intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm

Chia sẻ: Y Y | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

29
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài báo đã nêu lên thực trạng trong liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học sư phạm. Kết quả nghiên cứu cho thấy ít có sự liên kết giữa các lĩnh vực khoa học trong các nghiên cứu khoa học và việc liên kết nghiên cứu khoa học ở ngay tại các trường sư phạm cũng như giữa các trường sư phạm vẫn còn hạn chế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Educational Sci., 2014, Vol. 59, No. 6A, pp. 167-183 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn THỰC TRẠNG LIÊN KẾT TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIỮA CÁC TRƯỜNG SƯ PHẠM Võ Thị Minh Chí và Hồ Lam Hồng Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Bài báo đã nêu lên thực trạng trong liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học sư phạm. Kết quả nghiên cứu cho thấy ít có sự liên kết giữa các lĩnh vực khoa học trong các nghiên cứu khoa học và việc liên kết nghiên cứu khoa học ở ngay tại các trường sư phạm cũng như giữa các trường sư phạm vẫn còn hạn chế. Đặc biệt việc liên kết nghiên cứu khoa học giữa trường sư phạm với các trường phổ thông, với doanh nghiệp, với các trường đại học ngoài khối sư phạm còn rất ít. Bài báo cũng đề xuất một số giải pháp tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường để khuyến khích các nhà khoa học hợp tác với nhau cùng nghiên cứu những vấn đề chung của ngành và chia sẻ thông tin khoa học với nhau trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên đều có lợi và cùng phát triển. Từ khóa: Thực trạng, liên kết nghiên cứu khoa học, liên kết giữa các trường đại học sư phạm. 1. Mở đầu Trong bất cứ thời đại nào, hoàn cảnh xã hội nào thì giáo viên (GV) cũng đóng vai trò quyết định chất lượng giáo dục (GD) bởi họ thực hiện hai nhiệm vụ cơ bản là dạy học và giáo dục. Ngày nay việc đào tạo GV được quan niệm là quá trình gồm hai giai đoạn: đào tạo ban đầu và phát triển năng lực trong quá trình hoạt động nghề nghiệp và quan niệm này được phản ánh bằng thuật ngữ “giáo dục giáo viên” do UNESCO khuyến nghị. Thuật ngữ này thuận lợi cho việc hướng tới triết lí: Nghề giáo dục phải được đào tạo suốt đời, trong đó quá trình học nghề ở các cơ sở đào tạo giáo viên/các trường sư phạm (SP) có vai trò làm nền tảng cho sự phát triển tiềm lực của người giáo viên tương lai. Trong thời đại bùng nổ thông tin và phát triển khoa học công nghệ (KHCN) với tốc độ gia tăng như hiện nay, việc thúc đẩy nghiên cứu khoa học (NCKH) và chuyển giao công nghệ là đòn bẩy để trường đại học (ĐH) phát triển bền vững, vươn ngang tầm quốc tế. Đào tạo và NCKH là hai nhiệm vụ trọng tâm của cán bộ khoa học (CBKH) ở trường đại học sư phạm (ĐHSP). Hai nhiệm vụ này không tách rời nhau mà kết hợp và thống Tác giả liên lạc: Võ Thị Minh Chí, địa chỉ e-mail: minhchi12a4h@yahoo.com 167
  2. Võ Thị Minh Chí và Hồ Lam Hồng nhất với nhau, có mối quan hệ tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau. Những ý tưởng khoa học được nảy sinh từ thực tiễn của quá trình đào tạo của CBKH, thúc đẩy CBKH tìm hiểu, tìm tòi và phát hiện ra những điều mới phục vụ cho công tác đào tạo, đồng thời những tri thức khoa học làm cơ sở lí luận vững chắc cho việc tìm tòi, khám phá, phát minh hay minh chứng/biện minh cho vấn đề khoa học. Ngược lại, NCKH giúp CBKH nâng cao năng lực chuyên môn thông qua việc cập nhật, bổ sung tri thức và nâng cao năng lực cá nhân, giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình giảng dạy và trong chuyên ngành phụ trách. NCKH cũng giúp CBKH mở rộng tầm hiểu biết và phát triển năng lực nghề, khẳng định vị thế của mình trước đồng nghiệp và sinh viên (SV), từ đó đem lại tác dụng về mặt giáo dục (GD) đối với bản thân và với SV, gắn NCKH với giảng dạy, đào tạo. NCKH và những kết quả mà nó đem lại cũng giúp khẳng định vị thế của trường đại học nghiên cứu trong hệ thống GD đại học nói chung và hệ thống SP nói riêng. Song việc nghiên cứu khoa học không thể tiến hành độc lập mà cần có sự liên kết: liên kết các lĩnh vực khoa học với nhau; liên kết các nhà khoa học từ nhiều lĩnh vực khoa học cùng như từ nhiều trường đại học, nhiều nước khác nhau, tùy thuộc vào vấn đề khoa học. Liên kết nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp các nguồn lực, sự chia sẻ thông tin khoa học và hợp tác làm việc, phát triển đội ngũ các nhà khoa học cho từng trường và cho xã hội, cho cộng đồng khoa học. Trên cơ sở đó bài báo nghiên cứu thực trạng trong liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học sư phạm nhằm đưa ra giải pháp tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học sư phạm. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Liên kết trong hoạt động nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm Trường đại học sư phạm là nơi có sự giao thoa của các lĩnh vực khoa học: khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng và khoa học giáo dục. Hoạt động nghiên cứu khoa học không chỉ là tìm tòi, khám phá cái mới trong từng lĩnh vực khoa học riêng biệt mà có sự liên kết, kết hợp giữa các khoa học để phát hiện ra những tri thức mới, cách tiếp cận mới, quy trình công nghệ mới để đáp ứng được những vấn đề phức tạp của cuộc sống. Trong xu thế dạy học “lấy người học làm trung tâm”, nghiên cứu khoa học được xem như là một phương pháp học tập tích cực giúp cho sinh viên sư phạm có khả năng đáp ứng ở mức độ cao cho ba mục tiêu về tri thức, kĩ năng làm việc và đạo đức nghề nghiệp để bước vào nghề giáo dục trong tương lai và phát triển nguồn nhân lực sáng tạo cho đất nước. Hoạt động nghiên cứu khoa học ở trường đại học sư phạm không chỉ đóng góp làm giàu tri thức khoa học chuyên ngành mà còn giải quyết những vấn đề trong công tác đào tạo giáo viên. Kết quả nghiên cứu khoa học chuyên ngành không chỉ hữu ích cho lĩnh vực khoa học đó mà còn có thể được sử dụng trực tiếp trong hoạt động giảng dạy, bổ sung cơ sở lí luận và thực tiễn, làm phong phú thêm bài giảng ở trường đại học. Những kết quả nghiên cứu, kể cả những công trình chưa được công bố chính thức vẫn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ giảng dạy và sinh viên. Liên kết được hiểu là: “từng phần riêng biệt trong đó có một chuỗi dính kết với nhau”. Liên kết là “Kết lại với nhau từ nhiều thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ nhằm mục 168
  3. Thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm đích nào đó”. Theo từ điển bách khoa Việt Nam (2002): Khái niệm liên kết (xã hội) hay hoà nhập nói lên sự kết hợp thích ứng với nhau giữa các yếu tố cấu thành một hệ thống, cho phép các yếu tố đó tạo thành một chỉnh thể cân đối. Hoạt động nghiên cứu khoa học được thực hiện qua hệ thống các đề tài nghiên cứu, dự án hay các hội thảo khoa học, sinh hoạt học thuật, tài liệu/sách hoặc các nguồn thông tin về chuyên môn. Liên kết nghiên cứu khoa học được hiểu là sự thống nhất ý tưởng khoa học vấn đề nghiên cứu mà ở đó cần có sự kết hợp của hai hay nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau mới có thể thực hiện thành công, giải quyết được vấn đề nghiên cứu. Liên kết nghiên cứu khoa học ở các trường đại học sư phạm được thể hiện ở: + Liên kết các lĩnh vực khoa học: các khoa học trong khoa học tự nhiên (hay khoa học xã hội); khoa học tự nhiên với khoa học xã hội; khoa học cơ bản (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội) với khoa học giáo dục. + Liên kết đội ngũ các nhà khoa học để thực hiện vấn đề nghiên cứu mang tính liên ngành: Liên kết các giảng viên giữa các khoa trong cùng trường đại học sư phạm; Liên kết đội ngũ giảng viên các khoa với các đơn vị nghiên cứu trong trường; Liên kết đội ngũ giảng viên, các nhà khoa học giữa các trường để thực hiện các chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học có tính liên ngành (khoa học cơ bản với khoa học giáo dục), liên vùng,. . . phục vụ những vấn đề chung của ngành hoặc vấn đề liên quan đến sư phạm; Liên kết trường sư phạm, các đơn vị nghiên cứu của trường với hệ thống giáo dục phổ thông (sở giáo dục và đào tạo, các trường phổ thông); + Liên kết sử dụng cơ sở vật chất ở các trường có địa bàn gần nhau vào thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học chung. Xây dựng nguồn cơ sở vật chất chung của ngành. + Liên kết về nguồn thông tin dữ liệu chung của ngành phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học chung qua hội thảo khoa học, sinh hoạt học thuật, tài liệu hoặc các kết quả nghiên cứu trước đó. . . 2.2. Thực trạng liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học sư phạm 2.2.1. Ý kiến của giảng viên SP về việc tham gia nghiên cứu khoa học - Mức độ làm chủ nhiệm đề tài có sự liên kết giữa khoa học cơ bản với khoa học giáo dục đạt mức độ thấp. Mức độ làm chủ nhiệm tại khoa đạt cao nhất, có điểm trung bình là 2,19, còn làm chủ nhiệm những đề tài liên kết nội dung với các khoa trong trường khác thấp hơn, chỉ đạt 1,67; còn liên kết với các trường SP khác chỉ đạt 1,45. Làm chủ nhiệm đề tài có liên kết với trường PT cũng rất thấp, là 1,66. - Mức độ tham gia các đề tài NCKH có tính liên kết cũng không cao. Nếu đề tài liên kết trong khoa là cao nhất, còn tham gia NCKH với những các khoa khác trong trường cũng đạt điểm số không cao. Còn mức độ tham gia liên kết với các trường càng thấp. - Việc mời các chuyên gia từ các trường, đơn vị khác cùng nghiên cứu đề tài mang tính liên ngành cũng không cao, chỉ đạt 1,83. Kết quả phản ánh như sau: Chỉ có việc tham gia (chứ không phải làm chủ nhiệm) 169
  4. Võ Thị Minh Chí và Hồ Lam Hồng các đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD ở khoa là có điểm trung bình đạt mức tốt nhất, còn lại việc liên kết NCKH với các trường trong và ngoài hệ thống SP, với các trường PT, với các tổ chức xã hội khác đều ở mức kém (điểm trung bình < 1,73). Chưa bàn về nguyên nhân dẫn đến hiện trạng này, song rõ ràng, việc hạn chế trong liên kết NCKH, trước hết phần nào làm ảnh hưởng đến sự “cập nhật” thông tin phục vụ nội dung bài giảng của giảng viên, thiếu hiểu biết nhu cầu XH đối với ngành, môn học mà họ đang giảng dạy, mặc dù qua phỏng vấn sâu, đề tài cũng biết rằng, trong số các khách thể nghiên cứu cũng có nhưng rất ít CB, GV đã từng làm chủ nhiệm đề tài cấp nhà nước, cấp bộ trọng điểm, cấp bộ thường và cấp trường. Chúng tôi đã tiến hành thu thập tài liệu và phân tích kết quả trên phần mềm SPSS phiên bản 16.0 để có các số liệu như ở các bảng dưới đây. Trong các bảng có viết tắt TBC là trung bình cộng, ĐLC là độ lệch chuẩn. Bảng 1. Mức độ tham gia nghiên cứu khoa học Stt Nội dung Kết quả TBC ĐLC 1 Làm CN đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD tại khoa 2,19 1,075 Làm CN đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD với các 2 1,67 1,028 khoa khác trong trường Làm CN đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD với các 3 1,45 0,932 trường SP trong hệ thống SP Làm CN đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD ở các 4 1,36 0,811 trường ngoài hệ thống SP 5 Làm CN đề tài liên kết với các trường PT 1,66 0,938 Làm CN đề tài liên kết với các doanh nghiệp, đơn vị 6 1,28 0,679 khác ngoài trường SP Tham gia đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD tại 7 2,38 1,091 khoa Tham gia đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD với các 8 1,93 1,034 khoa khác trong trường Tham gia đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD với các 9 1,65 1,001 trường trong hệ thống SP Tham gia đề tài liên kết KH cơ bản với KHGD với các 10 1,52 ,877 trường ngoài hệ thống SP 11 Tham gia đề tài liên kết với các trường PT 1,74 1,032 Tham gia đề tài liên kết với các doanh nghiệp, đơn vị 12 1,50 0,923 khác ngoài trường SP Mời các chuyên gia từ các trường, đơn vị khác cùng 13 1,83 1,070 nghiên cứu đề tài mang tính liên ngành * Lí do tham gia liên kết nghiên cứu khoa học Lí do tham gia chủ yếu do xuất phát từ uy tín và quan hệ của cá nhân, như: “Môn học/ lĩnh vực KH ít chuyên gia, cần có người tham gia ở lĩnh vực đó” hoặc “Được giới 170
  5. Thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm thiệu, chỉ định”. Ý kiến về các lí do này cũng có độ phân tán rộng, không tập trung. Ý kiến về được mời tham gia do: “Uy tín khoa học, năng lực giảng dạy và NCKH” và thân hữu từ trước” có độ phân tán hẹp hơn. Kết quả phỏng vấn cho thấy: Được mời tham gia đề tài do “quan hệ thân hữu từ trước” và “Uy tín khoa học, năng lực giảng dạy và NCKH” vì đã có hiểu biết về năng lực và khả năng hợp tác, đảm bảo thuận lợi khi tiến hành nghiên cứu đề tài. Có ý kiến rằng: “Tôi cũng được mời tham gia đề tài cấp Bộ, bởi khi đăng kí đề tài có yêu cầu phải có sự tham gia nhiều đơn vị. Nhưng không rõ đến khi triển khai thì có được mời hợp tác hay không thì chưa rõ”. Đôi khi việc mời hợp tác nghiên cứu khoa học còn do nhiệm vụ của khoa giao mang tính hành chính, đồng thời do cùng tổ chuyên môn (ĐHSP Hà Nội; ĐHSP TP HCM; ĐH Sài Gòn). Chỉ có những đề tài, dự án được cấp kinh phí từ Sở KH-CN thì có sự liên kết giữa các nhà khoa học để giải quyết vấn đề thực tiễn (ĐH Cần Thơ; ĐH Tây Nguyên...). Bảng 2. Lí do tham gia liên kết đào tạo và nghiên cứu khoa học Stt Nội dung Kết quả TBC ĐLC Do môn học/ lĩnh vực KH ít chuyên gia, cần có người 1 2,35 1,001 giảng dạy hoặc thực hiện NCKH 2 Do uy tín khoa học, năng lực giảng dạy và NCKH 2,59 0,974 3 Do quan hệ thân hữu từ trước 1,71 0,984 4 Được giới thiệu, chỉ định 2,38 1,102 5 Được học viên yêu cầu đề nghị 1,86 1,206 * Mức độ tham gia hội thảo khoa học, sinh hoạt học thuật giữa các trường ĐHSP Bảng 3. Mức độ tham gia hội thảo khoa học, sinh hoạt học thuật Stt Nội dung Kết quả TBC ĐLC 1 Tham gia hội thảo KH giữa các khoa trong trường 3,21 0,709 2 Tham gia hội thảo KH giữa các trường trong hệ thống SP 3,05 0,825 3 Tham gia hội thảo KH giữa các trường ngoài hệ thống SP 2,76 1,031 Tham gia hội thảo KH được tổ chức bởi các cơ quan ngành 4 2,48 1,131 nghề/hiệp hội Tham gia hội thảo KH được tổ chức bởi một cơ quan quốc 5 2,19 1,131 tế ở nước ngoài Ý kiến về mức độ tham gia hội nghị, hội thảo, sinh hoạt học thuật cho thấy bức tranh khả quan hơn vì điểm trung bình hầu hết đều ở mức tốt và khá. Tuy nhiên, những hình thức tham gia hội thảo nào có điểm trung bình cao thì độ phân tán trong câu trả lời thấp. Việc các giảng viên được tham gia hội thảo giúp cho họ nâng cao chuyên môn của họ tốt hơn, có nhiều cơ hội giao lưu và chia sẻ chuyên môn, mở rộng thông tin khoa học. 171
  6. Võ Thị Minh Chí và Hồ Lam Hồng Kết quả phỏng vấn cũng cho thấy, giảng viên các trường tham gia hội thảo KH trong nội bộ trường mang tính phổ biến, tiếp đó được đi dự hội thảo KH, sinh hoạt học thuật giữa các trường SP, song nhiều khi việc xin kinh phí cũng có khó khăn, nên các trường khó đáp ứng nhu cầu cho số đông giảng viên được tham gia. Điều kiện tham gia hội thảo với các trường ngoài ngành SP rất hiếm xảy ra do “ít liên quan đến chuyên môn”. Mặt khác, điều này cho thấy “tư duy liên kết KH” còn hạn chế ở đội ngũ giảng viên. Mặt khác, do hạn chế kinh phí nên không dễ giảng viên tham gia được. Việc tham gia hội thảo KH quốc tế rất hiếm khi xảy ra bởi kinh phí hạn chế nhiều. Có lúc giảng viên viết bài cho hội thảo quốc tế, muốn đi phải bỏ kinh phí cá nhân. * Việc sử dụng cơ sở vật chất trong liên kết NCKH giữa các trường sư phạm Bảng 4. Việc sử dụng cơ sở vật chất chung trong liên kết NCKH Stt Nội dung Kết quả TBC ĐLC 1 Sử dụng các phòng học trong NCKH 3,35 0,948 2 Sử dụng phòng nghiệp vụ SP 2,68 1,171 3 Mượn tài liệu sách, các học liệu khác trong NCKH 3,49 0,827 4 Sử dụng máy tính, các máy móc liên quan đến NCKH 3,30 0,914 5 Sử dụng phòng thí nghiệm trong NCKH 2,79 1,180 Việc sử dụng CSVC chung trong liên kết nghiên cứu khoa học có được ý kiến đánh giá tốt, đồng đều ở các tiêu chí. Tuy nhiên, có thể đây chỉ là nhận thức vấn đề thôi, còn trong thực tế có thể không dễ dàng có kết quả như số liệu nghiên cứu thu được. Dù sao đây cũng là tín hiệu đáng mừng vì góp phần “khai thông” cho sự liên kết. Kết quả phỏng vấn cho thấy việc sử dụng nguồn CSVC chung của các trường ít mang tính phổ biến vì cơ chế giao khoán để QL thuận tiện như: Các khoa QL riêng phòng NVSP hoặc phòng thí nghiệm vì khoa sử dụng là chính. Nếu khoa/đơn vị khác muốn dùng thì sang mượn ngang (các khoa sang làm việc trực tiếp) chứ không QL và điều phối chung từ trường. Các phòng này không phải do nhà trường QL và có bộ phận điều phối riêng bởi còn liên quan đến duy tu bảo dưỡng thường xuyên và kinh phí sửa chữa. Sử dụng nguồn CSVC chung giữa các trường ĐHSP càng ít xảy ra vì các trường SP không có bộ phận QL. Việc đầu tư các phòng thí nghiệm KH cho từng trường sử dụng riêng, chưa đầu tư CSVC để các trường dùng chung theo vùng miền để giảm chi phí đầu tư. Từ kết quả điều tra ở các bảng trên cho thấy hiện trong toàn ngành SP chưa có tập hợp nguồn lực chung (tập hợp nguồn chuyên gia cao cấp, xây dựng các phòng thí nghiệm, CSVC) tạo thành nguồn lực sử dụng chung nhằm nâng cao mặt bằng chất lượng chung về ĐT và NCKH. * Ý kiến về cơ chế liên kết trong NCKH Ý kiến về cơ chế liên kết trong nghiên cứu khoa học cho thấy cần có sự thống nhất trong quản lí từ phía nhà trường đến các khoa về mời các nhà khoa học có uy tín tham gia nghiên cứu khoa học kết hợp với mời cộng sự tham gia NCKH theo nhu cầu cá nhân. 172
  7. Thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm Trước hết cần có sự thấu hiểu chuyên môn và năng lực, khả năng hợp tác của các bên để thuận lợi trong thực hiện nghiên cứu khoa học. Cơ chế quản lí chung về cơ sở vật chất của trường cần được thực hiện để tạo sự thuận tiện khi sử dụng và khai thác tối đa các nguồn lực sẵn có. Về cơ chế liên kết trong nghiên cứu khoa học qua các tiêu chí trên đều có sự nhất trí cao trừ tiêu chí số 8 (Sử dụng cơ sở vật chất chung của trường bằng quan hệ cá nhân); tuy nhiên, sự tập trung của các ý kiến vẫn không cao. Bảng 5. Ý kiến về cơ chế liên kết trong NCKH Stt Nội dung Kết quả TBC ĐLC 1 Có sự thống nhất từ quản lí của nhà trường đến các khoa 3,33 0,919 Có sự thống nhất về chủ trương mời giảng viên cao cấp 2 2,93 1,009 ở trường khác tham gia giảng dạy/ thỉnh giảng 3 Thực hiện liên thông liên kết cấp khoa nên khoa tự mời 2,29 1,088 Có thống nhất chung về mời các nhà khoa học hợp tác 4 3,05 1,022 NCKH Có thống nhất chung về mời các nhà khoa học hợp tác 5 3,10 0,878 NCKH không kể trong hay ngoài trường SP 6 Mời cộng sự tham gia NCKH theo nhu cầu của cá nhân 2,43 0,941 Có thống nhất chung về sử dụng trang thiết bị chung 7 3,33 0,846 trong ĐT và NCKH 8 Sử dụng CSVC chung của trường bằng quan hệ cá nhân 1,77 1,020 2.2.2. Ý kiến của cán bộ quản lí về liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm * Về hoạt động NCKH của giảng viên trong trường sư phạm Liên kết trong NCKH được thể hiện ở các khía cạnh: i) Nội dung của đề tài NCKH có tính chất liên kết giữa các ngành KH với nhau; ii) Tổ chức liên kết cùng thực hiện đề tài NCKH; iii) Liên kết giữa các đơn vị (nhà trường với doanh nghiệp, tổ chức XH, trường phổ thông) trong NCKH. Liên kết trong nghiên cứu khoa học nhìn chung được đánh giá ở mức khá cao, chỉ riêng tiêu chí: “Làm chủ nhiệm đề tài giữa các khoa học (khoa học cơ bản với khoa học giáo dục) của khoa mình” thì điểm số có giá trị tuyệt đối cao hơn các tiêu chí khác, song cũng nằm trong giới hạn mức khá. Độ phân tán của các nhận định ở nội dung này cũng rất cao. Mức độ làm chủ nhiệm đề tài liên kết trong nội bộ khoa có điểm cao nhất và dễ liên kết với các thành viên trong nội bộ. Liên kết trong nghiên cứu khoa học có sự kết hợp với các đơn vị khác trong trường cũng giảm dần, kể cả mức độ làm chủ nhiệm cũng như tham gia nghiên cứu đề tài khoa học. 173
  8. Võ Thị Minh Chí và Hồ Lam Hồng Làm chủ nhiệm cũng như tham gia thực hiện cùng những đề tài mang tính liên kết các ngành khoa học cũng thấp dần khi kết hợp với khoa khác và trường sư phạm khác trong hệ thống sư phạm. Việc liên kết nghiên cứu với trường PT cũng như với tổ chức XH, doanh nghiệp có ý kiến chưa cao. Điều này phản ảnh về sự hợp tác và liên kết trong lĩnh vực khoa học giáo dục chưa thật cao với các trường phổ thông ít được quan tâm. Kết quả phỏng vấn trực tiếp cho biết: Giảng viên các khoa làm chủ nhiệm đề tài cấp khoa bởi đề tài này thường được giao thực hiện hàng năm. Còn đề tài cấp bộ, cấp nhà nước khó đấu thầu được. Mặt khác, các giảng viên đều cảm thấy quá bận với công tác giảng dạy và các nhiệm vụ khác của trường giao, nên ít hào hứng với hoạt động nghiên cứu khoa học, bởi hoạt động nghiên cứu khoa học rất khó, trong khi nguồn kinh phí cho nghiên cứu khoa học chỉ ở mức khiêm tốn. Bảng 6. Liên kết hoạt động NCKH của giảng viên giữa các trường sư phạm Stt Nội dung Kết quả TBC ĐLC Làm CN đề tài giữa các KH (KH cơ bản với KHGD) của 1 3,13 0,819 khoa mình Làm CN đề tài giữa các KH (KH cơ bản với KHGD) với 2 2,74 0,773 các khoa khác trong trường Làm CN đề tài giữa các KH (KH cơ bản với KHGD) với 3 2,29 1,006 các trường SP khác Làm CN đề tài giữa các KH (KH cơ bản với KHGD) với 4 2,29 1,039 các trường ngoài ngành SP Làm CN đề tài giữa các KH (KH cơ bản với KHGD) liên 5 2,39 1,086 kết với trường PT Làm CN đề tài giữa các KH (KH cơ bản với KHGD) liên 6 2,48 1,056 kết với các doanh nghiệp, tổ chức XH Tham gia đề tài có sự liên kết giữa các KH (KH cơ bản 7 3,07 0,785 với KHGD) của khoa mình Tham gia đề tài có sự liên kết giữa các KH (KH cơ bản 8 2,55 0,675 với KHGD) với các khoa khác trong trường Tham gia đề tài có sự liên kết giữa các KH (KH cơ bản 9 2,39 0,844 với KHGD) với các trường SP khác Tham gia đề tài có sự liên kết giữa các KH (KH cơ bản 10 2,32 0,945 với KHGD) với các trường ngoài SP Tham gia đề tài có sự liên kết giữa các KH (KH cơ bản 11 2,45 0,850 với KHGD) với trường PT Tham gia đề tài có sự liên kết với các doanh nghiệp, tổ 12 2,26 0,930 chức xã hội Mời chuyên gia từ các trường, đơn vị khác tham gia thực 13 2,52 0,811 hiện các đề tài nghiên cứu liên ngành 174
  9. Thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm * Khả năng liên kết thực hiện các đề tài NCKH Bảng 7. Khả năng liên kết thực hiện các đề tài NCKH Stt Tiêu chí Kết quả TBC ĐLC Tập hợp các chuyên gia giỏi chủ trì những vấn đề lớn trong 1 3,10 0,772 NCKH Tập hợp các nhà khoa học tâm huyết và có trình độ tham gia 2 3,37 0,669 thực hiện đề tài NCKH Có sự hợp tác và giúp đỡ giữa các thế hệ NC (chuyên gia cao 3 3,48 0,724 cấp dìu dắt CB trẻ) 4 Liên kết mở rộng hợp tác NCKH giữa các khoa trong trường 2,87 0,846 Liên kết mở rộng hợp tác NCKH giữa các trường trong hệ 5 2,39 0,955 thống SP Liên kết mở rộng hợp tác NCKH giữa các trường ngoài hệ 6 2,29 1,006 thống SP Liên kết mở rộng hợp tác NCKH giữa trường SP và trường 7 2,35 1,082 PT Liên kết mở rộng hợp tác NCKH giữa trường SP và các doanh 8 2,16 1,003 nghiệp 9 Liên kết mở rộng hợp tác NCKH giữa trường SP với quốc tế 2,19 1,046 Khả năng tập hợp đội ngũ CB nghiên cứu với tinh thần bồi dưỡng, dìu dắt CBNC trẻ cùng phát triển được nhận định ở mức tốt, nhưng việc liên kết mở rộng hợp tác NCKH còn dừng lại chủ yếu ở mức trung bình, chỉ trừ có liên kết mở rộng hợp tác NCKH giữa các khoa trong trường là đạt cao hơn – mức khá. Độ phân tán của các nhận định (thông qua chỉ số độ lệch chuẩn) trong kết quả nghiên cứu là khá rộng. Việc tập hợp các chuyên gia giỏi chủ trì nghiên cứu những vấn đề lớn của ngành, đồng thời bồi dưỡng giúp đỡ cán bộ trẻ đều đạt điểm số cao từ 3,10 - 3,48. Song việc liên kết mở rộng hợp tác NCKH và giảng dạy giữa các khoa trong trường đạt điểm cao (2,87) và liên kết mở rộng hợp tác NCKH giữa trường SP và trường PT (2,35). Còn liên kết hợp tác giữa các trường trong khối SP đạt 2,39 và với ngoài khối SP chỉ đạt 2,29. Việc liên kết mở rộng hợp tác NCKH giữa trường SP với quốc tế đạt điểm số thấp là 2,19, còn liên kết mở rộng hợp tác NCKH giữa trường SP và các doanh nghiệp chỉ đạt 2,16, thấp nhất. * Ý kiến về giảng viên cách xây dựng vấn đề NCKH mang tính liên kết giữa các lĩnh vực khoa học Về ý tưởng NCKH, đội ngũ giảng viên tự đề xuất vấn đề NC là các tiêu chí được đánh giá ở điểm cao nhất - mức tốt, còn lại là ở mức khá song điểm số có giá trị tuyệt đối cao. Mức độ phân tán tuy có hẹp hơn, so với nhiều nội dung khác đã phân tích ở trên, song 175
  10. Võ Thị Minh Chí và Hồ Lam Hồng nhìn chung vẫn thể hiện là rộng trên đường cong phân phối chuẩn. Song một thực tiễn cho thấy, việc liên kết các ý tưởng NCKH chưa có do việc liên kết hợp tác giữa các giảng viên, các nhà KH và các trường còn nhiều hạn chế. Điều kiện tham gia hội thảo KH, sinh hoạt học thuật còn hạn hẹp làm cho các nhà khoa học ít có cơ hội trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm. Sinh hoạt học thuật chung của ngành chưa được đề cập đến để mọi người có cơ hội trao đổi chia sẻ với nhau. Chính vì vậy mà sự liên kết trong NCKH “còn khép kín” trong nội bộ từng trường. Việc lưu giữ và chia sẻ thông tin chung về KH giữa các trường ĐHSP theo tính hệ thống ngành dọc chưa thật tốt. Ngay cả đội ngũ cán bộ quản lí phòng khoa học công nghệ của các trường sư phạm cũng nhận thấy “nhiều lúc rất khó khăn trong tìm kiếm thông tin khoa học”. Cần thiết phải xây dựng hệ thống mạng lưới thông tin KH chung của ngành để mọi người dễ dàng truy cập và sử dụng nguồn dữ liệu chung của ngành. Bảng 8. Ý kiến về giảng viên cách xây dựng vấn đề nghiên cứu khoa học Stt Tiêu chí Kết quả TBC ĐLC 1 Nhà trường xây dựng hệ thống vấn đề nghiên cứu 3,31 0,930 Đội ngũ giảng viên SP, các nhà khoa học tự đề xuất vấn 2 3,94 0,250 đề NCKH Đội ngũ giảng viên SP, các nhà khoa học tự liên hệ, tìm 3 kiếm và liên kết với các trường trong hệ thống SP để thực 3,16 0,688 hiện NCKH Đội ngũ giảng viên SP, các nhà khoa học tự liên hệ, tìm 4 kiếm và liên kết với các trường ngoài hệ thống SP để thực 3,00 0,894 hiện NCKH Đội ngũ giảng viên SP, các nhà khoa học tự liên hệ, tìm 5 kiếm và liên kết với các tổ chức xã hội để thực hiện 2,87 0,957 NCKH Đội ngũ giảng viên SP, các nhà khoa học tự liên kết với 6 2,97 0,718 nhau để thực hiên NCKH * Sử dụng cơ sở vật chất chung trong NCKH Cơ chế, chính sách trong QL và sử dụng các nguồn lực vào quá trình liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm - điều kiện cho việc tiến hành công việc được xác định là tốt; Tuy nhiên ý kiến nhận định vẫn có độ phân hóa cao. Kết quả phỏng vấn từ các trường SP cũng cho thấy rất cần cơ chế chính sách cụ thể về sử dụng và khai thác tối đa các nguồn lực cho phù hợp, nhất là nên có việc rà soát và thành lập các nhóm chuyên gia cao cấp, các nhà khoa học đầu đàn để phục vụ và giải quyết những vấn đề lớn của ngành. Đồng thời cũng nên có chế độ chính sách thích đáng và phù hợp để khuyến khích các chuyên gia đầu ngành, cán bộ nghiên cứu liên kết với nhau trong NCKH. 176
  11. Thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm Bảng 9. Sử dụng cơ sở vật chất chung trong NCKH giữa các trường sư phạm Stt Tiêu chí Kết quả TBC ĐLC Các phòng học, CSVC,. . . phục vụ cho ĐT và NCKH 1 đều được sử dụng chung cho các khoa, các đơn vị trong 3,61 0,803 trường Các phòng rèn luyện NVSP, phòng tập thực hành đều 2 được sử dụng chung cho các khoa, các đơn vị trong 3,42 0,886 trường Tất cả tài liệu học tập đều được sử dụng chung cho các 3 3,84 0,523 khoa, các đơn vị trong trường Máy tính và các máy móc đều được sử dụng chung cho 4 3,68 0,653 các khoa, các đơn vị trong trường Các phòng thực nghiệm, thí nghiệm,. . . đều được sử 5 3,30 0,877 dụng chung cho các khoa, các đơn vị trong trường Tinh thần hợp tác, liên kết trong NCKH thể hiện qua việc chia sẻ sử dụng CSVC, phòng thực nghiệm, thí nghiệm,. . . để tiến hành NCKH được thể hiện qua số liệu xử lí đạt rất cao - mức tốt với độ lệch chuẩn nằm trong giới hạn đều < 1. Song việc chia sẻ sử dụng chung vẫn chỉ trong nội bộ của từng trường là chính. Tuy nhiên, CSVC của các trường được giao về cho các khoa quản lí và sử dụng, vì điều này còn liên quan đến cơ chế bảo quản, sử dụng, bảo dưỡng và sửa chữa. Nên việc sử dụng chung khá phức tạp: người muốn sử dụng làm thủ tục và được sự đồng ý của nhà trường, sau đó sang bên quản lí tài sản làm việc xong rồi mới được sử dụng. Quy trình như thế này đảm bảo tốt việc quản lí sử dụng và dễ dàng quy trách nhiệm đối với người quản lí tài sản và sử dụng, nhưng về mặt hành chính khá cồng kềnh. * Về cơ chế, chính sách đối với liên thông, liên kết trong đào tạo và NCKH Bảng 10. Cơ chế, chính sách đối với liên kết và NCKH giữa các trường sư phạm Stt Tiêu chí Kết quả TBC ĐLC Cơ chế thống nhất trong nội dung chương trình đào tạo 1 3,68 0,541 GV dựa vào chuẩn đầu ra của quá trình đào tạo Cơ chế QL và sử dụng nguồn nhân lực chung của cả 2 3,68 0,599 trường SP Cơ chế QL và sử dụng nguồn nhân lực chung của cả hệ 3 3,13 0,957 thống SP Quản lí và sử dụng nguồn vật lực (CSVC, trang thiết 4 3,71 0,529 bị,. . . ) như nguồn lực chung của trường SP Quản lí và sử dụng nguồn vật lực (CSVC, trang thiết 5 3,10 1,076 bị,. . . ) như nguồn lực chung của cả hệ thống SP 177
  12. Võ Thị Minh Chí và Hồ Lam Hồng Cơ chế chính sách quản lí ĐT liên thông liên kết và đánh 6 3,37 0,765 giá chất lượng ĐT Cơ chế chính sách đối với Viện, trung tâm nghiên cứu 7 2,70 1,022 nằm trong trường SP Chế độ đãi ngộ thích đáng đối với CB nghiên cứu, giảng 8 viên cao cấp tham gia vào nguồn lực chung của quá trình 3,13 0,973 liên thông liên kết trong ĐT và NCKH * Mức độ tham gia hội thảo, sinh hoạt học thuật Bảng 11. Mức độ tham gia hội thảo, sinh hoạt học thuật Stt Nội dung Kết quả TBC ĐLC 1 Tổ chức hội thảo khoa học. . . giữa các khoa trong trường 3,23 0,669 Các giảng viên SP, các nhà KH đều được tạo điều kiện 2 tham gia hội thảo khoa học. . . và được phát biểu ý kiến 3,71 0,461 khoa học giữa các trường trong hệ thống SP Các giảng viên SP, các nhà KH đều được tạo điều kiện 3 tham gia hội thảo KH và được phát biểu ý kiến KH giữa 3,61 0,558 các trường ngoài hệ thống SP Các giảng viên SP, các nhà KH đều được tạo điều kiện 4 tham gia hội thảo khoa học được tổ chức bởi cơ quan, tổ 3,29 0,693 chức nghề nghiệp Các giảng viên SP, các nhà KH đều được tạo điều kiện 5 tham gia hội thảo khoa học được tổ chức bởi một cơ quan 3,26 0,773 tổ chức ở nước ngoài Ý kiến về mức độ tham gia hội thảo KH, sinh hoạt học thuật được đánh giá cao, điều này chứng tỏ họ được tham gia hội thảo dễ dàng. Mức độ tham gia hội thảo, sinh hoạt học thuật – Một khía cạnh liên quan đến NCKH, đồng thời cũng là điều kiện bồi dưỡng cho liên kết NCKH được đánh giá ở mức khả thi - đạt mức độ tốt với độ phân tán trong câu trả lời hẹp hơn, so với đánh giá ở nhiều nội dung khác ở trên. Ý kiến của cán bộ quản lí cho thấy “luôn tạo điều kiện cho giảng viên được tham gia hội thảo ở các trường khác để họ có thể thu nhận thông tin, học tập và chia sẻ cùng các đồng nghiệp”, tuy nhiên đây có sự không đồng nhất giữa ý kiến của giảng viên và cán bộ quản lí. * Về cơ chế liên thông, liên kết trong NCKH giữa các trường sư phạm Về cơ chế liên thông, liên kết trong ĐT và NCKH mà đề tài đưa ra đều được nhất trí cao trừ tiêu chí số 8; tuy nhiên, độ tập trung của các ý kiến vẫn không cao. Và điều đáng tiếc là với câu hỏi mở cho nội dung này, đề tài không thu được ý kiến đóng góp nào. 178
  13. Thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm Bảng 12. Cơ chế liên thông, liên kết trong ĐT và NCKH Stt Nội dung Kết quả TBC ĐLC Có sự thống nhất trong chủ trương thực hiện liên thông liên kết 1 3,71 0,461 từ cấp quản lí nhà trường đến các khoa ĐT giáo viên Có sự thống nhất trong chủ trương về mời giảng viên cao cấp 2 3,52 0,724 tham gia giảng dạy cho khoa và trường SP Chỉ mới thực hiện liên thông, liên kết ở cấp độ các khoa tự mời, 3 3,87 0,518 tự thỏa thuận các giảng viên với nhau Có sự thống nhất trong chủ trương mời chuyên gia tham gia 4 3,35 0,798 NCKH Có sự thống nhất trong chủ trương mời các cộng sự cùng tham 5 3,10 1,044 gia NCKH, không kể cả trong hay ngoài trường 6 Mời cộng sự tham gia NCKH theo nhu cầu cá nhân 2,94 0,998 Có sự thống nhất trong chủ trương về sử dụng trang thiết bị, 7 3,58 0,620 CSVC chung của trường vào ĐT và NCKH Sử dụng trang thiết bị, CSVC chung của trường bằng quan hệ 8 2,35 1,142 cá nhân Tuy nhiên, về ý kiến trao đổi cho thấy về cơ chế vẫn cần một sự thống nhất chung từ trên xuống: - Bộ cần có những chủ trương chính sách về xây dựng đội ngũ chuyên gia cao cấp chung của ngành để có thể tư vấn cho Bộ về chủ trương lớn của ngành như: về đổi mới chương trình đào tạo GV; về định hướng chiến lược NCKH phát triển ngành GD và SP; về chế độ chính sách phát triển ngành. . . - Bộ có chủ trương và hành lang pháp lí cụ thể hơn để thúc đẩy cơ chế liên kết trong NCKH giữa các trường ĐHSP, cũng như sự phối kết hợp, liên kết hỗ trợ từ các chuyên gia cao cấp của ngành. - Nên thành lập hội đồng khoa học ngành để đưa ra những định hướng nghiên cứu cho ngành, trên cơ sở đó các trường xây dựng và đấu thầu những đề tài theo những tiêu chí rõ ràng và minh bạch. - Nên rà soát và tập hợp thành một tập hợp đội ngũ các chuyên gia cao cấp, các nhà khoa học đầu ngành để các trường có cơ hội mời liên kết, hợp tác trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm, giúp cho đội ngũ cán bộ trẻ có cơ hội học tập từ thế hệ trước. - Bộ GD & ĐT và Vụ khoa học công nghệ cần thành lập hệ thống lưu giữ thông tin chung của ngành, tạo điều kiện cho các trường ở xa thủ đô có thể truy cập và tìm hiểu thông tin để mọi người có thể khai thác những công trình đã được nghiên cứu hoặc tránh những nghiên cứu trùng lặp không đáng có. Kết quả so sánh ý kiến tự đánh giá của CBQL với ý kiến tự đánh giá của giảng viên về liên kết NCKH giữa các lĩnh vực khoa học, giữa các đơn vị với nhau, giữa các trường sư phạm được trình bày ở Bảng 13. 179
  14. Võ Thị Minh Chí và Hồ Lam Hồng Bảng 13. So sánh ý kiến tự đánh giá của cán bộ quản lí và giảng viên về liên kết trong NCKH giữa các trường sư phạm Kết quả Stt Nội dung Giảng viên ĐHSP CBQL ĐHSP P TBC ĐLC TBC ĐLC CN đề tài liên kết KHCB với KHGD trong 1 2,19 1,075 3,13 0,819 0,00 khoa CN đề tài liên kết KHCB với KHGD giữa 2 1,67 1,028 2,74 0,773 0,00 các khoa khác trong cùng trường sư phạm CN đề tài liên kết KHCB với KHGD giữa 3 1,45 0,932 2,29 1,006 0,05 các trường trong hệ thống sư phạm CN đề tài liên kết KHCB với KHGD giữa 4 1,36 0,811 2,29 1,039 0,04 các trường ngoài hệ thống sư phạm CN đề tài NCKH có sự liên kết với các 5 1,66 0,938 2,39 1,086 0,05 trường phổ thông CN đề tài NCKH có sự liên kết với các 6 1,28 0,679 2,48 1,056 0,00 doanh nghiệp, cơ quan sản xuất. . . . Tham gia đề tài liên kết KHCB với KHGD 7 2,38 1,091 3,07 0,785 0,04 trong cùng một khoa Tham gia đề tài liên kết KHCB với KHGD 8 1,93 1,034 2,55 0,675 0,05 giữa các khoa khác trong trường sư phạm Tham gia đề tài liên kết KHCB với KHGD 9 1,65 1,001 2,39 0,844 0,05 với các trường trong hệ thống sư phạm Tham gia đề tài liên kết KHCB với KHGD 10 1,52 0,877 2,32 0,945 0,03 giữa các trường ngoài hệ thống sư phạm Tham gia đề tài NCKH có sự liên kết với 11 1,74 1,032 2,45 0,850 0,04 các trường phổ thông Tham gia đề tài liên kết với các doanh 12 1,50 0,923 2,26 0,930 0,04 nghiệp, cơ quan sản xuất,... Mời chuyên gia từ đơn vị khác cùng tham 13 1,83 1,070 2,52 0,811 0,05 gia thực hiện đề tài nghiên cứu liên ngành Kết quả so sánh ở Bảng 13 cho thấy, ở cùng một nội dung đánh giá thì điểm trung bình của CBQL hiển thị ở giá trị tuyệt đối cao hơn và độ phân tán hẹp hơn, so với tự đánh giá của giảng viên của các trường sư phạm. Sự khác biệt ở tất cả các tiêu chí đều có ý nghĩa thống kê. Điều này có thể lí giải ở việc CBQL có nhiều cơ hội hơn làm chủ nhiệm đề tài NCKH, hoặc tham gia liên kết NCKH với các đơn vị khác trong và ngoài trường so với giảng viên SP. Xử lí phiếu tự đánh giá của CBQL về liên kết trong NCKH cho thấy hình ảnh tương tự như đã thu được trong tự đánh giá của GV. Những công việc nêu trên đạt kết quả tốt hơn trong phạm vi khoa và giữa các khoa trong trường sư phạm. Kết quả phỏng vấn trực tiếp các giảng viên SP được biết: “Là giảng viên SP chúng tôi đều phải tham gia NCKH, nhưng chủ yếu làm đề tài cấp cơ sở thôi. Còn tham gia 180
  15. Thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm NCKH với các đơn vị khác ngoài trường không đơn giản, thường chỉ có CBQL mới được tham gia. Cơ hội tham gia NCKH với các trường khác rất khó vì nhiều lí do: quen biết ít, không có nhiều thời gian tham gia, điều kiện giao lưu liên kết cũng hạn chế nhiều”. Thực tế đúng như vậy, CBQL thường dễ được mời cùng tham gia đề tài, nhưng mức độ tham gia đến đâu cũng không biết chắc chắn như tâm sự của trưởng phòng QL KHCN: “Tôi được mời tham gia làm thành viên đề tài KHCN cấp Bộ, đấy là khi đăng kí họ cần có danh sách người tham gia. Nhưng sau này có được tham gia nữa hay không thì chưa biết được”. Qua các ý kiến trên cũng cho thấy một điều, yêu cầu của Bộ về có sự tham gia của các đơn vị khác nhau chỉ là hình thức, còn mức độ tham gia thực sự cũng chưa hẳn. Tính liên kết và hợp tác trong NCKH giữa các trường ĐHSP cũng còn hạn chế nhiều và quan trọng là kinh phí dành cho nghiên cứu từng vấn đề do chủ nhiệm đề tài quyết định. Một số cán bộ quản lí phòng khoa học công nghệ của trường sư phạm cũng có ý kiến: “Nên có sự liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm, vì sẽ có nhiều lợi ích (chia sẻ học tập và trao đổi kinh nghiệm học thuật, hợp tác cùng nghiên cứu một vấn đề ở nhiều địa bàn khác nhau, giảm chi phí đi lại tốn kém. . . ). Vấn đề là nguồn kinh phí phân chia cần rõ ràng và cụ thể, ví dụ như: nội dung nghiên cứu phân công cho từng trường thực hiện gắn liền với trách nhiệm và kinh phí cho từng công việc phù hợp. Bộ cần có cơ chế về liên kết trong NCKH giữa các nhà khoa học, giữa các trường với nhau. 2.3. Một số giải pháp tăng cường liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học sư phạm ở Việt Nam - Xây dựng và phát triển hệ thống SP, trong đó chú trọng phát triển các trường ĐHSP trọng điểm thành trung tâm đào tạo GV và NCKH chất lượng cao. Trong đó phát huy tốt tiềm lực đội ngũ cán bộ khoa học chuyên nghiên cứu của các viện, trung tâm nghiên cứu trong trường sư phạm. Các viện nghiên cứu trong trường làm nòng cốt và đầu mối liên kết các nghiên cứu mang tính liên ngành, liên trường và liên vùng để có thể giải quyết những vấn đề lớn của ngành. Xây dựng mô hình trường đại học sư phạm nghiên cứu mà ở các khoa đào tạo giáo viên áp dụng phương pháp dạy học theo hướng nghiên cứu. Ngay từ những năm học đầu tiên, sinh viên học bằng phương pháp nghiên cứu để hình thành tư duy phê phán, ham thích tìm tòi và khám phá, có kĩ năng tiến hành các nghiên cứu khoa học ngay khi còn là sinh viên. - Phát triển hệ thống các trường sư phạm với những đặc thù riêng. Hệ thống SP được sử dụng như một đơn vị có chức năng tư vấn, đồng thời có chức năng liên kết các cơ sở đào tạo giáo viên với nhau thông qua hoạt động khoa học (hoạt động NCKH, sinh hoạt trao đổi học thuật và thông tin, chia sẻ nguồn lực, trong đó chú trọng đến nguồn nhân lực chất lượng cao. . . ). - Các trường sư phạm tập hợp đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành theo từng lĩnh vực khoa học. Trên cơ sở đó, Bộ GD & ĐT thành lập đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành để có thể giải quyết những vấn đề nghiên cứu lớn cho ngành. Đồng thời đội ngũ này làm nòng cốt bồi dưỡng phát triển cho thế hệ sau này. - Thường xuyên có các lớp tập huấn bồi dưỡng KHCN, nhất là khoa học giáo dục. 181
  16. Võ Thị Minh Chí và Hồ Lam Hồng - Có cơ chế chính sách phù hợp cho mô hình liên kết giữa các đơn vị trong trường SP và liên kết giữa các trường SP với nhau, trong đó trường ĐHSP trọng điểm có Viện nghiên cứu được giao những đề tài lớn có tính đầu mối liên kết hệ thống SP tham gia nhằm thu hút các nhà khoa học của nhiều trường SP, các cơ sở đào tạo giáo viên và cơ sở giáo dục. Kèm với nó là nguồn kinh phí tương ứng với nội dung nghiên cứu để có thể giải quyết vấn đề đến nơi đến chốn và gắn với thực tiễn. Yêu cầu sản phẩm đầu ra của công trình NCKH có thể ứng dụng vào thực tiễn. Mặt khác, cần có cơ chế chính sách đối với cán bộ nghiên cứu ở các Viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu: có quy định tỉ lệ nghiên cứu khoa học và tham gia giảng dạy (70% làm nghiên cứu và 30% tham gia giảng dạy) đối với cán bộ nghiên cứu; chế độ chính sách về thời hạn công tác và phụ cấp đối với người cán bộ nghiên cứu trong ngành giáo dục. 3. Kết luận Kết quả điều tra thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học sư phạm ở Việt Nam hiện nay cho chúng ta thấy bức tranh về hiện trang tình hình thực hiện nghiên cứu khoa học, sự liên kết nghiên cứu các lĩnh vực khoa học với khoa học giáo dục để giải quyết các vấn đề của ngành giáo dục nói chung, khoa học sư phạm nói riêng. Từ các số liệu cho thấy sự liên kết và hợp tác trong nghiên cứu khoa học còn mang tính cục bộ, ít cởi mở. Điều này được thể hiện việc liên kết lĩnh vực khoa học cơ bản với khoa học giáo dục trong nội bộ khoa là chủ yếu. Việc liên kết nghiên cứu giữa các lĩnh vực khoa học trong nội bộ trường sư phạm đã giảm dần, và liên kết giữa các trường trong hệ thống sư phạm càng ít hơn. Liên kết nghiên cứu khoa học giữa trường sư phạm với hệ thống trường phổ thông cũng được đánh giá chưa cao, chủ yếu các đề tài nghiên cứu thực tế ở trường phổ thông với tư cách “nhờ cậy” hơn là tính hợp tác hai bên bành đẳng. Liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học sư phạm Việt Nam với các trường quốc tế cùng chưa thật nhiều. Số liệu điều tra cũng cho thấy việc tham gia hội thảo khoa học, sinh hoạt học thuật hay tham gia tập huấn bồi dưỡng chuyên môn về phương pháp nghiên cứu khoa học còn khó khăn nhất định, do các trường đại học vùng không có nguồn kinh phí tham dự. Việc sử dụng chung nguồn cơ sở vật chất vào nghiên cứu còn nhiều hạn chế để tránh đầu tư dàn trải. Nhưng quản lí nguồn cơ sở vật chất theo “cơ chế khoán gọn”, có liên quan nhiều đến kinh phí bảo dưỡng, bảo trì và sửa chữa. Các nhà khoa học tham gia nghiên cứu khoa học với các trường sư phạm khác chủ yếu bằng “quan hệ thân quen từ trước”, chưa phải bằng uy tín khoa học. Điều này cũng cho thấy việc chia sẻ thông tin để các nhà khoa học hiểu biết về nhau còn hạn chế, do các nhà khoa học, các giảng viên sư phạm (nhất là các trường ở xa thủ đô) ít có điều kiện tham dự hội thảo, sinh hoạt học thuật, tham gia các chương trình dự án của Bộ GD & ĐT, ít có các chương trình tập huấn bồi dưỡng về phương pháp nghiên cứu khoa học và cập nhật thông tin mới. Đồng thời, nguồn dữ liệu thông tin chung của Bộ GD&ĐT chưa có để mọi người có thể tham khảo, tìm kiếm thông tin. Để có thể tăng cường liên kết nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm, cần có 182
  17. Thực trạng liên kết trong nghiên cứu khoa học giữa các trường sư phạm một số giải pháp phát triển hệ thống các trường sư phạm thành một thể thống nhất với đặc thù đào tạo giáo viên, còn nghiên cứu khoa học đáp ứng khoa học giáo dục và phục vụ sự nghiệp đào tạo giáo viên. Đồng thời cần có cơ chế chính sách phù hợp nhằm tạo hành lang pháp lí để các trường sư phạm liên kết với nhau trong đào tạo giáo viên và nghiên cứu khoa học trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên đều có lợi và cùng phát triển. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đinh Quang Báo, 2011. Nâng cao năng lực của hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục Việt Nam. Đề tài NCKHGD cấp Bộ, mã số: B2008-17 - 118TĐ. [2] Hồ Lam Hồng, 2014. Giải pháp tăng cường liên thông, liên kết trong đào tạo giáo viên và nghiên cứu khoa học giữa các trường đại học sư phạm Việt Nam. Đề tài NCKHGD cấp Bộ, mã số: B2011-17-CT08. [3] Kỉ yếu Hội nghị tổng kết họat động khoa học và công nghệ giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng phát triển 5 năm 2011 - 2015, khối Khoa học Giáo dục. Hà Nội tháng 10/2011. [4] Kỉ yếu Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng phát triển 5 năm 2011 - 2015. Hà Nội 2011. [5] Kỉ yếu Hội nghị toàn quốc các trường sư phạm, Hà Nội tháng 8 năm 2011. [6] Kỉ yếu Hội thảo khoa học Đại học sư phạm Hà Nội - 60 năm xây dựng và phát triển, 11/2011. ABSTRACT Scientific research linkage between educational universities This paper presents the status of scientific research linkage among educational uni- versities. The study shows that there are few links between scientific fields and links in educational universities and among universities are limited. Linkage among educational universities and schools, factories and non-pedagogy universities is particularly weak. The authors recommend ways to strengthen scientific research links between colleges to encourage scientists to work together and share scientific information. 183
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2