intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng và một số đề xuất nhằm nâng cao công tác PCCC nhà cao tầng ở Việt Nam

Chia sẻ: Minh Phương | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:11

252
lượt xem
40
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chuyên đề: Thực trạng và một số đề xuất nhằm nâng cao công tác PCCC nhà cao tầng ở Việt Nam hiện nay tập trung trình bày các vấn đề cơ bản về tình hình phát triển nhà cao tầng trên thế giới; thực trạng nhà cao tầng ở Việt Nam hiện nay; tính chất nguy hiểm cháy nổ của nhà cao tầng;...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng và một số đề xuất nhằm nâng cao công tác PCCC nhà cao tầng ở Việt Nam

  1. CHUYÊN ĐỀ THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO CÔNG  TÁC PCCC NHÀ CAO TẦNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. Nội dung: 1. Tình hình phát triển nhà cao tầng trên thế giới 2. Thực trạng nhà cao tầng ở Việt Nam hiện nay 3. Tính chất nguy hiểm cháy nổ của nhà cao tầng. 4. Các giải pháp phòng cháy cho nhà cao tầng. 5. Đề xuất các biện pháp nâng cao công tác PCCC cho nhà cao tầng ở  Việt Nam. 1
  2. 1. Tình hình phát triển nhà cao tầng trên thế giới: Ngay từ  những năm 30 đầu thế  kỷ  20 nhu cầu xây dựng nhà cao tầng  ngày càng tăng cao do các công ty lớn nhận thấy  ưu thế quảng cáo của việc   gắn tên hiệu của mình với cao ốc văn phòng, thậm chí ngay cả khi không cần   nhiều diện tích sử  dụng lắm. Các không gian còn thừa được dùng để  thuê.  Như vậy, xây dựng nhà cao tầng không chỉ là để quảng cáo và gây thanh thế,   mà còn là sự đầu tư tài chính hợp lý nhằm tạo lợi nhuận tối đa. Tuy nhiên, trong trào lưu xây dựng mới, dường như  cuộc chạy đua vì  chiều   cao   đã   dừng   lại   ở   năm   1931   với   sự   xuất   hiện   của   Emprise   State   Building  ở New York do kiến trúc sư William Lamb thiết kế. Tòa nhà có 102  tầng, cao 381m (không tính đến cột ăng ten cao 67,7m được bổ sung sau), cao   hơn tháp Eiffel ở Paris – công trình cao nhất thế kỷ thứ 19, cao 300m. Đây là  công trình có những không gian văn phòng thương mại cho thuê và nó nhanh  chóng trở  thành hình mẫu cho nhà chọc trời, đồng thời là biểu tượng của  thành phố NewYork. Sự suy sụp của thị trường tài chính thế giới trong thời kỳ khủng hoảng   kinh tế đã làm gián đoạn việc đầu tư vào nhà cao tầng trong một thời gian khá   lâu. Cho đến tận cuối những năm 1940, một kỷ nguyên mới của nhà cao tầng  mới lại được bắt đầu. Cùng với sự phát triển công nghệ là sự tăng lên không   ngừng của nhu cầu nhà  ở  đô thị. Với dân số  tăng gấp đôi sau mỗi thế  hệ  và   sự  tăng trưởng nhanh chóng sản xuất, các nhà đầu tư  bất động sản khó lòng  đáp ứng đủ  nhu cầu về không gian sử dụng. Đây là thời kỳ mà trào lưu hiện   đại phát triển đến đỉnh cao. Mặt bằng tầng có diện tích sàn lớn trở  nên khả  thi về mặt kinh tế do dự phát triển của công nghệ HVAC (sưởi ấm, thông gió  và điều hòa không khí) và các hệ  thống chiếu sáng nhân tạo cho không gian  nội thất. Nhờ  các công nghệ  mới này, nhân việc văn phòng không còn phải   làm việc ngay cạnh cửa sổ để lấy ánh sáng tự nhiên và không khí. Đến những  năm 1968 toà nhà Hancock  ở  Chicagô (Mỹ) vươn tới độ  cao 344m không kể  cột ăng ten. Đây là công trình nhà cao nhất thế  giới. Năm 1973, tòa tháp đôi   trung tâm thương mại thế giới (WTC) do Minoru Yamasaki đã phá kỷ  lục và  đạt tới độ  cao 417m (110 tầng). Đến năm 1974 m vương miện nhà cao nhất  thế giới thuộc về Sears Tower ỏ Chicago với 110 tầng (443m). Danh hi ệu này   2
