Thực trạng phát triển và cơ chế chính sách đối với Khu Kinh Tế Cửa khẩu biên giới
lượt xem 52
download
Trải qua 15 năm với chính sách thí điểm lần đầu tiên áp dụng tại cửa khẩu Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, đến nay KKTCK đã trở thành một loại hình KKT có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh biên giới nói riêng và của cả nước nói chung. Đến nay, trên cả nước đã có 21 tỉnh trên tổng số 25 tỉnh biên giới đất liền đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập KKTCK...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thực trạng phát triển và cơ chế chính sách đối với Khu Kinh Tế Cửa khẩu biên giới
- TH ỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VÀ CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI KHU KINH TẾ CỬA KHẨU BIÊN GIỚI (Bài tham luận tại Hội thảo ngày 19/11/2011) I. Tổng quan về các Khu Kinh tế cửa khẩu (KKTCK): Trải qua 15 năm với chính sách thí điểm lần đầu tiên áp d ụng tại cửa khẩu Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, đến nay KKTCK đã trở thành một loại hình KKT có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh biên giới nói riêng và của cả nước nói chung. Đến nay, trên cả nước đã có 21 tỉnh trên tổng số 25 tỉnh biên giới đất liền đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập KKTCK (trừ các tỉnh Thanh Hóa, N ghệ An, Đăk Lăk và Đăk Nông). Tính theo số K KTCK, cả nước có 28 KKTCK 1 được ban hành theo 23 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ2 (Danh sách các KKTCK ban hành kèm theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ kèm theo). Trong đó, giáp biên giới với Trung Quốc có 11 KKTCK; giáp biên giới với Lào có 9 KKTCK; giáp biên giới với Campuchia có 9 KKTCK (do KKTCK quốc tế Bờ Y – K ontum vừa giáp Lào vừa giáp Campuchia). Trong số 21 tỉnh có KKTCK có thể phân loại như sau: - Các KKTCK giáp Trung Quốc: Do vị trí địa lý thuận lợi tiếp giáp với nước láng giềng Trung Quốc có tiềm lực về kinh tế và chính sách phát triển kinh tế biên giới nhìn chung thuận lợi, nên hoạt động thương mại qua các KKTCK ở đây phát triển sôi động. Các KKTCK ở khu vực này thường có vị trí là đầu mối giao lưu quan trọng giữa Việt Nam và Trung Quốc, trong đó khu KTCK Móng Cái (Quảng Ninh), Đồng Đăng – Lạng Sơn (Lạng Sơn) và Lào Cai (Lào Cai) là những KKTCK quan trọng nhất trong toàn tuyến biên giới phía bắc của Việt Nam và Trung Quốc, là đầu mối của hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng Quảng Ninh, Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. - Các KKTCK giáp với Lào: Việc thành lập các KKTCK trên tuyến biên giới này xuất phát từ mối quan hệ láng giềng đặc biệt. Nhìn chung, hoạt động giao thương qua các KKTCK ở khu vực này phát triển chậm hơn so với các KKTCK ở khu vực biên giới Việt Nam - Trung Quốc, chủ yếu là do Lào là thị 1 Quảng Ninh có 3 KKTCK (Khu vực cửa khẩu Móng Cái, nay được gọi là Thành ph ố cửa khẩu Quốc tế Móng Cái; KKTCK Hoành Mô - Đồng Văn và KKTCK Bắc Phong Sinh); Lạng Sơn có 2 (KKTCK Chi Ma và KKTCK Đồng Đăng – Lạng Sơn); Cao Bằng có 3 (KKTCK Tà Lùng, KKTCK Trà Lĩnh và KKTCK Sóc Giang); Sơn La có 2 (KKTCK Loóng Sập và KKTCK Chiềng Kh ương); Tây Ninh có 2 (KKTCK Mộc Bài và KKTCK Xa Mát). Các tỉnh còn lại mỗi tỉnh có 1 KKTCK. 2 Quảng Ninh có 2 Quyết định; Lạng Sơn có 2; Tây Ninh có 2; Lai Châu và Điện Biên chung 1 Quyết định (do trước đây là 1 tỉnh). Các tỉnh còn lại mỗi tỉnh có 1 Quyết định.
- trường nhỏ bé, tình hình kinh tế - x ã hội và cơ sở hạ tầng vùng biên bên phía bạn chậm phát triển. Tuy nhiên, trong số này phải kể đến các KKTCK của Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị đang hoạt động ngày càng phát triển và mức thu cho ngân sách tăng dần qua các năm. Các KKTCK này có vị trí quan trọng trong quy hoạch phát triển hành lang kinh tế Đông - Tây và hợp tác phát triển trong Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng. - Các KKTCK giáp với Campuchia: Khác với các KKTCK trên tuyến biên giới giáp Trung Quốc và Lào, Việt Nam ở vị thế xuất siêu với Campuchia, nên hoạt động xuất khẩu qua các KKTCK giáp Campuchia khá sôi động với trên 75% kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Campuchia thực hiện qua các KKTCK này. Tuy nhiên, do điều kiện cơ sở hạ tầng yếu kém, nên hoạt động giao lưu kinh tế - thương mại cũng bị hạn chế phần nào. Trong số các KKTCK với Campuchia, KKTCK ở tỉnh Tây Ninh và An Giang là các KKTCK có vị trí thuận lợi trong giao lưu thương mại với Campuchia. II. Tình hình ban hành và thực hiện các cơ chế, chính sách đôi với KKTCK : 1. Trước thời điểm ban hành Nghị định số 29/2008/NĐ-CP: Về cơ chế chính sách, trước đây, các KKTCK được thực hiện theo quy định tại Quyết định số 53/2001/QĐ-TTg ngày 19/4/2001 của Chính phủ về chính sách đối với KKTCK biên giới và Quyết định số 273/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quyết định số 53/2001/QĐ - TTg. Các Quyết định này quy định về các loại hình kinh doanh trong KKTCK, các ưu đãi (bao gồm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KKTCK căn cứ theo số thực thu ngân sách nhà nước tại K KTCK, vay vốn ưu đãi nhà nước; ưu đãi về thương mại, du lịch; ưu đãi về đất đai và thuế), quản lý về xuất nhập cảnh, ngân hàng, kiểm dịch động thực vật. Từ năm 2005 đến năm 2008, có 09 tỉnh đã xây dựng Đề án trình Thủ tướng Chính phủ và được ban hành Quy chế hoạt động riêng cho 09 KKTCK, bao gồm: Khu Kinh tế – thương mại đặc biệt Lao Bảo (01/2005); KKTCK Quốc tế Bờ Y, Kon Tum (09/2005); KKTCK An Giang (05/2007); KKTCK Mộc Bài, Tây Ninh (08/2007); KKTCK Q uốc tế Cầu Treo (10/2007); KKTCK Lào Cai (03/2008); KKTCK A Đớt, Thừa Thiên Huế (05/2008); KKTCK Đồng Đăng – Lạng Sơn (10/2008); KKTCK Đ ồng Tháp (12/2008). Điểm khác cơ bản của 9 quy chế này mà đến nay vẫn còn hiệu lực là chính sách mua hàng nhập khẩu miễn thuế đối với khách tham quan du lịch vào Khu thương mại - công nghiệp (khu phi thuế quan) trong K KTCK với giá trị tối đa 500.000 đồng/người/ngày được áp dụng đến ngày 31/12/2012. 2
- 2. Sau khi ban hành Nghị định số 29/2008/NĐ-CP: Sau khi Nghị định số 29/2008/NĐ-CP được ban hành, cơ chế chính sách đối với các KKTCK được thống nhất áp dụng theo Nghị định này. Các Quy chế của 09 KKTCK nói trên đã được rà soát; đối với một số quy định không còn phù hợp với Nghị định số 29/2008/NĐ -CP và các văn bản pháp luật hiện hành, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Q uyết định số 16/2010/QĐ- TTg ngày 3/3/2010 sửa đổi, bãi bỏ. Về cơ chế, chính sách tài chính đối với KKTCK , Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 2/3/2009 về cơ chế, chính sách tài chính đối với K KTCK; Q uyết định số 93 /2009/QĐ-TTg ngày 10/7/2009 sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 21 Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg; Quyết định số 100/2009/QĐ-TTg ngày 30/7/2009 về việc ban hành quy chế hoạt động của khu phi thuế quan trong KKT, KKTCK. Về công tác quy hoạch, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 52/2008/QĐ-TTg ngày 25/4/2008 phê duyệt Đề án quy hoạch phát triển các KKTCK của Việt Nam đến năm 2020, trong đó xác định quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ phát triển, cũng như các giải pháp chủ yếu để thực hiện quy hoạch. Về nguồn vốn đầu tư phát triển, trước đây, Quyết định số 53/2001/QĐ- TTg ngày 19/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ cho phép các tỉnh được giữ lại một phần hoặc toàn bộ số thu ngân sách q ua KKTCK đ ể đầu tư trở lại cho cơ sở hạ tầng. Sau khi Luật Ngân sách ra đời, quy định trên bị bãi b ỏ (Quyết định số 185/2003/QĐ-TTg ngày 10/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ); thay vào đó, kể từ năm 2004, hàng năm Chính phủ dành nguồn vốn có mục tiêu hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng KKTCK. Đ ặc biệt, từ năm kế hoạch 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 210/2006/QĐ-TTg ngày 12/9/2006 về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ chi đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2007-2010 và Quyết định số 60/2010/QĐ -TTg ngày 30/9/2010 ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2015, trong đó có quy định nguyên tắc, tiêu chí hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng các KKTCK . III. K ết quả hoạt động các KKTCK : 1. Các thành tựu đạt được: 1.1. Về kinh tế: Trong những năm qua, các thành tựu trong phát triển kinh tế tại các KKTCK đã mang lại những tác động tích cực và làm tăng vị thế của các tỉnh có KKTCK. Các đ ịa phương biên giới có KKTCK , trước đây là vùng sâu, vùng xa, kinh tế chậm phát triển thì đến nay đ ã trở thành những trung tâm kinh tế thương 3
- mại phát triển năng động, đồng thời là trung tâm thương mại lớn của tỉnh, làm động lực cho các khu vực lân cận phát triển. Quá trình phát triển các KKTCK đã tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương có KKTCK theo hướng phát triển các ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, công nghiệp. Kim ngạch xuất nhập khẩu qua các KKTCK tăng trưởng khá qua các năm, năm 2010 đạt hơn 5,4 tỷ USD (trong đó xuất khẩu đạt 2,93 tỷ USD, tăng gấp 3 lần so với năm 2005 và nhập khẩu đạt 2 ,51 tỷ USD, tăng gấp hơn 3 lần so với năm 2005). Trong giai đoạn 2006-2010, tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu qua KKTCK đều đạt trên 25%, cao hơn nhiều so với tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu chung của cả nước. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua các KKTCK giáp Trung Quốc chỉ chiếm chưa đến 15% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Trung Quốc, nhưng chiếm tới 68% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua các KKTCK. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua các KKTCK giáp Lào chiếm trên 85% kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Lào và kho ảng 75% kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - Campuchia. Số lượt người và phương tiện xuất nhập cảnh qua các KKTCK tăng đều qua các năm, năm 2010 đạt 10,8 triệu lượt người và hơn 616 nghìn lượt phương tiện, tăng gấp 3 lần so với năm 2005. Hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá tại các KKTCK ngày càng sôi động, số lượng doanh nghiệp và hộ gia đình đăng ký kinh doanh tăng nhanh qua các năm, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống dân cư và bảo đảm quốc phòng, an ninh biên giới. Các KKTCK cả nước hiện thu hút được khoảng gần 70 dự án FDI với tổng vốn đầu tư lên tới hơn 700 triệu USD và khoảng 500 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư gần 40 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, nhìn chung các dự án đầu tư vào KKTCK còn tập trung chủ yếu tại một số KKTCK lớn trên 3 tuyến biên giới với Trung Quốc (Móng Cái, Lạng Sơn – Đồng Đăng, Lào Cai), Lào (Lao Bảo, Cầu Treo), Campuchia (Mộc Bài)... Tổng thu ngân sách Nhà nước qua các KKTCK năm 2010 đạt khoảng 4800 tỷ đồng, trong đó tập trung chủ yếu tại các KKTCK giáp với Trung Quốc (87,4%), giáp với Lào (11,7%), giáp Campuchia (0,9%). Trong đó, một số KKTCK có mức thu ngân sách nhà nước cao như Đồng Đăng - Lạng Sơn (năm 2010 đạt 1850 tỷ đồng), Móng Cái (năm 2010 đạt gần 1100 tỷ đồng), Lào Cai (650 tỷ đồng); Lao Bảo (324 tỷ đồng)... Các KKTCK giáp biên giới Campuchia có số thu thấp do hoạt động xuất khẩu là chủ yếu nên thu về xuất nhập khẩu thấp và các dự án đầu tư đang trong thời gian được hưởng ưu đãi về thuế. 1.2. Về mặt xã hội: 4
- Việc phát triển các KKTCK đã tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, đời sống nhân dân địa phương được nâng cao, cơ sở hạ tầng được cải thiện, phát triển kinh tế - xã hội, thu hút dân cư đến làm ăn, sinh sống, gắn bó với biên giới. Thu nhập bình quân của dân cư trong KKTCK được cải thiện rõ rệt. 1.3. Về mặt an ninh quốc phòng: Việc hình thành các KKTCK đã thu hút dân cư đ ến làm ăn, sinh sống, người dân gắn bó với khu vực biên giới, an ninh quốc phòng được củng cố, giữ vững. Thông qua hoạt động tại K KTCK đã từng bước mở rộng quan hệ, giao lưu, củng cố tình hữu nghị giữa Việt Nam với các nước láng giềng. 2. Một số tồn tại, hạn chế: - Các KKTCK thường nằm tại các địa phương, địa b àn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn nên ch ủ yếu vẫn dựa vào nguồn ngân sách Trung ương để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. D o nguồn ngân sách Trung ương hết sức hạn chế, trong khi đó nhu cầu đầu tư phát triển của các KKTCK rất lớn nên nên nhiều KKTCK đang gặp khó khăn trong việc triển khai xây dựng kết cấu hạ tầng một cách đồng bộ, đạt chất lượng đáp ứng nhu cầu vận hành và thu hút đầu tư. - Sự phát triển của các KKTCK chưa đồng đều; một số KKTCK chưa phát huy được hết lợi thế, tiềm năng. Sức hút các doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh tại KKTCK còn hạn chế do ko đáp ứng được nguồn nhân lực và hạ tầng kỹ thuật yếu kém. - Một số quy định của Nghị định số 29/2008/NĐ -CP và các văn bản pháp luật có liên quan khác còn chồng chéo, khác biệt (ưu đ ãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án đầu tư m ở rộng; thuế thu nhập cá nhân…). Việc phân cấp, ủy uyền cho Ban quản lý Khu kinh tế trong một số lĩnh vực chưa được thực hiện đầy đủ, nhất quán. - Đa số các tỉnh có KKTCK đã ban hành Quy chế phối hợp làm việc của Ban quản lý với các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc các cơ quan có liên quan để thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn được giao theo cơ chế một cửa và một cửa liên thông. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, đối với một số KKTCK có địa giới hành chính chiếm phần lớn hoặc toàn bộ địa giới hành chính cấp huyện, việc phân định trách nhiệm quản lý giữa chính quyền địa phương và Ban quản lý Khu kinh tế gặp nhiều khó khăn, đặc biệt trong công tác quy hoạch và quản lý đầu tư. IV. Kiến nghị, đề xuất: Việc ban hành và thực hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi đ ối với KKTCK đã được thực tế chứng minh là đúng đắn, phù hợp với yêu cầu hình thành của 5
- một loại hình KKT ở khu vực biên giới nước ta, nhằm khơi dậy và phát huy tiềm năng của một địa b àn có điều kiện đặc thù là có các cửa khẩu b iên giới đất liền. Trong những năm qua, các KKTCK đã đạt được những thành tựu đáng kể về kinh tế - xã hội, góp phần vào thúc đẩy phát triển kinh tế vùng biên và giao lưu kinh tế giữa nước ta và các nước láng giềng qua KKTCK. Do vị trí chiến lược của các KKTCK tại cửa ngõ của đất nước và vai trò quan trọng của các KKTCK trong việc thúc đẩy giao lưu kinh tế - thương mại với các nước có chung đ ường biên giới, các nước ASEAN và các nước thuộc Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh có KKTCK cũng như của cả nước, bảo đảm giữ vững an ninh quốc phòng trên tuyến biên giới đất liền, việc phát triển hệ thống các KKTCK là yêu cầu khách quan. Để phát huy hiệu quả loại hình KKTCK, trong đó đặc biệt chú trọng vai trò thúc đẩy quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước láng giềng, trong thời gian tới cần tiếp tục triển khai các cơ chế, chính sách ưu đ ãi, trong đó việc duy trì một nguồn vốn nhất định để phát triển cơ sở hạ tầng KKTCK có vai trò rất quan trọng. 6
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thực trạng và những giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
8 p | 119 | 16
-
Thực trạng kinh tế, xã hội và các giải pháp thúc đẩy phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - Hoàng Văn Chức
8 p | 115 | 13
-
Phát triển khu vực kinh tế tư nhân - thực trạng, nguyên nhân và giải pháp
11 p | 99 | 11
-
Thực trạng phát triển các thành phần kinh tế và doanh nghiệp tại Việt Nam theo thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
13 p | 42 | 9
-
Chênh lệch vùng giữa vùng phát triển và vùng khó khăn của Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
8 p | 112 | 8
-
Thực trạng ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam
4 p | 90 | 8
-
Thực trạng và giải pháp phát triển dịch vụ Logistics tại tỉnh Trà Vinh
13 p | 69 | 6
-
Phát triển đô thị bền vững: Thực trạng và giải pháp phát triển cơ sở hạ tầng
14 p | 17 | 5
-
Phát triển kinh tế biển trong phát triển kinh tế của tỉnh Bình Định
11 p | 35 | 5
-
Nâng cao vai trò của chính quyền địa phương trong phát triển du lịch bền vững ở tỉnh Quảng Bình
11 p | 38 | 4
-
Phát triển các khu kinh tế - động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
9 p | 41 | 4
-
Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tư nhân huyện Phú Bình
3 p | 19 | 4
-
Thực trạng và những vấn đề đặt ra về phát triển bền vững kinh tế Việt Nam hiện nay
7 p | 41 | 3
-
Thực trạng và các giải pháp thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực nữ trong bối cảnh Việt Nam gia nhập hiệp định thương mại tư do
11 p | 62 | 3
-
Thực trạng phát triển doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân và giải pháp hỗ trợ từ nhà nước
9 p | 33 | 3
-
Thực trạng phát triển doanh nghiệp công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
8 p | 47 | 3
-
Thực hiện mục tiêu vượt qua ngưỡng nước đang phát triển có mức thu nhập thấp - một số đánh giá ban đầu
11 p | 44 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn