intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Chia sẻ: Bcjxc Gdfgf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:66

210
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thế giới trong một thế kỷ vừa qua đã chứng kiến nhiều đợt bùng phát lạm phát ở nhiều nước. Trong các đợt lạm phát này, đồng tiền mất giá, giá cả hàng hóa tăng vọt và kèm theo rất nhiều hệ lụy. Đối với Việt Nam, trong một vài thập kỷ vừa qua, kể từ khi đổi mới nền kinh tế, ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

  1. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Tiểu luận Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 1
  2. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................................ 4 I. Lý luận chung về lạm phát ......................................................................................... 5 I.1 Khái niệm về lạm phát và cách tính lạm phát ......................................................5 I.1.1 Khái niệm lạm phát .................................................................................. 5 1.1.2 Cách tính lạm phát .................................................................................. 5 I.2 Phân loại lạm phát ...............................................................................................6 I.2.1 Xét về mặt định lượng .............................................................................. 6 I.2.2 Xét về mặt định tính ................................................................................. 7 I.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát .............................................................................8 I.3.1 Lạm phát do cầu kéo ................................................................................ 8 I.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy ........................................................................... 9 I.3.3 Lạm phát ỳ ............................................................................................. 10 I.3.4 Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ ..................................................... 11 I.4 Tác động của lạm phát ...................................................................................... 12 I.5 Biện pháp khắc phục lạm phát ........................................................................... 13 II. Vài nét về lạm phát trên thế giới và thực trạng lạm phát ở Việt Nam.................. 14 II.1 Vài nét về lạm phát trên thế giới ...................................................................... 14 II.2 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ năm 1986 đến 2011 ..................................19 II.2.1 Sơ lược lạm phát từ năm 1986 đến 2011 ............................................... 19 II.2.2 Nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2011 ........... 23 II.2.3 Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam ............................ 28 II.3 Lạm phát 2 tháng đầu năm và nhận diện lạm phát trong năm 2012 .................. 32 III. Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và đề xuất chính sách thời gian tới ........................................................................................ 35 III.1 Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong năm 2011 ...................... 35 III.1.1 Chính sách tiền tệ ................................................................................ 35 III.1.1.1 Lãi suất ....................................................................................... 36 III.1.1.2 Nghiệp vụ thị trường mở.............................................................. 38 Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 2
  3. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật III.1.1.3 Quản lý tín dụng ngân hàng ........................................................ 39 III.1.1.4 Điều hành thị trường ngoại hối và tỷ giá ..................................... 40 III.1.1.5 Kiểm soát và điều hành thị trường vàng ...................................... 42 III.1.2 Chính sách tài khóa ............................................................................. 44 III.1.3 Các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất .................................. 47 III.1.3.1 Thúc đẩy sản xuất kinh doanh ..................................................... 47 III.1.3.2 Quản lý giá cả các mặt hàng thiết yếu ......................................... 48 III.1.3.3 Quản lý cán cân thương mại........................................................ 48 III.1.4 Thực hiện các chính sách về an sinh xã hội .................................... 50 III.2 Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong năm 2012 ...................... 50 III.2.1 Chính sách tiền tệ - Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng linh hoạt ......................................................................................................... 51 III.2.1.1 Lãi suất ....................................................................................... 51 III.2.1.2 Quản lý tín dụng ngân hàng ........................................................ 52 III.2.1.3 Điều hành tỷ giá .......................................................................... 52 III.2.1.4 Dự trữ ngoại hối, kiểm soát và điều hành thị trường vàng và ngoại hối ............................................................................................................ 52 III.2.2 Chính sách tài khóa – thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ hiệu quả 52 III.2.2.1 Thuế và các khoản thu ngân sách của chính phủ ......................... 52 III.2.2.2 Các khoản chi của chính phủ....................................................... 53 III.2.3 Các biện pháp hỗ trợ, ổn định đời sống và sản xuất ............................. 54 III.2.3.1 Thúc đẩy sản xuất kinh doanh ..................................................... 54 III.2.3.2 Quản lý giá cả các mặt hàng thiết yếu ......................................... 54 III.2.3.3 Quản lý cán cân thương mại........................................................ 55 III.2.3.4 Nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước .................................... 56 III.3 Đề xuất một số chính sách kiểm soát lạm phát cho Việt Nam trong thời gian sắp tới .................................................................................................................... 56 KẾT LUẬN ................................................................................................................... 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 66 Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 3
  4. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật LỜI NÓI ĐẦU Thế giới trong một thế kỷ vừa qua đã chứng kiến nhiều đợt bùng phát lạm phát ở nhiều nước. Trong các đợt lạm phát này, đồng tiền mất giá, giá cả hàng hóa tăng vọt và kèm theo rất nhiều hệ lụy. Đối với Việt Nam, trong một vài thập kỷ vừa qua, kể từ khi đổi mới nền kinh tế, cũng đã trải qua nhiều đợt bùng phát lạm phát và lạm phát hằng năm thường ở mức cao. Theo phân tích của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và một số thành viên Chính phủ, trong các nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao thì các nguyên nhân nội tại là chủ yếu, trong đó nguyên nhân chính yếu là do chính sách tài chính tiền tệ nới lỏng kéo dài (Cổng thông tin điện tử chính phủ VGP). Việc tìm ra đúng nguyên nhân là một điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn là có chính sách đúng đắn để kiềm chế lạm phát và hơn nữa chính sách cũng phải linh hoạt uyển chuyển tùy thuộc vào tình hình thực tế. Hiện tại vấn đề điều hành của chính phủ nhằm kiềm chế và giảm lạm phát vẫn đang là một vấn đề nhiều khó khăn. Để có cái nhìn thấu đáo về nguyên nhân lạm phát và nắm được các chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là gì? hiệu quả của các chính sách như thế nào? Thông qua tiểu luận “Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” hy vọng sẽ làm rõ được phần nào câu hỏi trên. Nội dung tiểu luận gồm 3 phần: - Phần I: Lý luận chung về lạm phát - Phần II: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam - Phần III: Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Hy vọng bài tiểu luận này mang đến cho các bạn một lượng kiến thức nhỏ. Trong quá trình làm tiểu luận có những sai sót mong nhận được sự góp ý quý giá từ thầy cùng tất cả các bạn để tiểu luận được hoàn thiện hơn, rút được kinh nghiệm cho nhóm sau khi nghiên cứu đề tài này. Nhóm 2 xin chân thành cảm ơn. Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 4
  5. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật I. Lý luận chung về lạm phát I.1 Khái niệm về lạm phát và cách tính lạm phát I.1.1 Khái niệm lạm phát Theo các sách giáo khoa về tiền tệ, lạm phát được coi là hiện tượng giấy bạc lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, dẫn đến giá cả của hầu hết các hàng hoá trong lưu thông không ngừng tăng lên. Nghĩa nguyên gốc “lạm phát” là việc lạm dụng phát hành tiền tệ (in nhiều giấy bạc hơn mức cần thiết) làm cho khối lượng tiền tệ trong lưu thông thừa tương đối, dẫn đến giá cả một đơn vị hàng hoá tăng lên tương ứng và do đó, làm suy giảm sức mua của đồng tiền. Đây có thể coi là khái niệm nguyên bản về lạm phát (inflation). Tuy nhiên, việc xác định khối lượng “đúng” của tiền tệ cần thiết cho lưu thông là bất khả thi vì tổng lượng hàng hoá, dịch vụ luân chuyển luôn biến động, vòng quay của đồng tiền không ổn định, mục đích sử dụng tiền cũng luôn luôn thay đổi. Do đó, người ta chỉ có thể nhận diện được lạm phát khi có dấu hiệu giá cả hàng hoá dịch vụ gia tăng một cách có hệ thống mà song song với nó là sự suy giảm sức mua của đồng tiền. Ví dụ: Lạm phát vào thời điểm tháng 10/2008 của Zimbabwe lên tới 231 triệu % làm cho giá 1 ổ bánh mì lên tới 10.000 đôla. 1.1.2 Cách tính lạm phát Lạm phát được đo bằng hai chỉ tiêu cơ bản là chỉ số giá tiêu dung CPI (Consumer price index) và chỉ số khử lạm phát GDP (GDP deflator). - Cách tính CPI sẽ dựa trên một rổ hàng hóa tiêu dùng (goods basket) và giá cả của những hàng hóa trong rổ ở hai thời điểm khác nhau. Từ đó, chỉ số lạm phát được tính như sau: CPIt – CPI0 Chỉ số lạm phát năm t = CPI0 - Cách tính GDPf thì căn cứ vào toàn bộ khối lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong một năm và giá cả ở hai thời điểm khác nhau, thông thường theo ngôn ngữ thống kê là giá cố định (constant price) và giá hiện hành (current price). Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 5
  6. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật GDPdanh nghĩa GDPf = x 100% GDPthực tế GDPft – GDPf0 Chỉ số lạm phát năm t = GDPf0 Phương pháp GDP deflator sẽ tính lạm phát chính xác hơn theo định nghĩa của lạm phát. Tuy nhiên, CPI sẽ có ưu điểm là tính được lạm phát tại bất kỳ thời điểm nào căn cứ vào rổ hàng hóa, còn GDP deflator thì chỉ tính được lạm phát của một năm sau khi có báo cáo về GDP của năm đó. I.2 Phân loại lạm phát Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau: I.2.1 Xét về mặt định lượng Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ % lạm phát tính theo năm, người ta chia lạm phát ra thành: a. Thiểu phát Thiểu phát là sự lên giá của đồng tiền, hay giá cả hàng hoá và dịch vụ giảm. Đây là tình trạng lạm phát ở tỷ lệ rất thấp, khoảng dưới 3-4%/năm. Có hai điểm đáng chú ý trong thời gian thiểu phát. Điểm thứ nhất, người tiêu dùng có tâm lý chờ đợi giá sẽ giảm xuống nữa nên chưa mua, làm giảm nhu cầu đối với sản xuất. Điểm thứ hai là hàng nhập khẩu giá rẻ sẽ gia tăng, và sẽ càng mạnh nếu trên thế giới cũng bị thiểu phát. Khi đó, nhập siêu sẽ gia tăng, mà lại là nhập siêu giảm phát, làm cho sản xuất trong nước càng trì trệ. b. Lạm phát vừa phải (Lạm phát 1 con số mỗi năm) Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu hiện: Giá cả tăng chậm, lãi xuất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hóa với số lượng lớn … Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, những tác động Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 6
  7. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật của nó là không đáng kể. c. Lạm phát phi mã (Lạm phát 2,3 con số mỗi năm) Khi tỷ lệ tăng, giá đã bắt đầu tăng đến 2 chữ số mỗi năm. Ở mức lạm phát 2 chữ số thấp (11,12,13%/năm), nói chung những tác động tiêu cực của nó là không đáng kể, nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức 2 chữ số cao hoặc ở mức 3 con số, lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó là không nhỏ. Lúc đó lạm phát 2,3 chữ số sẽ trở thành mối đe dọa đến sự ổn định của nền kinh tế. Ở mức 2,3 chữ số, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhah chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hóa. Lúc này người dân tích trữ hàng hóa, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. d. Siêu lạm phát (Lạm phát 4 con số trở lên) Siêu lạm phát có tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng nhanh. Với siêu lạm phát, những tác động tiêu cực của nó đến đời sống và đến nền kinh trở nên nghiêm trọng: kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng, đồng tiền mất giá nghiêm trọng, thu nhập thực tế của người lao động giảm mạnh, mọi thứ đều trở nên khan hiếm trừ tiền giấy… dẫn đến đời sống kinh tế của người dân trở nên khó khăn. I.2.2 Xét về mặt định tính: Xét về mặt định tính, lạm phát bao gồm: a. Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng - Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy loại lạm phát này không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động. - Lạm phát không cân bằng: tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập, trên thực tế lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất. b. Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường: - Lạm phát dự đoán trước: Đây là loại lạm phát xảy ra trong một thời gian tương đối dài với tỷ lệ lạm phát tăng hàng năm khá đều đặnvà ổn định. Do vậy, người ta có thể dự đoán trước được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp theo.Về mặt tâm lý, người dân đã Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 7
  8. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật quen với tình hình lạm phát đó và người ta đã có những chuẩn bị để thích nghi với tình trạng lạm phát này. - Lạm phát bất thường: Là lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa từng xuất hiện. Do vậy tâm lý, cuộc sống và thói quen của người dân đều chưa thích ứng được. Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người dân vào chính quyền. I.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát I.3.1 Lạm phát do cầu kéo Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc vượt quá mức tự nhiên. Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về tiêu dùng và đầu tư. Chẳng hạn, khi có những làn sóng mua sắm mới làm tăng mạnh tiêu dùng, giá cả của những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạm phát dâng lên và ngược lại. Tương tự, lạm phát cũng phụ thuộc vào sự biến động trong nhu cầu đầu tư: sự lạc quan của các nhà đầu tư làm tăng nhu cầu đầu tư và do đó đẩy mức giá tăng lên. Khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng. Ngược lại, khi chính phủ quyết định cắt giảm các chương trình chi tiêu công cộng, hoặc các công trình đầu tư lớn đã kết thúc, thì mức giá sẽ giảm. Hình 1 Lạm phát do cầu kéo Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Khi nhu cầu xuất khẩu tăng, lượng còn lại để cung ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng mức giá trong nước. Ngoài ra, nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn chảy vào cũng có thể gây ra lạm phát, đặc biệt Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 8
  9. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, vì điều này có thể là nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng lượng tiền cung ứng 2. Tình hình ngược lại sẽ xảy ra khi nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn nước ngoài chảy vào giảm do nền kinh tế thế giới hay trong khu vực lâm vào suy thoái. Lạm phát do cầu kéo sẽ không phải là vấn đề mà thực ra còn cần thiết và có lợi cho nền kinh tế nếu như nền kinh tế còn nhiều nguồn lực chưa sử dụng như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ AD0 đến AD1: lạm phát sẽ khá thấp trong khi sản lượng và việc làm sẽ tăng đáng kể. Ngược lại, lạm phát do cầu kéo sẽ trở thành vấn đề thực sự nếu như toàn bộ nguồn lực đã sử dụng hết và đường tổng cung trở nên rất dốc như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2. Khi đó, sự gia tăng tổng cầu chủ yếu đẩy lạm phát dâng cao trong khi sản lượng và việc làm tăng lên rất ít. I.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn bộ nền kinh tế. Trong đồ thị tổng cung-tổng cầu, một cú sốc như vậy sẽ làm đường tổng cung dịch chuyển lên trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi biến số kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế đều biến động theo chiều hướng bất lợi: sản lượng giảm, cả thất nghiệp và lạm phát đều tăng. Chính vì vậy, loại lạm phát này được gọi là lạm phát do chi phí đẩy hay lạm phát đi kèm suy thoái. Ba loại chi phí thường gây ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên liệu nhập khẩu. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện. Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản xuất cũng có thể gây ra lạm phát. Ở đây, thuế gián thu (kể cả thuế nhập khẩu, các loại lệ phí bắt buộc) đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, vì chúng tác động trực tiếp tới giá cả hàng hóa. Nếu so sánh với các nước phát triển là những nước có tỷ lệ thuế trực thu cao, thì ở các nước đang phát triển, nơi mà thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn thu từ thuế, thay đổi thuế gián thu dường như có tác động mạnh hơn tới lạm phát. Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 9
  10. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Hình 2 Lạm phát do chi phí đẩy Đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên, nhiên, vật liệu thiết yếu mà nền công nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi giá của chúng (có thể do giá quốc tế thay đổi hoặc tỷ giá hối đoái biến động) sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình lạm phát trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh trên thị trường thế giới hay đồng nội tệ giảm giá mạnh trên thị trường tài chính quốc tế, thì chi phí sản xuất trong nước sẽ tăng mạnh và lạm phát sẽ bùng nổ. I.3.3 Lạm phát ỳ Trong các nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa phải có xu hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm, mức giá tăng lên theo một tỷ lệ khá ổn định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là loại lạm phát hoàn toàn được dự tính trước. Mọi người đã biết trước và tính đến khi thỏa thuận về các biến danh nghĩa được thanh toán trong tương lai. Hình 3 Lạm phát ỳ Hình 3 cho thấy lạm phát ỳ xảy ra như thế nào. Cả đường tổng cung và đường tổng cầu cùng dịch chuyển lên trên với tốc độ như nhau. Sản lượng luôn được duy trì ở mức tự nhiên, trong khi mức giá tăng với một tỷ lệ ổn định theo thời gian. Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 10
  11. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật I.3.4 Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ Lý thuyết tiền tệ là cách giải thích thuyết phục nhất về nguồn gốc sâu xa của hiện tượng lạm phát. Những nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát là do lượng cung tiền thừa quá nhiều trong lưu thông gây ra, và được giải thích bằng phương trình số lượng sau: M.V = P.Y Trong đó: - M: lượng cung tiền danh nghĩa - V: tốc độ lưu thông tiền tệ - P: chỉ số giá tiêu dùng - Y: sản lượng thực Do đó nhóm nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ cổ điển cho rằng giá cả phụ thuộc vào lượng tiền phát hành. Khi lượng cung tiền tăng lên thì mức giá cũng tăng theo cùng tỷ lệ, lạm phát xảy ra. Thuyết này chỉ đúng khi cả V và Y không đổi. Nhóm nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ trọng tiền hiện đại, tiêu biểu là Milton Friedman cho rằng: Khi dự đoán được tốc độ tăng trưởng của Y hàng năm và tốc độ lưu thông tiền tệ ổn định, thì chúng ta có thể xác định tỷ lệ tăng lượng cung tiền tương ứng mà không gây ra lạm phát. Do đó ông đưa ra quy tắc tiền tệ: Khi Y tăng theo tỷ lệ ổn định thì chính sách tốt nhất là tăng lượng cung tiền theo một tỷ lệ không đổi đã định thì P sẽ ổn định. Tuy nhiên trong thực tế tốc độ tăng trưởng của Y là không ổn định, tốc độ lưu thông của V cũng thay đổi, nên chỉ khi tốc độ tăng của tổng khối tiền tệ hằng năm (M, V) nhanh hơn tốc độ tăng của Y thì P sẽ tăng lên và lạm phát sẽ xảy ra. Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 11
  12. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Hình 4 sử dụng số liệu tăng tiền và tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Việt Nam từ năm 1987 đến năm 2007. Số liệu này xác minh mối tương quan dương giữa tỷ lệ tăng tiền và tỷ lệ lạm phát. Những năm Việt Nam có tỷ lệ tăng cung tiền cao có xu hướng đi kèm với lạm phát cao, còn những năm có tỷ lệ tỷ lệ tăng cung tiền thấp có xu hướng đi kèm với lạm phát thấp. I.4 Tác động của lạm phát  Chi phí mòn giày: Do khi lạm phát cao xảy ra, để tránh thiệt hại lượng tiền mọi người cần giữ sẽ giảm thiểu và do đó số lần đi đến ngân hàng sẽ tăng lên, hao tốn công sức và lãng phí thời gian.  Chi phí thực đơn – tác động đến lĩnh vực sản xuất Tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và giá đầu ra biến động không ngừng gây ra sự mất ổn định đối với nhà sản xuất, chi phí sản xuất tăng cao. Sự mất giá của đồng tiền làm cho nghiệp vụ kế toán không còn chính xác nữa. Những doanh nghiệp có tỷ xuất lợi nhuận thấp sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.  Tác động đến lĩnh vực lưu thông Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ, tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hóa, làm mất cân đối quan hệ cung cầu trên thị trường. Đồng thời do đồng tiền đang bị mất giá nên không ai muốn giữ tiền. Tiền nhanh chóng bị đẩy ra kênh lưu thông. Do có nhiều người tham gia vào lưu thông nên lĩnh vực này trỏ nên hỗn loạn, tốc độ lưu thông tiền tăng vọt và điều này càng thúc đẩy lạm phát gia tăng.  Tác động đến lĩnh vực tiền tệ, tín dụng Lạm phát làm cho quan hệ thương mại, tín dụng, ngân hàng bị thu hẹp. Lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc giảm sút quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những các nhân, doanh nghiệp đang có lượng tiền nhàn rỗi trong tay. Ngân hàng gặp khó khăn trong viêc huy động vốn, hệ thông ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mức lãi suất ổn định. Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Khi tỷ lệ lạm phát cao, muốn lãi suất thực tế ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 12
  13. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật lệ lạm phát. Trong khi đó, người đi vay là những người có lợi từ sự mất giá của đồng tiền. Do vậy hoạt động của hệ thống ngân hang không còn bình thường nữa, chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế.  Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của nhà nước Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa. Khi lạm phát xảy ra thì những thộng tin trong xã hội bị phả hủy do biến động của giá cả và làm cho thị trường bị rối loạn. Khi đó khó cố thể phân biệt được doanh nghiệp làm ăn tốt hay kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu vốn, giảm các nguồn thu. Do đó, các khoản chuyển nhượng, trợ cấp, phúc lợi xã hội hay các khoản đầu tư của nhà nước trong các ngành nghề, lĩnh vực đều bị cắt giảm. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiên và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện.  Tác động làm phân phối lại của cải trong xã hội Lạm phát có xu hướng phân phối lại của cải từ những người có tài sản với lãi suất danh nghĩa cố định sang tay những người có những khoản nợ với lãi suất danh nghĩa cố định. I.5 Biện pháp khắc phục lạm phát  Lạm phát do cầu: Khi xảy ra lạm phát cao, sản lượng lương thực vượt quá sản lượng tiềm năng, nền kinh tế phát triển quá nóng, phải tìm biện pháp giảm lạm phát, ổn định nền kinh tế là giảm tổng cầu, bằng cách: - Áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp: giảm chi tiêu ngân sách, tăng thuế. - Áp dụng chính sách tiền tệ thu hẹp: giảm mức cung tiền, tăng lãi suất.. Kết quả tổng cầu sụt giảm, đường AD dịch chuyển sang trái, mức giá giảm, sản lượng giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng.  Lạm phát do cung: Phải làm tăng tổng cung, giảm chi phí sản xuất bằng cách: - Tìm nguyên liệu mới rẻ tiền thay cho nguyên liệu cũ đắt tiền. - Giảm thuế, giảm lãi suất. Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 13
  14. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật - Cải tiến kỹ thuật sản xuất, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm chi phí. - Nâng cao trình độ quản lý : tổ chức lao động khoa học và hợp lý hóa sản xuất. Kết quả là chi phí sản xuất của nền kinh tế sẽ giảm xuống, đường AS dịch chuyển sang phải, mức giá giảm, sản lượng tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm. II. Vài nét về lạm phát trên thế giới và thực trạng lạm phát ở Việt Nam II.1 Vài nét về lạm phát trên thế giới Lịch sử thế giới đã từng trải qua 15 lần siêu lạm phát tại Đông Âu và Trung Á trong đó trong thế kỷ 20 đã trải qua siêu lạm phát 5 lần tại Mỹ - Latinh, 4 lần tại Tây Âu, 1 lần tại Đông Nam Á và 1 lần tại châu Phi. Siêu lạm phát đầu tiên trên thế giới xảy ra vào thời kỳ Cách mạng Pháp thế kỷ 18 (1789 – 1799) khi đó lạm phát theo tháng lên mức 143%. Thế nhưng phải đến thế kỷ 20 loại lạm phát vượt tầm kiểm soát này mới trở lại. Trong những biến cố về hệ thống tiền tệ của lịch sử nhân loại, có 2 thảm kịch siêu lạm phát tiêu biểu như sau, mà khi đó, tiền chỉ có giá trị bằng một tờ giấy bình thường.  Zimbabwe – tháng 11/2008 Trong lần siêu lạm phát gần đây nhất trên thế giới, khủng hoảng tiền tệ tại Zimbabwe lên mức tồi tệ nhất vào tháng 11/2008 và tăng 79 tỷ %/tháng. Cứ 24,7 tiếng, giá tăng gấp đôi. Chỉ vài ngày sau khi phát hành tờ tiền mệnh giá 100 triệu, Ngân hàng Trung ương phát hành tiền mệnh giá 200 triệu và hạn chế số tiền rút ra khỏi ngân hàng ở mức 500.000 tương đương 0,25 USD. Khi tờ 100 triệu được đưa vào lưu hành, giá cả tăng nhảy vọt; báo cáo cho thấy 1 ổ bánh mi tăng từ 2 triệu lên 35 triệu chỉ sau 1 đêm. Chính phủ còn tuyên bố lạm phát là bất hộ pháp và bắt giữ giám đốc điều hành công ty nào dám tăng giá bán hàng. Tình hình tồi tệ đến mức nhiều cửa hàng tại đất nước này từ chối đồng nội tệ và chỉ nhận đồng USD hay đồng rand của Nam Phi. Ngân hàng Trung ương Zimbabwe cuối cùng phải định giá lại đồng tiền và neo nó vào đôla Mỹ. Chính phủ cũng buộc phải đóng cửa sàn chứng khoán. Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 14
  15. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Đầu thế kỷ 21, Zimbabwe bước vào siêu lạm phát và đến năm 2006, Zimbabwe in thêm 21 nghìn tỷ đồng Zimbabwe để trả nợ IMF. Cùng trong năm đó, Zimbabwe tiếp tục in thêm 60 nghìn tỷ đồng Zimbabwe để trả lương cho quân đội, cảnh sát và nhiều viên chức nhà nước. Năm 2007, nguồn cung thực phẩm, nhiên liệu và thuốc men thiếu trầm trọng, lạm phát tháng vượt mức 115 nghìn %. 6 tháng cuối năm 2007, chính phủ Zimbabwe quyết định ngưng trả lương. Tháng 4/2008, 50 triệu đồng Zimbabwe tương đương 1,20USD trong khi đó Ngân hàng Trung ương ước tính kinh tế nước này tăng trưởng âm 6% so với 1 năm trước. Theo Los Anelges Times đưa tin, vào tháng 7/2008, chính phủ Zimbabwe đã có lúc hết giấy để in tiền bởi phía châu Âu ngừng cung cấp giấy in tiền cho Zimbabwe do lo ngại về lý do nhân đạo.  Nguyên nhân lạm phát tại Zimbabwe Khi Zimbabwe giành được độc lập vào năm 1980, chính phủ nước này quyết định sử dụng đồng tiền mới với giá trị ban đầu so với đồng USD ở mức khoảng 1,25USD. Chính phủ Zimbabwe quản lý yếu kém và mất kiểm soát lạm phát. Xu thế hình thành siêu lạm phát bắt đầu vào đầu thập niên 1990 khi Tổng thống Mugabe đưa ra chương trình phân phối lại đất đai, ông lấy đất từ người nông dân gốc Âu dành cho người nông dân bản xứ. Nhóm người nông dân giàu kinh nghiệm bỗng dưng mất đất, sản lượng nông nghiệp sụt giảm xuống dưới mức cần thiết, giá tăng không tránh khỏi.  Đức – tháng 10/1923 Tháng 10/1923 khi lạm phát tháng tăng ở mức 29.500% và với tỷ lệ ngày 20,9%, cứ sau 3,7 ngày, giá cả hàng hóa tăng gấp đôi. Đến tháng 8/1923, 1 triệu mác Đức mới đổi được một USD. Đến tháng 11/1923, con số này lên mức 238 triệu mác Đức/USD và khi trật tự tâm lý có tên “Zero Stroke” được đưa ra, người ta khi đó đã phải giao dịch hàng trăm tỷ mác Đức cho các chi phí hàng ngày Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 15
  16. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật Lạm phát cao buộc chính phủ Đức phải định giá lại đồng tiền, thay thế đồng papiermark bằng đồng rentenmark với tỷ giá 4,2 rentenmark/USD và giảm đi 12 số 0 trên tờ tiền. Dù đồng rentenmark đã bình ổn tình hình và chính phủ cộng hòa Weimar tồn tại cho dến năm 1933, siêu lạm phát và áp lực kinh tế đã dẫn đến việc nổi lên của đảng Nazi và Adolf Hitler.  Nguyên nhân chính của lạm phát tại Đức Siêu lạm phát của nước cộng hòa Weimar bắt nguồn từ việc chính phủ in quá nhiều tiền để chi trả cho chiến tranh. Năm 1914, Đức ngừng hỗ trợ cho đồng tiền nước này bằng vàng và bắt đầu chi tiền cho chiến tranh thông qua đi vay chứ không phải tăng thuế. Năm 1919, giá cả đã tăng gần gấp đôi, Đức thua trận. Giai đoạn từ năm 1919 đến 1921, đồng tiền này khá ổn định nếu so với những năm trước đó. Việc giải quyết hậu quả chiến tranh theo yêu cầu của hòa ước Versailles buộc Đức phải trả các chi phí bằng vàng hay ngoại tệ tương ứng chứ không phải đồng papiermark. Đức sử dụng đồng papeirmarks đảm bảo bằng nợ chính phủ để mua ngoại tệ và vì thế đẩy nhanh tốc độ phá giá đồng tiền. Hòa ước Versailles năm 1919 là hòa ước chính thức chấm dứt Thế chiến thứ Nhất (1914–1918) giữa Đức và các nước thuộc phe Hiệp Ước. Hòa ước quy định Đức phải trả lại cho Pháp miền Alsace-Lorraine, một mảnh đất cho Bỉ, một mảnh tương tự ở Schleswig cho Đan Mạch – tùy kết quả một cuộc trưng cầu ý dân. Khi người Đức không thể trả được tiền, quân Pháp và Bỉ chiếm đóng thung lũng Ruhr vào tháng 1/1923 để yêu cầu trả bằng hiện vật dẫn đến hàng loạt vụ đình công và phản kháng của người Đức khiến mọi chuyện tồi tệ hơn. Khi chính phủ các nước châu Âu xung đột về việc làm sao giải quyết được tình hình, kinh tế Đức nhanh chóng suy sụp trong chỉ hơn 1 năm, một nửa nước Đức chìm trong siêu lạm phát.  Chính sách kiểm soát lạm phát của chính phủ Đức Chính phủ Đức đã cải cách tài chính và tiền tệ. Vào cuối năm 1923, chính phủ đã tinh giảm biên chế 1/3 số lượng công nhân viên chức, các khoản bồi thường chiến tranh tạm đình lại. Đồng thời Ngân hàng Trung ương mới ra đời, thay cho ngân hàng trung Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 16
  17. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật ương cũ và cam kết không tài trợ cho chi tiêu chính phủ bằng cách in tiền. Nhờ đó, đến cuối tháng 12/1923, lượng cung tiền và giá cả đột nhiên ổn định.  Nguyên nhân chung của mọi cuộc siêu lạm phát là sự gia tăng quá mức trong cung tiền, điều này thường bắt nguồn từ sự cần thiết phải tài trợ cho thâm hụt ngân sách quá lớn. Hơn nữa, một khi lạm phát cao đã bắt đầu, tình hình thâm hụt ngân sách có thể trở nên không thể kiểm soát được: lạm phát cao dẫn đến giảm mạnh nguồn thu từ thuế tính theo phần trăm so với GDP, làm tăng thâm hụt ngân sách và chính phủ sẽ phải dựa nhiều hơn vào phát hành tiền mà điều này đến lượt sẽ đẩy lạm phát dâng lên cao hơn. Dựa trên các bằng chứng lịch sử, thâm hụt ngân sách kéo dài được tài trợ bằng phát hành tiền trong khoảng từ 10-12 % của GDP sẽ gây ra siêu lạm phát. Nhìn chung, có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát có xu hướng xuất hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về ngân sách chính phủ. Vào thập niên 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng hoảng nợ của Thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm phát ở một số nước Mỹ La-tinh. Nhìn chung, siêu lạm phát thường đi kèm với chiến tranh, chính sách tài khóa kém hiệu quả, tuy nhiên nguyên nhân trọng tâm vẫn ở cung tiền tăng trưởng quá nhanh mà không được hỗ trợ bởi tăng trưởng kinh tế. Năm 2008 đánh dấu sự quay trở lại của lạm phát phi mã với những tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế thế giới. Những nền kinh tế lớn như Mỹ và EU đã phải đối phó với tình trạng lạm phát và thất nghiệp gia tăng, tăng trưởng kinh tế đình đốn. Lạm phát trong khu vực các thành viên EU sử dụng đồng euro lập kỷ lục trong tháng 6/2008 với 4%, gấp đôi mục tiêu kiềm chế lạm phát. Mỹ cũng đang đối mặt với lạm phát tăng hơn 3% trong năm 2008, mức cao gấp đôi so với nhiều năm trước. Hầu hết những nước đang phát triển và những nền kinh tế mới nổi sau một thời kỳ tăng trưởng nhanh đã bất ngờ gặp lạm phát tăng cao và đối mặt với nguy cơ tăng trưởng chậm lại. Đối với các nước phát triển như Trung Quốc, lạm phát đã đạt mức 8,5%, cao nhất trong 12 năm trở lại đây. Lạm phát ở Ấn Độ là 7,8%, cao nhất trong vòng 4 năm qua. Lạm phát Inđônêsia lên tới 12% trong tháng 6 sau khi Chính phủ tăng giá xăng dầu lên gần 30%. Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 17
  18. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật  Nguyên nhân của lạm phát năm 2008  Nguyên nhân của lạm phát tăng cao trong năm 2008 là do giá lương thực và nhiên liệu tăng cao. Giá dầu tăng nhanh trong thời gian ngắn phá vỡ mọi kỷ lục về giá trước đây đã khiến cho giá cả các hàng hóa khác tăng nhanh.  Lạm phát tăng nhanh và bất ngờ trong thời gian ngắn có nguyên nhân xuất phát từ nguồn cung. Từ năm 2002 đến nay, riêng các nền kinh tế mới nổi đã chiếm 90% lượng gia tăng trong nhu cầu tiêu dùng của toàn thế giới đối với dầu và kim loại, 80% đối với lượng gia tăng của nhu cầu tiêu thụ toàn cầu đối với ngũ cốc. Nguồn cung khan hiếm đối với nguyên nhiên liệu và lượng thực đã tạo ra những cú sốc đẩy giá tăng vọt.  Nhưng trên hết, nguyên nhân sâu xa đó là do chính sách tiền tệ nới lỏng được các nước áp dụng trong nhiều năm qua nhằm đạt được mục tiêu về tăng trưởng kinh tế. Kết quả là tình trạng tăng trưởng nóng kéo dài trong nhiều năm ở nhiều nước. Chính sách tiền tệ nới lỏng đã khiến cung tiền tăng mạnh, điều này khiến cho nhu cầu trong nước tăng vọt và giá cả luôn duy trì ở mức cao. Như vậy, nguyên nhân chính của lạm phát nằm ở chính sách điều hành kinh tế. Ngân hàng trung ương ở các nước mới nổi thường không có sự độc lập cần thiết khi phải duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng với việc duy trì lãi suất thấp để phục vụ cho mục tiêu chính trị là tăng trưởng nhanh và vấn đề việc làm. Điều hành chính sách tiền tệ không nhanh nhạy và linh hoạt sẽ khiến cho lạm phát tăng nhanh khi giá cả một số mặt hàng chính yếu tăng cao. Vì mọi người kỳ vọng giá cả sẽ tăng lên nên lạm phát sẽ gây sức ép đòi tăng lương, hệ quả là giá cả hàng hóa tiếp tục tăng để bù đắp phần chi phí tăng thêm đó và vòng xoáy lạm phát sẽ lại tăng cao hơn nữa.  Ngoài ra nguyên nhân còn là từ sự bất ổn của khu vực tài chính ở các nước phát triển trong đó có nền kinh tế Mỹ với sự sụp đổ hàng loạt các tổ chức tín dụng và ngân hàng, cùng cuộc khủng hoảng nhà đất với tình trạng đầu cơ và tình trạng “siêu bong bóng”. Các công cụ tài chính phái sinh đã khiến cho thị trường tài chính thế giới trở nên bấp bênh, dễ khủng hoảng hơn trước.  Việc nâng giá đồng nội tệ có thể sẽ khuyến khích các nhà đầu tư kỳ vọng đồng tiền lên giá cao hơn nữa, hấp dẫn các dòng vốn bên ngoài ồ ạt chuyển vào, điều này khiến lạm phát tăng cao hơn nữa. Đây là vấn đề mà Trung Quốc đang phải đối mặt. Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 18
  19. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật II.2 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ năm 1986 đến 2011 II.2.1 Sơ lược lạm phát từ năm 1986 đến 2011 Số liệu về chỉ số lạm phát đo bằng CPI tháng 12 năm sau so với tháng 12 năm trước và tốc độ tăng trưởng GDP được tổng hợp lại ở bảng sau: Bảng 1: Lạm phát CPI và tốc độ tăng GDP ở Việt Nam từ 1987 đến 2010 Đơn vị tính: % (Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê) Quan sát vào dãy số liệu ta thấy trong vòng 24 năm này, có 2 năm Việt Nam rơi vào tình trạng siêu lạm phát với chỉ số lạm phát lên đến trên 200%/năm, thậm chí năm 1988, lạm phát còn ở mức kỷ lục 349,4%/năm. Thời kỳ 1986-1991, lạm phát phi mã, trong đó 1986-1988 tăng tới 402,1%/năm. Nguyên nhân chủ yếu là do kinh tế bị khủng hoảng, tăng trưởng thấp, làm cho thị trường bị thiếu cung, tiền nhiều hơn hàng. Có một nguyên nhân quan trọng là việc thực hiện lộ trình giá thị trường đối với hầu hết những mặt hàng bao cấp hiện vật bằng tem phiếu định lượng trong thời kỳ trước, tạo ra mặt bằng giá chung mới cao hơn nhiều. Phải đến cuối năm 1988 và qua năm 1989, nhiều biện pháp về tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát mới được đưa ra. Một trong những quyết định quan trọng ghi nhận được lúc đó là việc lần đầu tiên mạnh tay nới lỏng tỷ giá USD/VND vào cuối năm 1988 và tiếp tục cơ chế linh hoạt đến năm 1991, trước khi bước vào giai đoạn đóng băng tỷ giá từ năm 1992. Thời kỳ 1992-1995, lạm phát còn cao, nhưng đã thấp hơn nhiều so với các thời kỳ trước. Nguyên nhân chủ yếu do cung đã tăng (tăng trưởng kinh tế 1991-1995 đạt Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 19
  20. Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật 8,2%/năm, đặc biệt lương thực vượt nhu cầu trong nước, đã có xuất khẩu với khối lượng lớn; Chính phủ đưa ra phương châm: đối với ngân sách thì thu lấy mà chi; đối với ngân hàng thì vay lấy mà cho vay-có nghĩa là Nhà nước không phát hành tiền cho bội chi ngân sách và bội chi tiền mặt. Thời kỳ 1996-2003 được coi là thiểu phát, khi CPI tăng rất thấp (mặc dù năm 1998 tăng cao 9,2% do tác động của khủng hoảng khu vực, với tỷ giá năm 1997 tăng 14,2%, năm 1998 tăng 9,6% và giá lương thực tăng 23,1%, giá thực phẩm tăng 8,6%. Nhưng nhìn chung cả thời kỳ này đã có 3 năm, trong đó có 1 năm giảm, 2 năm tăng thấp; giá lương thực, thực phẩm giảm hoặc tăng thấp. Kết quả kỳ diệu của cơ chế tỷ giá năm 1997. Đồng nội tệ đã bị đánh giá cao cùng với tỷ giá bị cố định cứng trong khoảng thời gian dài từ 1992 đến 1996 đã thúc đẩy nhập khẩu ồ ạt. Do vậy, thâm hụt thương mại liên tục tăng để lên đến đỉnh cao hơn 45% vào năm 1995. Năm 1997, lần đầu tiên cơ chế xơ cứng của tỷ giá được điều chỉnh và kết quả thật kỳ diệu. Thời kỳ từ 2004 đến nay là thời kỳ lạm phát cao trở lại, gần như lặp đi lặp lại, cứ 2 năm tăng cao mới có 1 năm tăng thấp hơn. Năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng 8,4%, thì năm 2006 tăng 6,6%. Năm 2007 tăng 12,63%, năm 2008 tăng 19,89%, thì năm 2009 tăng 6,52%. Năm 2010 tăng 11,75%, năm 2011 sau 8 tháng đã tăng 15,68% (nếu tính theo năm thì tháng 8/2011 so với cùng kỳ năm trước đã tăng tới 23,02%). Dự báo cả năm phải phấn đấu tích cực mới ở mức 18% (nếu theo “quy luật” trong mấy năm qua thì khả năng năm 2012 sẽ tăng thấp hơn và từ đó có thể nhận thấy việc Chính phủ đưa ra chỉ tiêu dưới 10% của năm 2012 là có tính khả thi). Nhìn chung, lạm phát ở nước ta từ năm 2004 đến nay luôn ở mức khá cao. Từ năm 2007 đến nay, lạm phát luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 khoảng 7,1%, trong khi đó lạm phát bình quân hàng năm khoảng gần 11%. Năm 2007 lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con số 12,63%. Nếu so sánh với mức lạm phát của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc: 6,5%; Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%, Thái Lan: 3,21%, Khu vực đồng Euro: 3,07%, Nhật Bản: 0,7% thì lạm phát của Việt Nam có phần cao hơn. Bước sang Quý I/08 lạm phát của Việt Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2