả trước 0 giờ 00 ngày 01/07/2000 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì sẽ bị định tội danh theo tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (điều 171 Bộ luật Hình sự 1999).  Về mối quan hệ giữa các dấu hiệu định tội: Điều 171 Bộ luật Hình sự 1999 là điều luật đặc biệt về cấu trúc vì có cả hai loại cấu thành tội phạm là cấu thành hình thức và cấu thành vật chất. Theo đó, có nhiều trường hợp phạm tội mà mỗi trường hợp bao gồm tập hợp các dấu hiệu định tội về mặt khách quan khác nhau. Mặt khách quan của tội phạm có các dấu hiệu sau: hành vi khách quan; hậu quả nguy hiểm cho xã hội; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Tuy nhiên, để định tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, không đòi hỏi phải có mặt đầy đủ cả 5 dấu hiệu nêu trên, mà mỗi trường hợp phạm tội chỉ cần hội đủ một vài 60
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2