Tiếp tục thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nhằm hướng tới một nền giáo dục thực chất ở nước ta
lượt xem 4
download
Bài viết "Tiếp tục thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nhằm hướng tới một nền giáo dục thực chất ở nước ta" khai thác những quan điểm của Đảng về giáo dục và đào tạo và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nhằm hướng tới một nền giáo dục thực chất, “học thật, thi thật, nhân tài thật”. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiếp tục thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nhằm hướng tới một nền giáo dục thực chất ở nước ta
- TIẾP TỤC THỰC HIỆN ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN GIÁO DỤC NHẰM HƯỚNG TỚI MỘT NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT Ở NƯỚC TA TS. Trần Thị Thu Hường* 1 Tóm tắt: Trong bối cảnh thế giới hiện nay, tác động của quá trình toàn cầu hóa, cách mạng khoa học và công nghệ, nền kinh tế tri thức đã tạo ra cho giáo dục và đào tạo một vai trò mới: Giáo dục và đào tạo vừa là động lực cho việc vận hành nền kinh tế tri thức, vừa là hạ tầng xã hội cho việc hình thành xã hội tri thức. Vì vậy, việc tiếp tục thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, hướng tới một nền giáo dục thực chất nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển con người toàn diện và chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay có ý nghĩa quan trọng. Bài viết khai thác những quan điểm của Đảng về giáo dục và đào tạo và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nhằm hướng tới một nền giáo dục thực chất, “học thật, thi thật, nhân tài thật”. Từ khóa: Đổi mới, căn bản, toàn diện, giáo dục và đào tạo, thực chất, nguồn nhân lực, Đảng Cộng sản. 1. MỞ ĐẦU Ngày nay, khi tri thức đã trở thành yếu tố hàng đầu để phát triển kinh tế tri thức thì các nước trên thế giới đều ý thức được rằng giáo dục và đào tạo là đòn bẩy quan trọng để đổi mới mô hình tăng trưởng và phát triển xã hội bền vững. Ở nước ta, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm, xác định rõ tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo, coi “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, “xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lí, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế trong hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc văn hóa dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực” [1, tr.14]. 2. NỘI DUNG 2.1. Bối cảnh hiện nay và yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục ở nước ta 2.1.1. Bối cảnh thế giới Hiện nay, thế giới đã chuẩn bị đi hết thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với những diễn biến mạnh mẽ, có tác động không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói * Học viện Ngân hàng.
- 558 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP chung và sự phát triển giáo dục của Việt Nam nói riêng. Có thể khái quát một số yếu tố chủ yếu ảnh hưởng tới giáo dục nước ta như: Một là, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra rất mạnh mẽ. Điều đó đòi hỏi các quốc gia phải thúc đẩy sự phát triển của nền giáo dục nước mình. Bởi lẽ, muốn hội nhập quốc tế sâu rộng và đi tới thành công, các quốc gia cần phải xây dựng nguồn nhân lực có tri thức, kỹ năng, phẩm chất cần thiết. Do đó, toàn cầu hóa cũng là một thách thức không nhỏ, đòi hỏi mỗi quốc gia cần có sự đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục của mình. Hai là, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ đã có tác động to lớn, làm thay đổi mọi lĩnh vực của đời sống con người, từ cách thức điều hành, quản lý xã hội đến cách thức con người sống và làm việc, sinh hoạt. Do đó, cuộc cách mạng này cũng sẽ làm thay đổi cách thức lao động trong lĩnh vực giáo dục. Ba là, sự hình thành của nền kinh tế tri thức, xã hội tri thức, trong đó, tri thức có vai trò quyết định đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự hình thành của nền kinh tế tri thức đòi hỏi giáo dục phải vượt khỏi những khuôn khổ truyền thống và không ngừng đổi mới, thích nghi và phát triển phù hợp với yêu cầu thực tiễn hiện nay. 2.1.2. Bối cảnh trong nước Một là, sau hơn 35 năm đổi mới đất nước, nền giáo dục nước ta đã có nhiều đóng góp trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy nhân tố con người nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong quá trình phát triển, nước ta ngày càng hội nhập sâu, rộng với thế giới, trở thành thành viên của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế như Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), (Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TTP)… Đây là cơ hội và thời cơ lớn để nước ta có điều kiện mở rộng thêm quan hệ hợp tác về giáo dục, tiếp cận với các xu thế mới, tri thức mới, những mô hình giáo dục và quản lý giáo dục hiện đại và tranh thủ thêm nhiều nguồn lực cho phát triển giáo dục. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó, giáo dục Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức to lớn: “Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo chưa cao. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đảm bảo tính đồng bộ và liên thông giữa các trình độ, các phương thức giáo dục và đào tạo. Nội dung, chương trình giáo dục và đào tạo còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành…. Chưa chú trọng đúng mức đến phát triển phẩm chất và kỹ năng người học. Giáo dục “làm người”, đạo đức, lối sống còn bị xem nhẹ… Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, trên một số mặt vẫn còn bất cập về chất lượng, số lượng, cơ cấu và chính sách đãi ngộ. Quản lý nhà nước và quản lý - quản trị nhà trường còn nhiều hạn chế” [12, tr.82-83]; phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập còn lạc hậu, chậm đổi mới, chưa thực chất “học thật, thi thật”.
- Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 559 Hai là, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, trong khi nguồn lực đầu tư cho giáo dục của Nhà nước cũng như phần lớn các gia đình ở nước ta còn hạn chế. Sự phát triển không đồng đều giữa các địa phương và khoảng cách sự phân hóa giàu nghèo giữa các nhóm dân cư đã dẫn đến thiếu bình đẳng về cơ hội tiếp cận giáo dục và chất lượng giáo dục có sự chênh lệch giữa các đối tượng người học và giữa các vùng miền. Ba là, khoảng cách phát triển về kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo giữa nước ta và các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới có xu hướng gia tăng. Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và sự phát triển của kinh tế thị trường làm nảy sinh nhiều nguy cơ tiềm ẩn như sự thâm nhập của lối sống thiếu lành mạnh, thực dụng; hiện tượng thương mại hóa giáo dục, sự xuất hiện các loại hình dịch vụ giáo dục kém chất lượng, tình trạng dạy thêm, học thêm, chạy trường, chạy điểm, bằng cấp giả… đã ảnh hưởng rất lớn đến việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc. Ngày nay, sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc gắn chặt với chính sách và chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là phát triển giáo dục. Vì vậy, nếu không đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, thì sẽ không thể đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao và đó chính là yếu tố cản trở sự phát triển của đất nước nói chung và giáo dục nói riêng. 2.2. Nội dung cơ bản về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục ở nước ta Việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam hiện nay là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo dục trước những đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Ở phạm vi bài viết này, tác giả khai thác quan điểm của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục ở một số nội dung: mục tiêu của giáo dục; nội dung, chương trình giáo dục; phương châm và phương pháp giáo dục; cơ chế quản lý giáo dục. Thứ nhất, về mục tiêu của giáo dục: Kế tục và phát triển tư tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh và thực hiện mong ước cao cả của Người là “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” [13, tr.512], ngay từ Đại hội lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ… Sự nghiệp giáo dục, nhất là giáo dục đại học và chuyên nghiệp, trực tiếp góp phần vào việc đổi mới công tác quản lý kinh tế và xã hội” [3, tr.89-90]. Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, đã có những thành tựu đạt được trong lĩnh
- 560 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP vực giáo dục và đào tạo như việc xác định mục tiêu, nội dung và phương pháp cũng như cơ cấu hệ thống giáo dục. Tuy nhiên, bên cạnh đó nền giáo dục nước ta chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém do trình độ kinh tế, do thiếu sự quan tâm đúng mức ở tầm chỉ đạo chiến lược và công tác quản lý của ngành giáo dục và đào tạo còn nhiều khuyết điểm và nhược điểm. Trước thực trạng đó, Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ mục tiêu giáo dục và đào tạo là “nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội” [4, tr.81]. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của giáo dục - đào tạo đối với sự phát triển đất nước trong điều kiện mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khỏe, là những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ” [6, tr.28-29]. Giáo dục và đào tạo trong điều kiện đổi mới hiện nay không chỉ nhằm mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, mà quan trọng là phải đào tạo ra những con người phát triển toàn diện, có trí tuệ, sức khỏe, đạo đức, lý tưởng chính trị, khả năng thẩm mỹ, năng lực sáng tạo. Do đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm tạo sự chuyển biến căn bản về chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu phát triển con người toàn diện và chất lượng nguồn nhân lực, bảo đảm sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, với mục tiêu tổng quát của đổi mới giáo dục là: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả…” [10]. Trên cơ sở đánh giá, tổng kết thành tựu của 30 năm đổi mới đất nước và việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XII về giáo dục và đào tạo, nêu rõ những thành tựu đã đạt được về thực hiện chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định việc cần thiết phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, nhằm phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của
- Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 561 giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ đối với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Để thực hiện được mục tiêu đó, phải “Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” [12, tr.136]. Thứ hai, về nội dung, chương trình giáo dục: Ngay từ Đại hội VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ nội dung của giáo dục là nâng cao chất lượng đào tạo chuyên môn và năng lực thực hành, đồng thời, phải coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, pháp luật, giáo dục thể chất và giáo dục quốc phòng. Trong bối cảnh đất nước có nhiều biến đổi, tình hình kinh tế - xã hội có những diễn biến phức tạp mới, vì vậy, giáo dục và đào tạo cần phải quan tâm đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn diện và có năng lực chuyên môn sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần... Đồng thời, coi trọng chất lượng giáo dục chính trị, đạo đức cho học sinh và sinh viên; đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại; nâng cao trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật cho người lao động. Khi đất nước bước sang thời kỳ mới - đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng xác định: “... lựa chọn những nội dung có tính cơ bản, hiện đại. Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc; ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước” [6, tr.109]. Trước bối cảnh lịch sử mới và những yêu cầu, đòi hỏi của sự phát triển đất nước trong những năm đầu của thế kỷ XXI, xác định phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản quyết định đối với sự phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng giáo dục con người phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, năng lực, sức khỏe. Vì vậy, cần “Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên. Cải tiến việc giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề” [7, tr.110-111]. Đồng thời, “Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại” [8, tr.206-207]. Sau 20 thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991 và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, đất nước nước đã thực hiện thành
- 562 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Song, để phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Do vậy, phải “coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội” [9, tr.216]. Đặc biệt, Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã nêu rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội; phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan” [1, tr.13]. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Đảng xác định xây dựng văn hóa, con người là nền tảng tinh thần, vì vậy, phải: “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo hướng mở, hội nhập, xây dựng xã hội học tập, phát triển toàn diện năng lực, thể chất, nhân cách, đạo đức, lối sống, ý thức tôn trọng pháp luật và trách nhiệm công dân” [11, tr.296], có ý thức dân tộc, ý thức bảo vệ môi trường sinh thái, có phong cách sống hiện đại, có tác phong công nghiệp, lao động cần cù, khoa học, có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa và có tinh thần quốc tế chân chính. Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước đứng trước nhiều thời cơ và thách thức mới, đặc biệt đại dịch Covid-19 đã lan rộng ra các nước trên thế giới và ở nước ta, Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định rõ thêm: “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ... Gắn giáo dục tri thức, đạo đức, thẩm mỹ, kỹ năng sống với giáo dục thể chất, nâng cao tầm vóc con người Việt Nam... Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)” [12, tr.136-137, 233] đáp ứng yêu cầu sự biến đổi của thực tiễn đất nước và thế giới.
- Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 563 Thứ ba, về phương châm và phương pháp giáo dục: Đây là yếu tố cơ bản có ảnh hưởng rất lớn và giữ vị trí cốt yếu đối với việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục. Vì vậy, trong nhiều năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng phương châm và phương pháp giáo dục: “Kết hợp giảng dạy, học tập với lao động sản xuất, thực nghiệm và nghiên cứu khoa học, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. Chuẩn bị cho thanh niên bước vào cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu, hiểu và làm tốt nghĩa vụ công dân” [3, tr.90]. Đặc biệt, quan tâm đổi mới phương pháp giáo dục phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể: “Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình đào tạo; phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp. Ngăn chặn và xử lý nghiêm những tiêu cực trong giảng dạy, học tập, thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ giả” [5, tr.109]. Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học gắn với đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục theo hướng đánh giá năng lực người học, sử dụng phổ biến và triệt để các phương pháp giáo dục và đào tạo tiên tiến theo hướng kết hợp hiện đại với truyền thống. Chú trọng đào tạo và rèn luyện kỹ năng, phương pháp làm việc trong từng cấp học theo hướng tăng khả năng tự tìm và biết vận dụng tri thức vào thực tiễn cuộc sống; giúp người học có khả năng thích ứng cao với sự biến đổi của thực tiễn, từ đó hình thành động lực tự học, để họ tự hoàn thiện bản thân; chú trọng việc đánh giá chất lượng giáo dục thông qua việc đánh giá chất lượng dạy của thầy và học trò đúng thực chất, nhằm tạo động lực nâng cao chất lượng dạy và học như Nghị quyết số 29- NQ/TW đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học” [10]. Trong điều kiện đổi mới hiện nay, để xây dựng và thực hiện có hiệu quả chiến lược hợp tác và hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo, để giáo dục và đạo tạo ở nước ta bắt kịp với trình độ tiên tiến của thế giới, tham gia vào thị trường đào tạo nhân lực quốc tế, bên cạnh việc đổi mới nội dung, chương trình, cần quan tâm đổi mới phương pháp, hình thức giáo dục “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; từ chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý dạy và học trực tuyến, qua Internet, truyền hình, các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội” [12, tr.232]. Vận dụng các phương pháp giáo dục đa dạng, linh hoạt, phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh, ưu tiên cho thực hành; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức
- 564 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP với phương châm “giảng ít, học nhiều”, “học đi đôi với hành”; chú trọng hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục trong nhà trường, rèn luyện phương pháp tự học và mong muốn học suốt đời; chú trọng rèn luyện năng lực tự học, tự nghiên cứu, kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng làm việc nhóm. Thứ tư, về cơ chế quản lý giáo dục: Mỗi cơ sở giáo dục cần gắn với nhu cầu thị trường, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở giáo dục. Tự chủ đại học là một hướng đi đúng và cần đẩy mạnh thực hiện trong thời gian tới nhằm tạo cơ chế thúc đẩy sự phát triển và hội nhập của giáo dục đại học. Tăng cường quản lý nhà nước song song với tăng cường tính tự chủ của các cơ sở giáo dục, thể hiện ở trách nhiệm giải trình, ở kiểm định chất lượng, ở kết quả đào tạo và khả năng đáp ứng yêu cầu của xã hội về giáo dục. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các cấp, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý, kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục. 2.3. Một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nhằm hướng tới một nền giáo dục thực chất ở nước ta hiện nay Thứ nhất, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc thực hiện chủ trương của Đảng đối với việc thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo là vai trò, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn xã hội là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị. Vì vậy “Các cấp uỷ và tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế, xã hội, các gia đình và các cá nhân đều có trách nhiệm góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục - đào tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong từng cộng đồng, từng tập thể” [6, tr.30]. Trước hết, phải phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong việc xây dựng, triển khai thực hiện kế hoạch. Đồng thời, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, của người học, gia đình và xã hội trong việc thực hiện các nhiệm vụ và nội dung đổi mới giáo dục và đào tạo. Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là động lực, nhân tố đảm bảo cho lợi thế giáo dục nước ta phát triển và cạnh tranh được với nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Suy đến cùng, chất lượng giáo dục như thế nào phần lớn phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Do vậy, “phải đặc biệt chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và tiêu chuẩn hoá đội ngũ giáo viên cũng như cán bộ quản lý giáo dục cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ... Phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo”, sử dụng giáo viên đúng năng
- Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 565 lực, đãi ngộ theo tài năng và cống hiến với tinh thần ưu đãi và tôn vinh nghề dạy học” [6, tr.13]. Cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục; thực hiện chuẩn hóa, đảm bảo đồng bộ về cơ cấu đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý ở các trường học; tạo điều kiện cho đội ngũ nhà giáo được tham quan học tập mô hình dạy học mới; đổi mới phương pháp bồi dưỡng về năng lực sư phạm cho nhà giáo nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, thay sách giáo khoa mới. Thứ ba, đổi mới công tác quản lý giáo dục và đào tạo. Đổi mới công tác quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, bảo đảm tính dân chủ, thống nhất, tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, coi trọng quản lý chất lượng; nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở giáo dục trong quản lý, điều hành, thực hiện nhiệm vụ. Nâng cao năng lực quản lý ở cơ sở giáo dục, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục; phân cấp quản lý triệt để và phối hợp giữa các bộ, ban, ngành và địa phương trong quản lý giáo dục theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền gắn với trách nhiệm nhằm đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về giáo dục; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các cơ sở giáo dục, nhất là cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Thứ tư, đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng giáo dục “mở”, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Tăng cường đầu tư, phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục để xây dựng một hệ thống giáo dục mở, tạo điều kiện, cơ hội học tập cho mọi đối tượng có nhu cầu học tập, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập, các tổ chức trong xã hội đều tham gia vào quá trình giáo dục; chú trọng quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Hoàn thiện cơ chế, thể chế “học tập suốt đời”, “xây dựng xã hội học tập”, củng cố vững chắc phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở, xóa mù chữ, phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Thứ năm, đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, huy động mọi nguồn lực để phát triển giáo dục. Sự nghiệp đổi mới nền kinh tế ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Song, thực trạng nền kinh tế còn gặp những khó khăn, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng tăng đầu tư ngân sách cho giáo dục, song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp phát triển giáo dục. Do đó, một mặt, phải tiếp tục tăng nguồn đầu tư của Nhà nước cho giáo dục; mặt khác, phải bằng con đường huy động nguồn lực đầu tư khác từ các lực lượng trong xã hội, các cá nhân cho giáo dục, thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học ở các nhà trường, nhất là các trường đại học, học viện.
- 566 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Thứ sáu, đẩy mạnh các cơ chế bảo đảm chất lượng giáo dục, coi trọng “học thật, thi thật, nhân tài thật”. Để đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động cần phải tăng cường các cơ chế bảo đảm chất lượng, trong đó kiểm định chất lượng giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng, là điều kiện cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo và vị thế của các nhà trường, làm cơ sở cho người học lựa chọn trường, chương trình đào tạo, đồng thời tạo cơ hội cho các nhà tuyển dụng lao động tuyển chọn nhân lực. Đây cũng chính là một hình thức quảng bá tốt nhất đối với “thương hiệu” của các trường, đặc biệt đối với trường đại học. Chống bệnh thành tích, hư học, hư danh, coi trọng “học thật, thi thật, nhân tài thật”, đảm bảo người học sau khi tốt nghiệp có đủ năng lực và phẩm chất cần thiết để sống và làm việc. 3. KẾT LUẬN Có thể nói, trong bối cảnh đổi mới hiện nay, nhất là sự tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thực tiễn có vai trò quan trọng. Vì vậy, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế thực sự là bước đột phá, bước ngoặt quan trọng để nhằm hướng tới một nền giáo dục thực chất, để nền giáo dục nước ta có thể cạnh tranh được với nền giáo dục của các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Đây cũng là sự đóng góp quan trọng của ngành Giáo dục trong công cuộc xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013), Hỏi - đáp về một số nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, NXB Giáo dục Việt Nam. 2. Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010 (2002), NXB Giáo dục, Hà Nội. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 567 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, NXB Chính trị Quốc gia, Sự thật, Hà Nội. 13. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Kỷ yếu hội nghị: Sơ kết 5 năm thực hiện nghị quyết số 23 - NQ/TW ngày 16/6/2008 của bộ chính trị về việc "Tiếp tục và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ đổi mới"
137 p | 280 | 35
-
Một số kết quả thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ở Đảng bộ Đại học Huế
7 p | 98 | 12
-
Thực hiện chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo (1986-2011): Phần 2
99 p | 59 | 8
-
Đổi mới giáo dục quốc phòng và tư duy lý luận của Đảng ta trong tình hình hiện nay: Phần 2
71 p | 83 | 7
-
Tiếp tục đổi mới đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội (19911995)
11 p | 87 | 5
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (1930-1975): Phần 2 (xuất bản năm 2010)
107 p | 11 | 4
-
Quản lý hoạt động dạy học tại các trung tâm giáo dục nghề nghiệp giáo dục thường xuyên cấp huyện trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
7 p | 61 | 4
-
Ebook Quảng Ninh 30 năm đổi mới cùng đất nước (1986-2016): Phần 2
92 p | 8 | 4
-
Phát triển hệ thống đổi mới Quốc gia đối với việc nâng cấp liên tục năng lực công nghệ ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải pháp
7 p | 36 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngam La (1945-2020): Phần 2
73 p | 7 | 3
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Nam Giang (1975-2005): Phần 2
226 p | 7 | 3
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Định (1975-2005): Phần 2
262 p | 9 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ phường Đức Thắng (1975 - 2010): Phần 2 (Tập 2)
179 p | 7 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Núi Thành (1975-2020): Phần 2
286 p | 11 | 2
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (1965-2000): Phần 2 (Tập 2)
235 p | 6 | 2
-
Sự tương đồng và khác biệt trong cảm nhận của giáo viên, cán bộ quản lí về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
8 p | 44 | 2
-
Đổi mới phương pháp dạy học chuyên ngành Giáo dục mầm non ở Trường Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang theo hướng tiếp cận năng lực người học
3 p | 21 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn