Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi trong hoạt động bảo vệ người gửi tiền
lượt xem 6
download
Bài viết "Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi trong hoạt động bảo vệ người gửi tiền" nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, thực trạng hoạt động bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo vệ người gửi tiền và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi là việc hết sức cần thiết. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi trong hoạt động bảo vệ người gửi tiền
- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ NGƯỜI GỬI TIỀN Nguyễn Thị Thu Hồng1 1. Email: nguyenthithuhong2998@gmail.com TÓM TẮT Sau 21 năm hoạt động, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) đã khẳng định được vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi (BHTG), người gửi tiền nói riêng. Việc một ngân hàng bị đổ vỡ và vai trò của BHTG trong xử lý đổ vỡ là vấn đề lớn đối với mọi nền kinh tế và dành được sự quan tâm sâu sắc của các Chính phủ, các tổ chức BHTG trên thế giới. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật về BHTG trong hoạt động bảo vệ người gửi tiền đã bộc lộ nhiều hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về BHTG, thực trạng hoạt động BHTG trong việc bảo vệ người gửi tiền và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về BHTG, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về BHTG là việc hết sức cần thiết. Từ khóa: Bảo hiểm tiền gửi, tiền gửi 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Luật Bảo hiểm tiền gửi và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo hành lang pháp lý tcho sự phát triểm của hoạt động Bảo hiểm tiền gửi, giúp hoạt động Bảo hiểm tiền gửi được cải thiện, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, kiểm soát và đảm bảo an toàn, lành mạnh cho hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng, tạo điều kiện thu hút tiền gửi trong người dân. Tuy nhiên, khung pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi hiện nay vẫn còn bất cập liên quan đến quy định về hạn mức, thời gian chi trả, mức phí áp dụng chưa phù hợp. Điều này đã là một số trở ngại cho việc áp dụng vào thực tiễn. Xuất phát từ những yêu cầu trên, pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi trong thời gian tới cần phải tiếp tục được hoàn thiện cả về mặt lý luận và thực tế triển khai thực hiện. Ngoài ra, để khắc phục các bất cập một số quy định của pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam hiện nay thì hoạt động Bảo hiểm tiền gửi cần phải được đánh giá một cách toàn diện để tìm ra những bất cập còn tồn tại cũng như nguyên nhân của các hạn chế này. Do đó, bài viết trình bày quy định pháp luật chung về Bảo hiểm tiền gửi, phân tích quy định hiện hành của pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi, chỉ ra một số bất cập và định hướng hoàn thiện. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Bài viết sử dụng phương pháp tổng hợp: Tổng hợp các công trình đã nghiên cứu trước đó, tổng hợp các nhận định của chuyên gia, cũng như tổng hợp các số liệu về hoạt động của 123
- BHTGVN. Ngoài ra, tác giả sử dụng phương pháp phân tích: Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về BHTGVN. 3. NỘI DUNG 3.1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi Bảo hiểm tiền gửi là loại hình bảo hiểm đối với hoạt động ngân hàng được thựchiện từ rất sớm ở nhiều nước trên thế giới. Theo Hiệp hội BHTG Quốc tế (IADI), BHTGđược hiểu là “một hệ thống được thiết lập để bảo vệ người gửi tiền khỏi những tổn thấtvề tiền gửi được bảo hiểm của họ trong trường hợp tổ chức nhận tiền gửi không thể hoàn thành các nghĩa vụ nợ theo cam kết đối với người gửi tiền”. Bảo hiểm tiền gửi là một loại hình hoạt động bảo hiểm, theo đó, tổ chức BHTG thực hiện cam kết chi trả một phần hoặc toàn bộ tiền gốc và tiền lãi của các khoản tiềngửi cho người gửi tiền được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách công của Nhà nước. BHTG Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg, ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ, hoạt động theo Nghị định 89/1999/NĐ-CP. Năm2012, hoạt động BHTG Việt Nam được luật hoá bằng Luật Bảo hiểm tiền gửi số 06/2012/QH13 ngày 18/6/2012 và văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành là Nghị định 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửi 2012. 3.2.2. Một số quy định pháp luật về BHTG trong bảo vệ quyền lợi người gửi tiền 3.2.1. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Tổ chức BHTG là một tổ chức có vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảmsự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Mục đích cơ bản và cốt lõi của chính sách Bảo hiểm tiền gửi là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, đối tượng có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận thông tin về hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi. Tổ chức BHTG là tổ chức tài chính được giao thực hiện chính sách công về BHTG. Ở Việt Nam hiện nay có duy nhất 1 tổ chức BHTG là Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam – tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách BHTG, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, đảmbảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng. Điều 6 Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012 quy định: - Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cánhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này. - Ngân hàng chính sách không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Điều 4 Nghị định 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thihành luật bảo hiểm tiền gửi quy định tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi như sau: - Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi là các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân, bao gồm ngân hàng thương mại, ngânhàng hợp tác xã, quỹ 124
- tín dụng nhân dân và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thànhlập và hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng. - Tổ chức tài chính vi mô phải tham gia bảo hiểm tiền gửi đối với tiền gửi của cánhân bao gồm cả tiền gửi tự nguyện của khách hàng tài chính vi mô, trừ tiền gửi tiết kiệm bắt buộc theo quy định của tổ chức tài chính vi mô. - Ngân hàng chính sách không phải tham gia bảo hiểm tiền gửi. Như vậy, các tổ chức phải tham gia bảo hiểm tiền gửi gồm: ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô và chi nhánhngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân. 3.2.2. Các loại hình bảo hiểm tiền gửi Theo quy định pháp luật về BHTG, có hai loại tiền gửi được bảo hiểm và tiền gửi không được bảo đảm. Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức tiền gửi khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, trừ các loại tiền gửi quy định tại Điều 19 của Luật này ( Điều 18, Luật BHTG 2012). Tiền gửi không được bảo hiểm: Tiền gửi tại tổ chức tín dụng của cá nhân là người sở hữu trên 5% vốn điều lệ của chính tổ chức tín dụng đó. Tiền gửi tại tổ chức tín dụng của cá nhân là thành viên Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của chính tổ chức tín dụng đó; tiền gửi tại chi nhánh ngân hàng nước ngoài của cá nhân là Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của chính chi nhánh ngân hàng nước ngoài đó ( Điều 19, Luật BHTG 2012)7. 3.2.3. Phí bảo hiểm tiền gửi Theo quy định của pháp luật hiện hành: Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí bảo hiểm tiền gửi và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan quy định mức phí bảo hiểm tiền gửi cụ thể đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này. Phí bảo hiểm tiền gửi được tính trên cơ sở số dư tiền gửi bình quân của tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và được coi là chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng (Điều 20 Luật bảo hiểm tiền gửi năm 2012, Thông tư của Ngân hàng Nhà nước số 24/2014/TT- NHNN ngày 06/9/2014 hướng dẫn một số nội dung về hoạt động bảo hiểm tiền gửi.) 3.3. Quyền và lợi ích hợp pháp của người được bảo hiểm tiền gửi 3.3.1. Quyền và nghĩa vụ của người được bảo hiểm tiền gửi Điều 11, Luật BHTG quy định, người được BHTG có quyền: Được bảo hiểm số tiền gửi của mình tại tổ chức tham gia BHTG theo quy địnhcủa Luật BHTG; Được nhận tiền bảo hiểm đầy đủ và đúng thời hạn theo quy định của Luật BHTG. Người được bảo hiểm tiền gửi được quyền yêu cầu tổ chức tham gia BHTG, tổ chức BHTG cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin, chế độ về BHTG; Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến BHTG theo quy định của pháp luật.” 7 (Chính phủ, 2013). Điều 3 Nghị định số 68/2013/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửi. 125
- 3.3.2. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam bảo vệ người được bảo hiểm tiền gửi BHTGVN bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được BHTG thông qua các hoạt động nghiệp vụ của mình, từ đó góp phần hạn chế rủi ro, giúp các tổ chức thamgia BHTG hoạt động an toàn, hiệu quả hơn, đảm bảo an toàn tiền gửi của người được BHTG. Các hoạt động nghiệp vụ của BHTG Việt Nam liên quan trực tiếp tới việc bảovệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền bao gồm: - Theo dõi, kiểm tra và giám sát các tổ chức tham gia BHTG chấp hành các quyđịnh của pháp luật về BHTG, kiến nghị NHNN xử lý hành vi vi phạm. - Tổng hợp, phân tích và xử lý thông tin hoạt động của tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện và kiến nghị NHNN xử lý kịp thời những vi phạm quy định về an toànhoạt động ngân hàng, rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng. - Tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tham gia BHTG theoquy định của NHNN; tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG theo quy định của Chính phủ; cho vay đặc biệt đối với tổ chức tín dụng được kiểm soátđặc biệt để hỗ trợ thanh khoản, cho vay đặc biệt theo quy định của NHNN và cho vay đặc biệt theo phương án phục hồi tổ chức tín dụng được phê duyệt, mua trái phiếu dài hạn của tổ chức tín dụng hỗ trợ. - Chi trả tiền bảo hiểm cho người được BHTG theo quy định của pháp luật khi tổ chức tham gia BHTG lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả hoặc phá sản, BHTG Việt Nam8. - Thực hiện tuyên truyền nhằm giúp người dân hiểu chính sách BHTG, qua đó nâng cao niềm tin công chúng, góp phần đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng 3.4. Thực trạng và những hạn chế của pháp luật Bảo hiểm tiền gửi trong hoạt động bảo vệ người gửi tiền 3.4.1. Thực trạng pháp luật Bảo hiểm tiền gửi trong hoạt động bảo vệ người gửi tiền Sau hàng khi loạt các hợp tác xã tín dụng bị đổ vỡ vào năm 1988-1990, Việt Nam đã tổ chức nghiên cứu ứng dụng công cụ BHTG. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 7/7/2000, là tổ chức duy nhất triển khai hoạt động BHTG tại Việt Nam. BHTGVN đang bảo vệ hàng triệu người gửi tiền cá nhân bằng Việt Nam đồng tại gần 1.300 tổ chức tham gia BHTG trên toàn quốc bao gồm: Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô. Các tổ chức này được yêu cầu bắt buộc tham gia BHTG và nộp phí theo quy định để bảo hiểm cho tiền gửi của người gửi tiền. Người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG được bảo vệ trong khuôn khổ chính sách BHTG, như: Cơ chế tham gia BHTG là bắt buộc; Đối tượng tham gia là tất cả các tổ chức tín dụng (TCTD) có huy động tiền gửi cá nhân bằng đồng Việt Nam; Loại tiền gửi được bảo hiểm là tiền đồng Việt Nam; và bảo hiểm tiền gửi theo hạn mức chi trả BHTG. Theo quy định hiện hành hạn mức chi trả BHTG là 75 triệu đồng. Với hạn mức này, BHTGVN sẽ bảo vệ phần lớn người gửi tiền, phần vượt hạn mức BHTG người gửi tiền sẽ được nhận trong quá trình xử lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ. Hạn mức BHTG được xác định trên cơ sở: Năng lực 8 (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2014). Khoản 1, Điều 8 Thông tư số 24//2014/TT-NHNN ngày 06/9/2014 hướng dẫn một số nội dung về hoạt động bảo hiểm tiền gửi. 126
- tài chính của tổ chức BHTG, quy mô tiền gửi, thông lệ, chuẩn mực quốc tế và thực trạng tình hình kinh tế vĩ mô ở Việt Nam. Thời hạn chi trả tiền gửi được bảo hiểm là 60 ngày kể từ ngày phát sinh nghĩa vụ chi trả. Quyền lợi người gửi tiền được đảm bảo thông qua các hoạt động nghiệp vụ của BHTGVN, như: kiểm tra, giám sát định kỳ tháng, quý năm đối với tổ chức tham gia BHTG. Thông qua đó, có thể phát hiện sớm các vi phạm quy định về BHTG và an toàn trong hoạt động ngân hàng để báo cáo kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xử lý kịp thời. Hoạt động tuyên truyền chính sách BHTG đến người gửi tiền đã được BHTGVN tích cực triển khai dưới nhiều hình thức để công chúng hiểu rõ chính sách BHTG, nâng cao niềm tin vào hệ thống ngân hàng, rủi ro đột biến rút tiền gửi sẽ ít có khả năng xảy ra, hệ thống ngân hàng vì thế sẽ hoạt động an toàn hơn. Ngoài ra, người gửi tiền được bảo vệ gián tiếp thông qua các nghiệp vụ BHTG khác của tổ chức tham gia BHTG như: Cấp và thu hồi chứng nhận tham gia BHTG, thu phí, tham gia kiểm soát đặc biệt. Trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG bị đổ vỡ, BHTGVN sẽ trực tiếp chi trả tiền gửi cho người gửi tiền được bảo hiểm trong hạn mức BHTG với thời gian chi trả ngắn nhất. Hiện BHTGVN đang bảo hiểm cho tiền gửi của người gửi tiền tại 1.283 tổ chức tham gia BHTG (bao gồm 97 ngân hàng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1.181 quỹ tín dụng nhân dân, 01 ngân hàng hợp tác xã và 04 tổ chức tài chính vi mô). Việc tăng hạn mức BHTG nâng cao mức độ bảo vệ người gửi tiền, song cũng đặt lên vai tổ chức BHTG một áp lực nhất định khi phí BHTG không điều chỉnh tăng theo. BHTGVN cho biết, tăng phí BHTG có thể gia tăng gánh nặng đối với các tổ chức tham gia BHTG. Vì thế, nâng hạn mức trả tiền bảo hiểm song không tăng phí BHTG đòi hỏi BHTGVN phải quản lý, đầu tư nguồn vốn một cách an toàn, hiệu quả, đảm bảo thanh khoản tốt để luôn sẵn sàng bảo vệ người gửi tiền. Tuy nhiên hiện nay, BHTGVN mặc dầu đã đi vào hoạt động được hơn 20 năm nhưng vẫn còn rất nhiều bất cập từ công tác hoạt động cho đến hệ thống pháp luật. Để đảm bảo được quyền lợi của người gửi tiền, dựa trên kinh nghiệm của các nước phát triển, cần thiết phân tích và đưa ra các giải pháp thực tiễn cho hoạt động BHTGVN. 3.4.2. Những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động Bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam Thứ nhất, về hạn mức chi trả: Theo Quyết định số 21/2017/QĐ-TTg ngày 15/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về hạn mức trả tiền bảo hiểm, từ ngày 05/8/2017, số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi (tính cả lãi và gốc của khoản tiền gửi) được bảo hiểm theo quy định đối với một cá nhân gửi tiền vào một tổ chức tín dụng tham gia BHTG tối đa là 75.000.000 (Bảy mươi lăm triệu đồng). Có thể thấy, mức chi trả này khá thấp có thể dẫn đến không thu hút được người gửi tiền. Người gửi tiền sẽ không còn tin tưởng vào hệ thống BHTG, do họ thấy nếu gặp rủi ro họ sẽ nhận lại một mức tiền không tương xứng với số tiền họ đã gửi vào ngân hàng. Điều này sẽ dẫn đến người gửi tiền sẽ gửi tiền vào các ngân hàng thương mại có nguồn vốn lớn do tâm lý an toàn và như vậy sẽ khiến cho các ngân hàng có nguồn vốn nhỏ hơn gặp rất nhiều khó khăn. Thứ hai, về thu phí bảo hiểm tiền gửi: BHTGVN đang thực hiện thu phí bảo hiểm theo phương pháp thu phí một mức đồng nhất. Hình thức thu phí này là phù hợp với trình độ phát triển của thị trường tài chính ngân hàng tại Việt Nam cũng như trình độ quản lý, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền và BHTGVN trong thời gian qua. 127
- Mô hình thu phí đồng nhất chưa thể khuyến khích các tổ chức tín dụng cạnh tranh nhau để tăng mức độ an toàn của mình trên thị trường. Điều mà đáng ra phải được thực hiện một cách sôi nổi trên thị trường tài chính ngân hàng. Chính vì vậy, phương pháp thu phí ở một mức đồng nhất thường chỉ được áp dụng cho các thị trường tài chính ngân hàng mới hình thành và các cơ quan quản lý, giám sát BHTG trên các thị trường mới phát triển. Thứ ba, năng lực tài chính của bảo hiểm tiền gửi: Hiện nay, tổng vốn của BHTGVN được ước tính là khoảng 9.000 tỷ đồng, con số này chỉ tương đương khoảng 03 lần vốn điều lệ của một ngân hàng thương mại trên thị trường. Với nguồn vốn hạn chế, tổ chức BHTG chưa đủ khả năng để sẵn sàng tham gia hỗ trợ các TCTD có quy mô lớn hay trong trường hợp phát sinh hiện tượng rút tiền hàng loạt và cùng với Ngân hàng Nhà nước tham gia xử lý khủng hoảng (nếu có). Các hình thức đầu tư mà BHTGVN được cấp phép thực hiện còn rất hạn chế và đều đòi hỏi một mức độ an toàn trong đầu tư khá cao dẫn đến tình trạng khả năng tăng trưởng vốn chưa cao. Thứ tư, một số yếu tố tác động đến cơ chế quản lý quỹ Bảo hiểm tiền gửi Một là, khuôn khổ pháp lý Khuôn khổ pháp lý của hoạt động BHTG là một trong những yếu tố quan trọng và có ảnh hưởng lớn đến cơ chế quản lý quỹ BHTG. Khuôn khổ pháp lý của hoạt động BHTG ở Việt Nam là chính sách do Nhà nước ban hành. Chính sách này luôn được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy khi có thay đổi về chính sách BHTG sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quỹ BHTG cũng như cơ chế quản lý quỹ BHTG. Ví dụ, khi chính sách pháp luật về BHTG quy định các TCTD đều phải tham gia BHTG thì đối tượng tham gia đóng góp vào quỹ sẽ rất lớn. Ngược lại, nếu chỉ một số đối tượng phải tham gia BHTG thì đối tượng tham gia đóng phí BHTG sẽ ít đi, ảnh hưởng đến nguồn thu quỹ BHTG. Đồng thời, nếu quy định đối tượng, loại hình tổ chức tham gia BHTG khác nhau thì nguồn thu đối với quỹ BHTG cũng khác nhau. Tương tự, nếu chính sách, pháp luật quy định mức đóng góp của từng loại đối tượng như thế nào, sẽ ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến nguồn thu, sự phát triển của nguồn thu quỹ BHTG. Khung pháp lý quy định loại hình của tổ chức BHTG cũng quyết định cơ chế quản lý tài chính của tổ chức BHTG đó. Khung pháp lý quy định loại hình tổ chức BHTG là các quy định pháp luật tạo ra môi trường, ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài chính của tổ chức đó trên các mặt: Huy động vốn, sử dụng vốn, tự chủ tài chính...Ví dụ, khuôn khổ thể chế pháp lý quy định tổ chức BHTG hoạt động với loại hình tổ chức nào (tổ chức tài chính Nhà nước hay doanh nghiệp…) sẽ có các quy định hướng dẫn về cơ chế tài chính liên quan đến hoạt động với mô hình tổ chức đó, từ đó sẽ ảnh hưởng đến việc hình thành, quản lý và sử dụng quỹ của tổ chức BHTG. Khuôn khổ pháp lý đầy đủ, nhất quán sẽ tạo môi trường tốt cho việc vận hành quỹ BHTG và ngược lại. Đối với hoạt động BHTG, cấu trúc và đặc điểm của hệ thống tài chính là nhân tố được coi là có ảnh hưởng nhiều nhất tới quỹ BHTG. Đặc điểm của hệ thống tài chính: Đối với hoạt động BHTG, cấu trúc và đặc điểm của hệ thống tài chính có ảnh hưởng nhiều nhất tới quỹ BHTG. Cấu trúc của hệ thống tài chính ảnh hưởng tới quy mô quỹ BHTG bao gồm: Số lượng các tổ chức tham gia BHTG, năng lực tài chính của các tổ chức tham gia BHTG, mức độ rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG, loại tiền gửi và người gửi tiền được bảo hiểm, mức độ tập trung. Số lượng các tổ chức tham gia BHTG nhiều, tình trạng tài chính của các tổ chức tham gia BHTG tốt, tổ chức BHTG sẽ có nhiều thuận lợi trong việc phát triển nguồn thu của mình. Các tổ chức BHTG phát triển đến một trình độ nhất định, thường sử dụng các công cụ tài chính để đầu 128
- tư một cách linh hoạt, nâng cao khả năng sinh lời cho vốn của đơn vị mình. Nếu thị trường tài chính phát triển, tổ chức BHTG có điều kiện thuận lợi trong việc sử dụng các công cụ tài chính để phát triển quỹ BHTG. Ngược lại, ở các quốc gia có thị trường tài chính chưa phát triển, tổ chức BHTG gặp khó khăn hơn trong phát triển nguồn thu thông qua việc sử dụng các công cụ tài chính. Hai là, cơ chế giám sát, xử lý đổ vỡ Các quy định về cơ chế giám sát, xử lý đổ vỡ các tổ chức tham gia BHTG là nhân tố ảnh hưởng đến quỹ BHTG9. Việc giám sát hiệu quả các tổ chức tham gia BHTG, xử lý đổ vỡ một cách thận trọng làm giảm thiểu nguy cơ gây đổ vỡ ngân hàng, gây thiệt hại cho quỹ BHTG. Tổ chức BHTG thực hiện giám sát các tổ chức tham gia BHTG nhằm phát hiện kịp thời các rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG, từ đó có biện pháp can thiệp, xử lý kịp thời. Tổ chức BHTG có quyền can thiệp sớm vào hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG có thể làm giảm nguy cơ gây đổ vỡ ngân hàng, đồng thời giảm thiệt hại phát sinh do sử dụng quỹ BHTG để chi trả cho người gửi tiền khi xảy ra đổ vỡ. Điều kiện kinh tế vĩ mô: Điều kiện kinh tế vĩ mô ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự ổn định của hệ thống tài chính nói chung và xác suất đổ vỡ tiềm ẩn. Cơ chế quản lý quỹ BHTG chịu tác động khách quan của điều kiện kinh tế vĩ mô. Những biến động, thay đổi của môi trường kinh tế trong và ngoài nước ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô quỹ BHTG thông qua hoạt động đóng phí BHTG của các TCTD, hoạt động đầu tư, hay việc sử dụng quỹ BHTG để chi trả BHTG. Khi nền kinh tế phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng, TCTD thường huy động được nguồn vốn nhiều hơn, quỹ BHTG cũng vì vậy mà phát triển thông qua nguồn thu phí BHTG. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, doanh nghiệp phá sản, người lao động không có việc làm, sẽ gây tác động tiêu cực đến hoạt động huy động vốn của TCTD, nguồn thu quỹ BHTG cũng vì thế mà suy giảm. Mặt khác, khi thị trường vào giai đoạn khó khăn, tổ chức BHTG cũng gặp khó khăn trong việc hoàn thành kế hoạch tăng trưởng vốn thông qua thu nhập từ hoạt động đầu tư, kế hoạch tài chính…Đối với tổ chức tham gia BHTG, khi nền kinh tế suy thoái, các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng hoạt động khó khăn, khó có khả năng trả nợ, dẫn đến nợ xấu của ngân hàng tăng, ảnh hưởng tiêu cực, thậm chí có thể dẫn đến phá sản ngân hàng. Trường hợp này gây rủi ro mất vốn cho quỹ BHTG do phát sinh chi trả BHTG. Việc chấp hành các quy định của các tổ chức tham gia BHTG: Thông qua việc đóng phí đầy đủ, đúng hạn từ các tổ chức tham gia BHTG, tạo nên nguồn thu dồi dào, sát kế hoạch dự toán cho quỹ BHTG, từ đó ảnh hưởng đến việc quản lý và sử dụng quỹ BHTG. Nếu các tổ chức tham gia BHTG không hợp tác, hay chấp hành chưa đúng các quy định về đóng phí BHTG, dẫn đến khó khăn trong việc thu đúng, thu đủ phí BHTG, ảnh hưởng đến nguồn thu của quỹ BHTG, từ đó ảnh hưởng tới cơ chế quản lý quỹ BHTG. Bên cạnh các yếu tố nêu trên, cơ chế quản lý quỹ BHTG còn chịu ảnh hưởng bởi một số yếu tố khác như: Hệ thống văn bản quản trị, điều hành; hệ thống kế toán, kiểm soát, kiểm toán nội bộ. 3.5. Một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả Bảo hiểm tiền gửi hoạt động trong bảo vệ người gửi tiền Thứ nhất, nâng cao hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm: Thực tế, theo quy định hạn 9 (Tuấn Hưng, 2021). Một số yếu tố ảnh hưởng tới cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm tiền gửi. Truy cập tại link: https://tapchinganhang.gov.vn/mot-so-yeu-to-anh-huong-toi-co-che-quan-ly-quy-bao-hiem-tien-gui.htm 129
- mức chi trả bảo hiểm là 75 triệu đồng là quá thấp và không còn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội10. Đây là một trong những nguyên nhân tác động tiêu cực tới khả năng huy động vốn nhàn rỗi trong dân và gián tiếp khiến hoạt động BHTG không đạt được hiệu quả như mong đợi.Hạn mức chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền nên được để ở mức gấp 5 - 6 lần GDP. Trên cơ sở tính toán theo các thông lệ quốc tế, hạn mức chi trả tiền bảo hiểm tối đa của BHTGVN hiện nay được tính theo mức gấp 5,5 lần GDP. Với cách tính này, năm 2019, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 2.700 USD thì hạn mức chi trả BHTG sẽ là 14.850 USD (tương đương 340 triệu đồng, với mức tỷ giá trung bình tại thời điểm năm 2019 là 23.000 VNĐ/USD). Dựa trên tính toán theo số liệu năm 2019, Luật BHTG có thể nâng hạn mức chi trả lên khoảng 350 triệu đồng cho một cá nhân gửi tiền tại một tổ chức tín dụng, đây mới là con số hợp lý. Thứ hai, xây dựng mô hình thu phí bảo hiểm hiệu quả: Mức thu phí BHTG đang được áp dụng cho các tổ chức tín dụng tham gia là một mức phí chung 1,5%. Việc thu phí bảo hiểm đồng hạng dẫn tới đánh đồng mức độ rủi ro của các tổ chức tham gia BHTG, làm giảm động lực nâng hạng tín dụng của các tổ chức này cũng như chưa đáp ứng tính công bằng trong nội bộ các tổ chức tín dụng tham gia BHTG tại Việt Nam. Mô hình thu phí bảo hiểm dựa trên cơ sở rủi ro của từng tổ chức tín dụng đem lại nhiều lợi ích cho BHTGVN. Tuy nhiên, đây chưa phải là một mô hình thu phí hoàn hảo nếu BHTGVN không cân nhắc tới một số yếu tố, cụ thể: Một là, mô hình thu phí bảo hiểm phân biệt tạo ra nguồn quỹ/nguồn vốn hợp lý cho BHTGVN. Song, tác động tích cực của mô hình chỉ có thể phát huy trong trường hợp BHTGVN đủ khả năng để phát hiện sớm rủi ro tiềm tàng của các tổ chức tín dụng, từ đó điều chỉnh mức thu phí cho phù hợp. Hai là , việc điều chỉnh mức độ rủi ro của các tổ chức tín dụng tham gia BHTG nên cân nhắc tới yếu tố quy mô quỹ bảo hiểm11. Việc áp dụng mức phí bảo hiểm thấp cho các tổ chức có mức rủi ro thấp sẽ khiến mức phí bảo hiểm tiêu chuẩn cao hơn để đạt được quy mô quỹ bảo hiểm đã đề ra. Ba là, lộ trình chuyển đổi từ mô hình thu phí đồng nhất hiện tại sang mô hình thu phí dựa trên cơ sở mức độ rủi ro cần phải được nghiên cứu, phân tích và kiểm định kỹ càng. Bởi chuyển đổi hình thức thu phí bảo hiểm sẽ gây ra sự xáo trộn nhất định trong nội bộ BHTGVN cũng như thị trường. Thứ tư, nâng cao năng lực tài chính của tổ chức BHTG Việt Nam: Hiện nay, Luật BHTG và các hệ thống văn bản pháp luật khác chưa đưa ra các quy định cụ thể về trình tự tiến hành tiếp nhận hỗ trợ từ ngân sách nhà nước hay được vay từ các tổ chức tín dụng, tổ chức khác trong trường hợp các tổ chức BHTG tạm thời không đủ khả năng chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền. Bên cạnh đó, việc đáp ứng chi trả ngay cho các tổ chức tín dụng tham gia BHTG có quy mô lớn hay cùng lúc chi trả cho nhiều tổ chức tín dụng tham gia BHTG cũng là một thách thức theo quy định hiện hành. BHTGVN chỉ được tiếp nhận hỗ trợ từ Chính phủ theo nguyên tắc có hoàn trả từ ngân sách nhà nước hoặc đi vay từ những tổ chức tín dụng, tổ chức khác nhưng phải có bảo lãnh của Chính phủ. Có thể thấy, việc ràng buộc nguồn vốn chi trả của BHTGVN trong các trường hợp cần hỗ trợ đang làm giảm khả năng đáp ứng chi trả ngay của BHTGVN, đặc biệt trong những 10 (Mai Anh, 2021). Nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi: Tiếp tục thực hiện hiệu quả mục tiêu của chính sách bảo hiểm tiền gửi. Truy cập tại link: https://tapchinganhang.gov.vn/nang-han-muc-bao-hiem-tien-gui-tiep-tuc-thuc- hien-hieu-qua-muc-tieu-cua-chinh-sach-bao-hiem-tien-gui.htm 11 (Hồng Dung, 2021). Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam từng bước nâng tầm. Truy cập tại: https://www.tinnhanhchungkhoan.vn/bao-hiem-tien-gui-viet-nam-tung-buoc-nang-tam-post268985.html 130
- thời điểm khó khăn của hệ thống tín dụng như trường hợp xảy ra đối với các ngân hàng yếu kém buộc phải phá sản (OceanBank. Bank là một ví dụ điển hình) trong thời gian qua. Do đó, cần có một số quy định mở rộng nguồn hỗ trợ khác cho BHTGVN nhằm nâng cao khả năng chi trả cho người gửi tiền. Hơn hết, Luật BHTG năm 2012 cần được bổ sung, sửa đổi nhằm nâng cao hơn nữa năng lực tài chính của BHTGVN. 4. KẾT LUẬN Sự hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng tự do hóa tài chính – ngân hàng sẽ làm gia tăng rủi ro đối với hoạt động ngân hàng. Trong bối cảnh hội nhập với nhiều thách thức như vậy, vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam càng cần thể hiện là một định chế tài chính quan trọng không thể thiếu của nền kinh tế hiện đại. BHTGVN với vai trò là một công cụ chính sách công của Chính phủ, là một thành viên của Mạng giám sát an toàn tài chính quốc gia, đã có nhiều cố gắng và đạt được những thành tựu bước đầu tương đối khả quan. Song với diễn biến hiện tại và triển vọng phát triển của hệ thống ngân hàng thì hoạt động của BHTGVN thời gian qua vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Nếu khắc phục được những hạn chế đó, vai trò của BHTGVN sẽ mang lại hiệu quả lớn hơn, góp phần tích cực hơn vào việc nâng cao vị thế, vai trò của BHTGVN đối với hệ thống tài chính – tiền tệ nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quốc hội (2012) Luật Bảo hiểm tiền gửi Số: 06/2012/QH13, ngày 18/6/2012. 2. Quốc hội (2010) Luật Các tổ chức tín dụng Số: 47/2010/QH12, ngày 16/6/2010. 3. Quốc hội (2017) Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng Số: 17/2017/QH14, ngày 20/11/2017. 4. Chính phủ (2013), Nghị định về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửi. Nghị định số 68/2013/NĐ-CP ngày 28/6/2013 5. Chính phủ (2013). Quyết định về việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và quy định chức năng, nhiệm vụ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Quyết định 1395/QĐ - TTg ngày 13/8/2013. 6. Bùi Thu Hương (2010). Hoàn thiện nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong thời kỳ hội nhập (Luận văn thạc sĩ). Học viện Ngân hàng. 7. Bùi Hữu Toàn (2012). Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế (Luận án tiến sĩ). Học viện Khoa học xã hội 8. Hồ Sỹ Thụy (2005). Giám sát của bảo hiểm tiền gửi Việt nam đối với hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Tạp chí Thị trường tài chính, tr.31 9. Lê Thị Kim Oanh (2004). Giải pháp phát triển hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam (Luận văn thạc sĩ). Học viện Ngân hàng. 10. Lê Thị Thu Thủy (2008), Pháp luật về BHTG ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 36 11. Lê Chiến Thắng và nnk.. (2020). Một số biện pháp hoàn thiện và nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam. Tạp chí Công thương online. 12. Nguyễn Mạnh Dũng (2004). Những vấn đề chung về chế độ tính phí bảo hiểm gắn với mức độ rủi ro của các ngân hàng. Tạp chí Ngân hàng, số 2, tr.16. 13. Nguyễn Mạnh Dũng, Kinh nghiệm tính phí bảo hiểm tiền gửi căn cứ vào mức độ rủi ro của các ngân hàng tại Canada, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, tr.31. 131
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả của việc sử dụng thẻ ATM
30 p | 1533 | 566
-
Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam - Hướng đến phát triển bền vững
6 p | 99 | 9
-
Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán chuyên đề của kiểm toán nhà nước
10 p | 103 | 8
-
Quản trị công ty tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
8 p | 61 | 7
-
Quản trị nguồn nhân lực tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thái Nguyên – thực trạng và giải pháp
9 p | 16 | 6
-
Liên kết giữa Bảo hiểm - Ngân hàng tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
8 p | 13 | 6
-
Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của NHNN VN giai đoạn 2011-2014
14 p | 60 | 6
-
Chất lượng dịch vụ tín dụng đối với các hộ sản xuất của Agribank chi nhánh huyện Đồng Hỷ: Thực trạng và giải pháp
8 p | 95 | 6
-
Thúc đẩy tín dụng xanh vào chuyển đổi năng lượng tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
10 p | 9 | 5
-
Quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá: Thực trạng và giải pháp
6 p | 19 | 4
-
Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng thông tin báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhỏ và vừa tại thành phố Hồ Chí Minh
10 p | 74 | 3
-
Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác kế toán tại Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Thái Bình
4 p | 71 | 3
-
Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực kế toán thuế tại các trường đại học hiện nay
5 p | 48 | 2
-
Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực hoạt động cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong tình hình hiện nay
8 p | 41 | 2
-
Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ tại kiểm toán nhà nước khu vực V
8 p | 14 | 2
-
Nhân lực kế toán Việt Nam trong bối cảnh hội nhập - Thực trạng và giải pháp
8 p | 3 | 1
-
Tính minh bạch và công bố thông tin báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
9 p | 1 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn