TẦM SOÁT TRƯỚC SINH HỘI CHỨNG DOWN BA THÁNG GIỮA THAI KỲ<br />
BẰNG HỆ THỐNG TỰ ĐỘNG IMMULITE 2000 VÀ PHẦN MỀM PRISCA<br />
Đỗ Thị Thanh Thủy*, Phan Việt Xuân*, Phùng Như Toàn**, Phạm Việt Thanh**,<br />
Trương Đình Kiệt*, Trần Thị Trung Chiến*<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đặt vấn đề: Việc nghiên cứu nhằm đưa xét nghiệm sàng lọc hội chứng Down trở thành xét nghiệm<br />
thường qui cho thai phụ ở mọi lứa tuổi đã được Hội sản phụ khoa Hoa kỳ khuyến cáo trong Hội nghị hằng<br />
năm lần thứ 55 – năm 2007. Tuy nhiên áp dụng phương pháp sàng lọc nào thì còn tùy thuộc điều kiện của<br />
từng quốc gia. Tại Việt nam, với hy vọng thực hiện triple test ở 3 tháng giữa thai kỳ, bước đầu sẽ làm nền<br />
tảng cho việc triển khai các các phưong pháp khác có tỉ lệ phát hiện cao hơn, tỉ lệ dưong tính giả thấp hơn và<br />
có thể phát hiện thai dị tật sớm hơn trong thời kỳ ba tháng đầu của thai kỳ.<br />
Mục tiêu: Thực hiện sàng lọc trước sinh bằng khảo nghiệm bộ ba (triple test) trên hệ thống miễn dịch<br />
tự động Immulite 2000, nhằm phát hiện các thai phụ có nguy cao mang thai hội chứng Down. Và xác định<br />
tỉ lệ phát hiện, tỉ lệ dương tính giả và tỉ lệ thai phụ mang thai hội chứng Down trong số thai phụ sàng lọc có<br />
nguy cơ cao.<br />
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, cắt dọc. Sàng lọc được tiến hành ở 6193 thai phụ đơn thai, có tuổi<br />
thai từ 15 cho đến 21 tuần. Triple test (AFP, hCG và UE3) được thực hiện trên hệ thống miễn dịch tự động<br />
Immulite. Sử dụng phần mềm Prisca với các giá trị trung vị AFP, hCG và uE3 của dân số mà phòng xét<br />
nghiệm tự xác lập để tính nguy cơ mang thai hội chứng Down cho mỗi thai phụ. Nếu nguy cơ >1:250 được<br />
coi là nguy cơ cao và 1:250 và 68<br />
trường hợp còn lại thuộc diện có các yếu tố nguy cơ như lớn tuổi, xảy thai nhiều lần, có con hay thai trước<br />
bị dị tật, nguy cơ sàng lọc không cao nhưng không thấp. 22 trường hợp bất thường về số lượng nhiễm sắc<br />
thể được phát hiện (16 hội chứng Down, 1 T13, 2 T18 và 3 trường hợp là các dị tật khác) với tỉ lệ phát hiện<br />
là 88,8%, tỉ lệ dương tính giả 10,3% và tỉ lệ thai phụ mang thai bị hội chứng Down trong số thai phụ sàng<br />
lọc có nguy cơ cao (OAPR) là 1:41.<br />
Kết luận: Sàng lọc 3 tháng giữa thai kỳ bằng bộ ba xét nghiệm triple test có khả năng phát hiện chủ yếu<br />
các thai phụ có nguy cơ mang thai hội chứng Down, ngoài ra có thể phát hiện thêm một số trường hợp bất<br />
thường nhiễm sắc thể khác.<br />
<br />
*<br />
<br />
Đại học Y Dược, TP HCM ** Bệnh viện Từ Dũ, TP HCM<br />
<br />
Chuyên Sản Phụ Khoa<br />
<br />
1<br />
<br />
ABSTRACT<br />
SECOND-TRIMESTER MATERNAL SERUM PRENATAL SCREENING FOR DOWN SYNDROME<br />
BY AUTOMATION IMMULITE 2000 SYSTEM AND PRISCA SOFTWARE<br />
