THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ<br />
VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC TỔ CHỨC THỰC THI<br />
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGHỀ<br />
VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC TỔ CHỨC THỰC THI<br />
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN<br />
Ths.Nguyễn Văn Hưởng<br />
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia<br />
<br />
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông<br />
nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông<br />
nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng<br />
suất, chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt<br />
hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch<br />
theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục<br />
đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường; đời sống nhân dân nhiều vùng<br />
nông thôn thay đổi, chất lượng cuộc sống từng bước được nâng cao.<br />
Tuy nhiên, những thành tựu đã đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và<br />
chưa đồng đều giữa các vùng. Nền nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng<br />
trưởng có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát<br />
triển sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực<br />
còn hạn chế, lao động làm nông nghiệp chủ yếu làm nghề theo kinh nghiệm mà chưa<br />
được đào tạo nghề một cách bài bản. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách<br />
thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ phân tán; năng<br />
suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp. Các hình thức tổ chức sản xuất<br />
chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hoá. Nông nghiệp và<br />
nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn yếu kém, môi<br />
trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế.<br />
Những hạn chế, yếu kém trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó<br />
nguyên nhân chủ quan là chính: nhận thức về vị trí, vai trò của nông nghiệp, nông dân,<br />
nông thôn còn bất cập so với thực tiễn; chưa hình thành một cách có hệ thống các quan<br />
điểm lý luận về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; cơ chế, chính sách phát triển<br />
các lĩnh vực này thiếu đồng bộ, thiếu tính đột phá; một số chủ trương, chính sách không<br />
hợp lý, thiếu tính khả thi nhưng chậm được điều chỉnh, bổ sung kịp thời; đầu tư từ ngân<br />
sách nhà nước và các thành phần kinh tế vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn còn thấp,<br />
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; tổ chức chỉ đạo thực hiện và công tác quản lý nhà nước<br />
còn nhiều bất cập, yếu kém;<br />
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn sản xuất, trong những năm vừa qua Đảng và<br />
Nhà nước ta đã có những chiến lược, chính sách ưu tiên để đầu tư phát triển lĩnh vực đào<br />
tạo nghề. Thể hiện ở các Nghị quyết của Đại hội đảng khoá IX và các Nghị Quyết trung<br />
ương, trong đó Nghị quyết số 26/NQTW khóa X xác định rõ: (1) Nông nghiệp, nông dân,<br />
nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và<br />
bảo vệ tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững,<br />
giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn<br />
hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước; (2) Các vấn đề nông nghiệp,<br />
nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công<br />
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn<br />
là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất<br />
2<br />
nước. Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là<br />
chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng các cơ sở<br />
công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản, phát triển toàn diện,<br />
hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt; (3) Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao<br />
đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định<br />
hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải<br />
phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và<br />
biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế cho phát triển lực<br />
lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao nội lực; đồng thời tăng mạnh<br />
đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên<br />
tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân;<br />
(4) Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống<br />
chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự<br />
cường vươn lên của nông dân. Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hoà thuận, dân chủ, có<br />
đời sống văn hoá phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông<br />
nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân.<br />
Thực hiện các Nghị quyết của đảng về phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông<br />
dân, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản điều hành, trong đó Quyết định số 1956/QĐ-<br />
TTg ngày 27/11/2009 phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm<br />
2020” nhằm phát triển kinh tế ổn định và bền vững, đồng thời từng bước chuyên môn hóa<br />
sản xuất và chuyển đổi cơ cấu ngành nghề nông nghiệp, nông thôn trên phạm vi toàn<br />
quốc, trên nhiều lĩnh vực sản xuất, trong đó nội dung đào tạo nghề nông nghiệp do Bộ<br />
NN&PTNT chủ trì thực hiện với mục tiêu đến năm 2020 cả nước có 3 triệu nông dân<br />
được đào tạo nghề nông nghiệp.<br />
Trung tâm KNQG là đơn vị được Bộ NN&PTNT giao làm đầu mối thí điểm thực hiện<br />
chỉ đạo một số đơn vị và các địa phương thực hiện công tác đào tạo nghề nông nghiệp cho<br />
lao động nông thôn, tổng hợp báo cáo kết quả thực hiện với Bộ. Nhiệm vụ đào tạo nghề<br />
nông nghiệp cho lao động nông thôn được Trung tâm bắt đầu triển khai thực hiện thí điểm<br />
vào năm 2010 tại 11 xã điểm thuộc 11 tỉnh, thành phố,...<br />
<br />
I. KINH NGHIỆM TỔ CHỨC ĐÀO TẠO NGHỀ TRÊN THẾ GIỚI VÀ THỰC TRẠNG<br />
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN<br />
1. Kinh nghiệm đào tạo nghề cho lao động nông thôn ở một số nước trên thế giới.<br />
Thành tựu đạt được của nền kinh tế các quốc gia có sự đóng góp một phần rất lớn<br />
của việc tổ chức thực thi tốt chính sách đào tạo nghề cho người lao động nói chung và lao<br />
động nông thôn nói riêng, để có cái nhìn tổng thể về tác động của chính sách đào tạo nghề<br />
với việc phát triển kinh tế, chúng ta cần nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong việc<br />
phát triển nguồn lực, công tác tổ chức đào tạo nghề của các nước trên thế giới.<br />
Hình thức đào tạo nghề rất đa dạng và khác nhau ở mỗi quốc gia nhưng chúng ta<br />
có thể học kinh nghiệm của các nước có những điều kiện tương đồng và áp dụng có chọn<br />
lọc kinh nghiệm tổ chức đào tạo nghề tại một số nước trên thế giới và trong khu vực.<br />
1.1. Kinh nghiệm tổ chức đào tạo nghề tại Nhật Bản<br />
Ở Nhật Bản, mô hình đào tạo nghề tại công ty, đơn vị sản xuất là mô hình đào tạo chủ<br />
yếu. Đỉnh cao của sự phát triển mô hình này diễn ra trong thập kỷ từ 1960 đến 1970. Phần<br />
lớn lớp trẻ Nhật Bản sau khi tốt nghiệp phổ thông tham gia vào thị trường lao động, được<br />
<br />
3<br />
công ty thuê và tham gia vào quá trình đào tạo nghề do công ty tổ chức.<br />
Nội dung, chương trình đào tạo tại công ty gồm 2 phần: Định hướng về công ty và<br />
kiến thức thực hành nghề. Định hướng về đào tạo của công ty nhấn mạnh các kiến thức về<br />
nền văn hoá của công ty, giá trị của công việc và thái độ làm việc. Nhân viên mới được<br />
tuyển phải nghe giảng về niềm tin và lòng tự hào khi làm việc tại công ty, về sự tự trọng,<br />
trách nhiệm và nghĩa vụ với công ty. Chương trình học kiến thức thực hành nghề được thực<br />
hiện chủ yếu thông qua các chỉ dẫn không chính thức trong quá trình làm việc, các cuốn<br />
cẩm nang tự học và các khoá học tương ứng. Phương thức thực hiện đào tạo kiến thức thực<br />
hành nghề là các buổi thảo luận kỹ thuật, thảo luận chất lượng, chuyển đổi vị trí và tự học.<br />
Điều quan trọng là nước Nhật có hệ thông giáo dục phổ thông tốt và học sinh tốt<br />
nghiệp trung học phổ thông thường có khả năng học và tự học vững vàng. Hiện nay 80%<br />
số học sinh trong độ tuổi theo học trung học phổ thông với một phần đáng kể trong số họ<br />
theo đuổi mô hình đào tạo nghề ban đầu tại công ty và 20% còn lại tham gia hệ thống đào<br />
tạo nghề tại trường. Giáo dục phổ thông tốt là điều kiện căn bản để hệ thống đào tạo nghề<br />
tại công ty của Nhật vận hành được. Cùng với hệ thống đào tạo này Nhật Bản đã đào tạo<br />
cho đất nước đội ngũ công nhân lành nghề đa chức năng và trung thành với công ty, góp<br />
phần tạo nên thần kỳ kinh tế Nhật Bản.<br />
1.2. Kinh nghiệm tổ chức đào tạo nghề tại Hàn Quốc<br />
Từ giữa thập kỷ 60. Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra kế hoạch đào tạo trên cơ sở kế<br />
hoạch nhân lực, nhờ vậy đầu tư sức người và của cải tập trung để hướng học sinh trung học<br />
theo nhánh đào tạo nghề và công nhân kỹ thuật. Một số môn học nghề được đưa vào học<br />
trong chương trình trung học cơ sở, tuy nhiên chuyên môn hoá theo ngành đào tạo chỉ được<br />
thực hiện ở cấp trung học bậc trên. Khoảng một phần ba số học sinh theo học trung học bậc<br />
cao lựa chọn trung học nghề còn hai phần ba theo chương trình trung học phổ thông. Các<br />
chuyên ngành được lựa chọn nhiều nhất trong trung học nghề là kỹ thuật và thương mại.<br />
Bên cạnh các trường nghề trung học dành cho đào tạo nghề ban đầu ở Hàn Quốc còn<br />
phát triển mạnh mẽ các TTDN và đào tạo lại. Cả nước có khoảng 90 trung tâm như vậy và<br />
đào tạo nghề ở đây chủ yếu giới hạn ở các khoá ngắn hạn đào tạo các kỹ năng hành nghề<br />
trực tiếp. Phần lớn chi phí cho các trung tâm này được nhà nước hỗ trợ, nhưng các học viên<br />
vẫn phải đóng học phí cho các khoá học này. Đồng thời chính phủ Hàn Quốc còn khuyến<br />
khích mạnh mẽ các công ty thực hiện đào tạo tại CSSX nhằm giảm chi phí.<br />
1.3. Kinh nghiệm tổ chức đào tạo nghề tại Singapore<br />
Đào tạo nghề phát triển mạnh mẽ vào những năm 80. Lĩnh vực có sự phát triển và<br />
mở rộng nhanh chóng là giáo dục nghề sau trung học, còn giáo dục nghề trung học tuy có<br />
phát triển song chỉ chiếm phần nhỏ. Trong giáo dục trung học, phần lớn học sinh trong độ<br />
tuổi theo học trung học phổ thông.<br />
Ở Singapore tuy giáo dục nghề trung học ít được Chính phủ khuyến khích song nó<br />
lại là một phần thống nhất không tách rời trong chiến lược phát triển nhân lực. Với chiến<br />
lược tái cơ cấu kinh tế đưa ra năm 1979, mục đích của Singapore là chuyển sang các hoạt<br />
động có giá trị gia tăng cao mà chủ yếu là các dịch vụ cao cấp tài chính và ngân hàng nên<br />
điểm mạnh của đào tạo nghề tại nước này là sau trung học và đào tạo lại cho lực lượng lao<br />
động hiện hành. Đồng thời với công cuộc tái cơ cấu nền kinh tế chiến lược sử dụng lao<br />
động được chuyển dịch từ dựa vào lao động có kỹ năng trong nước.<br />
Chính phủ Singapore đầu tư thích đáng cho giáo dục đại học nhằm phát triển mạng<br />
lưới nghiên cứu khoa học thông qua việc thành lập trường đại học quốc gia, các viện và<br />
<br />
4<br />
trung tâm nghiên cứu trong cả nước. Hàng năm chính phủ đầu tư khoảng 990 triệu USD<br />
cho giáo dục, cùng với 360 triệu USD do các nhà trường tạo ra từ các hoạt động khoa học,<br />
công nghệ đào tạo và dịch vụ để thực hiện các chương trình đào tạo lại, các chương trình<br />
đào tạo nghề mới được đẩy mạnh đặc biệt là ở cấp sau trung học, do vậy cơ cấu nghề đã<br />
được chuyển đổi mạnh mẽ.<br />
1.4. Kinh nghiệm tổ chức đào tạo nghề tại Trung Quốc<br />
Có thể nói, Trung Quốc đã có một ”cuộc cách mạng” trong việc phân luồng học sinh<br />
sau trung học cơ sở vào giáo dục nghề nghiệp rất thành công, từ 90% học sinh sau trung<br />
học cơ sở vào bậc học phổ thông năm 1979 – 1980 giảm xuống còn 43,3% vào năm học<br />
1995 – 1996, còn lại 56,7% vào học các trường đào tạo nghề<br />
Giáo dục và dạy nghề ở Trung Quốc hiện chia làm 3 cấp. Cấp đầu tiên được thực<br />
hiện chủ yếu trong các trường dạy nghề và nhằm đào tạo công nhân, nông dân và nhân<br />
công cho các ngành nghề với kiến thức nghề nghiệp cơ bản và những kỹ năng nhất định.<br />
Để đáp ứng nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế địa phương, các trường dạy nghề cấp<br />
một này chỉ được mở ở các vùng nông thôn, nơi kinh tế chưa phát triển.<br />
Trường dạy nghề cấp hai không chỉ cung cấp cho xã hội những công nhân lành nghề<br />
mà họ còn được đào tạo thêm kiến thức về văn hóa để có thể thích nghi với các khu chế<br />
xuất, khu công nghiệp. Với việc học nghề kéo dài 2-3 năm, giáo dục hướng nghiệp cấp ba<br />
ở Trung Quốc chủ yếu tuyển sinh những học viên đã từng tốt nghiệp các trường dạy nghề<br />
cấp 2 nhằm đào tạo cho đời những công nhân “cổ trắng”. Hiện tại, việc dạy nghề ở Trung<br />
Quốc do các Bộ Giáo dục và Lao động quản lý, nhưng các doanh nghiệp được khuyến<br />
khích “đào tạo nghề” cho chính công nhân của mình.<br />
1.5. Kinh nghiệm tổ chức đào tạo nghề tại Đài Loan và Indonesia<br />
Ở Đài Loan, hệ thống giáo dục được phân thành 2 luồng rất rõ rệt, sau trung học cơ<br />
sở thì chỉ khoảng 20% vào học hệ thống giáo dục phổ thông còn lại 80% sẽ vào hệ thống<br />
giáo dục nghề nghiệp.<br />
Ở Indonesia, những năm gần đây Chính phủ nước này đã quyết định giảm dần tỉ lệ<br />
học sinh sau trung học cơ sở vào trung học phổ thông và tăng dần tỉ lệ học sinh sau trung<br />
học vào học nghề. Năm 2007 tỉ lệ học sinh sau trung học phổ thông chỉ còn 57% và 43%<br />
tham gia vào học nghề.<br />
2. Tình hình đào tạo nghề và đánh giá công tác tổ chức đào tạo nghề ở Việt Nam<br />
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng về định hướng phát triển dạy nghề, chiến lược,<br />
quy hoạch, kế hoạch phát triển dạy nghề từ 2001 – 2010. Đến nay dạy nghề đã được phục<br />
hồi sau một thời gian dài bị suy giảm, từng bước được đổi mới và phát triển đáp ứng ngày<br />
càng tốt hơn nhu cầu nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong KD, dịch vụ phục vụ phát triển kinh<br />
tế - xã hội. Một số kết quả chủ yếu đã đạt được là:<br />
2.1. Quá trình hình thành và phát triển hệ thống đào tạo đào tạo nghề tại Việt Nam:<br />
- Hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành ở nước ta từng bước được hình thành góp<br />
phần nâng cao vị thế, vai trò của dạy nghề trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực và<br />
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Hiện nay có 3 cấp dạy nghề bao gồm:<br />
+ Dạy nghề trình độ sơ cấp nhằm trang bị cho người học nghề năng lực thực hành của<br />
một nghề đơn giản hoặc năng lực thực hành một số công việc của một nghề;<br />
+ Dạy nghề trình độ trung cấp nhằm trang bị cho người học kiến thức chuyên môn<br />
và năng lực thực hành các công việc của một nghề; có khả năng làm việc độc lập và ứng<br />
dụng kỹ thuật, công nghệ vào công việc;<br />
<br />
5<br />
+ Dạy nghề trình độ cao đẳng nhằm trang bị cho người học nghề kiến thức chuyên<br />
môn và năng lực thực hành các công việc của một nghề; có khả năng làm việc độc lập và tổ<br />
chức làm việc theo nhóm; có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào công<br />
việc; giải quyết được các tình huống phức tạp trong thực tế.<br />
Ưu điểm của hệ thống dạy nghề theo ba cấp trình độ là: đào tạo nhiều cấp trình độ<br />
theo yêu cầu của thị trường lao động; liên thông trong hệ thông dạy nghề và liên thông<br />
với các trình độ khác của hệ thống giáo dục quốc dân, tạo điều kiện và cơ hội cho thanh<br />
niên học tập suốt đời, hoạt động để nâng cao trình độ nghề nghiệp; phù hợp với các trình<br />
độ dạy nghề của các nước, tạo điều kiện cho việc hội nhập quốc tế và xuất khẩu lao động.<br />
- Dạy nghề trình độ TCN và CĐN đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về nhân lực có<br />
tay nghề cao của TTLĐ trong quá trình CNH, HĐH đất nước; dạy nghề trình độ sơ cấp và<br />
dạy nghề thường xuyên đã góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động (đặc biệt là khu vực<br />
nông thôn) và nâng cao chất lượng lao động nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp (TTCN),<br />
dịch vụ ở nông thôn theo hướng hiện đại.<br />
- Mạng lưới CSDN mở rộng, phân bố tương đối hợp lý ở các ngành kinh tế, địa<br />
phương, vùng, miền:<br />
+Tính đến cuối năm 2011 trên cả nước có 1293 CSDN. So với năm 2001 số<br />
trường nghề tăng 2,84 lần (từ 156 trường dạy nghề năm 2001 lên 443 trường CĐN và<br />
TCN năm 2011); số TTDN tăng 5,66 lần (từ 150 TTDN năm 2001 lên 849 TTDN năm<br />
2011). Mỗi tỉnh đã có ít nhất một trường nghề, một số huyện, cụm huyện đã có trường<br />
TCN.Trường nghề bao gồm trường CĐN và trường TCN. Từ 2006 trở về trước chỉ có<br />
trường dạy nghề và TTDN. Nếu tính cả các cơ sở khác có dạy nghề (bao gồm đại học,<br />
cao đẳng, trung tâm khác có dạy nghề) thì mạng lưới CSDN cả nước có 1975 cơ sở, trong<br />
đó CSDN công lập chiếm 67,2%. Số CSDN ngoài công lập chiếm 32,8%.<br />
+ Thực hiện Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 27 tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng<br />
Chính phủ phê duyệt “Đề án Đào tạo nghề cho LĐNT đến năm 2020”, mạng lưới TTDN<br />
cấp huyện đã được mở rộng. Năm 2011 có 386 TTDN cấp huyện nhằm đáp ứng nhucầu<br />
đào tạo nghề cho LĐNT. Mạng lưới CSDN mở rộng, quy mô đào tạo tăng đã góp phần<br />
nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề năm 2011 đạt 32%.<br />
- Mạng lưới các trường, TTDN đã được thành lập theo quy hoạch và được phân bổ<br />
ở tất cả các vùng miền, ở tất cả các loại hình công lập, tư thục, doanh nghiệp trên phạm vi<br />
toàn quốc bước đầu đáp ứng được nhu cầu nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của<br />
đất nước, đáp ứng nhu cầu học nghề để tìm việc làm và tự tạo việc làm, nâng cao thu nhập<br />
của người lao động.<br />
+ Theo hình thức sở hữu: Năm 2011 cả nước có tổng số 1293 CSDN, có 836<br />
CSDN công lập (chiếm 64,6%) và 457 CSDN tư thục (chiếm 35,4%).<br />
+ Theo vùng kinh tế xã hội: Mạng lưới các CSDN trong những năm qua phát triển<br />
nhanh nhưng tập trung chủ yếu ở các vùng đồng bằng, đô thị, số CSDN ở Đồng bằng<br />
Sông Hồng, chiếm 27,3% số cơ sở trên cả nước, tiếp đến là vùng Bắc Trung Bộ và Duyên<br />
hải NamTrung Bộ 20,4%, thấp nhất là vùng Tây Nguyên chiếm 5,3%. Đồng bằng Sông<br />
Hồng là vùng có số lượng trường CĐN cao nhất trong cả nước: 52 trường, chiếm 38,2%<br />
số trường CĐN toàn quốc. Trong khi vùng Tây Nguyên hiện mới chỉ có 3 trường CĐN<br />
+ Theo cấp quản lý: CSDN do Trung ương quản lý bao gồm các CSDN trực thuộc<br />
các Bộ, ngành (Tập đoàn, tổng công ty nhà nước) và các hiệp hội khác như Liên minh<br />
Hợp tác xã Việt Nam, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam,...Năm 2011 số CSDN do Trung<br />
<br />
6<br />
ương quản lý gồm có 124 cơ sở, trong đó có 108 cơ sở trực thuộc các Bộ, ngành (chủ yếu<br />
thuộc các Bộ, ngành nhưBộ NN&PTNT (35 CSDN), Bộ Xây dựng (17 CSDN), Bộ Quốc<br />
phòng (28 CSDN),Bộ Công thương (38 CSDN), Bộ Giao thông - Vận tải (17 CSDN))và<br />
16 cơ sở thuộc các hiệp hội khác.<br />
2.2. Quy mô dạy nghề theo các trình độ đào tạo và điều chỉnh cơ cấu nghề đào tạo<br />
- Quy mô tuyển sinh dạy nghề tăng (Số lượng tuyển sinh dạy nghề tăng từ 887,3<br />
ngàn người (ngoài công lập 170 ngàn) năm 2001 lên 1,860 triệu người (ngoài công lập<br />
700 ngàn) năm 2011, tăng 2,01 lần, trong đó trình độ TCN và CĐN tăng 3,3 lần.<br />
- Quy mô tuyển sinh dạy nghề trình độ TCN và CĐN (dạy nghề dài hạn) năm 2011<br />
là 221.336 người (trong đó CĐN là 79.737 người, TCN là 141.629 người tăng 1,77 lần so<br />
với năm 2001<br />
- Cơ cấu nghề đào tạo đã được điều chỉnh theo nhu cầu thị trường lao động: Ban<br />
hành danh mục nghề đào tạo mới có 301 nghề đào tạo trình độ CĐN và 385 nghề đào tạo<br />
trình độ TCN, trong khi năm 2001 mới chỉ có 256 nghề đào tạo dài hạn.<br />
- Đa dạng hóa hình thức, phương thức đào tạo nghề: dạy nghề chính quy, dạy nghề<br />
thường xuyên;dạy nghề tập trung, dạy nghề lưu động, dạy nghề tại doanh nghiệp, làng<br />
nghề. Đã triển khai đào tạo nghề theo nhu cầu của doanh nghiệp và dạy nghề cho nông<br />
dân gắn với việc làm và tạo việc làm; thực hiện thí điểm nhà nước đặt hàng đào tạo nghề<br />
với các trường để cung cấp lao động qua đào tạo nghề theo vị trí làm việc theo yêu cầu<br />
của các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty; thí điểm đào tạo nghề cho lao động ở các vùng<br />
chuyên canh cây công nghiệp.<br />
2.3. Nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy nghề<br />
- Tập trung đầu tư tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy nghề để cải<br />
thiện chất lượng:<br />
+ Về đội ngũ giáo viên dạy nghề: Tính đến tháng 12 năm 2011, cả nước đã có<br />
35.794 giáo viên dạy nghề (GVDN) tại các trường CĐN, TCN và TTDN, trong đó,<br />
12.807 giáo viên tại các trường CĐN, 11.412 giáo viên tại các trườngTCN và 11.575 giáo<br />
viên tại các TTDN. So với số giáo viên trong các trường dạy nghề năm 2007 (14.261<br />
người), năm 2011, số GVDN trong các trường CĐN, TCN là 24.219 tăng 1,7 lần. Ngoài<br />
ra,còn có hàng ngàn người là các nhà khoa học, cán bộ kỹ thuật, nghệ nhân, nông dân sản<br />
xuất giỏi, người có tay nghề cao tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn.<br />
+ Về trình độ chuyên môn được đào tạo: Trong những năm gần đây đội ngũ GVDN<br />
tăng cả về số lượng và chất lượng đặc biệt là về trình độ CMKT. Số GVDN có trình độ thạc<br />
sỹ trở lên tại các CSDN là 2956 người (năm 2011), trong đó số người có trình độ này tại các<br />
trường CĐN tăng 6,14 lần từ năm 2007 đến năm 2011.Tuy nhiên, từ năm 2009 đến 2011,<br />
thực hiện đề án đào tạo nghề cho LĐNT, các CSDN đã huy động được đông đảo đội ngũ<br />
người dạy nghề là nghệ nhân, người lao động có tay nghề cao trong các doanh nghiệp tham<br />
gia dạy nghề, nên số người dạy nghề có trình độ khác ở các TTDN tăng đáng kể, đặc biệt 2<br />
năm 2010 và năm 2011.<br />
+ Về sư phạm dạy nghề: Để đáp ứng với yêu cầu về năng lực của GVDN trong<br />
thời gian vừa qua, Tổng cục dạy nghề đã xây dựng, ban hành chương trình khung nghiệp<br />
vụ sự phạm dạy nghềcho giáo viên dạy trình độ TCN, CĐN; chương trình SPDN cho giáo<br />
viên dạy trình độ SCN; chương trình bồi dưỡng kỹ năng dạy học cho người dạy nghề và<br />
06 chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm nâng cao tiếp cận trình độ quốc tế<br />
<br />
<br />
7<br />
City&Guilds. Tỷ lệ giáo viên đã qua đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm tại các trường<br />
CĐN chiếm 80,8%, tại các trường TCN chiếm 71,2%,tại các TTDN là 53,5%.<br />
+ Về kỹ năng nghề: Trong tổng số 83% giáo viên đang giảng dạy thực hành và<br />
tích hợp chỉ có 57,8% giáo viên đạt chuẩn về kỹ năng nghề (4/7 hoặc tương đương trở<br />
lên). Tỷ lệ giáo viên/học sinh đạt 1/20, thực hiện bồi dưỡng kỹ thuật công nghệ mới theo<br />
định kỳ cho giáo viên để nâng cao trình độ và kỹ năng nghề.<br />
+ Về chương trình dạy nghề: Chương trình dạy nghề đã được đổi mới về nội dung<br />
cho phù hợp với kỹ thuật, công nghệ sản xuất và đặc biệt chú trọng tới rèn luyện kỹ năng<br />
nghề cho người học, năm 2008 đã xây dựng được 114 bộ chương trình khung trình độ<br />
TCN, chương trình khung trình độ CĐN theo phương pháp tiên tiến của Thế giới, trên cơ<br />
sở phân tích nghề theo phương pháp DACUM, trong đó có 99 nghề thuộc lĩnh vực phi<br />
nông nghiệp (chiếm 87%), 15 nghề thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư (chiếm 13%). Năm<br />
2011 tiếp tục xây dựng và ban hành 28 chương trình, tài liệu bồi dưỡng kỹ năng nghề cho<br />
giáo viên dạy trình độ CĐN, TCN; 12 chương trình, tài liệu bồi dưỡng kỹ năng nghề cho<br />
giáo viên dạy trình độ SCN; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng Kỹ năng giảng dạy theo<br />
chương trình khung trình độ CĐN, TCN; xây dựng, ban hành được 138 chương trình, tài<br />
liệu; xây dựng, ban hành 51 chương trình tài liệu bồi dưỡng công nghệ mới.<br />
Các nghề đào tạo được mở dần theo nhu cầu thực tế của các doanh nghiệp, từng<br />
bước phù hợp với sự phát triển các ngành nghề trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.<br />
Chương trình dạy nghề được xây dựng xuất phát từ thực tiễn sản xuất của doanh nghiệp.<br />
Khoảng 500 chương trình dạy nghề ngắn hạn, thường xuyên và SCN được các Bộ, ngành,<br />
địa phương và CSDN xây dựng và ban hành, trong đó có 70 chương trình được các Dự án<br />
ODA hỗ trợ xây dựng bằng phương pháp phân tích nghề. Các hội nghề nghiệp (Hội Làm<br />
vườn, Hội Nông dân, Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ, Hội Khoa học kỹ thuật nông<br />
nghiệp …) đã xây dựng hàng trăm bộ chương trình, tài liệu chuyển giao công nghệ thông<br />
qua các Dự án khuyến công, nông, lâm, ngư … thuộc lĩnh vực chế biến nông, lâm sản,<br />
TTCN; khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng; cơ điện nông thôn,…<br />
+ Về Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia: tính đến năm 2011 đã có 148 nghề được<br />
xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia và đã ban hành cho 109 thuộc các lĩnh vực Xây<br />
dựng, Giao thông vận tải, Công nghiệp và Thương mại và nông nghiệp có 13 nghề được<br />
ban hành Tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia.<br />
+ Về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề: Cơ sở vật chất, thiết bị của nhiều<br />
CSDN đã được tăng cường đầu tư từ nhiều nguồn (NSTW, NSĐP, các dự án nước ngoài,<br />
đầu tư của doanh nghiệp, CSSX kinh doanh - dịch vụ, các CSDN tự đầu tư,…). Đến nay<br />
khoảng 50% số CSDN đã được trang bị bổ sung, nâng cấp đáp ứng một bước yêu cầu của<br />
việc thực hành cơ bản; một số trường được trang bị tương đối đồng bộ, hiện đại ở một số<br />
nghề phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp, trong đó: có 15 trường của dự án ADB; 25<br />
trường của các dự án Đức, Hà Lan, Hàn Quốc …; 60 trường được đầu tư tập trung và 250<br />
TTDN được đầu tư tập trung từ Dự án tăng cường năng lực dạy nghề; 37 TTDN của dự<br />
án Thụy Sỹ … và đại bộ phận các CSDN khác đã được trang bị các thiết bị đáp ứng được<br />
yêu cầu thực hành cơ bản theo yêu cầu của chương trình dạy nghề. Một số trường đã có<br />
thư viện và phòng thí nghiệm hiện đại.<br />
- Triển khai hoạt động kiểm định chất lượng dạy nghề và đánh giá kỹ năng nghề:<br />
từ năm 2008 đến 2011 đã thực hiện 115 lượt KĐCLDN cho tổng số 112 CSDN trên tổng<br />
số 1293 CSDN toàn quốc (khoảng 9%). Khối trường CĐN đã được kiểm định chất lượng<br />
<br />
8<br />
chiếm tỉ lệ cao nhất trong 3 loại hình CSDN và được ưu tiên kiểm định chất lượng ngay<br />
trong giai đoạn thực hiện thí điểm từ năm 2008, các tiêu chí kiểm định chất lượng TTDN<br />
mới có từ 2010 và các TTDN bắt đầu được thực hiện kiểm định chất lượng từ năm 2010.<br />
- Phát triển các CSDN liên doanh, liên kết với các cơ sở đào tạo nghề tiên tiến trên<br />
thế giới, trao đổi kinh nghiệm giữa giáo viên. Đầu tư xây dựng CSDN chất lượng cao để<br />
đào tạo một số nghề tiếp cận trình độ tiên tiến của thế giới.<br />
- Dạy nghề không chỉ góp phần tích cực vào giải quyết việc làm trong nước mà còn<br />
góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho xuất khẩu lao động (tỷ lệ lao động có kỹ<br />
năng nghề chiếm khoảng 25% trong tổng số lao động xuất khẩu), qua đó góp phần nâng cao<br />
thu nhập, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống cho người lao động.<br />
2.4. Về công tác quản lý tài chính và chính sách đầu tư cho dạy nghề<br />
- Bộ máy quản lý nhà nước về dạy nghề từ trung ương đến địa phương đã được<br />
tăng cường, hầu hết các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã có Phòng dạy nghề.<br />
- Đã tăng cường phân cấp cho các cấp các ngành để nâng cao tính tự chủ, tự chịu<br />
trách nhiệm cơ quan quản lý các cấp; đồng thời cũng phân cấp mạnh cho các CSDN tạo<br />
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về quản lý nhân sự, quản lý chi tiêu tài chính của cơ sở.<br />
- Đã hoàn thành các chính sách hỗ trợ dạy nghề đối với người dân tộc thiểu số, bộ<br />
đội xuất ngũ, người nghèo, người khuyết tật, lao động nông thôn; chính sách tín dụng cho<br />
học sinh, sinh viên. Đã thí điểm triển khai đặt hàng đào tạo nghề cho đối tượng chính<br />
sách, đối tượng bị thu hồi đất canh tác, người dân tộc thiểu số.<br />
- Đầu tư cho dạy nghề ngày càng tăng, trong đó, ngân sách nhà nước vẫn giữ vai<br />
trò chủ đạo, NSNN cho dạy nghề tăng 10,1 lần sau 10 năm, từ 2001 đến 2011. Giai đoạn<br />
2006 - 2011, mỗi năm đầu tư cho dạy nghề tăng trên dưới 1000 tỉ đồng. Đặc biệt, năm<br />
2007 khi Luật Dạy nghề bắt đầu có hiệu lực, đầu tư cho dạy nghề tăng hơn 1300 tỉ đồng<br />
nhằm nâng cấp các trường dạy nghề lên trường CĐN và TCN. Năm 2010, NSNN cho<br />
dạy nghề cũng tăng hơn 2000 tỉ đồng [30, Tr79-80].<br />
3. Kết quả đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn từ năm 2010 đến năm<br />
2013.<br />
Ở nước ta, kể từ khi đổi mới đến những năm 90 của thế kỷ 20, nhà nước ta đã ban<br />
hành và thực thi nhiều chính sách đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn. Tuy<br />
nhiên việc ban hành nhiều chính sách đào tạo nghề dẫn đến khó khăn trong việc triển<br />
khai, việc tổ chức đào tạo nghề phân tán, thiếu chiến lược... Từ khi có Quyết định<br />
1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành định Đề án “Đào tạo<br />
nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” chính sách đào tạo nghề cho lao động nông<br />
thôn mới được chỉ đạo một cách thống nhất, đồng bộ, tập trung thông qua một chính sách<br />
chung có tính tổng thể gọi tắt là đề án 1956. Quá trình thực thi đề án 1956 đã đem lại một<br />
số thành tựu trong việc phát triển lực lượng lao động Việt Nam trong những năm qua, cụ<br />
thể như sau:<br />
3.1. Mạng lưới đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn hiện nay<br />
Đào tạo nghề là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước được các cấp, các ngành<br />
quan tâm. Trong những qua Chính phủ đã có những chính sách khuyến khích phát triển<br />
dạy nghề cụ thể như sau: Ngày 28/12/2001 Chính phủ có Quyết định số 201/2001/QĐ-<br />
TTg định hướng phát triển dạy nghề từ năm 2001-2010; Nghị quyết số 07/2006/QĐ-<br />
BLĐTBXH về việc phê duyết “Quy hoạch phát triển mạng lưới trường CĐN, trường<br />
TCN, TTDNđến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”; đây là những chính sách rất<br />
<br />
9<br />
quan trọng khẳng định từ nay đến năm 2013 công tác dạy nghề được đặt trên “đường ray”<br />
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, củng cố an ninh quốc phòng, phục vụ sự<br />
nghiệp CNH-HĐH đất nước.<br />
Theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính, Bộ<br />
Nông nghiệp và PTNT được giao các nhiệm vụ:<br />
- Chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức xây dựng<br />
danh mục nghề, chương trình dạy nghề các nghề nông nghiệp trình độ sơ cấp nghề và dạy<br />
nghề thường xuyên;<br />
- Phối hợp với một công ty viễn thông để cung cấp thông tin thị trường hàng hóa,<br />
hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp đến xã;<br />
- Phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: xây dựng cơ chế, chính sách về<br />
dạy nghề cho lao động nông thôn; phân bổ kinh phí dạy nghề cho lao động nông thôn;<br />
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh liên quan thí điểm<br />
triển khai hình thức cấp thẻ học nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn;<br />
- Kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện dạy nghề nông nghiệp cho lao động nông<br />
thôn; định kỳ 6 tháng, hàng năm báo cáo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để tổng<br />
hợp.<br />
Từ năm 2012, Bộ Nông nghiệp và PTNT được giao thêm nhiệm vụ: Trực tiếp chỉ<br />
đạo và chịu trách nhiệm về việc dạy nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn (theo các<br />
thông báo số 230/TB-VPCP ngày 27/9/2011; số 28/TB-VPCP ngày 30/01/2012 của Văn<br />
phòng Chính phủ).<br />
Tính đến 31 tháng 12 năm 2013, sau 4 năm triển khai nhiệm vụ được giao, Bộ<br />
Nông nghiệp đã tích cực triển khai các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, trong<br />
đó mục tiêu đào tạo nghề đã và đang từng bước được xã hội hoá thu hút được nhiều tổ<br />
chức, đơn vị đã tham gia tích cực vào mạng lưới chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh<br />
vực nông nghiệp bao gồm các trường dạy nghề của trung ương, các trường dạy nghề của<br />
các tỉnh, các trường đại học, các viện nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp, các TTDN,<br />
CSDN khác nằm trong các làng nghề, các doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX).<br />
Bảng 1: Số cơ sở tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn tính đến năm 2013<br />
Doanh<br />
TT TT Cơ<br />
Tổng Tr. Tr. TT nghiệp, cơ<br />
Quy mô GD KTTH sở<br />
số CĐN TCN DN sở SXKD,<br />
TX HN khác<br />
HTX<br />
Cả nước 1.355 77 165 520 79 22 122 353<br />
Trung du và M.<br />
287 11 20 150 12 6 29 59<br />
núi phía Bắc<br />
Đồng bằng<br />
279 24 44 65 10 12 32 92<br />
sông Hồng<br />
Bắc T.B. Duyên<br />
294 17 39 125 27 4 26 56<br />
Hải NTB<br />
Tây Nguyên 62 1 8 36 1 0 3 13<br />
Đông Nam Bộ 84 3 12 24 11 0 9 25<br />
Tây Nam Bộ 236 7 29 95 17 0 19 69<br />
10<br />
Các Bộ, ngành 113 14 13 25 1 0 4 39<br />
Nguồn: Bộ NN&PTNT (2014), Báo cáo tóm tắt công tác đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông<br />
thôn do thực hiện QĐ 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ (Báo cáo ngày 16 tháng<br />
04 năm 2014).<br />
Như vậy, sau 4 năm triển khai Đề án về đào tạo nghề, mạng lưới cơ sở đào tạo nghề<br />
nông nghiệp cho lao động nông thôn cả nước có 1.355 cở sở tham gia công tác đào tạo nghề<br />
cho lao động nông thôn, trong đó vùng Bắc trung bộ - và Duyên hải miền Trung là có số<br />
lượng đơn vị tham gia lớn nhất với 294 đơn vị, sau là các vùng như Trung du và Miền núi<br />
phía Bắc 287 đơn vị; ĐBSH với 279 đợn vị; Tây Nam Bộ là 236 đơn vị; các vùng có số<br />
lượng đơn vị tham gia đào tạo nghề thấp nhất là Tây Nguyên với 62 đơn vị và Đông Nam<br />
Bộ với 84 đơn vị tham gia.<br />
Bảng 2: Số lượng giáo viên tham gia dạy nghề cho lao động nông thôn từ năm 2010 đến<br />
năm 2013<br />
Loại hình giảng<br />
viên Cán bộ<br />
Quy mô/đơn vị<br />
Thỉnh kỹ thuật<br />
Cơ hữu<br />
giảng<br />
Cả nước 11.600 9.731 9.821<br />
Vùng Trung du và Miền núi<br />
2.333 1.822 1.984<br />
phía Bắc<br />
Đồng bằng Sông Hồng 3.440 2.456 3.053<br />
<br />
Bắc Trung Bộ-Duyên Hải 1.926 1.986 1.874<br />
Vùng Tây Nguyên 193 268 360<br />
Vùng Đông Nam Bộ 711 517 493<br />
Vùng Tây Nam Bộ 1.498 1.331 1.396<br />
Các Bộ, ngành 1.588 1.351 1016<br />
<br />
Sự phát triển mạnh của mạng lưới cơ sở đào tạo lao động nông thôn tính đến năm<br />
2013 cả nước có 31.152 người tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn, trong đó có<br />
11.600 giảng viên cơ hữu, 9.731 giảng viên thỉnh giảng và 9.821 nghệ nhân, cán bộ kỹ<br />
thuật tại các công ty, CSSX và các làng nghề, tổ hợp tác (THT). Tuy nhiên, bên cạnh sự<br />
phát triển về số lượng thì mạng lưới dạy nghề hiện nay cần phải thường xuyên bồi dưỡng<br />
kỹ năng nghề và tăng cường đào tạo kỹ năng nghiệp vụ sư phạm, bồi dưỡng nghiệp vụ<br />
quản lý dạy nghề cho các doanh nghiệp, CSSX và các nghệ nhân, kỹ sư...có trình độ<br />
chuyên môn nghiệp vụ tham gia vào công tác đào tạo nghề thì công tác đào tạo nghề mới<br />
đạt được hiệu quả cao.<br />
3.2. Kết quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo đề án 1956 từ năm 2010 đến 2013<br />
3.2.1. Tổ chức bộ máy triển khai đào tạo nghề cho lao động nông thôn<br />
Căn cứ Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ,<br />
Phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, tính đến năm<br />
11<br />
2013 cả nước đã thành lập các ban chỉ đạo thực hiện đề án ở các cấp. Ở trung ương, Ban<br />
chỉ đạo do Chính phủ thành lập với sự tham gia của các Bộ có liên quan do Phó Thủ<br />
tướng Chính phủ làm trưởng ban. Ban chỉ đạo cấp tỉnh do UBND tỉnh do Chủ tịch UBND<br />
tỉnh thành lập. Hiện nay, cả nước có 63 ban chỉ đạo cấp tỉnh; cấp huyện có 654 ban/667<br />
đơn vị hành chính cấp huyện, đối với cấp xã có 9.879 ban chỉ đạo hoặc tổ công tác/10.448<br />
đơn vị hành chính cấp xã.<br />
3.2.2. Một số kết quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ năm 2010 đến năm 2013<br />
Theo Tổng cục thống kê, tính đến thời điểm 01/07/2012 cả nước có 52.581.300<br />
người trong độ 15 tuổi trở lên, trong đó tỷ lệ lao động trong độ tuổi đang làm việc trong<br />
nền kinh tế đã qua đào tạo chiếm 17,6% tương đương với 2.987.573 người, chi tiết được<br />
nêu tại bảng 3 và bảng 4:<br />
<br />
Bảng 3: Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo nhóm tuổi<br />
Đơn vị tính: nghìn người<br />
Chia ra<br />
Tổng số<br />
Năm 15 – 24 25 – 49 50+<br />
10.20<br />
2010 50.392,9 9.245,4 30.939,2<br />
8,3<br />
11.42<br />
2011 51.398,4 8.465,2 31.503,4<br />
9,8<br />
12.44<br />
2012 52.580 7.887,8 32.014,5<br />
5,7<br />
Sơ bộ năm 13.42<br />
53.245,6 7.916,1 31.904,5<br />
2013 5<br />
Nguồn: Niêm giám thống kê năm 2013 – Tổng cục Thống kê<br />
Bảng 4: Tỷ lệ (%) lao động trong độ tuổi đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo<br />
phân theo giới tính và thành thị, nông thôn từ năm 2010 đến 2013<br />
Phân theo giới Phân theo thành<br />
Tổng tính thị, nông thôn<br />
số Thành Nông<br />
Nam Nữ<br />
Năm thị thôn<br />
2010 14,6 16,2 12,8 30,6 8,5<br />
2011 15,4 17,2 13,5 30,9 9,0<br />
2012 16,6 18,6 14,5 31,7 10,1<br />
Sơ bộ năm<br />
17,9 20,3 15,4 33,7 11,2<br />
2013<br />
Nguồn: Niêm giám thống kê năm 2013 – Tổng cục Thống kê<br />
<br />
Có sự chênh lệch đáng kể giữa tỷ lệ lao động qua đào tạo giữa lao động nông thôn<br />
và lao động thành thị, tuy nhiên không có sự chênh lệch nhiều về tỷ lệ qua đào tạo giữa<br />
lao động nam và lao động nữ.<br />
<br />
<br />
12<br />
Đánh giá kết quả 4 năm thực hiện đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn (từ<br />
năm 2010 đến năm 2013) trên cả nước cho thấy một số kết quả nổi bật như đào tạo trên<br />
1,6 triệu lao động nông thôn trong đó về lĩnh vực nông nghiệp đào tạo được trên 711.746<br />
lao động; nghề phi nông nghiệp là 890.145 người, trong đó chi ra làm 3 loại đối tượng ưu<br />
tiên. Đối tượng 1 là 585.769 chiếm 36,57% tổng số lao động được đào tạo(Người được<br />
hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng 34.905 người; Người dân tộc thiểu<br />
số 329.944 người; Người thuộc hộ nghèo 176.199; Người thuộc hộ bị thu hồi đất 35.152<br />
người ; người khuyết tật 9.528 người). Đối tượng 2 và 3 chiếm 63,56%.<br />
Đánh giá kết quả sau đào tạo cho thấy cả nước có 1.194.688 người đã qua đào tạo<br />
có việc làm chiếm 79%, trong đó số lao động qua đào tạo nghề nông nghiệp có việc làm<br />
là 563.298 người chiếm 82,8% tổng số lao động được đào tạo, số lao động qua đào tạo<br />
nghề phi nông nghiệp có việc làm là 631.390 người chiếm 75,902%, xét về số lượng thì<br />
số lao động qua đào tạo nghề phi nông nghiệp có việc làm cao hơn số lao động có việc<br />
làm qua đào tạo nghề nông nghiệp, tuy nhiên so sánh về tỷ lệ trên số được đào tạo trên số<br />
có việc làm thì tỷ lệ người có việc làm thông qua đào tạo nghề phi nông nghiệp có tỷ lệ<br />
cao hơn.<br />
3.2.3. Kết quả đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn do Bộ NN&PTNT chủ<br />
trì phối hợp với các Bộ ngành, địa phương thực hiện từ năm 2010 đến 2013<br />
3.2.3.1. Kết quả tổ chức xây dựng chương trình, giáo trình dạy nghề các nghề nông<br />
nghiệp trình độ SCN<br />
Thực hiện Thông tư số 31/TT-LĐTBXH ngày 08/10/2010 của Bộ Lao động -<br />
Thương binh và Xã hội hướng dẫn xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình dạy nghề<br />
trình độ sơ cấp và các văn bản hướng dẫn của Tổng cục dạy nghề, trong 04 năm (2010-<br />
2013), Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tổ chức xây dựng và ban hành chương trình và giáo<br />
trình của 132 nghề nông nghiệp trình độ SCN cho lao động nông thôn<br />
Các nghề được xây dựng tập trung vào các nhóm nghề trồng trọt 50 nghề; chăn<br />
nuôi chiếm 12 nghề; lâm nghiệp chiếm 12 nghề, thủy sản 33 nghề và 25 nghề liên quan<br />
đến thủy lợi, diêm nghiệp và chế biến nông sản.<br />
Bộ NN&PTNT cũng đã chỉ đạo các Ban chủ nhiệm xây dựng chương trình và giáo<br />
trình dạy nghề gắn với quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt tại Việt<br />
Nam (ViệtGAP). Các chương trình, giáo trình bước đầu được đánh giá phù hợp với người<br />
học và có tính thực tiễn. Đây là các nghề cấp thiết và có nhu cầu thực tế ở các địa phương.<br />
Nội dung các chương trình và giáo trình được đăng tải trên các Website của Văn phòng Bộ<br />
(http://www.omard.gov.vn) và các Website của các đơn vị trực thuộc<br />
(khuyennongvn.gov.vn,...), được các địa phương, cơ sở đào tạo nghề trong cả nước sử<br />
dụng. Bên cạnh việc xây dựng mới các chương trình, giáo trình, Bộ NN&PTNT đã thường<br />
xuyên chỉ đạo các đơn vị xây dựng kế hoạch và thực hiện thẩm định, đánh giá chất lượng<br />
và sự phù hợp của các chương trình, giáo trình đã ban hành làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ<br />
sung các chương trinh đã ban hành và có những điều chỉnh cần thiết cho việc ban hành các<br />
chương trình tiếp theo.<br />
2.2.3.2. Thông tin thị trường hàng hóa, hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, dịch<br />
vụ nông nghiệp, tư vấn học nghề và việc làm cho lao động nông thôn<br />
Công tác thông tin tuyên truyền về đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông<br />
thôn là một trong những hoạt động thuộc nhiệm vụ của Bộ NN&PTNT trong việc thực<br />
hiện đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn, trong suốt quá trình triển khải từ năm<br />
<br />
13<br />
2010 đến năm 2013, Bộ NN&PTNTđã thực hiện một số nội dung liên quan và đạt kết quả<br />
như sau:<br />
- Xây dựng chuyên trang “Tư vấn - dạy nghề” trên Báo Nông nghiệp Việt Nam:<br />
Chuyên trang đã tổ chức thông tin, tuyên truyền có hiệu quả về công tác đào tạo nghề<br />
nông nghiệp cho lao động nông thôn. Nhiều bài viết đã giới thiệu, phản ánh đa dạng về<br />
các kinh nghiệm, mô hình dạy nghề, học nghề hiệu quả trên cả nước. Ngoài ra, chuyên<br />
trang cũng có nhiều bài giới thiệu thông tin đào tạo, tuyển sinh của các trường nghề, nhu<br />
cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Nông nghiệp và PTNT. Đặc biệt từ<br />
tháng 6/2012, chuyên trang đã mở chuyên mục “Nhịp cầu nhà nông” đăng tải thông tin<br />
mua bán nông, lâm, thủy sản, tạo điều kiện cho nông dân kết nối với các doanh nghiệp<br />
trong việc sản xuất hàng hóa và tiêu thụ nông sản, được đông đảo lao động nông thôn đón<br />
nhận.<br />
- Xây dựng chuyên mục“Mách nghề nông nghiệp” trên Kênh truyền hình Nông<br />
nghiệp - Nông thôn (VTC16): Giai đoạn 2012-2013, đã sản xuất và phát sóng 60 chuyên<br />
mục “Mách nghề nông nghiệp”. Các chuyên mục đã cung cấp các thông tin về chính sách,<br />
định hướng phát triển; giới thiệu và tư vấn về công tác đào tạo và việc làm đối với lao<br />
động nông thôn; các mô hình kinh tế nông nghiệp mới, các ngành nghề nông nghiệp được<br />
Bộ Nông nghiệp và PTNT khuyến cáo và người lao động nông thôn quan tâm. Thêm vào<br />
đó, kênh VTC16 cũng mở thêm chuyên mục hỏi đáp trong ngày để cung cấp thêm thông<br />
tin cho bà con nông dân và người lao động nông thôn về đào tạo nghề nông nghiệp.<br />
Ngoài ra, Bộ cũng đã xuất bản các số chuyên đề về “Đào tạo nghề cho lao động<br />
nông thôn” trên Tạp chí Nông nghiệp và PTNT (2011-2012); Phối hợp sản xuất và phát<br />
sóng các chương trình “Chuyện làm giàu của nhà nông” trên kênh VTV2, Đài Truyền<br />
hình Việt Nam; Phối hợp sản xuất và phát sóng các chuyên mục “Mách nghề cho nông<br />
dân” trên hệ VOV1, Đài Tiếng nói Việt Nam (năm 2011).<br />
Nhìn chung, các kênh thông tin trên đã góp phần thông tin thị trường hàng hóa, hỗ<br />
trợ việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, dịch vụ nông nghiệp, tư vấn học nghề và việc làm<br />
cho lao động nông thôn;phổ biến, nhân rộng và khuyến khích nhiều người học tập làm theo<br />
những doanh nghiệp, nông dân, những cá nhân và tập thể có những thành công trong lĩnh<br />
vực nông nghiệp. Nhiều nông dân đã lựa chọn được nghề, CSDN phù hợp với khả năng và<br />
điều kiện sản xuất tại địa phương để học nghề. Sau khi học nghề đã tổ chức sản xuất và<br />
bước đầu đã nâng cao được thu nhập<br />
3.2.3.3. Kết quả thí điểm triển khai hình thức cấp Thẻ học nghề nông nghiệp cho lao động<br />
nông thôn<br />
Bộ NN&PTNT đã chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động-TB&XH, Bộ Tài chính ban<br />
hành Thông tư liên tịch số 66/2010/TTLT-BNNPTNT-BLĐTBXH-BTC hướng dẫn quản<br />
lý, phát hành, sử dụng thí điểm Thẻ học nghề nông nghiệp từ nguồn kinh phí Chương trình<br />
mục tiêu quốc gia giáo dục đào tạo và phối hợp với Ủy ban nhân dân (UBND) 2 tỉnh Thanh<br />
Hoá và Bến Tre triển khai thí điểm.<br />
Sau hai năm thực hiện mô hình thí điểm cấp thẻ học nghề nông nghiệp, hai tỉnh<br />
Thanh Hóa và Bến Tre đã cấp thẻ học nghề nông nghiệp cho 10.299 lao động nông thôn<br />
và đào tạo được 9.757 lao động nông thôn học nghề nông nghiệp theo hình thức cấp thẻ.<br />
Việc đào tạo nghề nông nghiệp theo hình thức cấp thẻ học nghề đã đạt được những<br />
kết quả tích cực, cụ thể như sau:<br />
<br />
<br />
14<br />
- Việc cấp Thẻ học nghề nông nghiệp tạo được cơ chế cho lao động nông thôn<br />
được quyền lựa chọn nghề học và cơ sở đào tạo nghề phù hợp với điều kiện sản xuất của<br />
học viên;<br />
- Việc tổ chức học nghề được gắn với kế hoạch phát triển sản xuất của địa phương<br />
và của từng hộ gia đình (do học viên được lựa chọn học nghề thiết thực) nên hiệu quả đào<br />
tạo cao hơn, tỷ lệ người được áp dụng kiến thức học vào công việc ngay trong thời gian<br />
học và sau khi tốt nghiệp lớn, hạn chế được lãng phí đào tạo;<br />
- Các CSDN có chất lượng thu hút được nhiều người học, tạo ra được cơ chế thị<br />
trường bình đẳng trong dạy nghề, hạn chế cơ chế xin - cho, khuyến khích các CSDN nâng<br />
cao chất lượng dạy nghề và các dịch vụ liên quan.<br />
Tuy nhiên trong quá trình triển khai thực hiện cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế<br />
cần phải có những điều chỉnh phù hợp nếu muốn nhân ra diện rộng. Cụ thể một số khó<br />
khăn tồn tại như sau:<br />
- Việc phối hợp giữa các cơ quan thuộc ngành Nông nghiệp và PTNT với các cơ<br />
quan thuộc ngành Lao động-TB&XH ở các địa phương chưa theo đúng tinh thần chỉ đạo<br />
của Quyết định 1956; vai trò tham gia Đề án của Sở Nông nghiệp và PTNT và Trung tâm<br />
Khuyến nông tại các địa phương chưa rõ nét và còn thụ động, dẫn đến việc hướng dẫn<br />
người lao động chọn nghề học phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển nông nghiệp tại<br />
địa phương và phát huy hiệu quả học nghề của người lao động còn yếu;<br />
- Một bộ phận người lao động chưa thực sự được học đúng nghề, đúng cơ sở đào<br />
tạo theo nhu cầu do khó khăn trong công tác tổ chức lớp học: lớp ít người không đủ điều<br />
kiện mở lớp, đi học xa, kinh phí thấp. Chỉ tiêu kinh phí thấp, mức ưu đãi chưa đủ hấp dẫn<br />
người học ...<br />
- Các CSDN còn lúng túng trong việc xin cấp ứng kinh phí dạy nghề và thủ tục<br />
thanh quyết toán kinh phí sau khi kết thúc lớp học. Chưa có cơ chế xin ứng kinh phí<br />
trước khi mở lớp.<br />
Nguyên nhân của những hạn chế và khó khăn trong công tác triển khai là:<br />
- Văn bản hướng dẫn thực hiện còn thiếu, chưa cụ thể và còn một số nội sung khó<br />
thực hiện (một phần do cơ chế hiện tại chưa cho phép), nếu mô hình đào tạo nghề này<br />
được nhân rộng thì cần bổ sung và hoàn thiện dần hệ thống văn bản;<br />
- Sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên quan, đặc biệt giữa các sở: Lao động -<br />
TB&XH, Nông nghiệp và PTNT và Tài chính chưa nhuần nhuyễn và kịp thời; vai trò của<br />
Sở Nông nghiệp và PTNT trong thực hiện Đề án còn mờ nhạt;<br />
- Các CSDN còn lúng túng trong đào tạo nghề theo hình thức cấp thẻ, việc phải<br />
ứng trước kinh phí tổ chức và thanh quyết toán kinh phí sau kết thúc lớp học còn khó<br />
khăn, nên chưa thật nhiệt tình tham gia đề án;<br />
- Công tác tuyên truyền, tư vấn chưa thật tốt nên người lao động chưa nắm vững<br />
các quy định của đề án; còn một bộ phận người lao động do nhiều nguyên nhân chưa tha<br />
thiết với học nghề;<br />
- Một số địa phương do trình độ phát triển sản xuất còn thấp, khó tổ chức lớp học<br />
có hiệu quả;<br />
- Việc chuẩn bị cho đào tạo theo hình thức cấp thẻ còn ngắn, chưa lường được<br />
những phát sinh xảy ra, chưa có thời gian để các CSDN thích ứng và có thời gian quảng<br />
bá hình ảnh của mình đến người lao động.<br />
<br />
<br />
15<br />
3.2.3.4. Kết quả chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác đào tạo nghề nông nghiệp cho lao<br />
động nông thôn tại các địa phương<br />
Năm 2012, do mới được giao nhiệm vụ nên các Sở Nông nghiệp và PTNT gặp một<br />
số khó khăn và vướng mắc: chưa được tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ về tổ chức dạy<br />
nghề (công tác lập kế hoạch, quy trình tổ chức lớp học, lựa chọn CSDN, thủ tục thanh<br />
quyết toán); lúng túng, thiếu thống nhất trong việc chọn đầu mối giao nhiệm vụ quản lý<br />
công tác đào tạo nghề; không được giao hoặc chậm được thông báo kinh phí dẫn đến<br />
thiếu chủ động và gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai. Tuy nhiên, Sở Nông<br />
nghiệp và PTNT các tỉnh đã tích cực, chủ động phối hợp với Sở Lao động -Thương binh<br />
và Xã hội tháo gỡ khó khăn, chỉ đạo triển khai công tác đào tạo nghề nông nghiệp. Các Sở<br />
được UBND tỉnh giao kinh phí đều thực hiện được hầu hết các lớp theo kế hoạch được<br />
tỉnh phê duyệt.<br />
Năm 2013, Sở Nông nghiệp và PTNT các tỉnh đã chủ động hơn trong chỉ đạo và tổ<br />
chức thực hiện. Phần lớn Sở Nông nghiệp và PTNT các tỉnh đã được UBND tỉnh quyết<br />
định giao nhiệm vụ quản lý và chỉ đạo thực hiện công tác đào tạo nghề nông nghiệp, kết<br />
quả cụ thể:<br />
- Kết quả thực hiện đào tạo nghề: theo kết quả báo cáo của các địa phương, tổng số<br />
lao động được học nghề nông nghiệp là 203.119 người, trong đó có 78.537 lao động nữ<br />
(chiếm 38,6%); Trong số đó, có 8.649 lao động được hưởng chính sách có công với cách<br />
mạng (4,25%); 48.628 lao động là người dân tộc thiểu số (23,9%); 23.449 lao động thuộc<br />
hộ nghèo (11,5%); 4.660 người thuộc hộ bị thu hồi đất (2,3%) và có 679 người bị khuyết<br />
tật (0,3%); 7.514 người thuộc hộ cận nghèo (3,7%) và 116.615 người là lao động nông<br />
thôn khác (57,4%).<br />
- Hiệu quả sau học nghề: Trong số 188.768 lao động nông thôn đã học xong,có<br />
166.526 người (chiếm 88,2%) đã có việc làm mới hoặc tiếp tục l