Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
lượt xem 7
download
Bài viết này sẽ phân tích những thuận lợi và khó khăn hiện nay của nguồn nhân lực nước ta, đồng thời trình bày một cách khái quát yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó đề xuất những giải pháp để giải quyết cho vấn đề trên.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
- HUFLIT International Conference on Ensuring A High-Quality Human Resource In The Modern Age - Oct 16, 2020 doi: 10.15625/vap.2020.0077 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Nguyễn Thành Sơn1, Phan Thị Vân2 1 Trung tâm nghiên cứu kinh tế miền Nam - Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Việt Nam 2 Phòng Hỗ trợ nghiên cứu - Công ty Cổ phần Dược đồng hành sáng tạo - Việt Nam t.s_nguyen@yahoo.com.vn , van.phan@ippcro.com TÓM TẮT: Các nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng nhân lực là yếu tố quyết định đến thành công và tiến bộ của mỗi quốc gia, trong đó trình độ phát triển nguồn nhân lực là thước đo chủ yếu đánh giá mức độ tiến bộ xã hội, công bằng và phát triển bền vững. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, Việt Nam khẳng định phát triển nguồn nhân lực là khâu đột phá của quá trình chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời là nền tảng phát triển bền vững và gia tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia trong quá trình hội nhập. Bài viết này sẽ phân tích những thuận lợi và khó khăn hiện nay của nguồn nhân lực nước ta, đồng thời trình bày một cách khái quát yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, từ đó đề xuất những giải pháp để giải quyết cho vấn đề trên. Từ khóa: nhân lực chất lượng cao, Việt Nam, hội nhập quốc tế. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Sự phát triển của thế giới đã bước sang một trang mới với những thành tựu có tính đột phá, trong đó yếu tố đóng vai trò trung tâm quyết định sự biến đổi về chất lượng của nền kinh tế chính là nguồn nhân lực chất lượng cao. Sự thống trị của các nhân tố truyền thống như số lượng đất đai, lao động hay nguồn vốn giờ đây đã được thay đổi. Chính nguồn nhân lực chất lượng cao mới là yếu tố cơ bản nhất của mọi quá trình, bởi lẽ những yếu tố khác vẫn có thể giải quyết được nếu có tri thức, song tri thức không tự nhiên xuất hiện mà phải trải qua một quá trình giáo dục, đào tạo và hoạt động thực tế. Ngày nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia, các doanh nghiệp chủ yếu là cạnh tranh về hàm lượng chất xám, tức là hàm lượng tri thức kết tinh trong sản phẩm hàng hóa - dịch vụ nhờ vào nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, để có được tốc độ phát triển nhanh và bền vững, các quốc gia trên thế giới đều chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực, một vấn đề cấp bách có tầm chiến lược, có tính sống còn trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế thế giới. Hiện nay, công nghệ của Việt Nam còn đang ở mức trung bình thấp so với thế giới. Trong các ngành công nghiệp, hệ thống máy móc thiết bị của Việt Nam bị lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ so với thế giới. Tình trạng thiếu công nhân kỹ thuật, đặc biệt là công nhân kỹ thuật cao là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình thực hiện chuyển giao công nghệ, làm giảm hiệu suất sử dụng của thiết bị công nghệ. Trong cơ cấu trình độ của lực lượng lao động nước ta, tỷ lệ lao động qua đào tạo không chỉ quá thấp mà còn bất hợp lý. Chúng ta thiếu những cán bộ có trình độ trên đại học, đại học, trung cấp chuyên nghiệp và cả công nhân lành nghề, nhưng thiếu hụt nghiêm trọng hơn cả là vị trí chuyên gia đầu ngành và công nhân kỹ thuật lành nghề (Lê Văn Toàn, 2007). Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành trung ương khóa IX tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng xác định rằng con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, và muốn vậy thì phải phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam thông qua giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, gắn với hội nhập quốc tế, phát huy lợi thế của đất nước, gắn CNH-HĐH với kinh tế tri thức, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiến tiến, hiện đại về khoa học công nghệ. Kế thừa quan điểm phát triển, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục xác định: “phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”; “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược...”; “nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục đào tạo” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011). Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu về nguồn nhân lực - một yếu tố then chốt và mang tính quyết định - hiện đang đặt ra cho nền kinh tế nước ta những vấn đề mang tính cấp bách như: Số lượng lao động thì dư thừa nhưng chất lượng thì lại không đáp ứng đủ, yêu cầu lao động với hàm lượng chất xám cao và lao động có trình độ chuyên môn tay nghề cao luôn trong tình trạng thiếu hụt; Hệ thống giáo dục đào tạo tuy đã được cải tiến, tiếp cận dần với hệ thống giáo dục quốc tế, chất lượng đội ngũ giáo viên cũng đã được nâng lên, tuy nhiên chất lượng giáo dục và đào tạo vẫn còn nhiều bất cập trước yêu cầu phát triển của đất nước. Những điều đó sẽ làm hạn chế khả năng cung ứng nguồn nhân lực cho một thị trường đang có nhu cầu phát triển cao về chất nhằm phục vụ cho quá trình CNH-HĐH và hội
- 166 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ nhập kinh tế quốc tế của đất nước, chính vì thế cần phải sớm có những giải pháp để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ A. Các khái niệm Khái niệm về nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lƣợng cao Khái niệm nguồn nhân lực được hiểu theo 2 nghĩa, ngoài nghĩa rộng được hiểu như khái niệm “nguồn lực con người”, thì còn được hiểu theo nghĩa hẹp là nguồn lao động (tổng số người đang có việc làm, số người thất nghiệp và số lao động dự phòng), thậm chí có khi còn được hiểu là lực lượng lao động (số người trong độ tuổi lao động mà có khả năng lao động). Theo Ngân hàng thế giới (2000) thì nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người có hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng. Nguồn nhân lực cần được hiểu là số lượng (số dân) và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó là tổng thể nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia hay một địa phương nào đó (Phạm Minh Hạc, 2001). Nguồn nhân lực theo cách tiếp cận mới có nội hàm rộng rãi bao gồm các yếu tố cấu thành về số lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tính năng động xã hội, sức sáng tạo, truyền thống lịch sử và văn hóa. Các khái niệm cho thấy nguồn lực con người không chỉ đơn thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh thần của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội. Như vậy, kế thừa quan điểm của các nghiên cứu trên, có thể tựu chung lại rằng: nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng con người với tổng hòa các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức, tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội. Còn nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ những người lao động đã được đào tạo, có trình độ học vấn, trình độ tay nghề cao (về chuyên môn, kỹ thuật) tương ứng với một ngành cụ thể theo tiêu chí phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (lao động kỹ thuật lành nghề, cao đẳng, đại học, trên đại học) và trên thực tế có kỹ năng lao động giỏi. Những lao động này có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi liên tục của môi trường công việc, có sức khỏe và phẩm chất tốt, có tính kỷ luật, có đạo đức và tác phong nghề nghiệp mong muốn đóng góp tài năng, công sức của mình cho sự thành công, phát triển chung của tập thể. Cao hơn nữa, đó là những lao động có khả năng vận dụng những tri thức, kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm sáng tạo, cải tiến năng suất, chất lượng và mang lại hiệu quả cao trong công việc (Đinh Sơn Hùng và Trần Gia Trung Đỉnh, 2011). Phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực (trí tuệ, thể chất, phẩm chất tâm lý xã hội) nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển (Bùi Văn Nhơn, 2006). Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là quá trình tạo ra sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực biểu hiện ở sự hình thành và hoàn thiện từng bước về thể lực, kiến thức, kỹ năng, thái độ và nhân cách nghề nghiệp đáp ứng những nhu cầu hoạt động, lao động của cá nhân và sự phát triển xã hội. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao liên quan chặt chẽ đến giáo dục đào tạo, vì trình độ văn hóa của người lao động là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực chỉ có thể được nâng cao khi giáo dục đào tạo tốt. Giáo dục đào tạo là một mắt xích quan trọng của quá trình phát triển nguồn nhân lực, nó tạo nên sự chuyển biến về chất, nhưng để có một nhân cách nghề nghiệp hoàn chỉnh phù hợp và thích ứng với vị trí làm việc, nguồn nhân lực chất lượng cao còn phải được rèn luyện sức khỏe và có văn hóa nghề nghiệp. Khi xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao có nghĩa là xây dựng đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia, tổng công trình sư, kỹ sư đầu ngành, công nhân có tay nghề cao, có trình độ chuyên môn - kỹ thuật tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới, có đủ năng lực nghiên cứu, tiếp nhận, chuyển giao và đề xuất những giải pháp khoa học, công nghệ, kỹ thuật, giải quyết những vấn đề cơ bản của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước; xây dựng đội ngũ doanh nhân quản lý doanh nghiệp, có khả năng tổ chức, khả năng cạnh tranh; xây dựng hệ
- Nguyễn Thành Sơn, Phan Thị Vân 167 thống các cơ sở đào tạo nhân lực tiên tiến, hiện đại, đa dạng, cơ cấu ngành nghề đồng bộ; xây dựng sự nghiệp giáo dục tiên tiến, hiện đại và một xã hội học tập toàn diện để tạo nguồn nhân lực chất lượng cao (Đức Vượng, 2008). B. Yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT), sự ra đời và phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật hiện đại đã nảy sinh cách phân chia mới về các ngành kinh tế. Ngoài nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ như truyền thống, còn xuất hiện một ngành rất quan trọng nữa là công nghệ kỹ thuật cao. Đây là ngành kinh tế trụ cột của kinh tế tri thức, sự tồn tại và phát triển của nó quyết định tới trình độ phát triển kinh tế tri thức của mỗi quốc gia. Chính sự phân chia mới về các ngành kinh tế, trong đó có sự xuất hiện của ngành công nghệ kỹ thuật cao đã đặt ra nhu cầu rất lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao. Mặt khác, trong quá trình HNKTQT, các ngành truyền thống (nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ) cũng được cải tạo bằng khoa học công nghệ cao để đáp ứng yêu cầu ở trình độ kinh tế tri thức. Ví dụ: Trong nông nghiệp, nhiều trang trại nông nghiệp được tự động hóa để hạn chế sức người nhưng lại cho năng suất chất lượng cao hơn; Trong công nghiệp sản xuất ô tô có thể sản xuất ra những mẫu xe mới, trong đó có tới 60-70 % giá trị là do đưa vào những vật liệu mới, những kỹ thuật tự động điều khiển mới để cho ra đời những chiếc xe có độ an toàn cao hơn, tiết kiệm nhiên liệu hơn... HNKTQT cũng giúp thu hút nhiều dòng vốn đầu tư vào các nước đang phát triển như Việt Nam, quá trình này mở ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, sự đòi hỏi của các nhà tuyển dụng, các công ty đa quốc gia cũng rất khắt khe, nhất là đối với những ngành thâm dụng chất xám hay những lao động kỹ thuật cao. Do đó, để đáp ứng được yêu cầu HNKTQT thì đội ngũ nhân lực của một quốc gia phải cung cấp đầy đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng cho nhà đầu tư. Ngoài ra, nền kinh tế hội nhập sẽ vận dộng theo xu hướng toàn cầu hóa, điều này được thực hiện thông qua quốc tế hóa thương mại, quốc tế hóa vốn và quốc tế hóa sản xuất. Sự phát triển của sản xuất mang tính chất quốc tế làm cho mỗi quốc gia riêng biệt - dù là một quốc gia lớn, có nền kinh tế phát triển nhất cũng không thể tự đảm bảo cho mình mọi nhu cầu để phát triển sản xuất. Sản