Đo Thi Thanh Thuy, Phan Viet Xuan, Phung Nhu Toan, Pham Viet Thanh, Truong Đinh Kiet,<br />
Tran Thi Trung Chien. * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 198 - 203<br />
Background: Prenatal screening for Down Syndrome should be offered to all pregnancies regardless of<br />
their age recommended by The American College of Obstetrics and Gynecology in 55 th’s annual meeting<br />
(2007). Choosing methods depends on national conditions. In Vietnam, at the beginning, we have tries to<br />
deal with maternal serum second-trimester triple test, after familiar with prenatal screening, we will move to<br />
the other strageries with higher detection rate, lower false positive rate and earlier detection of fetus<br />
aneuploidy.<br />
Objecives: Detection of high-risk pregnancies for Down syndrome by second-trimester triple test on<br />
automation Immulite 2000 and PRISCA software. Screening performance assessment through detection<br />
rate, false- positive rate and odds of being affected given a positive result.<br />
Method: Prospective study and corhort. 6193 singleton pregnancies with gestational ages between 15 to<br />
21 weeks were participated in. Triple test (AFP, hCG và UE3) were measured by automation Immulite 2000.<br />
PRISA software have been used with our lab’s AFP, hCG and uE3 median values to calculate Down<br />
syndrome risk for each pregnancy. The cut-off is 1:250. Then, the pregnancies were consultant by<br />
obstetricians to understand whether she got a low risk or high risk for Down syndrome as well as to have a<br />
right decision especially if she got a screening high risk.<br />
Result: 4675 pregnancies < 35 years old with screening positive rate 4,3 %, 1518 pregnancies ≥ 35<br />
years old with screening positive rate 30,2%. Diagnostic tests were offered to 305 pregnancies, including<br />
237 women at risk >1:250 and 68 cases of other situations such as ≥ 35 year-old women, previous affected<br />
fetus/child, … 22 cases of chromosomal abnormalities were identified (16 Down syndrome, one T13, 2 T18<br />
and 3 other disorders) with detection rate 88,8%, false-positive rate 10,3% and odds of being affected given a<br />
positive result 1: 41.<br />
Conclusion: Second-trimester maternal serum prenatal screening for Down syndrome by automation<br />
immulite 2000 system and PRISCA software is useful in detection of high-risk pregnancies with Down<br />
syndrome, besides triple test can detect some other chromosomal abnormalities.<br />
nếu phát hiện thai nhi bị dị tật, việc ngưng thai<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
kỳ sẽ được tiến hành tại các bệnh viện sản một<br />
Xét nghiệm sàng lọc trước sinh phát hiện<br />
cách an toàn và hiệu quả, (5) trong trường hợp<br />
thai nhi có nguy cơ cao bị hội chứng Down<br />
gia đình muốn sinh trẻ dị tật thì sẽ được tư<br />
(T21), Edward (T18) và Patau (T13) ở ba tháng<br />
vấn cho việc sinh và chăm sóc trẻ sau đó;<br />
giữa thai kỳ có thể thực hiện được do: (1) tỉ lệ<br />
chính vì vậy việc sàng lọc trước sinh hội chứng<br />
lưu hành của hội chứng Down là tương đối<br />
Down là có ích và nên được áp dụng thường<br />
cao (1:700 nếu không có sàng lọc-chẩn đoán và<br />
qui ở các trung tâm lớn(3).<br />
can thiệp trước sinh), (2) trẻ mang dị tật sinh ra<br />
Việc nghiên cứu đưa xét nghiệm sàng lọc<br />
thường có nhiều vấn đề đi kèm như bệnh lý<br />
hội chứng Down trở thành xét nghiệm thường<br />
tim mạch, nghe nhìn…, và đó sẽ là gánh nặng<br />
qui cho thai phụ ở mọi lứa tuổi được hội sản<br />
về tài chính và tâm lý xã hội cho trẻ và gia<br />
phụ khoa Hoa kỳ khuyến cáo trong hội nghị<br />
đình, (3) xét nghiệm chẩn đoán phát hiện số<br />
hằng năm lần thứ 55 – năm 2007. Việc áp dụng<br />
lượng bất thường nhiễm sắc thể đã sẵn có, (4)<br />
phương pháp sàng lọc nào thì tùy thuộc điều<br />
<br />
Chuyên Sản Phụ Khoa<br />
2<br />
<br />
kiện của từng quốc gia, với Việt Nam, chúng<br />
tôi hy vọng việc triển khai triple test ở 3 tháng<br />
giữa thai kỳ bước đầu sẽ làm nền tảng cho việc<br />
triển khai các các phưong pháp khác có tỉ lệ<br />
phát hiện cao hơn, tỉ lệ dưong tính giả thấp<br />
hơn và có thể phát hiện thai dị tật sớm hơn<br />
trong thời kỳ ba tháng đầu của thai kỳ(1).<br />
<br />
Mục tiêu<br />
Thực hiện sàng lọc trước sinh bằng bộ ba<br />
triple test trên hệ thống miễn dịch tự động<br />
Immulite 2000 và phần mềm PRISCA nhằm<br />
phát hiện thai phụ có nguy cao mang thai hội<br />
chứng Down (T21), Edward (T18), Patau (T13).<br />
Xác định tỉ lệ phát hiện, tỉ lệ dương tính giả<br />
và tỉ lệ thai phụ mang thai bị hội chứng Down<br />
trong số thai phụ sàng lọc có nguy cơ cao<br />
(OAPR).<br />
<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Nghiên cứu tiền cứu, 6193 thai phụ có đơn<br />
thai với tuổi thai từ 15 cho đến 21 tuần, được<br />
xác định bằng siêu âm đo đường kính lưỡng<br />
đỉnh từ 28mm cho tới 52mm tham gia vào<br />
chương trình này. Triple test (AFP, hCG và<br />
UE3) được thực hiện trên hệ thống miễn dịch<br />
tự động Immulite 2000 với cơ chế hóa phát<br />
quang. Sử dụng phần mềm Prisca với các giá<br />
trị trung vị AFP, hCG và uE3 của dân số mà<br />
phòng xét nghiệm tự xác lập. Mỗi lần chạy<br />
máy theo đúng qui trình thực hiện nội kiểm<br />
chuẩn bằng Lymphocheck của Bio-rad, sau khi<br />
tất cả các nồng độ mức 1, 2 và 3 nằm trong giới<br />
hạn cho phép thì tiến hành chạy mẫu, trong<br />
một đợt chạy mẫu, lặp lại từ 3 cho đến 5 mẫu,<br />
nếu sự khác biệt của các mẫu trong những lần<br />
lặp lại có CV1:250 được coi là nguy cơ cao và<br />
=35 tuổi<br />
TỔNG<br />
<br />
Số lượng<br />
4675<br />
1518<br />
6193<br />
<br />
Tỉ lệ %<br />
75,5<br />
24,5<br />
100<br />
<br />
Tuổi trung bình là 29,7 tuổi ( với SD:5,47).<br />
<br />
Tuổi thai<br />
Tuổi thai trong tất cả các trường hợp đều<br />
được xác định bằng siêu âm đo đường kính<br />
lưỡng đỉnh (Biparietal Diameter = BPD). Thai<br />
kỳ trung bình 17 tuần tuổi (SD:1,54), thai kỳ có<br />
tuần tuổi từ 16 đến 19 chiếm tỉ lệ lớn<br />
(5018/6193∼ 81%), và đây là những tuần tuổi<br />
thích hợp cho việc thực hiện xét nghiệm sàng<br />
lọc ở 3 tháng giữa thai kỳ.<br />
Thông tin về tuổi thai ngoài việc đo đường<br />
kính lưỡng đỉnh, còn có thể điều tra tỉ lệ thai<br />
phụ nhớ ngày đầu kỳ kinh cuối. Tỉ lệ thai phụ<br />
nhớ ngày đầu kỳ kinh cuối là 3943 người<br />
(chiếm 62%), trong đó nhóm thai phụ nhớ<br />
ngày đầu kỳ kinh cuối chênh lệch ± 1 tuần so<br />
với tuổi thai tính bằng siêu âm là 2901/3943,<br />
còn lại có sai số so với siêu âm là trên 1 tuần<br />
tuổi thai, có những sai số lên đến 4-6 tuần tuổi<br />
thai. Để cho chương trình sàng lọc có giá trị<br />
tốt, ngay từ đầu, nên sử dụng cách tính tuổi<br />
thai bằng siêu âm đo đường kính lưỡng đỉnh<br />
lúc thai từ 15 đến 21 tuần tuổi, hay đo chiều<br />
dài đầu mông khi thai từ 11 đến 13 tuần tuổi<br />
và lấy máu thai phụ thử xét nghiệm sàng lọc<br />
lúc thai 15 đến 21 tuần tuổi.<br />
<br />
Cân nặng của thai phụ<br />
Cân nặng trung bình là 51,3kg (SD:7,1), trải<br />
dài từ 32,5 kg đến 94 kg, trong đó thai phụ có cân<br />
nặng từ 40 đến 60 kg chiếm ưu thế là 5199 trường<br />
<br />
3<br />
<br />
hợp (84%). Có tới 291 thai phụ không có thông tin<br />
về cân nặng do thiếu sót về hành chính.<br />
<br />
nhận được) mà số trường hợp bệnh lý được<br />
phát hiện vẫn không thay đổi(1,5).<br />
<br />
Nguy cơ sàng lọc hội chứng Down<br />
<br />
Đã có 305 thai phụ tham gia xét nghiệm<br />
chẩn đoán, trong đó có 237 thai phụ thuộc diện<br />
có xét nghiệm sàng lọc nguy cơ cao >1:250, 68<br />
trường hợp còn lại thuộc diện có các yếu tố<br />
nguy cơ như lớn tuổi, xảy thai nhiều lần, có<br />
con hay thai lần trước bị dị tật, nguy cơ sàng<br />
lọc không cao nhưng không thấp. Có 24<br />
trường hợp bất thường về số lượng nhiễm sắc<br />
thể, trong đó có 18 hội chứng Down, 1 T13, 2<br />
T18, 3 trường hợp còn lại là 2 hội chứng<br />
Klinefelter XXY, 1 trisomy X.<br />
<br />
Nguy cơ sàng lọc của thai phụ, chúng tôi<br />
lựa chọn ngưỡng phân biệt giữa nguy cơ cao<br />
và nguy cơ thấp (cut-off) là 1:250 tại thời điểm<br />
lấy mẫu, đây là ngưỡng được một số trung<br />
tâm sàng lọc trên thế giới lựa chọn cho sàng<br />
lọc 3 tháng giữa thai kỳ, tương ứng với tỉ lệ<br />
sinh trẻ bị hội chứng Down của một thai phụ<br />
38 tuổi(2,6).<br />
Bảng 2: Tỉ lệ sàng lọc nguy cơ cao ở các nhóm thai<br />
phụ < 35 tuổi và ≥ 35 tuổi<br />
Tuổi<br />
<br />
Số thai phụ (N)<br />
<br />
