intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh mới tại Việt Nam

Chia sẻ: Vân Hi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

5
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thu hút hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh mới tại Việt Nam là việc tập trung vào nỗ lực cải thiện khả năng thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, đáp ứng thách thức và cơ hội của bối cảnh kinh tế thay đổi. Nghiên cứu xem xét các biện pháp tăng cường môi trường kinh doanh, tận dụng tiềm năng kinh tế số và thúc đẩy sự phát triển bền vững. Bằng việc tận dụng các khuyến mãi và cơ chế hỗ trợ, Việt Nam đang xây dựng một môi trường hấp dẫn cho đầu tư nước ngoài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh mới tại Việt Nam

  1. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” THU HÚT CÓ HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG BỐI CẢNH MỚI TẠI VIỆT NAM NCS. Nguyễn Đình Sơn Thành - Ban QTTB&ĐTXD Th.S Nguyễn Bá Lợi - Ban QTTB&ĐTXD ThS. Dương Đức Thành - Trung tâm Thông tin Học viện Tài chính Tóm tắt: Thu hút hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh mới tại Việt Nam là việc tập trung vào nỗ lực cải thiện khả năng thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, đáp ứng thách thức và cơ hội của bối cảnh kinh tế thay đổi. Nghiên cứu xem xét các biện pháp tăng cường môi trường kinh doanh, tận dụng tiềm năng kinh tế số và thúc đẩy sự phát triển bền vững. Bằng việc tận dụng các khuyến mãi và cơ chế hỗ trợ, Việt Nam đang xây dựng một môi trường hấp dẫn cho đầu tư nước ngoài. Điều này bao gồm việc tập trung vào các ngành kinh tế chiến lược, đẩy mạnh công nghệ số và phát triển hạ tầng kết nối. Cùng lúc, việc quản lý rủi ro và tạo sự minh bạch cũng được nhấn mạnh để đảm bảo lợi ích cả của nhà đầu tư và quốc gia. Bằng cách kết hợp các biện pháp này, nghiên cứu giúp làm sáng tỏ cách Việt Nam có thể thu hút hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh mới, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thúc đẩy bền vững trong tương lai. 1. Đặt vấn đề Sau hơn ba thập niên mở cửa, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, bối cảnh xung đột thương mại trên thế giới, xu thế phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0, sự bùng phát của đại dịch Covid-19 trên toàn cầu… cùng với sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ và chống tự do hóa thương mại đa phương trên thế giới đã tác động đến việc điều chỉnh dòng vốn đầu tư của các quốc gia. Do đó, cần nhận diện những cơ hội và thách thức Việt Nam phải đối mặt, từ đó đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam nhằm thu hút có hiệu quả dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong bối cảnh mới. - Bối cảnh: Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và xu hướng dịch chuyển FDI ra khỏi Trung Quốc Các nhà đầu tư có xu hướng dịch chuyển toàn bộ hoặc một phần vốn FDI ra khỏi Trung Quốc để đa dạng chuỗi cung ứng, tránh phụ thuộc vào một thị trường đầu vào. Trong 465
  2. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” bối cảnh đó, Việt Nam có nhiều lợi thế trong việc thu hút FDI, như: vị trí địa lý thuận lợi; chí phí sản xuất rẻ so với các nước trong khu vực; môi trường kinh doanh và cơ sở hạ tầng từng bước được cải thiện; Việt Nam có nhiều nét tương đồng về văn hóa với một số đối tác đầu tư là những quốc gia và vùng lãnh thổ khu vực Đông Bắc Á… + Đứt gãy chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng và xu hướng dịch chuyển đầu tư Các biện pháp phong tỏa và đóng cửa biên giới để ngăn chặn dịch Covid-19 bùng phát đã khiến thương mại toàn cầu đình trệ, chuỗi cung ứng đứt gãy, dẫn tới làn sóng phá sản của doanh nghiệp khắp thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực hàng không, du lịch, bán lẻ... Lần đầu tiên, vì sự đứt gãy đột ngột của chuỗi cung ứng toàn cầu mà hiện tượng khan hiếm hàng hóa đã xảy ra trên toàn thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo, sản xuất ô tô, thiết bị y tế... Trước tình hình này, các nước đã đa dạng hóa đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh nội địa hóa và khu vực hóa nhằm ngăn chặn rủi ro, đảm bảo sự ổn định cho chuỗi cung ứng. Xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng diễn ra nhằm giảm sự lệ thuộc vào một “mắt xích”, tăng tính an toàn cho hệ thống, kèm theo đó là các lợi ích của mỗi quốc gia. Dịch Covid-19 và xung đột thương mại Mỹ - Trung được ví như “chất xúc tác” đẩy nhanh xu hướng chuyển hoạt động sản xuất sang các nước khác hoặc đưa về trong nước để khai thác lợi thế về chi phí, lao động hay dịch vụ hậu cần. Hiện nay, các nước phát triển đang chủ động tái cấu trúc lại các chuỗi cung ứng, trong đó Hoa Kỳ đang xúc tiến hình thành một liên minh “những đối tác đáng tin cậy” gọi là “Mạng lưới thịnh vượng kinh tế”; EU thúc đẩy kinh tế “tự chủ chiến lược”, kiểm soát đầu tư ra nước ngoài; Đức, Italia quy định chặt chẽ hơn đối với đầu tư ra nước ngoài; Pháp triển khai chiến lược “sản xuất tại Pháp”; Nhật Bản dành khoản ngân sách 2,2 tỷ USD hỗ trợ các doanh nghiệp đưa sản xuất từ Trung Quốc về nước và di chuyển sản xuất; Hàn Quốc ban hành Luật thu hút các doanh nghiệp đã đầu tư ở nước ngoài quay về sản xuất, kinh doanh tại Hàn Quốc… + Chính sách ứng phó và hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ Việt Nam trước đại dịch Covid-19 Qua 4 lần bùng phát dịch bệnh Covid-19 ở Việt Nam, Chính phủ đã nhất quán thực hiện chiến lược 5K trong phòng chống dịch (Khẩu trang - Khử khuẩn - Khoảng cách - Không tập trung - Khai báo y tế). Trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp, nhiều chính sách nhằm tăng cường sức đề kháng cho nền kinh tế, nâng cao năng lực ứng phó khi dịch bệnh kéo dài, tạo tiềm lực để phục hồi nền kinh tế nhanh chóng đã được Chính phủ nêu ra. Những chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp, bao gồm cả các doanh nghiệp FDI, được triển khai thực hiện, như: giảm giá bán lẻ điện cho các ngành sản xuất và kinh doanh; hỗ trợ vốn; gia hạn nộp thuế và tiền thuê đất, miễn, giảm lãi, phí theo quy định nội bộ của tổ chức tín dụng; doanh nghiệp được vay tiền để trả lương ngừng việc cho người lao động… Điều 466
  3. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” đó tạo nên sự tin tưởng đối với các doanh nghiệp FDI đang sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam và ghi điểm đối với các nhà đầu tư nước ngoài đang có ý định đầu tư vào nước ta. + Sự ổn định của kinh tế vĩ mô và các hiệp định thương mại tự do được ký kết Trong những năm qua bức tranh kinh tế vĩ mô của Việt Nam luôn ổn định và tươi sáng. Năm 2020, dưới tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 2,91% giảm so với các năm trước đây nhưng là một trong số ít các quốc gia đạt mức tăng trưởng kinh tế dương. Mặt khác, Việt Nam hiện đang rất tích cực tham gia vào các hiệp định thương mại tự do (FTA). Các FTA góp phần tăng cường quan hệ thương mại giữa nước ta và các đối tác, dỡ bỏ các rào cản thương mại để tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Như vậy, sự ổn định của kinh tế vĩ mô và việc Việt Nam tham gia nhiều FTA đã mở ra cơ hội mới để thu hút nhiều hơn dòng vốn FDI. + Chủ trương và chính sách mới của Đảng, Nhà nước về thu hút FDI Đảng và Nhà nước luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của vốn FDI đối với quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế tại Việt Nam. Trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động lớn, để tạo cơ sở pháp lý thu hút nhiều hơn nữa FDI, Đảng và Nhà nước đã đề ra chủ trương, chính sách mới: Luật Đầu tư năm 2020 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2021), đã kế thừa và khắc phục những hạn chế của Luật Đầu tư năm 2014 và có nhiều điểm mới tạo động lực cho thu hút FDI vào Việt Nam, như: giảm số lượng ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện từ 243 xuống còn 227 ngành và bổ sung nhiều ngành nghề được ưu đãi đầu tư; mở rộng cơ hội cho thị trường mua bán, sáp nhập doanh nghiệp (M&A). Ngoài ra, Việt Nam cũng đã sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, như: Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu... cùng với hệ thống các văn bản hướng dẫn về cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về đầu tư hứa hẹn những dòng vốn đầu tư FDI vào nước ta trong tương lai ngày càng lớn hơn. 2. Thực trạng thu hút vốn FDI vào Việt Nam trong bối cảnh mới 2.1. Thực trạng giai đoạn từ năm 1988-2020 Trong hơn 30 năm thu hút vốn FDI tại Việt Nam (1988-2020), năm 2019 là năm thu hút FDI lớn thứ 2 sau năm 2008 (64 tỷ USD). Kết quả này đạt được là do tác động của xu hướng dịch chuyển vốn FDI ra khỏi Trung Quốc sau chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Làn sóng đầu tư của Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan, Hồng Kông) vào Việt Nam đều tăng mạnh, nhằm tránh những tác động tiêu cực của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Năm 2019, đầu tư từ Trung Quốc tăng gần 1,65 lần, Hồng Kông tăng 2,4 lần so với cùng kỳ 2018. 467
  4. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” Riêng năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn thu hút được FDI với tổng số vốn đăng ký đạt 28,530 tỷ USD. Mặc dù, giảm so với những năm gần đây, nhưng con số này lớn hơn rất nhiều so với giai đoạn sau 2008. Thông qua tổng số vốn đăng ký đầu tư ngày càng lớn vào nước ta, cho thấy sự kỳ vọng, niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài và cũng thể hiện mức độ hấp dẫn của chính sách thu hút FDI của Việt Nam. Nhìn cả giai đoạn 2000-2020 cho thấy, số vốn thực hiện của FDI vào Việt Nam liên tục tăng từ năm 2009 (Hình). Số vốn thực hiện tăng thể hiện hiệu quả của hoạt động xúc tiến đầu tư, cơ chế quản lý nhà nước, hiệu lực thực thi của các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, tỷ trọng số vốn thực hiện so với tổng số vốn đăng ký trong giai đoạn 2008-2020 chỉ ở mức trung bình, chỉ có 2 năm là 2011 và 2020 có tỷ trọng số vốn thực hiện chiếm 70,43% và 70% so với tổng số đăng ký. Đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ 4 của vi rút biến thể Delta lan rộng trong phạm vi cả nước, đặc biệt tại các khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam, TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh công nghiệp lân cận. Nhiều tỉnh, thành phố phải thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến những nỗ lực và thành quả chống dịch và phục hồi kinh tế sau 3 đợt dịch Covid-19 trong năm 2020 và đầu năm 2021. Hàng vạn doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp FDI phải thu hẹp, thậm chí dừng sản xuất. Hệ thống vận chuyển, cung ứng, lưu thông hàng hóa ách tắc, các chuỗi sản xuất, cung ứng đứt gãy, hàng loạt đơn hàng bị hủy và chuyển ra khỏi Việt Nam. Trong những điều kiện khó khăn chưa từng xảy ra ở trong nước cùng với FDI toàn cầu giảm từ 1.500 tỷ USD năm 2019 xuống 990 tỷ USD năm 2020, những thành quả thu hút FDI 9 tháng 2021 được xem là “điểm sáng” của bức tranh kinh tế Việt Nam, đã vượt qua những thách thức to lớn trong đại dịch. Cụ thể, theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20/9/2021, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp 468
  5. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 9 tháng của năm 2021, Việt Nam có 1.212 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đang đăng ký đầu tư (giảm 37,8%), tổng số vốn đăng ký mới đạt gần 12,5 tỷ USD (tăng 20,6% so với cùng kỳ). Tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt 6,4 tỷ USD (tăng 25,6% so với cùng kỳ). Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với 11.8 tỷ USD, chiếm 53,4%. Tiếp theo là sản xuất phân phối điện với 5,5 tỷ USD (chiếm 5,5%); các lĩnh vực còn lại với 2,53 tỷ USD (chiếm 25%. Các dự án này đến từ 94 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó đứng đầu là Singapore với tổng vốn đăng ký là 6,3 tỷ (chiếm 28,4%); kế đến là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký 3,9 tỷ USD (chiếm 17,7%); Nhật Bản đứng thứ ba với 3,3 tỷ USD (chiếm 14,7%). 2.2 Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI a. Cơ hội Cơ hội khi Việt Nam liên tiếp ký kết các FTA thế hệ mới. Các FTA thế hệ mới (đặc biệt là CPTPP) đã giúp Việt Nam tiếp cận với nền kinh tế của 60 nước, trong đó có 15/20 nước thuộc khối G20. Thông qua việc đàm phán và ký kết các FTA, các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu chú ý, quan tâm nhiều hơn đến thị trường Việt Nam. Minh chứng điển hình là sự gia tăng về vốn đầu tư từ các quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản… năm 2019 và đây đều là các đối tác chủ chốt trong các FTA đã có hiệu lực. Khi các FTA có hiệu lực, hàng hóa xuất khẩu có xuất xứ từ Việt Nam sẽ được hưởng những ưu đãi, đặc biệt là về hàng rào thuế quan. Do đó, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tăng cường đầu tư vào Việt Nam để tận dụng cơ hội này. FTA giúp cho việc tiết kiệm chi phí vận chuyển sản phẩm trung gian và sản phẩm cuối cùng giữa công ty mẹ ở nước đầu tư và các công ty con đặt ở các nước tiếp nhận. Bên cạnh đó, FTA giúp hình thành mạng lưới doanh nghiệp khu vực, giúp làm giảm chi phí dịch vụ. Đây là điều mà các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm nhằm tận dụng được các nguồn lực tại các nước tiếp nhận nguồn đầu tư. Cơ hội khi luồng vốn FDI dịch chuyển do tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung thời kỳ tổng thống Mỹ mới là ông Biden vẫn tiếp tục, nhiều công ty công nghệ của Hoa Kỳ, Nhật Bản rời Trung Quốc sang các nước khác đầu tư và Việt Nam được coi là một điểm đến: Tập đoàn Pegatron (Đài Loan) - một trong 5 nhà sản xuất linh kiện, sản phẩm điện tử hàng đầu thế giới - đang đề xuất đầu tư khoảng 1 tỷ USD để xây dựng nhà máy sản xuất tại khu công nghiệp Nam Đình Vũ, TP. Hải Phòng. Đáng lưu ý, Pegatron cũng đang có ý định đưa trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) từ Trung Quốc về Việt Nam vào thời điểm phù hợp. Dự án này đi vào hoạt động dự kiến sẽ tạo việc làm cho khoảng 22.500 lao động trực tiếp và đóng góp vào nguồn thu ngân sách ở thời kỳ đầu khoảng 100 tỷ đồng/năm. Foxconn, Luxshare vào Việt Nam 469
  6. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” được 3 năm và đang tăng tốc đầu tư và đẩy mạnh sản xuất tại Việt Nam và nhiều dự án chất lược cao khác nữa. Cơ hội khi luồng vốn FDI dịch chuyển do tác động của đại dịch Covid-19. Đại dịch Covid-19 là chất xúc tác thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch, sắp xếp lại chuỗi cung ứng toàn cầu. Đây cũng chính là cơ hội để các nước trên thế giới nhận thấy sự phụ thuộc lớn vào các chuỗi sản xuất, cung ứng từ Trung Quốc. Chính vì lý do này, các tập đoàn đa quốc gia muốn dịch chuyển đầu tư sang các nước châu Á khác, như: Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan, Philippines… Đơn cử, các công ty, như: Apple, Nintendo, HP, Dell đã có kế hoạch di chuyển khỏi Trung Quốc và điểm đến có thể là Ấn Độ; Nikkei Asian Review, Google và Microsoft đang chuyển một số dây chuyền sản xuất của họ từ Trung Quốc sang Việt Nam và Thái Lan. Cơ hội được nhà đầu tư nước ngoài đánh giá có vị trí chiến lược trong đảm bảo chuỗi cung ứng toàn cầu, là điểm đến đầu tư an toàn và hấp dẫn. Đối với các nhà đầu tư, Việt Nam cũng có thể là một lựa chọn thay thế cho Trung Quốc, từ đó Việt Nam có thể được hưởng lợi từ việc đón đầu tư nước ngoài, thúc đẩy khả năng tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Thực tế là sau khi chiến tranh thương mại Mỹ - Trung diễn ra, nhiều nhà đầu tư từ Mỹ, Anh, Nhật Bản… và cả những nhà đầu tư Trung Quốc đã cân nhắc đến khả năng dịch chuyển đầu tư từ thị trường Trung Quốc sang thị trường Việt Nam. Trong những năm gần đây, sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài ngày càng tăng. Bên cạnh những lợi thế truyền thống, như: vị trí địa lý chiến lược, lao động giá rẻ, nền chính trị hòa bình ổn định…, Việt Nam hiện nay còn thu hút nhà đầu tư nước ngoài bởi môi trường đầu tư ngày càng năng động, cởi mở, có nhiều chính sách khuyến khích ưu đãi của chính quyền đối với nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, việc Việt Nam chính thức tham gia vào 2 FTA (CPTPP và EVFTA) đã giúp các nhà sản xuất tiếp cận tốt hơn các thị trường xuất khẩu lớn. Do đó, Việt Nam được đánh giá là một trong những điểm đến quan trọng của dòng FDI dịch chuyển khỏi Trung Quốc. b. Thách thức trong thu hút FDI vào Việt Nam Bên cạnh các cơ hội, Việt Nam cũng còn phải đối mặt trước nhiều thách thức trong quá trình thu hút nguồn vốn quan trọng này. Những thách thức cơ bản có thể được kể đến là: - Thách thức hoàn thiện cơ chế, chính sách, nâng cao năng lực pháp lý, năng lực quản lý và quản trị, chất lượng nhân lực Việt Nam cần phải vượt qua những thách thức đang trực tiếp ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, như: sự thiếu ổn định về chính sách, các quy định pháp luật chưa rõ ràng và thiếu minh bạch, gây ra những khó khăn cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện; cơ sở hạ tầng cho các hoạt động logistics chưa phát triển đồng bộ; nguồn nhân lực có trình độ chuyên 470
  7. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” môn cao còn hạn chế, thủ tục hành chính vẫn còn phức tạp… Một số nhà đầu tư nước ngoài chưa hài lòng về khả năng đáp ứng yêu cầu công khai, minh bạch, ổn định, dễ dự báo về thể chế, chính sách, luật pháp; thực thi pháp luật nghiêm minh, thống nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư ở Việt Nam. Do đó, đây cũng là rào cản cần được tháo gỡ trong thời gian tới. - Thách thức do khả năng kết nối với doanh nghiệp FDI của doanh nghiệp trong nước yếu, cùng các khó khăn trong phát triển công nghiệp phụ trợ và tham gia chuỗi cung cứng toàn cầu Các doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay gặp khó khăn trong việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu và chưa đủ năng lực để chuyển đổi mô hình sản xuất, kinh doanh cho phù hợp với xu thế mới, từ đó làm giảm năng lực cạnh tranh so với các doanh nghiệp nước ngoài. Hay nói cách khác, các doanh nghiệp Việt Nam có nguy cơ “thua ngay trên sân nhà” và Nhà nước không thể can thiệp vì những ràng buộc về các nguyên tắc của các FTA. Công nghiệp hỗ trợ phục vụ cho các dự án công nghệ cao của Việt Nam còn nhiều hạn chế, doanh nghiệp nội địa nhỏ về quy mô, trình độ công nghệ thấp nên chưa thể trở thành vệ tinh, là mắt xích trong chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia. Thực trạng này dẫn tới hạn chế tính lan tỏa của các dự án FDI đối với phát triển các ngành kinh tế Việt Nam. Mặc dù, cơ sở hạ tầng: đường xá, cầu cảng, điện, internet của các vùng miền Việt Nam có nhiều cải thiện, nhưng so với nhiều nước vẫn còn chưa đồng bộ, tắc nghẽn giao thông, chi phí vận tải cao, điện nước chập chờn, đặc biệt ở Tây Nam Bộ và vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam. Tình trạng này tác động bất lợi đến khả năng thu hút các dự án lớn có trình độ công nghệ cao. - Thách thức suy giảm dòng vốn FDI toàn cầu Theo dự báo của WIPA (2020), lượng vốn FDI toàn cầu sẽ sụt giảm tới 30%-40% trong giai đoạn 2020-2021. Thêm vào đó, xu hướng ưu tiên chuyển dịch sản xuất từ nước ngoài về nội địa hoặc các nước gần đang dần gia tăng nhằm nâng cao tính chủ động của nhiều nước trong chuỗi cung ứng, dẫn đến tình trạng cạnh tranh trong thu hút đầu tư càng trở nên gay gắt. Trong khi các nguồn vốn đầu tư đang sụt giảm, thì các thị trường mới nổi hấp dẫn nhà đầu tư ngày càng xuất hiện nhiều, như: Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia… với đủ các hình thức thu hút đầu tư hấp dẫn khác nhau. Họ có lợi thế tương đồng hoặc riêng biệt vẫn đang cạnh tranh quyết liệt với Việt Nam. Các quốc gia này cũng đang ban hành nhiều chính sách rất mạnh mẽ để giữ chân, cũng như lôi kéo các nhà đầu tư nước ngoài, như: ưu đãi về thuế, xây dựng các khu công nghiệp, gói hỗ trợ đào tạo thợ lành nghề, hoặc những cam kết sẽ cải thiện môi trường kinh doanh nội địa… - Thách thức khi dịch Covid-19 đã làm đứt gãy nhiều chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu nguy cơ của sự “tháo chạy” FDI khỏi Việt Nam 471
  8. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội của Việt Nam, làm gián đoạn các chuỗi cung ứng và cản trở các hoạt động thương mại, đầu tư… Dịch bệnh đang tiếp tục lây lan với tốc độ nhanh trên diện rộng tại nhiều nước trên thế giới, đặc biệt đã xuất hiện chủng vi rút mới có khả năng lây lan mạnh hơn tại khoảng 40 quốc gia, khiến nhiều nước phải áp dụng các biện pháp mạnh, tái phong tỏa để phòng, chống dịch. Việt Nam vẫn đang tiếp tục chống dịch trong diễn biến tình hình dịch ngày càng phức tạp và khó kiểm soát. Trong công văn “Đề xuất chiến lược phòng ngừa và kiểm soát đại dịch nhằm khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh an toàn trong trạng thái chống dịch mới” ngày 17/9/2021 của các hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài: Amcham, Eurocham, Korcham, US- ASEAN gửi Thủ tướng Chính phủ đã cho biết, 20% các doanh nghiệp thành viên của họ đã chuyển một số hoạt động sản xuất sang quốc gia khác do tình trạng ngưng trệ sản xuất và ách tắc logistics, rất nhiều đơn hàng của các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt Nam đã được chuyển ra nước ngoài. Tuy nhiên, cũng trong công văn của các hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài, một mặt họ khẩn thiết kiến nghị Thủ tướng Chính phủ các giải pháp tháo gỡ khó khăn, khôi phục sản xuất trong trạng thái bình thường mới cho các doanh nghiệp FDI, mặt khác, họ cũng thể hiện quyết tâm cùng hợp tác, chia sẻ, chung tay cùng người dân và Chính phủ Việt Nam vượt qua đại dịch, thể hiện trách nhiệm xã hội cao và tình cảm gắn bó, nguyện vọng tiếp tục làm ăn lâu dài tại Việt Nam. Do đó, đây vẫn là một trong những thách thức lớn nhất, mà Việt Nam cần phải vượt qua, để trở thành điểm đến an toàn của nhà đầu tư nước ngoài. 3. Kết quả đạt được và hạn chế nguyên nhân của việc thu hút vốn đầu tư FDI tại Việt Nam thời gian qua 3.1. Kết quả đạt được Thời gian qua, việc triển khai Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị đã thu được một số kết quả nhất định: Một là, bổ sung nguồn vốn để phát triển kinh tế - xã hội. Đến nay, Việt Nam đã tiếp nhận đầu tư từ 140 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư xã hội, 55% tổng giá trị sản xuất công nghiệp; hơn 70% kim ngạch xuất khẩu. Dòng vốn ngoại đã hiện diện ở hầu hết các địa phương trong cả nước với nhiều dự án được đầu tư bởi những tên tuổi lớn toàn cầu, như Intel, Microsoft, Foxconn, Samsung, Sanyo, Sony, Fujitsu, Toshiba, Panasonic..., góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ chốt của nền kinh tế, như dầu khí, điện tử, viễn thông... Tính lũy kế đến ngày 20-1-2022, sau 35 năm “đón” vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), toàn bộ 63 tỉnh, thành phố trong cả nước đã thu hút 34.642 dự án còn hiệu lực, với 472
  9. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” tổng vốn đăng ký gần 415,6 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư nước ngoài ước đạt trên 253,2 tỷ USD, bằng gần 61% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực. Số liệu kinh tế 11 tháng năm 2022 do Tổng cục Thống kê công bố cho thấy, tổng vốn FDI vào Việt Nam tính đến ngày 20-11-2022 đạt 25,14 tỷ USD, giảm 5% so với cùng kỳ năm trước. So với mức giảm 5,4% của cùng kỳ tháng 10-2022, vốn FDI có sự cải thiện nhất định khi nhà đầu tư nước ngoài thúc đẩy các thủ tục đăng ký dự án. Các công nhân, kỹ thuật viên kiểm tra chất lượng sản phẩm bằng phương tiện máy móc hiện đại tại Công ty TNHH Hana Micron Vina 100% vốn đầu tư của Hàn Quốc ở tỉnh Bắc Giang Hai là, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, thúc đẩy chuyển giao và phát triển công nghệ. Năm 2021, doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm cho 4,6 triệu lao động, chiếm hơn 7% tổng số lao động của Việt Nam(1). Bên cạnh tạo việc làm trực tiếp, khu vực FDI cũng gián tiếp tạo việc làm cho rất nhiều lao động trong các ngành công nghiệp hỗ trợ hay các doanh nghiệp khác nằm trong chuỗi cung ứng hàng hóa cho các doanh nghiệp FDI. Mức lương bình quân của lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp có vốn FDI là 11,2 triệu đồng/tháng, cao hơn so với trong khu vực nhà nước hoặc khu vực ngoài nhà nước và cao hơn mức trung bình của nền kinh tế là khoảng 1,2 lần(2). Khu vực FDI cũng góp phần quan trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam thông qua hệ thống đào tạo nội bộ trong doanh nghiệp hoặc liên kết với các cơ sở đào tạo ngoài doanh nghiệp. Số liệu điều tra của Bộ Lao độ#ng, Thương binh và Xã hội năm 2017 cho thấy, trên 57% doanh nghiệp FDI thực hiện các chương trình đào tạo cho người lao động. Trong đó, tự đào tạo chiếm 40%, liên kết với các cơ sở đào tạo chiếm 17%(3). Điều này góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động trong doanh nghiệp FDI, tạo hiệu ứng tích cực, thúc đẩy nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung ở Việt Nam thông qua việc dịch chuyển lao động từ khu vực FDI sang các khu vực còn lại. Cùng với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp FDI, nhiều máy móc, thiết bị, công nghệ được nhập khẩu phục vụ sản xuất; các quy trình kỹ thuật, bí quyết công nghệ và lý thuyết, kinh nghiệm quản lý được chuyển giao cho các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý Việt Nam; nhiều công nhân kỹ thuật, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý người Việt Nam có thể đảm đương tốt các vị trí của lao động nước ngoài. Kết quả trên vừa đem lại lợi ích cho doanh nghiệp khi chi phí nhân công Việt Nam thấp hơn nhiều so với chi phí nhân công từ nước ngoài trong cùng một vị trí côngviệc, vừa rất có lợi cho phát triển công nghệ và nguồn nhân lực của Việt Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài. Việc nhiều tập đoàn kinh tế lớn có sản phẩm hàm lượng công nghệ cao đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ... đầu tư vào Việt Nam, điển hình là Tập đoàn Samsung đặt mục tiêu xây dựng cơ sở 473
  10. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” lớn nhất thế giới của Samsung tại Việt Nam và gần đây nhất, xây dựng Trung tâm Nghiên cứu phát triển lớn với 2.000 kỹ sư tuyển dụng tại Việt Nam, tạo điều kiện rất thuận lợi để tiếp thu và phát triển công nghệ. Ba là, thúc đẩy hội nhập có chiều sâu hơn. Hội nhập và đầu tư nước ngoài là hai mặt tương hỗ, kết quả hội nhập thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư nước ngoài và ngược lại. Việc tích cực đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA), nhất là các FTA thế hệ mới trong thời gian qua đã giúp Việt Nam nâng tầm quan hệ kinh tế, thương mại với các nước. Các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu quan tâm, chú ý nhiều hơn đến thị trường Việt Nam, qua đó, mở ra triển vọng hợp tác đầu tư, kinh doanh giữa Việt Nam với các đối tác nước ngoài. Mặc dù nội dung cam kết trong các FTA chủ yếu liên quan đến vấn đề mở cửa thị trường hàng hóa, cắt giảm thuế quan, song vẫn có những điều khoản liên quan trực tiếp đến mở cửa thị trường dịch vụ, đầu tư và chính sách đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Trong các lĩnh vực đầu tư có cam kết, Việt Nam và các đối tác FTA đều khẳng định áp dụng những nguyên tắc quan trọng, như không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, không áp dụng một số biện pháp ảnh hưởng đến các nhà đầu tư,... Bên cạnh đó, Việt Nam ngày càng mở rộng các lĩnh vực cho phép nhà đầu tư của các đối tác FTA được đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam đang và sẽ tạo sức hấp dẫn để thu hút đầu tư từ các nước đối tác FTA vào Việt Nam trong thời gian tới. Với những cam kết đó, cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa có xuất xứ Việt Nam ngày càng tăng lên, do vậy, các doanh nghiệp FDI đang và sẽ đổ dồn về Việt Nam để tận dụng cơ hội này. Điều quan trọng nhất khiến các FTA giúp Việt Nam có thêm cơ hội thu hút FDI đó là tác động của các FTA đối với thể chế kinh tế và môi trường kinh doanh của Việt Nam. Chính việc thực thi các cam kết FTA đòi hỏi Chính phủ Việt Nam phải tăng cường hơn nữa việc rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng các chính sách, cơ chế mới để tạo môi trường kinh doanh và đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, qua đó tăng cường và đẩy mạnh việc thu hút FDI vào Việt Nam. Bốn là, tạo mối liên kết với các doanh nghiệp trong nước. Khu vực FDI đã tạo các hiệu ứng lan tỏa về công nghệ và quản lý, mang lại lợi ích nhất định cho các doanh nghiệp khu vực tư nhân trong nước, khi khu vực tư nhân Việt Nam ngày càng tích cực tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu. Từ năm 2016, các doanh nghiệp FDI ngày càng bớt phụ thuộc vào các nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào tại nước xuất xứ. Tỷ lệ doanh nghiệp FDI mua nguyên liệu đầu vào từ các doanh nghiệp tại nước xuất xứ đã giảm dần từ 58,7% năm 2016 xuống 41,4% năm 2020. Cùng với đó, doanh nghiệp FDI cũng giảm phụ thuộc vào các nhà cung cấp từ nước thứ ba hơn so với 5 năm trước. Chỉ 474
  11. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” 26,8% doanh nghiệp FDI cho biết đã sử dụng nhà cung cấp bên thứ ba trong năm 2020, so với 39% năm 2016(4). Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã hưởng lợi trực tiếp khi liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp FDI, tham gia chuỗi sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Đơn cử, số lượng nhà cung ứng cấp 1 của Samsung từ 35 doanh nghiệp năm 2018 lên 50 doanh nghiệp năm 2020; số lượng nhà cung ứng cấp 2 cũng tăng từ 157 lên 170 doanh nghiệp; 240 doanh nghiệp Việt Nam tham gia mạng lưới cung ứng của Samsung. Toyota Việt Nam đến năm 2020 có tổng cộng 33 nhà cung cấp thì đã có 5 nhà cung cấp Việt Nam (chiếm 15,15%)(5). 3.2. Hạn chế của việc thu hút vốn FDI tại Việt Nam thời gian Thứ nhất, năng lực quản lý nhà nước đối với FDI còn thấp. Trong quản lý hiện nay, còn thiếu sự liên kết chặt chẽ, chưa thông tin đầy đủ, kịp thời tình hình FDI trên từng địa bàn giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương cũng như giữa Trung ương với địa phương, giữa các bộ, ngành với nhau. Những hiện tượng trốn thuế, chuyển giá của một số doanh nghiệp FDI chưa thể loại trừ triệt để cũng thể hiện sự yếu kém trong quản lý các dự án FDI. Tỷ lệ doanh nghiệp FDI lỗ kéo dài chiếm tới 50 - 65%(6), và phần lớn các liên doanh đã chuyển sang hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là hiện tượng không bình thường, cho thấy có sự lạm dụng chính sách ưu đãi và cơ chế “chuyển giá”, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước. Những dự án gây ô nhiễm môi trường mà báo chí thời gian qua đã phản ánh là bài học cảnh tỉnh rất đắt giá cho chúng ta. Những dự án công nghệ rác, công nghệ lạc hậu vẫn tìm cách thâm nhập vào Việt Nam để lại những hậu quả khôn lường, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mục tiêu phát triển bền vững. Thứ hai, hiệu ứng lan tỏa và giá trị gia tăng của vốn FDI chưa thực sự cao. Dù vốn FDI thu hút đạt kỷ lục, song “hiệu ứng lan tỏa và giá trị gia tăng” còn rất hạn chế, chủ yếu là các dự án thâm dụng lao động, có giá trị gia tăng tương đối thấp, kéo theo dòng vốn FDI cao, nhưng giá trị gia tăng trong nước lại tương đối thấp; việc làm có mức lương thấp; hiệu ứng lan tỏa kém; lạm dụng ưu đãi; chênh lệch về kỹ năng,.. ngày càng lớn và rủi ro rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Lâu nay, chúng ta thường quảng bá “lợi thế lao động rẻ”, quá tập trung “tận dụng tối đa” lợi thế tĩnh ngắn hạn của lao động sẽ vô cùng tai hại. Doanh nghiệp Việt Nam chậm cải thiện năng lực cạnh tranh. Có thể thấy, đa số dự án FDI vào Việt Nam chất lượng thấp, trong khi “chu kỳ sống” của một dự án FDI là từ 20 đến 30 năm, thậm chí 40 năm. Điều đó có nghĩa là, Việt Nam phải chung sống với một cấu trúc kinh tế “tầm thấp” kéo dài 20 đến 30 năm hoặc hơn. Nếu đa số dự án đó còn làm ăn thua lỗ thì tổn thất trực tiếp càng lớn. 475
  12. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” Công nghiệp hỗ trợ và tham gia chuỗi giá trị sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế. Sau 35 năm thu hút vốn FDI, kết nối giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước vẫn mờ nhạt, hiệu ứng lan tỏa về công nghệ và năng suất lao động từ đối tác nước ngoài đến doanh nghiệp trong nước còn chưa đạt hiệu quả. Sự liên kết yếu thể hiện trước hết ở tỷ lệ khoảng 80% số doanh nghiệp FDI là 100% vốn nước ngoài. Bên cạnh đó, việc liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước vẫn tiến triển khá chậm(7). Tình trạng liên kết yếu còn thể hiện qua tỷ lệ nội địa hóa của các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong nước vẫn còn thấp. Cụ thể, đối với các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm phụ tùng linh kiện ô-tô, phần lớn doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ mới chỉ cung ứng sản phẩm cho lắp ráp ô-tô trong nước. Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), tỷ lệ nội địa hóa đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi đạt thấp, bình quân khoảng 7 - 10%; trong khi mục tiêu đề ra là 30 - 40% vào năm 2020, 40 - 45% vào năm 2025 và 50 - 55% vào năm 2030(8). Hay, tỷ lệ nội địa hóa của ngành điện tử hiện mới đạt 5 - 10%. Các sản phẩm điện tử trên thị trường Việt Nam đa số là hàng nhập khẩu nguyên chiếc hoặc lắp ráp trong nước bằng phần lớn các linh kiện nhập khẩu. Trong khi đó, mục tiêu đến năm 2025, ngành điện tử phải nội địa hóa đến 45%, đây là mục tiêu đầy thách thức(9). Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do năng lực các doanh nghiệp nội địa trong ngành còn nhiều hạn chế, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu cao của thị trường cũng như của các doanh nghiệp FDI. Thứ ba, dành quá nhiều “ưu đãi” cho nhà đầu tư nước ngoài làm giảm nguồn thu từ thuế. Khi kêu gọi vốn FDI, có hiện tượng các địa phương chấp nhận kiểu cạnh tranh “cùng xuống đáy”. Địa phương nào dành nhiều ưu đãi, “thông thoáng” hơn trong các điều kiện ràng buộc thì dễ được nhà đầu tư chọn vào. Để giành phần thắng trong cạnh tranh, địa phương đã chấp nhận trả “giá” cao, đánh đổi lợi ích. Địa phương sẽ tăng được GDP, tạo thêm việc làm, tăng ngân sách, nhưng lại bị tổn thất dài hạn. Thời gian qua, nhiều địa phương vẫn còn nặng tư duy về số lượng nên đã dành nhiều ưu đãi để thu hút nhà đầu tư. Sự chênh lệch về thuế suất giữa các quốc gia, giữa những đối tượng khác nhau trong một quốc gia, những quy định về mức thuế suất ưu đãi, miễn, giảm thuế... đã tạo động cơ tránh thuế, không chỉ với doanh nghiệp FDI, mà cả các doanh nghiệp trong nước và tạo “kẽ hở” để doanh nghiệp thực hiện hành vi chuyển giá. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do cơ chế, chính sách của chúng ta còn có những hạn chế. 4. Một số kiến nghị Bối cảnh mới với nhiều cơ hội và thách thức như hiện nay đòi hỏi Việt Nam cần phải có những thay đổi về định hướng chiến lược thu hút FDI trong thời gian tới, cụ thể như sau: 476
  13. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” Thứ nhất, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Ngoại giao và các bộ, ngành khác xây dựng chiến lược thu hút vốn đầu tư từ các tập đoàn công nghệ lớn trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (địa bàn địa phương, ngành công nghệ ưu tiên, chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư mang tính cạnh tranh…). Thứ hai, tiếp tục tập trung phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh Covid-19, song song với đó phục hồi nền kinh tế sau đại dịch để các nhà đầu tư có thể yên tâm tiếp cận, tìm hiểu thị trường Việt Nam. Duy trì ổn định môi trường vĩ mô, nâng cao sức chống chịu của nền kinh tế đối với các cú sốc từ bên ngoài. Đồng thời, luôn đảm bảo tính nhất quán, ổn định và phù hợp của các cơ chế chính sách về: thuế, đất đai, lao động… để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm xây dựng kế hoạch đầu tư dài hạn tại Việt Nam. Thứ ba, rà soát, cập nhật, điều chỉnh phù hợp trong việc phân cấp phê duyệt đầu tư, tinh gọn quy trình, thủ tục nhanh gọn; công bố quy định, quy trình công khai minh bạch. Xây dựng các chiến lược dài hạn cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, đảm bảo công khai, minh bạch, thủ tục hành chính cần được tiếp tục đơn giản hóa, thuận tiện, hiệu quả… Đẩy mạnh đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng đồng bộ (khu công nghiệp, điện, nước, hạ tầng giao thông vận tải, thông tin, logistics, dịch vụ đi kèm khu công nghiệp...). Thứ tư, cần chuẩn bị chiến lược thu hút FDI trong dài hạn, chuyển trọng điểm chính sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, ưu tiên các dự án có giá trị gia tăng cao, mô hình quản lý hiện đại. Chủ động thu hút dự án FDI theo hướng có chọn lọc; chủ động đối với những dự án FDI đặc biệt như là dự án có nguồn vốn lớn, ngành nghề kinh doanh tập trung vào những mục tiêu trọng điểm quốc gia, thì nên có những chính sách riêng nhằm thu hút được hiệu quả. Thứ năm, cần khuyến khích, tạo điều kiện của các dự án FDI đầu tư và sản xuất tại Việt Nam theo hình thức liên doanh với doanh nghiệp trong nước, để doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp cận với công nghệ, kỹ năng quản lý hiện đại của doanh nghiệp FDI, đồng thời giúp doanh nghiệp FDI tập trung vào khâu trọng điểm để tạo ra sản phẩm./. 477
  14. Kỷ yếu hội thảo Quốc gia “VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU TRONG TÌNH HÌNH MỚI” TÀI LIỆU THAM KHẢO 12. Bộ Chính trị (2019). Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20/8/2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030; 13. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020-2021). Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2020; Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài 9 tháng đầu năm 2021 14. Tổng cục Thống kê (2001-2021). Niên giám Thống kê các năm, từ năm 2000 đến 2020, Nxb Thống kê 15. Trường Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội), Trường Đại học Hải Phòng, Trường Đại học Thương mại và Ban quản lý Khu Kinh tế Hải Phòng (2021). Tài liệu Hội thảo khoa học quốc tế “FDI toàn cầu và ứng biến của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam trong bối cảnh mới” (Global FDI and responses of FDI enterprises in Vietnam in the new context), Hà Nội, ngày 08/10/2021 16. Lê Xuân Sang (2021). Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong bối cảnh mới, Tạp chí Tài chính, kỳ 1+2, tháng 02/2021 17. Gia Anh (2021). Giữ chân doanh nghiệp FDI - Bài 3: Doanh nghiệp FDI kiến nghị nhiều chính sách quan trọng, truy cập từ https://nhadautu.vn/giu-chan-doanh-nghiep- fdi--bai-3-doanh-nghiep-fdi-kien-nghi-nhieu-chinh-sach-quan-trong-d57661.html 18. Tien, Cao Minh. "The Relationship Between Capital Structure and Performance of Securities Brokerage Firms-a Case Study in Vietnam." International Journal of Professional Business Review 8.1 (2023): e01208-e01208. 19. Minh, Tien Cao, and Niki Naderi. "Unleashing the role of green finance, clean energy, and environmental responsibility in emission reduction." Journal of Environmental Assessment Policy and Management 24.03 (2022): 2250033. 20. Tien, Cao Minh. "Risk Management Of Financial Reporting And Financial Security Reporting In Vietnamese Securities Companies." Journal of Namibian Studies: History Politics Culture 33 (2023): 941-952. 478
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2