  3. tồn tại suốt 22 năm cho đến năm 1996, khi toà tháp đôi Petronas cao 450 (88  tầng) do Cesar Pelli thiết kế  được xây dựng tại KualaLampur, Malaysia. Và  mới đây toà nhà  ở  Đài Bắc, Đài Loan vươn tới độ  cao hơn 500m, trở  thành   nhà cao nhất thế giới hiện nay. Chiều cao càng tăng cao, Đặc điểm chung của các công trình cao tầng là đã được bảo hiểm, bất kỳ  nguy hiểm cháy nổ  là việc ưu tiên cứu người là số  một, thông qua các cầu  thang thoát nạn an toàn (có chỉ dẫn, thông gió, điều áp và là cầu thang kín đảm  bảo giới hạn chịu lửa tối thiểu là 120 phút). Công tác báo cháy và dập tắt đám  cháy ngay từ  giai đoạn ban đầu được đảm bảo rất tốt. Chính vì những cầu   thang an toàn này mà khi khi toà nhà Trung tâm thương mại thế giới (WTC) bị  khủng bố, xảy ra nổ cháy đã cứu được ít nhất là 5000 người. 2.Thực trạng nhà cao tầng ở Việt Nam hiện nay Nhà cao tầng (theo cách hiểu thông thường là 10 tầng trở lên) ra đời do  hệ  quả  của việc tăng dân số  đô thị, thiếu đất đai xây dựng và giá đất ngày  càng tăng cao. Thể loại này cho phép tạo ra nhiều tầng hay nhiều không gian  sử  dụng hơn, tận dụng  đất đai nhiều hơn, chứa  được nhiều hàng hoá và  nhiều người hơn trong cùng một khu đất. Nhà cao tầng có thể  được xem là  giải pháp tất yếu trong  hoạt động của nền kinh tế  đô thị. Tuy nhiên không  nên coi chúng một cách đơn giản là sự  diện tích sử  dụng theo chiều cao trên  một diện tích đất hạn chế mà chúng có những yêu cầu khá nghiêm ngặt trong  quá trình thiết kế và thi công. Xu thế hiện nay thường kết hợp đa chức năng trong một nhà cao tầng,   ở  Việt Nam nhà cao tầng thường được xây dựng là loại hình căn hộ, văn  phòng cho thuê, khách sạn, trung tâm thương mại, ngân hàng... xu hướng kết  hợp nhiều công năng khác nhau như: khách sạn, văn phòng, siêu thị,vũ trường,  gara ôtô dẫn đến tính chất phức tạp, số lượng người tập trung rất đông, đến  hàng hoá, vật liệu dễ cháy... càng gia tăng mức độ nguy hiểm cháy nổ và tính  chất phức tạp của trong công tác đảm bảo an toàn PCCC.  Nhìn lại quá trình phát triển nhà cao tầng  ở  Việt Nam 10 năm trở  lại  đây chủ yếu tập trung ở hai thành phố lớn là thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ  Chí Minh. Tại Hà Nội các công trình tập trung rải rác, xen kẽ trong các khu  phố, một số  công trình điển hình như: Rose Garden (11 tầng), Trụ  sở  Tổng   3
  4. VINACONEX (12 tầng), Khách sạn Horison (14 tầng), Khách sạn Nikko (15   tầng), Fortuna Tower (16 tầng), Văn phòng Quang Trung (18 tầng), Khách   sạn Melia HaNoi (22 tầng), Vietcombank Tower (22 tầng), Hà Nội Tower (25   tầng)... với chức năng chủ  yếu là văn phòng cho thuê, khách sạn, trụ  sở  ...   Nhà chung cư ở Hà Nội chỉ mới bắt đầu xây dựng trong mấy năm trở lại đây   với các chung cư  từ  9 đến 15 tầng  ở  khu đô thị  mới Linh Đàm, Định Công,  Trung Hoà ­ Nhân Chính, Mỹ  Đình... Tốc độ  đô thị  hoá đang diễn ra từng  ngày, quỹ  đất ngày càng hạn chế, các toà nhà trên 15 tầng  ở  Hà Nội không  phải là hiếm.  Tại thành phố Hồ Chí Minh, với lợi thế trong việc thu hút vốn  đầu tư  trong và ngoài nước, việc phát triển nhà cao tầng diễn ra mạnh mẽ  hơn, những công trình tiêu biểu như:  Sài Gòn Tower ( 17 tầng), Indochine   Park ( 18 tầng), Somekset Chancellor (19 tầng), Harbour View (20 tầng), River   Side   Hotel   (20   tầng),   Diamond   Plaza   (21   tầng),   Sun   War   Bank   (22   t ầng),   Khách sạn Caravelle (24 tầng), Ocena Plaza (25 tầng), Sài Gòn Centre (27   tầng), Trung tâm thương mại Sài Gòn (34 tầng). So sánh qua ta thấy thành phố  Hồ Chí Minh không chỉ có nhiều nhà cao tầng hơn mà có những công trình cao   nhất ở Việt Nam. Thống kê cho thấy Hà Nội (đến năm 2001) chỉ có trên dưới   10 cao ốc trên 16 tầng, thì thành phố Hồ Chí Minh là trên 22 công trình, trong   đó có 2 công trình cao trên 25 tầng là Sài Gòn Centre và Trung tâm thương mại  Sài Gòn. Các khu chung cư cao tầng cũng phát triển cả về số lượng lẫn chiều   cao công trình như: Chợ Lớn, Ngô Tất Tố: 15 tầng; Miếu Nổi: 18 tầng; mới  đây là chung cư  đô thị  mới Phú Mỹ  Hưng. Một công trình cao 60 tầng cũng  đang sắp bắt đầu được khởi công xây dựng tại đây. 3. Tính chất nguy hiểm cháy nổ  của nhà cao tầng liên quan đến  đặc điểm riêng của nó. 3.1.Chiều cao của công trình: Là đặc điểm có nhiều ảnh hưởng nhất  đối với công tác PCCC của NCT. Nhà càng cao thì càng có nhiều yếu tố  bất   lợi cho công tác PCCC như: ­ Số lượng người đông, lối thoát nạn dài, kéo dài thời gian thoát nạn. ­ Tốc độ, áp lực của gió trên cao làm tăng tốc độ  phát triển của đám  chay. 4
  5. ­ Khó khăn cho việc cứu hộ, cứu nạn, khó khăn cho việc cấp nước   chữa cháy và triển khai  các hoạt động chữa cháy trên các tầng cao… 3.2. Lối thoát nạn: Lối thoát nạn trong NCT có các yêu cầu khác hẳn  đối với các loại nhà thấp tầng, lối thoát nạn trong nhà cao tầng chủ yếu là các  cầu thang bộ. Như trên đã nêu, nhà càng nhiều tầng thì số lượng người càng   đông, đồng thời đường thoát nạn qua các cầu thang bộ  càng dài và thời gian  thoát nạn ra khỏi nhà càng lâu. Bên cạnh đó, nếu không có các giải pháp  phòng chống cháy đặc biệt cho các buồng thang thì các thang thoát nạn lại   chính là con đường lan truyền của lửa, khói, hơi nóng và khí độc sinh ra từ  đám cháy theo chiều đứng lên các tầng trên, làm đám cháy càng phát triển lớn,  đồng thời cản trở việc thoát nạn và đe doạ nghiêm trọng đến sinh mạng của  nhiều người. Vì vậy, các buồng thang bộ  trong nhà  cao tầng phải đảm bảo   các điều kiện an toàn cho người thoát nạn khi xảy ra cháy (chống được lửa,   khói, được chiếu sáng, có thông gió điều áp…) 3.3.   Các   đường   lan   truyền   cháy:   Nhà   cao   tầng   thường   có   các   hệ  thống giao thông nội bộ theo chiều ngang và chiều đứng như hành lang trong,  buồng thang bộ, thang máy, có các kênh, giếng kỹ thuật về điện, thông tin liên   lạc, cấp thoát nước, cấp khí đốt, thông gió và điều hoà không khí, ống đổ rác,   giếng trời v.v… Các bộ  phận này đều bố  trí ở  bên trong nhà, vì vậy khi xảy   ra cháy, lửa, khói, hơi nóng và khí độc sinh ra từ đám cháy có thể qua các bộ  phận này lan truyền theo chiều đứng  và chiều ngang dẫn tới cháy lan ra toàn  nhà và  ảnh hưởng đến việc thoát nạn như đã nêu trên. Đám cháy còn có thể  lan truyền  ở mặt ngoài nhà qua các lỗ  cửa, khoảng trống không có giải pháp  ngăn cháy, qua các ban công, lô gia có lắp đặt hoặc treo nhiều vật liệu dễ  cháy. 3.4 Tầng hầm, tầng mái, tầng kỹ thuật : Là những bộ phận đặc biệt  thường có trong nhà cao tầng và có liên quan đặc biệt tới công tác PCCC,  ở  đây có các điểm đầu và điểm cuối của các cầu thang, là lối đi lưu thông ngang  giữa các buồng thang thoát nạn, là các lối đi tiếp cận vào công trình từ  mái   hoặc từ mặt đất của lực lượng PCCC; ở đây thường bố trí các hạng mục có  nhiều nguy hiểm cháy nổ như gara ôtô, xe máy; trạm biến áp, trạm phát điện,   điều hoà không khí, thông gió, kho tàng, hầm chứa rác… ở đây cũng là nơi bố  5
  6. trí các thiết bị, hệ thống PCCC như bể nước, trạm bơm nước chữa cháy… Vì   vậy, cần có các giải pháp đảm bảo cho việc thoát nạn, phòng, chống cháy lan  và đảm bảo các điều kiện cho việc chữa cháy, cứu người ở các tầng này, đặc  biệt là giải pháp thoát khói, thoát nhiệt ở các tầng hầm bị cháy. 3.5. Khoảng trống ngoài nhà: Để đảm bảo khoảng cách an toàn giữa các công trình và tạo điều kiện   cho các lực lượng phương tiện chữa cháy triển khai các hoạt động chữa cháy,   cứu người trên cao, đặc biệt đối với NCT phải có đường, bãi đảm bảo cho  những xe thang với chiều dài và tải trọng lớn hoạt động.  Ở  Việt Nam, yêu   cầu này thuwongf không đảm bảo, nhất là đối với các nhà cao tầng xây chen   trong các khu phố hiện có. 3.6 Đặc điểm công năng Nhà cao tầng được xây dựng và sử dụng với nhiều công năng khác nhau  như nhà ở, văn phòng, trụ sở cơ quan, khách sạn… mỗi công năng đều có tính  chất, đặc điểm riêng, giải pháp, biện pháp riêng về  PCCC. Hiện nay có xu  hướng xây dựng các nhà cao tầng kết hợp nhiều công năng khác nhau như:   khách sạn kết hợp với nhà ở căn hộ, văn phòng, siêu thị, nhà hàng, vũ trường,   hội trường, câu lạc bộ, gara ôtô… dẫn đến tính chất hoạt động phức tạp, số  lượng người tập trung đông, khối lượng hàng hoá, vật liệu cháy tập trung   càng gia tăng mức độ  nguy hiểm cháy và tính chất phức tạp trong công tác   đảm bảo an toàn PCCC trong các công trình này. 4. Các giải pháp phòng cháy cho nhà cao tầng ở Việt Nam. a/ Khi đầu tư xây dựng các NCT phải có đầy đủ các hệ thống, thiết bị  phương tiện về PCCC và đảm bảo các điều kiện an toàn PCCC theo các quy  chuẩn, tiêu chuẩn hiện hành. Không chấp nhận lý do thiếu kinh phí, thiếu vốn  mà cắt bỏ các hệ thống, thiết bị PCCC trong đầu tư xây dựng NCT.  b/ Có quy chế, chế độ kiểm tra, quản lý chặt chẽ chất lượng thiết kế,   thi công về PCCC đối với NCT. Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ  thẩm duyệt  dự  án, thẩm duyệt thiết kế  về  PCCC, kiểm tra thi công và nghiệm thu về  PCCC theo quy định của Luật PCCC.  6
  7. c/   Tăng   cường   việc   tuyên   truyền,   phổ   biến   và   tổ   chức   thực   hiện  nghiêm chỉnh các quy định của Luật PCCC ( trong Luật PCCC cũng có nội  dung PCCC nhà cao tầng), và các quy định, tiêu chuẩn PCCC  trong thiết kế  xây dựng và sử  dụng, vận hành nhà cao tầng. Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng  hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy định, tài liệu hướng dẫn về  PCCC đối với   NCT. d/ Đề cao chế độ cơ sở tự kiểm tra, tự đảm bảo các điều kiện an toàn  PCCC  ở  các NCT   theo các quy định, tiêu chuẩn hiện hành; Các hệ  thống  PCCC và lực lượng, phương tiện chữa cháy tại chỗ phải được hoàn thiện, có  tính chuyên nghiệp cao với phương châm tự cứu là chính. e/ Nâng cao chất lượng công tác thẩm duyệt thiết kế  và kiểm tra an   toàn PCCC đối với NCT, đảm bảo xem xét đầy đủ  các nội dung khi thẩm   duyệt thiết kế cũng như khi kiểm tra an toàn PCCC các nhà cao tầng. g/ Chuẩn bị  sẵn sàng phương án, lực lượng, phương tiện chữa cháy,  cứu hộ  cứu nạn đối với các NCT trong địa bàn quản lý với các tình huống  cháy phức tạp nhất và phù hợp với đặc điểm, tình hình của địa phương, có sự  phối hợp của nhiều lực lượng chuyên ngành nhằm giảm đến mức thấp nhất  thiệt hại về người và tài sản khi xảy ra cháy ở các nhà cao tầng. 5. Đề xuất các biện pháp nâng cao công tác PCCC cho nhà cao tầng  ở Việt Nam. 5.1. Mục đích của thiết kế an toàn phòng cháy và chữa cháy:  là bảo vệ  tính mạng con người, bảo vệ  tài sản và bảo đảm các hoạt động bên trong   công trình không bị gián đoạn. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức được rằng   việc  PCCC  không  phải   là  một  khoa   học  chính   xác.  Không  một  hệ   thống   PCCC nào có thể loại bỏ hoàn toàn ngọn lửa và bảo đảm sự an toàn tuyệt đối  về tài sản và tính mạng con người. Mục đích của thiết kế an toàn PCCC có thể đạt được nhờ: 1. Sử dụng các hệ thống dập lửa tự động và bằng tay theo cách thức đáng   tin cậy khi bắt đầu có hiện tượng cháy. 2. Sử  dụng các hệ  thống quản lý khói tin cậy để  giới hạn sự  lan truyền   khói. 7
  8. 3. Bố trí hợp lý các đường thoát hiểm và các khu vực lánh nạn cho tất cả  mọi người bên trong công trình kể cả người tàn tật. 4. Sử dụng kết cấu và vật liệu hoàn thiện có khả năng chịu lửa cao (theo  tiêu chuẩn và quy chuẩn hiện hành). 5. Cách ly và tăng cường sử dụng vòi phun dập lửa ở các khu vực có nguy   cơ cháy cao. Sử dụng các hệ thống báo cháy tự động để phát hiện tình huống khẩn cấp  và báo động cho những người bên trong công trình và cho nhân viên cứu   hỏa, đồng thời hướng dẫn thoát người khẩn cấp. 5.2  Đề xuất tăng cường công tác PCCC nhà cao tầng ở Việt Nam hiện nay Trước thực trạng về công tác PCCC ở các NCT hiện nay, để đề phòng  cháy nổ xẩy ra cũng như hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do cháy ở các   NCT, phải thực hiện ngay các biện pháp cấp bách sau:  a/ Về các giải pháp thoát nạn Phải đảm bảo yêu cầu thoát nạn nhanh chóng và an toàn khi xảy ra   cháy ở các NCT. Các NCT phải có đủ số lối thoát nạn theo quy định, tối thiểu   phải có 2 lối thoát từ mỗi tầng, các trường hợp có 1 lối thoát phải theo đúng   quy định của tiêu chuẩn. Lối thoát phải đủ  số  lượng, đủ  kích thước theo số  người  ở  tầng đông nhất, các buồng thang bộ  phải đảm bảo không bị   ảnh  hưởng của lửa, khói, nhiệt độ cao do đám cháy gây ra, được thông gió, chiếu  sáng và có ký hiệu chỉ dẫn; không để các đồ vật cản trở lối thoát, không tự  ý  làm rào chắn, cửa ngăn, khoá cửa trên lối thoát nạn; Cơ  sở  có người tàn tật,   người không tự thoát nạn được phải có phòng lánh nạn tạm thời để  chờ  lực  lượng ứng cứu. Phòng này phải đảm bảo ngăn cháy, chống khói, được thông  gió và chiếu sáng sự cố. b/ Các giải pháp phòng cháy, chống cháy lan Có giải pháp tách riêng biệt các hệ  thống điện sinh hoạt, hệ  thống   điện bảo vệ, hệ thống điện chiếu sáng sự cố và hệ  thống cấp điện cho máy  móc, thiết bị PCCC. Kiểm tra, khắc phục ngay các sai phạm, thiếu sót của hệ  thống điện. Các thiết bị  bảo vệ  và điều khiển hệ  thống điện (cầu dao, câu  8
  9. chì, áp tô mát, công tắc…), hệ  thống dây dẫn,  ổ  cắm điện phải đảm chất   lượng và thông số  phù hợp với dòng điện tiêu thụ, không để  xảy ra chạm   chập, quá tải gây ra cháy. Kiểm tra và lắp đặt bổ sung các bộ phận, thiết bị ngăn cháy như tường  ngăn cháy, cửa ngăn cháy  ở  hành lang, buồng thang,  ở  các phòng kỹ  thuật   điện, máy; sàn ngăn cháy  ở  các kênh, giếng kỹ  thuật; van ngăn cháy trong   đường ống thông gió; Hệ  thống chữa cháy tự  động sprinkler hoặc màn nước   ngăn cháy  ở  các khu vực có diện tích lớn vượt quá quy định tiêu chuẩn, có   nhiều chất cháy. Xây dựng và thực hiện nghiêm quy định an toàn PCCC trong các hoạt   động, sinh hoạt, sử dụng lửa trần, bảo quản sử dụng máy móc, thiết bị điện,  các chất cháy,nhiên liệu.v.v. đối với từng loại NCT (khách sạn, chung cư, văn  phòng…) c/ Hoàn thiện hệ thống PCCC, các điều kiện chữa cháy, cứu nạn Các hệ thống, trang thiết bị PCCC phải đảm bảo đầy đủ theo quy định  của tiêu chuẩn, trong đó hệ thống báo cháy và chữa cháy tự động, họng nước  và bình chữa cháy, thông gió hút khói, chiếu sáng sự cố là quan trọng đối với   các nhà cao hơn 10 tầng. Các NCT chưa có hoặc lắp đặt chưa đầy đủ  các hệ  thống trên phải lắp đặt bổ  sung đủ  theo yêu cầu của tiêu chuẩn. Có chế  độ  bảo dưỡng, kiểm tra định kỳ, thường xuyên để  đảm bảo cho các hệ  thống   này sẵn sàng hoạt động khi cháy xảy ra với chất lượng và hiệu quả cao nhất. Đảm bảo các điều kiện về  giao thông , nguồn nước phục vụ  chữa  cháy. Kiến nghị với chính quyền sở tại để giải quyết kịp thời các trường hợp   không có đường cho xe chữa cháy hoặc đường cho xe chữa cháy bị lấn chiếm,  không đảm bảo chiều rộng, chiều cao cho xe chữa cháy hoạt động, đặc biệt  là xe thang, kết cấu mặt đường, bãi phải chịu được tải trọng của xe. Các  trường hợp thiếu nguồn nước hoặc nguồn nước không đủ  phải kiến nghị cơ  sở hoặc chính quyền địa phương có biện pháp xây dựng bổ sung. Những NCT  không có điều kiện cứu hộ, cứu nạn bằng xe thang phải có giải pháp tăng  cường, bổ  sung các trang bị  cứu hộ  cứu nạn khác như  thang sắt ngoài nhà,  thang dây, ống tụt, dây cứu người, đệm hơi.v.v. 9
  10. d/ Tăng cường lực lượng, phương tiện chữa cháy tại chỗ trong NCT  Củng cố, huấn luyện, trang bị  cho lực lượng  chữa cháy cơ  sở, lực   lượng dân phòng thực sự vững mạnh, lập và tổ  chức thực tập thường xuyên  các phương án chữa cháy, cứu hộ, cứu nạn để  các lực lượng này có thể  dập  tắt kịp thời các đám cháy khi vừa mới xảy ra, đảm bảo an toàn về  người và  tài sản cho cơ sở. Tóm lại, công tác phòng cháy và chữa cháy (PCCC) sẽ không có ý nghĩa  nhiều nếu ý thức người sử dụng công trình kém, vì vậy Đảng  và Nhà nước   nói chung cũng như lực lượng phòng cháy và chữa cháy nói chung luôn ý thức   công tác xã hội hoá PCCC. 10
  11. 11
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1