Ngưỡng<br />
cut-off<br />
<br />
Nguy cơ<br />
T21<br />
<br />
< 35<br />
≥ 35<br />
<br />
4675 (75,5%)<br />
1518 (24,5%)<br />
<br />
1/250<br />
1/250<br />
<br />
197 (4,3%)<br />
459 (30,2%)<br />
<br />
Với hệ thống sàng lọc miễn dịch tự động<br />
Immulite 2000 theo cơ chế hóa phát quang có<br />
độ nhạy cao, phần mềm tính nguy cơ Prisca<br />
cho phép tính và hiệu chỉnh giá trị trung vị cho<br />
dân số sàng lọc của phòng xét nghiệm, chúng<br />
tôi có thể kiểm tra các giá trị trung vị của các<br />
thông số sinh hóa AFP, hCG và uE3 hàng<br />
tháng, và các trị số này thay đổi trong phạm vi<br />
cho phép (< ±10%), số mẫu ngày càng lớn<br />
nhưng các giá trị trung vị thay đổi ít, dao động<br />
quanh < ±10%, nên chúng tôi thấy tin tưởng<br />
trong việc tính nguy cơ sàng lọc hội chứng<br />
Down cho thai phụ. Với thai phụ tham gia<br />
sàng lọc dưới 35 tuổi có tỉ lệ sàng lọc dương<br />
tính hay còn gọi là nguy cơ cao 4,3 % là chấp<br />
nhận được (so với yêu cầu 5%); với thai phụ từ<br />
35 tuổi trở lên, tỉ lệ nguy cơ cao chiếm 30,2%,<br />
giống với kết quả của nhiều công trình nghiên<br />
cứu khác trên những nhóm thai phụ từ 35 tuổi<br />
trở lên. Tuy nhiên tính tỉ lệ nguy cơ cao trên<br />
toàn bộ dân số sàng lọc (với tuổi trung bình<br />
30) thì tỉ lệ này đạt 10,2% (656/6193) vẫn còn<br />
cao.<br />
Xem xét các trường hợp được phát hiện<br />
của 22 trường hợp bệnh lý, có thể giảm<br />
ngưỡng cut-off ở mức 1:210 (tỉ lệ nguy cơ cao<br />
của dân số chung sẽ khoảng 6,8%, có thể chấp<br />
<br />
Chuyên Sản Phụ Khoa<br />
4<br />
<br />
Bảng 3: Tỉ lệ phát hiện và tỉ lệ dương tính giả<br />
trong sàng lọc hội chứng Down<br />
Ngưỡng<br />
nguy cơ<br />
<br />
Tỉ lệ (+)<br />
giả<br />
<br />
≥ 1:250<br />
<br />
10,3%<br />
<br />
Bất thường nhiễm sắc thể<br />
HC Down HC Edward Dị tật<br />
khác<br />
(n=18)<br />
(n=2)<br />
(n=4)<br />
16 (88,8%)<br />
1(50%)<br />
0<br />
<br />
Bảng 4: Nguy cơ xét nghiệm sàng lọc với kết quả<br />
chẩn đoán trong các trường hợp thai dị tật được<br />
phát hiện<br />
Stt<br />
<br />
Tuổi<br />
<br />
1<br />
2<br />
3<br />
4<br />
5<br />
6<br />
7<br />
8<br />
9<br />
10<br />
11<br />
12<br />
13<br />
14<br />
15<br />
16<br />
17<br />
18<br />
19<br />
20<br />
21<br />
22<br />
<br />
24<br />
24<br />
28<br />
31<br />
32<br />
32<br />
34<br />
36<br />
36<br />
37<br />
38<br />
38<br />
38<br />
39<br />
40<br />
45<br />
32<br />
38<br />
39<br />
30<br />
43<br />
46<br />
<br />
Nguy cơ Triple test<br />
T21<br />
T18<br />
124<br />
77<br />
200<br />
127<br />
203<br />
86<br />
104<br />
50<br />
111<br />
157<br />
111<br />
114<br />
184<br />
117<br />
189<br />
63<br />
112<br />
69<br />
772<br />
180<br />
8930<br />
112<br />
50<br />
426<br />
131<br />
74<br />
1580<br />
98<br />
201<br />
<br />
Double Chẩn đoán<br />
test T21<br />
143<br />
127<br />
116<br />
631<br />
56<br />
276<br />
91<br />
96<br />
60<br />
535<br />
81<br />
114<br />
107<br />
114<br />
50<br />
111<br />
295<br />
118<br />
703<br />
2739<br />
49<br />
93<br />
<br />
T21<br />
T21<br />
T21<br />
T21<br />
T21<br />
T21<br />
T21<br />
T21<br />
T21<br />
T21<br />
T21<br />
T21<br />
T21<br />
T21<br />
T21<br />
T21<br />
T13<br />
T18<br />
T18<br />
Klinefelter<br />
Klinefelter<br />
Trisomy X<br />
<br />
Với ngưỡng cut-off để quyết định nguy cơ<br />
thấp hay nguy cơ cao là 1:250, xét nghiệm sàng<br />
lọc phát hiện được 16/18 trường hợp hội chứng<br />
Down (chiếm 88,8%) với tỉ lệ dương tính giả là<br />
10,3% và tỉ lệ thai phụ mang thai bị hội chứng<br />
Down trong số thai phụ sàng lọc có nguy cơ cao<br />
(OAPR) là 1: 41 (16/656). So với các tác giả khác<br />
thì tỉ lệ này còn cao vì khả năng theo dõi cho tới<br />
khi thai phụ sinh còn chưa đáp ứng yêu cầu.<br />
Trong 16 trường hợp hội chứng Down phát hiện<br />
được, nguy cơ sàng lọc mang thai hội chứng<br />
Down từ 1:50 cho tới 1:203, còn 2 trường hợp hội<br />
chứng Down khác có nguy cơ sàng lọc thấp, tuy<br />
nguy cơ hóa sinh kết hợp tuổi vẫn còn cao hơn<br />
nguy cơ tuổi, nhưng vì sàng lọc nguy cơ thấp<br />
1:250), điều này cho thấy sàng lọc 3 tháng giữa<br />
thai kỳ bằng bộ ba xét nghiệm triple test có khả<br />
năng phát hiện chủ yếu các thai phụ có nguy cơ<br />
mang thai hội chứng Down, ngoài ra có thể phát<br />
hiện thêm một số trường hợp bất thường nhiễm<br />
sắc thể khác(3,5).<br />
<br />
phát hiện hội chứng Down. Mặc dù còn có<br />
nhiều tranh cãi về giá trị của uE3, nhưng dữ<br />
liệu của chúng tôi cho thấy giá trị của uE3<br />
cũng tương đương so với AFP và hCG. Trong<br />
tương lai gần, chúng tôi sẽ triển khai thêm đo<br />
nồng độ của Inhibin A trong 3 tháng giữa thai<br />
kỳ, chuyển từ bộ ba xét nghiệm sàng lọc (triple<br />
test) thành bộ bốn xét nghiệm sàng lọc<br />
(quadruple test), cung cấp thêm sự lựa chọn<br />
cho thai phụ tham gia sàng lọc và hy vọng làm<br />
tăng tỉ lệ phát hiện hội chứng Down cũng như<br />
giảm tỉ lệ dương tính giả như nhiều nghiên<br />
cứu ở các nước phát triển đề cập đến.<br />
<br />
Một số tác giả cho rằng sử dụng double<br />
test (AFP và hCG), có hiệu qủa sàng lọc tương<br />
tự như triple test (AFP, hCG và uE3) mà chi<br />
phí lại rẻ hơn. Trong nghiên cứu này dựa trên<br />
16 trường hợp huyết thanh của thai phụ mang<br />
hội chứng Down. Như vậy nếu sử dụng bộ ba<br />
xét nghiệm sàng lọc (triple test), số trường hợp<br />
thai hội chứng Down được phát hiện là 16<br />
trường hợp (chiếm 100%), nhưng nếu chỉ sử<br />
dụng bộ hai xét nghiệm sàng lọc (double test)<br />
thì chỉ có 13 (81%) trường hợp dược phát hiện,<br />
trong đó có 2 trường hợp thai phụ