xuất lớn chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi có sự chuyên môn hóa sâu sắc và đòi hỏi có sự hợp tác quốc tế. Trong nền kinh tế hội nhập, rất ít có sản phẩm do một nước sản xuất ra mà là kết quả hợp tác của nhiều nước. Điều này cũng có nghĩa là quy mô của lao động tổng thể được sử dụng ngày càng mở rộng và khả năng thích ứng linh hoạt của nguồn nhân lực ngày càng trở thành một yêu cầu cấp thiết. Nếu người lao động nói riêng và nguồn nhân lực của một quốc gia nói chung không đáp ứng được yêu cầu này thì sẽ không có khả năng trở thành một bộ phận của lao động tổng thể tham gia vào quá trình chuyên môn hóa sản xuất, hợp tác quốc tế trong nền kinh tế tri thức. Hơn nữa, do sự thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ và do tính linh hoạt của thị trường lao động trong bối cảnh HNKTQT, kiến thức và kỹ năng của người lao động rất dễ bị tụt hậu. Nếu người lao động không có nhu cầu học tập, trau dồi thường xuyên thì họ sẽ bị đào thải khỏi thị trường lao động. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế không những mở rộng thị trường ra nước ngoài mà còn mở rộng thị trường trong nước do nền kinh tế có cơ hội phát triển mạnh mẽ. Trên thực tế sẽ diễn ra cạnh tranh gay gắt giữa hàng hóa của Việt Nam và hàng hóa các nước, điều này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp ứng dụng triệt để thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Mặt khác, việc cam kết bảo hộ sở hữu trí tuệ đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải có một số vốn đủ lớn để tiếp cận khoa học công nghệ thế giới. Như vậy, về lâu dài, chúng ta cần có một đội ngũ chuyên gia không chỉ biết ứng dụng giỏi mà còn sáng tạo ra những sản phẩm công nghệ cao. Sáng tạo là yêu cầu cao nhất đối với nguồn nhân lực trong nền kinh tế hội nhập, vì sáng tạo bao giờ cũng là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển. Đặc biệt, trong nền kinh tế tri thức, công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn; quá trình từ lúc ra đời - phát triển - tiêu vong của một lĩnh vực sản xuất hay một công nghệ trở nên rất ngắn, các nhà sản xuất muốn trụ được và phát triển thì phải luôn đổi mới công nghệ và sản xuất. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới. Trước đây người ta chọn những công nghệ đã chín muồi, còn bây giờ thì phải tìm công nghệ mới nảy sinh vì quan điểm mới cho rằng cái chín muồi là đã gần đến giai đoạn tiêu vong. Do đó, rất cần phải có đội ngũ nhân lực chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu này. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng sẽ là cơ hội cho lao động Việt Nam xuất khẩu sang các nước để kiếm thêm thu nhập và học hỏi những kinh nghiệm tổ chức, quản lý, sản xuất của các nước. Tuy nhiên, để xuất khẩu lao động sang các nước thì đòi hỏi lao động phải đạt được những chuẩn mực của khu vực và thế giới, trong khi lao động Việt Nam phần lớn hiện xuất phát từ nền nông nghiệp còn lạc hậu nên rất cần những chính sách phát triển đội ngũ lao động thật sự có chất lượng thì mới có nhiều cơ hội để xuất khẩu lao động và thu về lượng lớn ngoại tệ cho quốc gia. III. THỰC TRẠNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CỦA VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY Khi đánh giá về nguồn nhân lực của một quốc gia, ba tiêu chí cơ bản thường được xem xét là số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động.
- 168 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Về số lƣợng Việt Nam có nguồn nhân lực tương đối dồi dào, có khả năng đáp ứng được những yêu cầu về số lượng nhân lực mà nền kinh tế đòi hỏi. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của Việt Nam tính đến thời điểm năm 2018 là hơn 55,4 triệu người, trong đó lao động nam chiếm 52,2 %; lao động nữ chiếm 47,8 %. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2018 đạt 54,3 triệu người. Trong đó, lao động có bằng cấp, chứng chỉ (tính từ 3 tháng trở lên) chiếm 23,7 %. Tỷ lệ thất nghiệp luôn ở mức thấp, cụ thể, tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi ở các năm 2010, 2015 và 2018 lần lượt là 2,88 %, 2,33 % và 2,19 % (Số liệu được tổng hợp từ Niên giám thống kê các năm). Số người trong độ tuổi lao động của Việt Nam là tương đối cao và ổn định qua các năm. Đây có thể coi là một lợi thế trong việc ổn định sản xuất và quản lý lao động của quốc gia. Tỷ lệ lao động có việc làm chiếm tỷ trọng cũng khá cao so với lực lượng đến tuổi lao động. Thậm chí, nếu xét về số lượng nguồn nhân lực có học hàm, học vị ở Việt Nam hiện nay (theo Niên giám thống kê có hơn 24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ) thì chúng ta đang sở hữu một nguồn nhân lực khá dồi dào về số lượng, không thua kém các nước trong khu vực. Về chất lƣợng Chất lượng nguồn nhân lực được biểu hiện cụ thể ở một số tiêu chí trọng yếu như thể lực, trình độ và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Về thể lực của người lao động, tuy có sự cải thiện trong thời gian gần đây, nhưng nhìn chung nguồn nhân lực Việt Nam có vóc dáng nhỏ bé. Tandon & cộng sự (2000) đã cung cấp số liệu so sánh 191 nước, cho thấy chiều cao trung bình của nam giới Việt Nam năm 2000 thấp hơn 13cm, và của nữ thanh niên Việt Nam thấp hơn 10,7cm so với chuẩn của WHO, còn cân nặng trung bình của người Việt Nam thuộc tốp nhẹ nhất thế giới. Năm 2000, tổng điều tra dinh dưỡng của Việt Nam cho thấy chiều cao nam thanh niên là 162,3 cm và nữ là 152,4 cm. Sau 10 năm, đến năm 2010, chiều cao nam giới Việt Nam trong độ tuổi 20 - 24 đã tăng thêm 2,1 cm, nữ tăng 1 cm. Nếu tính riêng tại các thành phố thì nam giới cao 167,4 cm, nữ cao 154,7 cm; vùng nông thôn chiều cao thấp hơn với nam 164,1cm và nữ 153,2 cm. Với chiều cao này, thanh niên Việt Nam cao ngang với Indonesia, Philippines nhưng thấp hơn Singapore, Nhật, Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc, và thấp hơn Hàn Quốc 9,4 cm. Với chỉ số này, ngay cả khi các doanh nghiệp, tập đoàn muốn đầu tư cơ sở vật chất kĩ thuật tiên tiến thì người lao động rất khó khăn trong sử dụng và vận hành máy móc, thiết bị hiện đại có kích cỡ lớn, làm việc trong môi trường không thuận lợi (trên cao, dưới sâu…) với cường độ lao động cao, điều kiện lao động nặng nhọc, gánh nặng thần kinh và tâm lý lớn… Chất lượng nhân lực Việt Nam theo nghiên cứu đánh giá của Ngân hàng Thế giới thực hiện vào năm 2016 chỉ đạt 3,79 điểm (trên thang điểm 10) trong khi một số nước trong khu vực như Malaysia là 5,59/10, Thái Lan là 4,94/10; Việt Nam đứng thứ 11/12 nước ở Châu Á tham gia xếp hạng. Ngoài ra, các chỉ số khác cũng rất thấp như năng lực cạnh tranh 4,3/10, xếp hạng 56/133 nước; tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ cũng chỉ đạt hơn 20 %. Nhân lực Việt Nam còn thiếu kỹ năng mềm như ngoại ngữ, công nghệ thông tin, kỹ năng làm việc nhóm, giao tiếp, tác phong công nghiệp và tránh nhiệm, đạo đức nghề nghiệp. Bên cạnh đó, sự phân bố không hợp lý, chương trình đào tạo còn nặng về lý thuyết, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội… đã dẫn đến tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, các nhà quản lý, chuyên gia giỏi và công nhân lành nghề. Nhiều lao động không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng. Số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp, vẫn cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả. Nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay đang thiếu hụt trầm trọng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, đặc biệt là lao động bậc trung, chỉ đáp ứng được khoảng 20 - 30 % nhu cầu lao động trong giai đoạn 2011 - 2015. Có thể thấy, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo các năm có xu hướng ngày càng tăng. Những năm gần đây tỷ lệ này đã có những thay đổi đáng kể, từ 21,4 % năm 2015 tăng lên mức hơn 23,7 % vào năm 2018. Sự thay đổi trong tỷ lệ lao động có việc làm đã qua đào tạo là một tín hiệu đáng mừng. Mặc dù chỉ tăng một vài điểm phần trăm nhưng có thể thấy nhân lực trong các nhóm ngành trọng điểm luôn được chú trọng và có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là điểm yếu của lao động Việt Nam.
- Nguyễn Thành Sơn, Phan Thị Vân 169 Về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, các tiêu chí đánh giá thường thông qua tinh thần trách nhiệm trong công việc, đạo đức và phẩm chất nghề nghiệp, văn hoá sản xuất, ý thức tuân thủ kỷ luật lao động… Trên thực tế, mặc dù người lao động luôn có ý thức và lương tâm nghề nghiệp. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển sang nền sản xuất công nghiệp hiện đại, họ cũng bộc lộ những nhược điểm như vẫn còn giữ thói quen của nền sản xuất nhỏ lẻ, thiếu khả năng tính toán để tăng hiệu quả kinh tế, lãng phí, không có ý thức bảo vệ môi trường… Tinh thần trách nhiệm trong công việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức văn hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động chưa cao. Bên cạnh đó, việc chấp hành luật pháp, cách làm việc trong một nền công nghiệp hiện đại vẫn chưa chuyên nghiệp, do đó, cần phải mất nhiều thời gian và sự kiên trì mới có thể xây dựng được. Về cơ cấu lao động Tỷ lệ cơ cấu lao động trong các ngành, lĩnh vực kinh tế có sự thay đổi đáng chú ý, nhất là giai đoạn trong vài năm trở lại đây. Năm 2015 có 44 % lao động trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp; sang năm 2018, con số này giảm còn 37,7 %. Trong khi đó, chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp - xây dựng và ngành dịch vụ - tài chính - ngân hàng thì có phần tăng lên: Năm 2015, có 22,8 % lao động trong ngành công nghiệp - xây dựng, đến năm 2018 tăng lên xấp xỉ 26,7 %; Năm 2015 có 33,2 % lao động trong ngành dịch vụ - tài chính - ngân hàng, đến năm 2018 tăng lên 35,6 %. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cơ cấu lao động đã dịch chuyển đáng kể từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Đánh giá chung Nhìn chung, nguồn nhân lực Việt Nam đang có thế mạnh về số lượng nhưng chất lượng nguồn nhân lực lại đang bị đánh giá là khá thấp, nhiều hạn chế so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực chưa được phát triển theo hướng toàn diện về thể lực, trí tuệ, đạo đức… để có khả năng thích ứng với môi trường lao động hiện đại. Điểm yếu cơ bản của lao động nước ta là tỷ lệ lao động qua đào tạo, nhất là đào tạo nghề dài hạn, có trình độ cao còn thấp, chỉ bằng 1/3 các nước và các nền công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore… kỹ năng tay nghề yếu, đặc biệt là so với tiêu chuẩn nghề của khu vực và thế giới. Năng lực cạnh tranh và năng suất lao động còn hạn chế. Năng suất lao động trung bình của Việt Nam chỉ bằng một nửa các nước ASEAN, thấp hơn Indonesia 10 lần, Thái Lan 30 lần, Nhật Bản 135 lần, khiến chỉ số cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế liên tục giảm trong những năm qua. IV. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO CHO VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Sau khi phân tích và tổng hợp từ những nghiên cứu trên, tác giả đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như sau: Một là, tiếp tục đổi mới quản lý Nhà nƣớc. Tập trung hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nguồn nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nguồn nhân lực. Đổi mới các chính sách, cơ chế, công cụ phát triển và quản lý nguồn nhân lực bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, định cư, chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài. Hai là, bảo đảm nguồn lực tài chính. Phân bổ và sử dụng hợp lý Ngân sách Nhà nước dành cho phát triển nhân lực quốc gia. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung đẩy mạnh thực hiện các chương trình, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội. Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: (1) Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể thao; (2) Hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, huy động, phát huy vai trò, đóng góp của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực; (3) Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát triển nhân lực Việt Nam. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực (ODA); (4) Thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho phát triển nhân lực (đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao..). Ba là, đẩy mạnh cải cách giáo dục. Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu, là quốc sách hàng đầu để phát triển nhân lực Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và những thời kỳ tiếp theo. Một số nội dung chính trong quá trình đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo Việt Nam bao gồm: (1) Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; (2) Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các trường dạy nghề và đào tạo chuyên nghiệp. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học,
- 170 THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ cao đẳng và dạy nghề trong cả nước; (3) Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình đào tạo ở bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ; (4) Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Cải cách mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; (5) Đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao chất lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo; (6) Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là bước đột phá chiến lược. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài, đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức. Bốn là, chủ động hội nhập. Để có thể hội nhập sâu hơn vào môi trường kinh doanh và phát triển quốc tế với mục tiêu phát triển bền vững nguồn nhân lực chúng ta cần chủ động hội nhập với những định hướng cơ bản là: (1) Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về phát triển nguồn nhân lực phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với thông lệ và luật pháp quốc tế về lĩnh vực này mà chúng ta tham gia, ký kết, cam kết thực hiện; (2) Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây dựng lộ trình nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo để đạt được khung trình độ quốc gia đã xây dựng, phù hợp chuẩn quốc tế và đặc thù Việt Nam; (3) Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo đại học, sau đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và thế giới; (4) Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam; (5) Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động các nguồn lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài, thu hút các trường đại học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động. V. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bùi Văn Nhơn, 2006. Quản lý và phát triển nguồn nhân lực xã hội. Hà Nội: Nhà xuất bản Tư pháp. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. [3] Đinh Sơn Hùng và Trần Gia Trung Đỉnh, 2011. Tổng quan lý luận về nguồn nhân lực chất lượng cao. Hội thảo khoa học: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao - Nhu cầu cấp bách, trang 1-5, Trường ĐH Kinh tế - Luật, tháng 09 năm 2011. [4] Đức Vượng, 2008. Xây dựng đội ngũ tri thức Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Đề tài NCKH cấp nhà nước, Mã số: KX.04.16/06-100. [5] Lê Văn Toàn, 2007. Lao động, việc làm trong xu thế toàn cầu hóa. Hà Nội: Nhà xuất bản Lao động - Xã hội. [6] Tổng cục thống kê. Niên giám thống kê các năm [7] Phạm Minh Hạc, 2001. Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. [8] Tandon et al., 2000. Measuring overall health system performance for 191 countries. Geneva, WHO, 2000 (Global Programme on Evidence for Health Policy Discussion Paper No.30). SITUATION AND SOLUTIONS FOR VIETNAM’S HIGH-QUALITY HUMAN RESOURCE DEVELOPMENT IN THE CONTEXT OF INTERNATIONAL ECONOMIC INTEGRATION Nguyen Thanh Son, Phan Thi Van ABSTRACT: The empirical studies have showed that human resources are decisive forces for the success and progress of each country in which the strategy of human resource development is a key measure to evaluate the level of social progress, fairness and sustainable development. In the socio-economic development strategy for the period of 2011-2020, Vietnam has affirmed that human resource development is a breakthrough in the process of transforming the country’s socio-economic development model; It also is a foundation for sustainable development and increasing the national competitive advantage in the integration process. This article will analyze the current advantage and disadvantage of our country’s human resources and briefly state the requirement for high-quality human resources of Vietnam in the context of international economic integration and propose solutions to solve it.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam sau 20 năm: Thực trạng và Giải pháp
5 p | 313 | 26
-
Phát triển các doanh nghiệp dịch vụ Logistics tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
10 p | 141 | 14
-
Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực logistics Việt Nam
9 p | 18 | 9
-
Marketing xanh - thực trạng và định hướng phát triển marketing cho doanh nghiệp tại Việt Nam
4 p | 135 | 9
-
Chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành hàng không Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
5 p | 114 | 9
-
Đào tạo nhân lực cho logistics quốc tế - thực trạng và giải pháp
3 p | 31 | 7
-
Chuyển đổi số trong doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Hải Dương: Thực trạng và giải pháp
7 p | 18 | 7
-
Thực trạng và giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại thành phố Hồ Chí Minh
12 p | 41 | 7
-
Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa - Thực trạng và giải pháp
7 p | 94 | 6
-
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh Hải Dương - Thực trạng và giải pháp
5 p | 12 | 5
-
Tem chống giả 2020 - Thực trạng và giải pháp
12 p | 62 | 5
-
Phát triển đội ngũ nữ doanh nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
8 p | 67 | 4
-
Thực trạng và giải pháp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: Phần 2
154 p | 6 | 4
-
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình hội nhập quốc tế ở thành phố Hồ Chí Minh - thực trạng và giải pháp
5 p | 55 | 3
-
Thực trạng và giải pháp phát triển thương hiệu trường đại học Cửu Long
10 p | 14 | 3
-
Thực trạng và giải pháp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: Phần 1
121 p | 12 | 3
-
Thực trạng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai
8 p | 92 | 3
-
Doanh nghiệp xây dựng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Thực trạng và giải pháp
9 p | 70 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn