Thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đánh giá, kiểm tra theo hướng tiếp cận năng lực đối với môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam khối các trường không chuyên lý luận chính trị
lượt xem 2
download
Bài viết "Thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đánh giá, kiểm tra theo hướng tiếp cận năng lực đối với môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam khối các trường không chuyên lý luận chính trị" chỉ ra những khó khăn/thuận lợi mà các trường đại học, cao đẳng khối không chuyên Lý luận chính trị phải đối mặt. Không những thế, bài viết còn khuyến nghị một số giải pháp nhằm đảm bảo việc triển khai hình thức kiểm tra, đánh giá mới đạt hiệu quả. Đây là điểm đóng góp của bài viết so với nhiều công trình nghiên cứu lý luận về kiểm tra, đánh giá nói chung cũng như về sự vận dụng kiểm tra, đánh giá vào môn học cụ thể nói riêng trong nhiều năm qua. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thuận lợi và khó khăn khi thực hiện đánh giá, kiểm tra theo hướng tiếp cận năng lực đối với môn Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam khối các trường không chuyên lý luận chính trị
- Trường Đại học Mỏ - Địa chất THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI THỰC HIỆN ĐÁNH GIÁ, KIỂM TRA THEO HƯỚNG TIẾP CẬN NĂNG LỰC ĐỐI VỚI MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM KHỐI CÁC TRƯỜNG KHÔNG CHUYÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Đặng Thị Thanh Trâm Tóm tắt: Để đảm bảo chất lượng các môn học Lý luận chính trị nói chung, môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng theo Công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH thì việc thực hiện kiểm tra, đánh giá người học theo hướng tiếp cận năng lực người học là điều hết sức cần thiết. Trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến việc đảm bảo thực hiện hình thức kiểm tra, đánh giá mới, bài viết chỉ ra những khó khăn/thuận lợi mà các trường đại học, cao đẳng khối không chuyên Lý luận chính trị phải đối mặt. Không những thế, bài viết còn khuyến nghị một số giải pháp nhằm đảm bảo việc triển khai hình thức kiểm tra, đánh giá mới đạt hiệu quả. Đây là điểm đóng góp của bài viết so với nhiều công trình nghiên cứu lý luận về kiểm tra, đánh giá nói chung cũng như về sự vận dụng kiểm tra, đánh giá vào môn học cụ thể nói riêng trong nhiều năm qua. Từ khóa: kiểm tra đánh giá, tiếp cận năng lực người học, Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. 1. MỞ ĐẦU Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tiếp cận (hoặc phát triển) năng lực và phẩm chất người học thay thế cho phương pháp tiếp cận mục tiêu, nội dung truyền thống là yêu cầu cấp thiết mà xã hội, Chính phủ, trực tiếp là Bộ Giáo dục - Đào tạo đòi hỏi từ các cơ sở giáo dục, đặc biệt là các trường đại học, cao đẳng. Một trong những giải pháp được xác định là khâu đột phá của quá trình chuyển dịch này chính là hình thức kiểm tra, đánh giá (KTĐG) cũng phải chuyển sang hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học. Với góc độ nghiên cứu về KTĐG theo hướng tiếp cận năng lực người học đến nay đã có nhiều công trình. Đây là những tư liệu xác đáng mà tác giả bài viết kế thừa về mặt lý luận, cũng như gợi mở hướng giải quyết vấn đề đặt ra khi thực hiện KTĐG theo cách mới đối với học phần Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (LSĐCSVN) (theo chương trình giảng dạy các môn Lý luận chính trị mới). Điểm mới đáng ghi nhận của bài viết đó là bước đầu nhận diện những điểm thuận lợi/khó khăn khi triển khai hình thức KTĐG học phần LSĐCSVN ở các trường đại học, cao đẳng khối không chuyên Lý luận chính trị (LLCT) và khuyến nghị một số nhiệm vụ, giải pháp để đảm bảo chất lượng học phần này từ khâu mang tính đột phá là KTĐG. 2. NỘI DUNG 2.1. Khái niệm và thực chất của hình thức KTĐG theo hướng “tiếp cận năng lực người học” Về khái niệm “tiếp cận” sử dụng trong bài viết, nó được hiểu là một quan điểm để giải quyết một vấn đề cụ thể. “Tiếp cận năng lực” là quan điểm về việc hình thành và phát triển năng lực cho người học. TS. Trường Đại học Mỏ - Địa chất. 342
- Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững Về khái niệm “năng lực”, theo OECD1: Năng lực là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể. Theo Chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.2 Với quan niệm “năng lực” như vậy, khả năng đáp ứng phù hợp với bối của thực tiễn cuộc sống là đặc trưng quan trọng nhất của năng lực, khả năng đó có được dựa trên sự đồng hóa và sử dụng có cân nhắc những kiến thức, kĩ năng cần thiết trong từng hoàn cảnh cụ thể. Trong hoạt động KTĐG, có nhiều cách tiếp cận. Mỗi cách sẽ định hướng các thành tố quá trình đánh giá không giống nhau, từ mục tiêu, lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức đến xây dựng công cụ đánh giá. Xét về bản chất, đánh giá năng lực không mâu thuẫn với đánh giá kiến thức, kĩ năng, mà nó là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Để chứng minh người học có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho họ được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Qua đó, người học vừa phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học ở nhà trường, vừa sử dụng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài (gia đình, cộng đồng và xã hội) để giải quyết vấn đề của thực tiễn. Như vậy, thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực mới có thể đồng thời đánh giá được cả khả năng nhận thức, kĩ năng, tình cảm, thái độ của người học. Đánh giá năng lực theo đó không hoàn toàn chỉ dựa vào chương trình giáo dục của từng môn học mà còn được hình thành từ nhiều môn học khác nhau, và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người. 2.2. Các yếu tố ảnh hưởng theo chiều hướng thuận lợi/khó khăn khi thực hiện KTĐG học phần LSĐ CSVN theo hướng tiếp cận năng lực người học Thực hiện Công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH, các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng từ năm học 2019 - 2020 bắt đầu thực hiện giảng dạy chương trình các môn LLCT mới bao gồm các môn Triết học, Kinh tế chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh và LSĐCSVN. Trong bối cảnh hiện nay, đối với các trường đại học, cao đẳng khối không chuyên LLCT khi triển khai Chương trình, Giáo trình LSĐCSVN mới sẽ gặp những thuận lợi/khó khăn ảnh hưởng tới việc đảm bảo chất lượng dạy - học.3 Và nếu lấy KTĐG theo hướng tiếp cận năng lực là khâu đột phá để chuyển sang phương pháp dạy học tương ứng đối với học phần LSĐCSVN thì các cơ sở giáo dục đều phải chịu tác động bởi các yếu tố sau: Nhận thức của giảng viên về đánh giá kết quả học tập đối với sự hình thành và phát triển các năng lực của sinh viên; Năng lực đánh giá của giảng viên; Nhận thức của sinh viên về vai trò của đánh giá kết quả học tập đối với việc học tập; Tích cực tham gia vào việc xây dựng các tiêu chí đánh giá khi giảng viên yêu cầu; Ý thức trách nhiệm trong quá trình đánh giá, tự đánh giá; Năng lực tự đánh giá của sinh viên; Chuẩn năng lực đầu ra của sinh viên sau khi học môn học nào đó; Quy chế, chính sách để giảng viên thực hiện đánh giá kết quả học tập theo năng lực; 1 Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development), thành lập năm 1961 trên cơ sở Tổ chức Hợp tác Kinh tế Châu Âu (OEEC) với 20 thành viên sáng lập gồm các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới như Mỹ, Canada và các nước Tây Âu. 2 Dẫn theo, https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/giao-duc-trung-hoc/Pages/default.aspx?ItemID=6273 3 Đặng Thị Thanh Trâm (2019), “Nghiên cứu và giảng dạy các môn Lý luận chính trị trong bối cảnh hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia, Nxb Lao Động xã hội, tr 791. 343
- Trường Đại học Mỏ - Địa chất Điều kiện cơ sở vật chất1. Từ nhiều phương pháp nghiên cứu: quan sát, trao đổi với các đồng nghiệp; kế thừa các kết quả nghiên cứu trong những năm gần đây và từ hoạt động thực tiễn giảng dạy của bản thân, chúng tôi bước đầu đưa ra những nhận định sau. Về mặt thuận lợi: Thứ nhất, muốn thực hiện đánh giá kết quả học tập theo hướng tiếp cận năng lực, phẩm chất thì trước hết, môn học đó phải xác định được “chuẩn đầu ra” về năng lực người học cần phải đạt, dựa trên tiêu chí kiến thức, kỹ năng, thái độ. Trước đây, các môn học LSĐCSVN hay Đường lối cách mạng của Đảng CSVN sau đó đều xác định mục tiêu chuẩn đầu ra tập trung vào kiến thức, nội dung, chưa quan tâm đến chuẩn “năng lực” của sinh viên sau khi học xong các môn học này. Hiện nay, Giáo trình chính thức học phần LSĐCSVN chưa xuất bản. Học liệu là bản dự thảo Chương trình và Giáo trình được lưu hành trong đợt tập huấn tháng 8/2019. Nghiên cứu bản Dự thảo, chúng tôi thấy, cách tiếp cận năng lực người học đã được thể hiện trong mục tiêu của mỗi chương. Và đây cũng là “lần đầu tiên mục tiêu môn học được xác định rõ trên ba tiêu chí nội dung, tư tưởng, kỹ năng.”2 Trên thực tế, ngoài tiêu chí kiến thức và thái độ (tư tưởng) mang đặc sắc riêng so với các môn học khác, thì kỹ năng và tư duy mà môn LSĐCSVN mang lại cho người học rất hữu ích, nó gắn kết và đáp ứng chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo, mà nguồn nhân lực ở khối ngành nào cũng cần. Đó là kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng tìm kiếm và đánh giá thông tin, phân tích sự kiện; đó là tư duy lý luận gắn với thực tiễn; tư duy sáng tạo và khả năng dự báo. Trong Dự thảo Giáo trình LSĐCSVN, những “giá trị” này cũng đã được xác định trong mục tiêu của từng chương. Ví dụ, “trau dồi kỹ năng tìm chọn tài liệu nghiên cứu, năng lực phân tích sự kiện, nhận thức phê phán những nhận thức sai trái về lịch sử Đảng”3 là mục tiêu chuẩn đầu ra của chương 2. “Rèn luyện phong cách tư duy lý luận gắn với thực tiễn, phát huy tính sáng tạo, năng động của người học”4 là mục tiêu chuẩn đầu ra của chương 3. “Giá trị” của mục tiêu môn học được xác định đầy đủ mang lại nhiều lợi ích. Trước hết, nó làm cho môn học LSĐCSVN trở nên “hiện đại”, hữu ích thực sự, chứ không chỉ mang tính “chính trị” khô cứng, hay “ít giá trị”, thậm chí là “không có giá trị” trong quan niệm của nhiều người. Điều này, gợi cảm hứng giảng dạy - học tập của cả giảng viên và sinh viên. Bên cạnh đó, mục tiêu chuẩn đầu ra gồm 3 tiêu chí được xác định rõ ràng là cơ sở quan trọng để giảng viên xây dựng bộ công cụ KTĐG theo hướng tiếp cận năng lực người học. Thứ hai, về đội ngũ giảng viên, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ “giảng viên được đào tạo chuyên ngành nào, giảng dạy môn học đó”5 nên lực lượng giảng dạy môn LSĐCSVN đều là những người được đào tạo đúng chuyên môn. Không những thế, những kiến thức của môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản trong 10 năm qua mà họ tham gia giảng dạy cũng giúp cho việc tiếp nhận Giáo 1 Dẫn theo, Nguyễn Thị Thúy An (2016), Đánh giá kết quả học tập môn Giáo dục học theo hướng tiếp cận năng lực người học, Luận văn thạc sĩ, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam. 2 Đặng Thị Thanh Trâm (2019), “Nghiên cứu và giảng dạy các môn Lý luận chính trị trong bối cảnh hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia, Nxb Lao Động xã hội, tr.792. 3 Bộ Giáo dục - Đào tạo (2019), Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam (Tài liệu tập huấn), tr.59. 4 TLđd, tr 114. 5 Công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH “Hướng dẫn thực hiện chương trình, giáo trình các môn Lý luận chính trị”. 344
- Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững trình LSĐCSVN mới theo phương chiều lịch sử hay logic đều thuận lợi. Kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm chuyên môn và sự nhiệt tình của lứa tuổi trung niên (khoảng từ 35 - 45)1 sẽ tạo cơ sở, nền tảng quan trọng cho giảng viên tiếp thu, nghiên cứu và thiết kế bộ công cụ KTĐG môn học theo yêu cầu mới. Thứ ba, về cơ sở vật chất, nhiều cơ sở giáo dục đại học hiện nay đã đầu tư trang thiết bị tốt hơn như máy chiếu, wifi…; lớp học môn LSĐCSVN được tổ chức không quá đông; thư viện được bổ sung, cập nhật tư liệu trên nhiều nền tảng, đặc biệt là trên nền tảng số. Nhiều trường tổ chức khảo thí thi trên máy tính, một mặt, góp phần cho khâu KTĐG tăng sự khách quan, mặt khác, tạo thuận lợi cho các tổ bộ môn LSĐ CSVN có thể thiết kế bộ công cụ KTĐG có ứng dụng công nghệ thông tin. Đánh giá kết quả học tập theo hướng tiếp cận năng lực môn học LSĐCSVN phải sử dụng kết hợp nhiều kênh kiểm tra, trong đó, việc sinh viên trải nghiệm thực tế qua các hoạt động Đoàn, Hội có ý nghĩa quan trọng. Bởi đây là một kênh vừa mang tính giáo dục vừa mang tính KTĐG hữu hiệu thái độ, năng lực vận dụng của sinh viên khi học các môn LLCT, trong đó môn LSĐCSVN. Hiện nay, hoạt động ngoại khóa của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Sinh viên Việt Nam ở các trường khá phong phú, sôi nổi, trong đó, các hoạt động liên quan đến việc kỷ niệm các sự kiện lớn của đất nước, cách mạng lôi kéo được nhiều sinh viên tham gia. Đây là thuận lợi thứ tư cho việc tiến hành KTĐG môn LSĐCSVN theo cách tiếp cận mới. Về mặt khó khăn: Thứ nhất, về phía sinh viên, “mục đích của sự học” dường như vẫn chưa chuyển đổi sang tư duy mới- học để phát triển năng lực bản thân bao gồm năng lực chung và năng lực chuyên biệt gắn với ngành nghề đào tạo. Nhận thức của sinh viên về “kết quả đánh giá học tập đối với việc học tập” chưa đúng đắn. Thi để đạt được điểm số đẹp, bằng cấp tốt (khá, giỏi) là mục tiêu của đa phần sinh viên. Vì lẽ đó, họ không có năng lực tự đánh giá bản thân so với yêu cầu. Những môn học nếu không liên quan trực tiếp đến nghề nghiệp sau khi ra trường thì sinh viên thường xem nhẹ. Mức độ “xem nhẹ” các môn LLCT, trong đó có môn LSĐCSVN càng rõ ràng đối với sinh viên khối không chuyên LLCT vì họ “mất gốc” kiến thức môn lịch sử từ các cấp học trước đó. Hiện tượng học lệch, học tủ, quay cóp để đối phó với thi kết thúc môn LSĐCSVN rất phổ biến. Trong quá trình học tập trên lớp, sinh viên còn e ngại thể hiện bản thân, chưa chủ động và tích cực trao đổi, giao lưu với bạn bè và giáo viên về các kiến thức chưa hiểu rõ; ngại tham gia các hoạt động tập thể. Bên cạnh đó, sinh viên chưa quan tâm nhiều đến phát triển các kĩ năng mềm và biểu hiện còn hạn chế. Thứ hai, kế thừa kết quả khảo sát, điều tra từ các công trình nghiên cứu của các đồng nghiệp2, cho thấy: đội ngũ giảng viên đều nhận thức được đổi mới phương pháp dạy học là một yêu cầu cấp bách có tính chất đột phá để nâng cao chất lượng dạy học. Song đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi phải tiến hành một cách đồng bộ đổi mới từ nội dung chương trình, giáo trình, sách giáo khoa, phương pháp, kỹ thuật dạy học cho đến KTĐG kết quả dạy học. Tuy nhiên, trong toàn bộ chu trình phải đổi mới đó, đa phần giảng viên LLCT tập trung nỗ lực của mình vào việc cải tiến phương pháp, kỹ thuật dạy học trên lớp nhằm lôi cuốn sinh viên, để họ 1 Xem thêm Đặng Thị Thanh Trâm (2019), Nghiên cứu và giảng dạy các môn Lý luận chính trị trong bối cảnh hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia, Nxb Lao Động Xã hội, tr.792. 2 Cấn Thị Thanh Hương (2011), Nghiên cứu quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trong giáo dục đại học ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Quản lý giáo dục, Đại học Giáo dục Đại học, Quốc gia Hà Nội. 345
- Trường Đại học Mỏ - Địa chất không chán khi nghe giảng, bởi đây là hoạt động trực tiếp gắn với uy tín cá nhân của mỗi giảng viên. Trong khi đó, về hình thức KTĐG dường như sự cải tiến, đổi mới chậm hơn bởi nhiều nguyên nhân. Trước hết, đây là hoạt động mang tính tập thể, của cả đơn vị chuyên môn, liên quan đến quy chế KTĐG của một cơ sở giáo dục. Không thể mỗi giảng viên lại có trọn một bộ công cụ KTĐG riêng so với các đồng nghiệp khác trong điều kiện các trường tiến hành đào tạo theo hình thức tín chỉ và thực hiện khảo thí. Thêm nữa, đánh giá kết quả học tập theo tiếp cận năng lực là vấn đề còn mới mẻ, chưa được thực hiện phổ biến nên nhận thức của giảng viên và cán bộ quản lý về hình thức KTĐG chưa sâu sắc, đầy đủ. Trong khi đó, việc biên soạn một bộ công cụ đánh giá cũng như xây dựng tiêu chí, thang đo đánh giá hướng tới đánh giá năng lực (gồm cả kiến thức, kỹ năng, thái độ và khả năng vận dụng nó) là công việc khó, đòi hỏi giảng viên không chỉ có năng lực chuyên môn tốt mà còn phải hiểu biết rõ về loại hình đánh giá này. Hơn nữa, việc này mất rất nhiều thời gian, giảng viên không dễ gì thực hiện ngay được. Việc tổ chức cơ cấu lớp học quá đông sinh viên ở nhiều trường sẽ khiến việc thiếu các cơ sở vật chất phục vụ học và KTĐG, tạo ra áp lực nhất định cho cả giảng viên và sinh viên. Thứ ba, về hình thức đánh giá kết quả học tập, một mặt, Nghị quyết số 29-NQ/TW của Đảng về đổi mới giáo dục yêu cầu hình thức KTĐG phải bắt kịp với xu thế thời đại, phải “Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội.”1 Mặt khác, KTĐG trên thế giới hiện nay đòi hỏi phải kết hợp cả 3 triết lý đánh giá: Đánh giá kết quả về việc học; Đánh giá vì sự tiến bộ của người học; Đánh giá là hoạt động học tập. Và mới đây, trong giáo dục đại học, các nhà giáo dục học đã giới thiệu một số phương pháp KTĐG thực (Authentic Assessment)2 rất tiến bộ, đang được thí điểm áp dụng trong tiếp cận phát triển chương trình CDIO3. Yêu cầu của thực tiễn và xu hướng sử dụng các hình thức KTĐG tiến bộ trên thế giới là vậy, nhưng cho đến nay, KTĐG ở các cơ sở giáo dục đại học vẫn thực hiện gián tiếp thông qua các bài kiểm tra với các phương pháp truyền thống rất quen thuộc: kiểm tra viết, kiểm tra vấn đáp, kiểm tra thực hành. Hình thức KTĐG này chủ yếu đánh giá nhận thức và kỹ năng cứng, những kỹ năng tối thiểu mà người học cần để có thể đảm nhiệm được một công việc chuyên môn. Công việc của giảng viên khi sử dụng hình thức KTĐG truyền thống là: ra đề, giám sát người học làm bài kiểm tra, chấm điểm bài làm của người học. Trong khi đó, công việc của người học là thực hiện bài kiểm tra. Với bài kiểm tra theo hình thức này, nội dung kiểm tra bị hạn chế, mục tiêu đánh giá khó được thực hiện đầy đủ, nhất là các tiêu chí đạo đức và sự tiến bộ của người học. Sinh viên không có cơ hội tham gia đánh giá đồng đẳng; Sự phối hợp giữa phụ huynh và nhà trường trong đánh giá người học dường như không được đề cập. Nhà trường chỉ liên hệ với gia đình người học đa phần trong những trường hợp cảnh cáo kết quả học tập4. 1 Ban chấp hành Trung ương Đảng (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". 2 Bao gồm 5 loại: KTĐG trình diễn, tìm kiếm nhanh, câu hỏi mở, hồ sơ học tập và tự đánh giá. 3 Xem thêm: Cấn Thị Thanh Hương (2011), Nghiên cứu quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trong giáo dục đại học ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục, Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.8. 4 Nguyễn Thị Thanh Trà (2018), Đánh giá kết quả học tập môn giáo dục học của sinh viên đại học sư phạm theo tiếp cận năng lực, Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội. 346
- Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững Đối với môn Đường lối cách mạng của Đảng CSVN trước đó, các trường thường sử dụng hình thức kiểm tra cuối kỳ là tự luận và trắc nghiệm khách quan. Và dù là hình thức nào thì các câu hỏi dùng trong kiểm tra, thi hết học phần chủ yếu thiên về kiểm tra kiến thức sách vở, hàn lâm; không chú trọng KTĐG năng lực của sinh viên vận dụng những kiến thức vào cuộc sống. Cách KTĐG như vậy kéo dài ảnh hưởng đến cách dạy - học và chất lượng giáo dục của học phần này. Thứ tư, như trên đã đề cập, mặc dù có những ưu điểm hơn so với các chương trình LSĐ CSVN và Đường lối cách mạng của Đảng CSVN trước đó, song mục tiêu “chuẩn đầu ra năng lực” của môn học mới này lại chưa được xác định cụ thể, thiếu sự kết nối đầy đủ với mục tiêu từng chương. Cụ thể, trong chương Mở đầu, Dự thảo Giáo trình xác định: “Mục tiêu của nghiên cứu, học tập môn học Lịch sử Đảng CSVN là nâng cao nhận thức, hiểu biết về Đảng Cộng sản Việt Nam…Qua học tập, nghiên cứu lịch sử Đảng để giáo dục lý tưởng, truyền thống đấu tranh cách mạng của Đảng và dân tộc, củng cố bồi đắp niềm tin đối với sự lãnh đạo của Đảng, tự hào về Đảng và thế hệ trẻ gia nhập Đảng, tham gia xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh”1. Theo cách diễn đạt này thì “gia nhập Đảng, tham gia xây dựng Đảng” của sinh viên sẽ là một chuẩn đầu đầu ra năng lực rất cao, ít sinh viên đạt được trong bối cảnh hiện nay. Còn “nâng cao nhận thức, hiểu biết về Đảng”, “củng cố niềm tin, tự hào” chưa toát lên rõ ràng chuẩn năng lực đầu ra, mà vẫn thiên về kiến thức, cảm xúc. Theo đó, việc xây dựng bộ công cụ KTĐG theo hướng tiếp cận năng lực sẽ không ít lúng túng. Như vậy, bắt tay thực hiện chương trình giảng dạy mới theo hướng đổi mới phương pháp tiếp cận năng lực người học, các trường đại học, cao đẳng khối không chuyên LLCT không tránh khỏi những mặt thuận lợi, khó khăn đan xen ảnh hưởng tới quá trình này. Để tránh việc tiếp diễn làm theo “lối mòn” trong KTĐG kéo dài nếu các yếu tố đảm bảo cho việc đổi mới không đầy đủ thì việc kết hợp đồng bộ nhiều giải pháp là rất cần thiết. 2.3. Đề xuất và khuyến nghị Để thay thế hình thức KTĐG truyền thống, nâng cấp lên hình thức KTĐG môn LSĐCSVN theo tiếp cận năng lực người học, các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng cần: Xây dựng và công khai các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá kết quả học tập môn LSĐCSVN; Xây dựng công cụ đánh giá kết quả học tập môn LSĐCSVN theo tiếp cận năng lực; Kết hợp đánh giá của giảng viên với tự đánh giá đồng đẳng của sinh viên. Các biện pháp này có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ cho nhau, được tiến hành khảo nghiệm (dù là trên môn học khác) và có tính khả thi cao. Các biện pháp được đề xuất trên chỉ có thể thực hiện khi các chủ thể tham gia quá trình giáo dục - đào tạo đảm bảo những nhiệm vụ thuộc về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong quá trình đổi mới quan trọng này. Về phía nhà quản lý giáo dục cần: Bổ sung và hoàn thiện Chương trình, Dự thảo Giáo trình môn LSĐ CSVN kỹ càng hơn nữa trước khi xuất bản chính thức, trong đó phải xác định được chuẩn đầu ra năng lực của học phần một cách đầy đủ, rõ ràng và hợp lý hơn nữa. Lên kế hoạch, chỉ đạo sát sao thực hiện đổi mới đánh giá kết quả học tập các môn học theo hướng tiếp cận năng lực người học. Tổ chức các khóa đào tạo về cách thiết kế bộ công cụ đánh giá 1 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Tài liệu dùng tập huấn giảng dạy), tr.12. 347
- Trường Đại học Mỏ - Địa chất kết quả học tập theo xu hướng mới một cách nghiêm túc; cân đối chương trình môn học bằng cách tăng cường thời lượng thực hành và giảm thời lượng lý thuyết để sinh viên có nhiều thời gian rèn luyện và phát triển các năng lực. Trang bị cho sinh viên những hiểu biết về vai trò của KTĐG theo hướng tiếp cận năng lực đối với kết quả học tập của họ. Đồng thời, hướng dẫn, rèn luyện sinh viên kỹ năng tự đánh giá, hoặc tham gia đánh giá đồng đẳng khi giảng viên yêu cầu. Tạo điều kiện về cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị, phương tiện cho dạy học để thực hiện tốt hoạt động giảng dạy, hoạt động trải nghiệm và hoạt động đánh giá kết quả học tập theo tiếp cận năng lực. Xây dựng và thống nhất hệ thống các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá kết quả học tập theo tiếp cận năng lực nói chung và môn LSĐCSVN nói riêng đảm bảo chính xác, khách quan, toàn diện, phát huy năng lực của người học. Về phía giảng viên cần: Thường xuyên tự trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ đặc biệt là các kiến thức về đổi mới đánh giá và đánh giá kết quả học tập theo hướng tiếp cận năng lực để vận dụng phù hợp vào hoạt động dạy học và đánh giá của mình. Chuẩn bị chu đáo trong công tác xây dựng hệ thống bài thi, câu hỏi KTĐG, các bài thực hành, các tình huống thực. Nghiên cứu kỹ chương trình, mục tiêu môn học để xây dựng các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá năng lực người học cho phù hợp với đặc thù bộ môn, với khả năng sinh viên của trường và phù hợp với lứa tuổi của họ. Áp dụng hệ thống các biện pháp đã được đế xuất trong quá trình thực hiện đánh giá kết quả học tập môn LSĐ CSVN của sinh viên theo tiếp cận năng lực. Về phía sinh viên cần: Có thái độ nghiêm túc, tích cực, chủ động, tự giác trong hoạt động học tập của bản thân. Xây dựng kế hoạch tự học, tự nghiên cứu. Tự đánh giá những điểm mạnh, yếu của bản thân so với chuẩn đầu ra năng lực để không ngừng rèn luyện, khắc phục nhược điểm nhằm hình thành hệ thống năng lực chung và năng lực nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu của xã hội sau này. 3. KẾT LUẬN Tóm lại, kế thừa kết quả nghiên cứu lý luận về KTĐG theo hướng tiếp cận năng lực người học, bài viết đã giải quyết được vấn đề tự đặt ra là nhận diện những khó khăn, thuận lợi ảnh hưởng tới việc thực hiện KTĐG môn học LSĐCSVN theo hình thức mới ở các trường đại học, cao đẳng khối không chuyên LLCT. Cụ thể: bài viết đã làm rõ khái niệm cơ bản; bản chất của hình thức KTĐG theo hướng tiếp cận năng lực người học; chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc đảm bảo cho việc triển khai hình thức KTĐG theo hướng tiếp cận năng lực, qua đó, đưa ra nhận định về những mặt thuận lợi/khó khăn của các cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng khi đổi mới hình thức KTĐG theo hướng tích cực này. Không những thế, bài viết còn đề xuất và khuyến nghị một số giải pháp phù hợp để đảm bảo cho việc đổi mới “khâu mang tính đột phá” này thành công. Kết quả nghiên cứu có thể phát triển với phạm vi rộng hơn cho toàn bộ các môn Lý luận chính trị hoặc cũng có thể tiếp tục đi sâu vào thực hiện các nội dung cụ thể của hình thức KTĐG theo hướng tiếp cận năng lực người học cho học phần LSĐCSVN. 348
- Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thị Thúy An (2016), Đánh giá kết quả học tập môn Giáo dục học theo hướng tiếp cận năng lực người học, Luận văn thạc sĩ, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam. 2. Ban chấp hành Trung ương Đảng (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Dự thảo Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Tài liệu dùng tập huấn giảng dạy). 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Công văn số 3056/BGDĐT-GDĐH “Hướng dẫn thực hiện chương trình, giáo trình các môn Lý luận chính trị”. 5. Cấn Thị Thanh Hương (2011), Nghiên cứu quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trong giáo dục đại học ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục, Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội. 6. Nguyễn Thị Thanh Trà (2018), Đánh giá kết quả học tập môn giáo dục học của sinh viên đại học sư phạm theo tiếp cận năng lực, Luận án Tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội. 7. Đặng Thị Thanh Trâm (2019), Nghiên cứu và giảng dạy các môn Lý luận chính trị trong bối cảnh hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia, Nxb. Lao động Xã hội. 8. Đỗ Anh Dũng, “Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh”,https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/giao-duc-trung- hoc/Pages/default.aspx?ItemID=6273. 349
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Các yếu tố thuận lợi và khó khăn khi triển khai kế hoạch kiểm định chất lượng giáo dục đại học giai đoạn 2017-2020
10 p | 464 | 20
-
Thuận lợi và khó khăn khi phân loại tài liệu chuyên ngành khoa học và công nghệ theo DDC
7 p | 171 | 12
-
Dạy và học trực tuyến môn Tiếng Anh 2 cho sinh viên K69 không chuyên trường Đại học Sư phạm Hà Nội - Thực trạng và một số đề xuất
6 p | 64 | 8
-
Sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
8 p | 129 | 6
-
Mô hình đại học ứng dụng thông minh - định hướng mới khi chuyển đổi từ trường cao đẳng nghề chất lượng cao thành trường đại học, những thuận lợi và khó khăn
7 p | 9 | 6
-
Những thuận lợi và khó khăn của sinh viên Việt Nam khi học tiếng Hán
6 p | 101 | 5
-
Xu thế dạy học Blended learning – những thuận lợi, khó khăn và triển vọng của dạy học ngoại ngữ trong thời đại 4.0
3 p | 5 | 3
-
Những thuận lợi và khó khăn của sinh viên đại học trong hoạt động khai thác hệ thống học liệu và môi trường học tập số
9 p | 33 | 3
-
Một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy Giáo dục quốc phòng và an ninh cho học sinh Trường Trung học phổ thông Phạm Ngũ Lão
9 p | 6 | 3
-
Áp dụng hình thức dạy học theo dự án cho sinh viên ngành sư phạm Ngữ văn tại các trường cao đẳng, đại học đáp ứng yêu cầu chương trình và sách giáo khoa mới
7 p | 55 | 3
-
Khởi nghiệp nghề luật trong bối cảnh chuyển đổi số, cơ hội và thách thức
11 p | 4 | 3
-
Khảo sát cấp độ khó của phó từ “就” và “才” đối với người Việt Nam khi mới học tiếng Hán
4 p | 58 | 3
-
Học trực tuyến các học phần kế toán trong thời đại 4.0 - Những thuận lợi và khó khăn đối với người học
9 p | 10 | 3
-
Những khó khăn và thách thức trong đào tạo liên thông theo hệ thống tín chỉ tại trường Cao đẳng Sư phạm Đồng Nai
5 p | 9 | 2
-
Thuận lợi và khó khăn khi triển khai sử dụng E-learning trong giảng dạy
7 p | 54 | 2
-
Mô hình quỹ tín thác trường đại học Hoa Kỳ và khả năng áp dụng tại các trường đại học Việt Nam
20 p | 30 | 1
-
Những thuận lợi và khó khăn của công dân Việt Nam trong quá trình phấn đấu trở thành công dân toàn cầu
6 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn