intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận cuối khóa: Xử lý tình huống vi phạm về An toàn vệ sinh lao động và trợ cấp chế độ tai nạn lao động trong công ty TNHH Việt Nhật tại thị xã Hương Trà

Chia sẻ: Dao Van Dai Dai | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:29

141
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu tình huống cụ thể về việc giải quyết vấn đề bất cập trong công tác đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, giải quyết chế độ tai nạn lao động, phân tích những nguyên nhân, hậu quả tác động của tình huống. Đồng thời, đánh giá thực trạng giải quyết vụ việc trên, từ đó đưa ra những giải pháp để nâng cao chất lượng trong công tác an toàn vệ sinh lao động, giải quyết chế độ tai nạn lao động trên địa bàn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận cuối khóa: Xử lý tình huống vi phạm về An toàn vệ sinh lao động và trợ cấp chế độ tai nạn lao động trong công ty TNHH Việt Nhật tại thị xã Hương Trà

  1. MỤC LỤC
  2. PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ở bất kỳ chế  độ, xã hội nào lao động cũng đóng vai trò quyết định đến  sự  phát triển kinh tế  ­ xã hội. Ngày nay với khoa học công nghệ  phát triển  như  vũ bão, nhưng vẫn không thể  thay thế  được vai trò của nguồn lực lao  động, nó vẫn là nhân tố  cơ  bản quyết định phát triển kinh tế. Lao động là   tiềm năng đặc biệt của mỗi quốc gia, là chủ thể sản xuất và là lực lượng sản   xuất hàng đầu của xã hội. Lao động là nhân tố  có thể  khai thác, sử  dụng, tái  tạo và phát triển các nguồn lực khác có hiệu quả. Để  tăng trưởng kinh tế  người ta sử dụng nhiều nguồn lực như: tài nguyên thiên nhiên, lao động, vốn,  khoa học công nghệ. Nhưng lao động vẫn là nhân tố cơ bản vì nếu không có   lao động thì các điều kiện khác không có  ý nghĩa. Đất nước ta đang trên  đường thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa, vì thế việc cần hoàn thiện  và nâng cao chất lượng đội ngủ lao động để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh  tế ­  xã hội là điều cần thiết trong điều kiện hiện nay. Công tác an toàn vệ sinh lao động gắn liền với hoạt động của người lao   động trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công việc được giao. An toàn vệ  sinh lao động là một phạm trù của sản xuất, gắn với sản xuật nhằm bảo vệ  yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất đó là gười lao động. An toàn vệ sinh lao động là một chính sách kinh tế xã hội lớn của Đảng  và Nhà nước ta. Nhiều chính sách chế độ  an toàn vệ  sinh lao động được ban  hành trên cơ  sở   Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng người lao động là vốn   quý, là lực lượng cần được bảo vệ, họ  chính là lực lượng hằng ngày, hằng   giờ tạo ra các sản phẩm cho xã hội.  Thực hiện tốt công tác an toàn vệ  sinh lao động là một nội dung quan   trọng để các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất, hoàn thiện các hợp đồng kinh   tế, tăng doanh thu, tạo uy tín cho mình trong điều kiện khó khăn hiện nay.  Hoạt động của các doanh nghiệp diễn ra bình thường, không để xảy ra các sự  2
  3. cố hay tai nạn lao động thì sản phẩm tạo ra liên tục là điều kiện tốt để doanh   nghiệp hoàn thành các hợp đồng kinh tế và phát triển sản xuất tạo thêm nhiều  việc làm hơn cho người lao động trên địa bàn. Khi làm việc trong điều kiện  lao động được đảm bảo về  an toàn vệ  sinh lao động, không tồn tại và xuất   hiện các yếu tố  có nguy cơ  gây tai nạn lao động hay bệnh nghề  nghiệp thì   người lao động luôn có đủ sức khỏe để tham gia sản xuất liên tục.   Trong những năm qua trên địa bàn thị xã Hương Trà, công tác giải quyết   tranh chấp lao động, khiếu nại trong lĩnh vực an toàn vệ  sinh lao động mà   nhất là tai nạn lao động có chuyển biến tích cực góp phần  ổn định tình hình   chính trị, giữ vững an ninh chính trị  xã hội. Bên cạnh những mặt tích cực đẫ  đạt được, quá trình thực hiện pháp luật về  lao  động phần lớn các doanh   nghiệp còn vi phạm pháp luật về giải quyết tai nạn lao động, an toàn vệ sinh  lao động vẫn còn diễn biến phức tạp. Xuất phát từ  tình hình nêu trên tôi xin trình bày tiểu luận cuối khóa với  đề tài “Xử  lý tình huống vi phạm về An toàn vệ  sinh lao động và trợ  cấp   chế độ tai nạn lao động trong công ty TNHH Việt Nhật tại thị xã Hương   Trà”    Với nhận thức mới được bổ  sung qua khóa học bồi dưỡng kiến thức  quản lý Nhà nước chương trình chuyên viên chính. Trong tiểu luận này, tôi  xin đề cập một cách khái quát các thông tin, dữ liệu trong một vụ việc nhỏ về  vấn đề tai nạn lạo động, an toàn vệ  sinh lao động và trợ  cấp chế  độ  tai nạn   lao động trong một doanh nghiệp. Hy vọng đề tài này góp phần vào việc phát  triển kinh tế ­ xã hội, ổn định tình hình an ninh – trật tự tại địa phương. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu tình huống cụ thể về việc giải quyết  vấn đề bất  cập trong công tác đảm bảo an toàn vệ  sinh lao động, giải quyết chế  độ  tai   nạn lao động, phân tích những nguyên nhân, hậu quả tác động của tình huống.   Đồng thời, đánh giá thực trạng giải quyết vụ  việc trên, từ  đó đưa ra những  3
  4. giải pháp để nâng cao chất lượng trong công tác an toàn vệ sinh lao động, giải  quyết chế độ tai nạn lao động trên địa bàn. 3. Phương pháp, phạm vi nghiên cứu ̉ ́ ề tài tiểu luận cuối khóa nay, ban thân đa s Đê viêt đ ̀ ̉ ̃ ử dung ph ̣ ương phap ́  ̣ ̀ ̣ ̉ thu thâp tai liêu, phân tich, so sanh, tông h ́ ́ ợp. Đông th ̀ ơi ban thân cung s ̀ ̉ ̃ ử dung ph ̣ ương phap luân cua chu nghia Mac – ́ ̣ ̉ ̉ ̃ ́   Lênin, như phương phap duy vât, biên ch ́ ̣ ̣ ứng, phương phap lô gic – lich s ́ ̣ ử... Thực hiện đề tài này trong phạm vi địa bàn thị  xã Hương Trà, tỉnh Thừa   Thiên Huế; giới hạn trong thời gian nghiên cứu sự việc từ năm 2017 đến năm  2018; phương pháp nghiên cứu, sử  dụng phương pháp luận phân tích tổng  hợp, điều tra, so sánh kết hợp với một số phương pháp khác. Với thời gian và kiến thức còn hạn chế, tiểu luận này không tránh khỏi  những khiếm khuyết, thiếu sót nhất định. Rất mong được sự  góp ý của quý  thầy, cô giáo. Tôi xin chân thành cám  ơn sự  đóng góp tận tình đó, tạo điều  kiện cho tôi nhận thức được đầy đủ hơn và hoàn thành tốt tiểu luận này.  4
  5. PHẦN B: NỘI DUNG I. NỘI DUNG TÌNH HUỒNG 1. Hoàn cảnh ra đời của tình huống Tháng 5 năm 2018, Uỷ  ban nhân dân thị  xã Hương Trà  có nhận được  đơn khiếu nại của ông Lê Văn An 40 tuổi thường trú tại thôn Hải Cát 1, xã  Hương Thọ, thị  xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế  đề  nghị  can thiệp giúp  đỡ  cho ông về  chế  độ  tai nạn lao động và tổ  công nhân lao động vận hành   máy nghiền đá hộc thường xuyên tiếp xúc công việc với điều kiện nguy hiểm  không đảm bảo an toàn lao động ­ vệ sinh lao động. Nội dung trình bày trong  đơn của ông Lê Văn An là Công ty TNHH Việt Nhật khai thác, sản xuất đá  xây dựng có trụ sở  và cơ sở sản xuất đóng tại thôn Hải Cát 1, thị xã Hương  Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế do ông Nguyễn Trung làm giám đốc. Công ty thiếu   trách nhiệm trong việc bảo đảm an toàn vệ sinh lao động cho công nhân trong   một thời gian dài, nhiều lần ông và tổ  nghiền đá đề  nghị  công ty hỗ  trợ  bảo  hộ lao động và yêu cầu có biện pháp đảm bảo an toàn vệ sinh lao động nhưng   không được giải quyết dẫn đến ông bị tai nạn lao động. Năm 2010, công ty mở rộng sản xuất kinh doanh tổ chức bộ phận xay   nghiền đá, từ đó ông được điều chuyển đến vận hành  tại tổ nghiền đá. Cùng   với tổ nghiền đá với ông có ông Trần Hùng làm tổ trưởng và các ông Nguyễn  Công Thuận, Hoàng Hữu Hòa là công nhân. Công việc chính cuả  tổ  nghiền đá là vận hành các thiết bị  đưa đá hộc  vào máy nghiền để xay thành đá, sỏi xây dựng các loại cung ứng nguyên liệu  đầu vào cho các công trình xây dựng cơ  bản trên thị  trường, và đây là một   công đoạn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm cho người lao động trực tiếp.  Công việc của ông Lê Văn An là công nhân vận hành máy nghiền đá  thể  hiện qua Hợp  đồng lao  động (theo mẫu ban hành của Bộ  Lao  động­  Thương binh và Xã hội), một số chi tiết quan trọng được ghi trong hợp đồng   lao động như: Được trang bị  bảo hộ  lao động gồm, áo quần lao động, giày,  5
  6. găng tay, khẩu trang 02 lần/năm; nón cứng, mặt nạ  01 cái/ năm; tiền lương   chính 3.400.000 đồng/ tháng gắn với khoán khối lượng sản phẩm và được  nhận lương vào ngày cuối tháng; chế độ  nghỉ ngơi, bảo hiểm xã hội, chế độ  tai nạn lao động chế độ đào tạo theo quy định của nhà nước. Ông An tham gia  đóng bảo hiểm xã hội, tai nạn lao động được 6 năm. Tuy nhiên, theo ông việc trang bị  phương tiện bảo vệ  cá nhân, huấn   luyện an toàn lao động công ty chưa thực sự  quan tâm và thực hiện đầy đủ  theo Hợp đồng đã ký kết. Ngày 15/12/2017 có một sự cố nghiêm trọng đã xảy ra tại nơi làm việc  của ông Lê Văn An làm cho ông bị  đá bắn vào mặt gây tổn thương  ở  mắt   phải. 2. Mô tả tình huống Vào lúc 07giờ  15 phút ngày 15 tháng 12 năm 2017,  sau khi khởi động  máy nghiền và hoạt động được một lúc khoảng chừng 30 phút thì tấm thép  để  che chắn đá đưa xuống miệng trục lăn của máy nghiền bị  thủng một lỗ  làm đá vụn thỉnh thoảng bắn về phía người vận hành. Ông Lê Văn An nhận  thấy không đảm bảo an toàn để  tiếp tục sản xuất đã báo cáo ông Trần Hùng  là tổ trưởng và yêu cầu cho phép sửa chữa, khắc phục để đảm bảo an toàn và  tiếp tục sản xuất. Được sự đồng ý của ông Trần Hùng, ông Lê Văn An đã cho   ngừng máy để kiểm tra, đề xuất sửa chữa.  Ông Trần Hùng đã đến báo cáo với Ban giám đốc công ty và được ông  Lê   Thành   Trung   phó  giám   đốc   phụ   trách   kỹ   thuật  đến   kiểm  tra  tại   hiện   trường nhìn thấy lỗ  thủng của một tấm thép chắn khoảng 10 x 15 cm và đá  vụn thỉnh thoảng mới văng ra. Về  nguyên tắc an toàn lao động trong điều  kiện này người công nhân không được tiếp tục vận hành máy. Nhưng do áp  lực hợp đồng cung cấp nguyên liệu cho khách hàng vào dịp cuối năm, ông Lê  Thành Trung thấy rằng việc lỗ  thủng khung thép bảo vệ  tuy có “thiếu một  chút về  an toàn” nhưng nếu người vận hành chú ý tránh những lúc mãnh đá  6
  7. vụn văng ra chắc không vấn đề gì. Ông Trung đã quyết định cho tổ vận hành   khởi động máy và tiếp tục hoạt động. Sau hơn 2 giờ  làm việc, bổng nhiên  những mãnh đá vụn bắn ra rất nhiều do lỗ thủng tấm lưới thép mỗi lúc mỗi   rộng hơn. Ông Lê Văn An chưa kịp ngừng máy thì bị  một mãnh đá vụn bắn   vào mắt phải gây ra tai nạn lao động. Thấy vậy, ông Trần Hùng nhanh chóng   cho máy ngừng hoạt động. Các anh trong tổ vận hành kịp thời đưa ông Lê Văn   An đến văn phòng công ty để  sơ  cấp cứu. Trước tai nạn nghiêm trọng đó,   lãnh đạo công ty chuyển ông Lê Văn An đi cấp cứu tại Bệnh viện Trung   ương Huế để tiếp tục điều trị. Ngày 25/02/2018 ông Lê Văn An được xuất viện chi phí quá trình điều  trị  với tổng số  tiền là  60  triệu đồng,  ông An  ở  nhà nghỉ  ngơi phục hồi sức  khỏe hơn 1 tháng. Trong lúc gặp khó khăn như  vậy, ông đề  nghị  công ty hỗ  trợ  chế độ tai nạn lao động để giải quyết một phần khó khăn, vì theo ông lỗi  là do lãnh đạo công ty chỉ đạo tiếp tục vận hành máy nghiền và không trang  cấp mặt nạ  bảo hộ  lao động nên xảy ra tai nạn, và trả  tiền lương theo hợp  đồng trong thời gian điều trị nhưng công ty không đồng ý. Theo   giấy   ra   viện   của   Bệnh   viện   Trung   ương   Huế   cấp   ngày  25/02/2018 nội dung giấy ra viện có ghi ông Lê Văn An bị  tai nạn làm hỏng  con mắt phải (tổn thương đồng tử  mắt phải) tỷ  lệ  suy giảm khả  năng lao  động 20%. Yêu cầu của bệnh viện ông phải trở lại tái khám, kiểm tra lại tình  hình thương tật vào ngày 25/3/2018.  Sau hơn một tháng nghỉ ngơi, đến ngày 01/4/2018, khi sức khỏe được  hồi phục ông Lê Văn An trở lại làm việc với tổ vận hành của công ty và ông  tiếp tục yêu cầu công ty giải quyết chế  độ  nói trên, thực hiện đầy đủ  việc  trang cấp các loại phương tiện bảo vệ cá nhân cho người lao động theo quy  định.  Trên đây là mô tả tóm tắt nguyên nhân dẫn đến ông Lê Văn An đã gửi   đơn khiếu nại đến Uỷ  ban nhân dân thị  xã Hương Trà nhờ  can thiệp giải   quyết.  7
  8. II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG 1. Mục tiêu phân tích tình huống Trên cơ  sở  phân tích hồ  sơ  tài liệu từ  kiểm tra thực tế  và các văn bản   hướng dẫn thi hành Bộ Luật Lao động, Luật An toàn vệ sinh lao động chúng   ta thấy: Bản thân ông Lê Văn An là người lao động tiếp xúc với các yếu tố  nguy hiểm, theo quy định ông được trang cấp đầy đủ các phương tiện bảo vệ  cá nhân, được công ty tổ chức huấn luyện các biện pháp an toàn, vệ sinh lao   động, được khám sức khỏe định kỳ theo tiêu chuẩn chế độ quy định. Từ chối   làm việc khi thấy rõ nguy cơ  xảy ra tai nạn lao động, đe dọa nghiêm trọng   tính mạng, sức khỏe của mình. Bởi vậy, ông Lê Văn An khiếu nại nhiều lần   lên lãnh đạo công ty, nhưng công ty chỉ  hứa, chưa giải quyết thấu đáo cho   người lao động. Trong quá trình kiểm tra, công ty TNHH Việt Nhật hằng năm khi xây dựng  kế hoạch sản xuất kinh doanh có lập kế  hoạch, biện pháp an toàn lao động,  vệ sinh lao động và cải thiện lao động. Nhưng chủ yếu là để đối phó với các  cơ  quan chức năng; phân công trách nhiệm và cử  người giám sát việc thực   hiện các quy định, nội quy, biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động; phối  hợp với công đoàn cơ sở xây dựng và duy trì sự hoạt động của mạng lưới an  toàn viên và vệ  sinh viên chưa được chặt chẽ  và thường xuyên. Khai báo,  điều tra, thống kê tai nạn lao động chưa được thực hiện.   Vì vậy, mục tiêu của việc xử lý là cần điều tra xem xét, giải quyết dứt   điểm việc vi phạm biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động, tại nạn lao  động tại công ty. Trên cơ sở pháp luật lao động, nguyên nhân dẫn đến tai nạn   lao động, đồng thời phân tích cho các bên hiểu đó là phương án giải quyết   hợp lý nhất, vừa có lý, vừa có tình. Từ đó, nhằm xử lý, giải quyết thỏa đáng,   đúng quy định của pháp luật và các vấn đề thuộc về an toàn lao động, các vụ  tai nạn lao động góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng  của người lao động, của người sử  dụng lao động,  ổn định tình hình an ninh  8
  9. trật tự xã hội, tạo sự gắn bó của người sử dụng lao động và người lao động   để họ cùng an tâm sản xuất kinh doanh. 2. Cơ sở lý luận Bộ Luật lao động quy định tiêu chuẩn lao động, quyền, nghĩa vụ, trách  nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện tập thể  lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động trong quan hệ lao động và   các quan hệ khác liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động; quản lý nhà nước   về  lao động. Luật An toàn vệ  sinh lao độngquy định việc bảo đảm an toàn,  vệ sinh lao động; chính sách, chế độ đối với người bị tai nạn lao động, bệnh  nghề  nghiệp; trách nhiệm và quyền hạn của các tổ  chức, cá nhân liên quan  đến công tác an toàn, vệ  sinh lao động và quản lý nhà nước về  an toàn, vệ  sinh lao động. Nhận thấy được ý nghĩa to lớn của hoạt động quản lý nhà nước về lao  động, pháp luật về lao động, trong thời gian qua chúng ta đã không ngừng sửa   đổi, bổ  sung và điều chỉnh các nội dung quản lý nhà nước về  lao động cho  phù hợp với yêu cầu mới của nền kinh tế xã hội. Để xử lý tình huống trên thì cần căn cứ vào các văn bản như sau: ­ Bộ Luật Lao động năm 2012 thông qua ngày 18/6/2012; ­ Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 thông qua ngày 25/6/2015;  ­ Nghị định số 37/2016/NĐ­CP ngày 15/5/2016 của Chính phủ quy định  chi tiết và hướng dẫn thi hành một số  Điều  của Luật an toàn, vệ  sinh  lao  động về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp bắt buộc; ­ Nghị định số 39/2016/NĐ­CP ngày 15/5/2016 của Chính phủ quy định  chi Tiết thi hành một số Điều của Luật An toàn, vệ sinh lao động; ­ Nghị định số 34/2016/NĐ­CP ngày 15/5/2016 của Chính phủ quy định  chi tiết một số Điều của Luật an toàn, vệ  sinh lao động về  hoạt động kiểm  định kỹ thuật an toàn lao động, huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động và quan   trắc môi trường lao động; 9
  10. ­ Nghị định số 95/2013/NĐ­CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ  quy định  xử  phạt vi  phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa  người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; ­ Nghị  định số  88/2015/NĐ­CP ngày 07/10/2015 của Chính phủ  về  sửa  đổi, bổ  sung một số  điều của Nghị  định số  95/2013/NĐ­CP ngày 22 tháng 8  năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực  lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người  lao động Việt Nam đi làm việc  ở  nước ngoài theo hợp đồng; ­ Thông tư số 07/2016/TT­BLĐTBXH ngày 15/5/2015 của Bộ Lao động  ­ Thương binh và Xã hội quy định một số nội dung tổ chức thực hiện công tác  an toàn, vệ sinh lao động đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh; ­ Thông tư số 19/2017/TT­BLĐTBXH ngày 03/7/2017 của Bộ Lao động  ­ Thương binh và Xã hội quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện hoạt động  huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động; ­ Thông tư số 26/2017/TT­BLĐTBXH ngày 20/9/2017 của Bộ Lao động  ­ Thương binh và Xã hội quy định và hướng dẫn thực hiện chế độ  bảo hiểm  tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp bắt buộc; ­ Thông tư số 13/2016/TT­BLĐTBXH ngày 16/6/2016 của Bộ Lao động  ­ Thương binh và Xã hội về ban hành danh mục công việc có yêu cầu nghiêm  ngặt về an toàn, vệ sinh lao động. ­ Một số văn bản quy phạm pháp luật khác… 3. Phân tích diễn biến tình huống Quá trình diễn biến cụ thể cho thấy tính chất phức tạp của vụ việc vi   phạm an toàn lao động, vệ  sinh lao động nói trên, vụ  việc có nhiều tình tiết   phức tạp, diễn biến kéo dài nhiều năm, qua nhiều lần kiến nghị  của người   lao động, song người sử dụng lao động xử lý, giải quyết chưa thấu đáo, thậm  chí còn nhiều sai phạm trong thực hiện pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh   lao động gây dư luận không tốt trong nhân dân.  10
  11. Việc  tuân thủ  pháp  luật về   an  toàn  lao  động,  vệ   sinh lao   động tại  Khoản 2 điều 137 Bộ luật lao động “Khi sản xuất, sử  dụng, bảo quản, vận   chuyển các loại máy, thiết bị, vật tư, năng lượng, điện, hoá chất, thuốc bảo  vệ thực vật, việc thay đổi công nghệ, nhập khẩu công nghệ  mới phải được   thực hiện theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn lao động, vệ  sinh lao   động hoặc tiêu chuẩn về an toàn lao động, vệ sinh lao động tại nơi làm việc   đã công bố, áp dụng”, và tuân thủ  theo khoản 2, khoản 3   Điều 16 Luật An  toàn, vệ  sinh lao động “ Bảo đảm máy, thiết bị, vật tư, chất được sử  dụng,  vận hành, bảo trì, bảo quản tại nơi làm việc theo quy chuẩn kỹ thuật về an   toàn, vệ  sinh lao động, hoặc đạt các tiêu chuẩn kỹ  thuật về  an toàn, vệ  sinh  lao động đã được công bố, áp dụng và theo nội quy, quy trình bảo đảm an  toàn, vệ  sinh lao động tại nơi làm việc”, “Trang cấp đầy đủ  cho người lao   động các phương tiện bảo vệ cá nhân khi thực hiện công việc có yếu tố nguy   hiểm, yếu tố có hại; trang bị các thiết bị an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm   việc”. Trên cơ sở điều tra thu thập hồ sơ, nghiên cứu xác minh tài liệu có liên   quan đến vụ  việc, đối chiếu với các quy định của Bộ  Luật Lao động, Luật  An toàn, vệ sinh lao động các văn bản pháp quy đã được ban hành và phân tích  điều kiện thực tế  của Công ty TNHH Việt Nhật và cá nhân ông Lê Văn An,  tôi có nhận xét sau:  Năm 2009, Công ty TNHH Việt Nhật được thành lập và chính thức đi  vào hoạt động, là loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn chuyên khai thác đá  và kinh doanh đá xây dựng các loại, đến nay công ty đã thu hút hơn 100 công  nhân lao động. Năm 2010, công ty mở rộng sản xuất kinh doanh tổ chức bộ phận xay   nghiền đá, từ  đó ông Lê Văn An được điều chuyển đến vận hành tại tổ  nghiền đá, và đây là một công việc tiềm  ẩn nhiều nguy hiểm cho người lao  động trực tiếp. Công ty không tổ  chức huấn luyện về  an toàn lao động cho  công nhân.  11
  12. Ngày 15/01/2017, tổ  vận hành máy nghiền đá đã gởi đơn yêu cầu lãnh  đạo công ty cung cấp đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân, được huấn luyện  an toàn lao động, trang bị  hệ  thống phun nước giảm thiểu bụi  ảnh hưởng   người lao động trực tiếp và cả môi trường xung quanh. Theo phản  ảnh của công nhân, hiện tại công ty đang sử  dụng nhiều  người lao động với nhiều công đoạn khai thác, chế  biến đá xây dựng có   nhiều bộ phận làm việc trực tiếp với các yếu tố nguy hiểm dễ xảy ra tai nạn   lao động. Từ  ngày được áp dụng các văn bản mới, nhưng công ty không áp  dụng.  Theo nhiều công nhân, công ty thiếu trách nhiệm về công tác đảm bảo  an toàn lao động, vệ sinh lao động cho người lao động. Theo đó, công đoàn cơ  sở  công ty yêu cầu công ty trang bị phương tiện bảo vệ cho người lao động,  lắp hệ  thống phun nước giảm thiểu bụi bột đá, bố  trí tủ  thuốc sơ  cấp cứu   thuận tiện nơi làm việc theo biên bản họp công đoàn có lãnh đạo công ty tham   dự ghi ngày 08/11/2017. Sau khi đề  nghị  của công đoàn, vào buổi sáng ngày 10/11/2017, lãnh  đạo công ty đã phối hợp với ban chấp hành công đoàn để  giải quyết các yêu  cầu của công nhân, tuy nhiên sáng ngày 10/11/2017 hai bên vẫn chưa tìm ra  được tiếng nói chung.  Được biết, trước đó khoảng một tháng, ông Lê Văn An và các ông  Nguyễn Công Thuận, Hoàng Hữu Hòa là công nhân tổ  vận hành máy nghiền  đã rục rịch đòi nghỉ việc. Công ty đã gặp các ông  hứa sẽ tiếp tục giải quyết,  nhưng từ đó đến đã mấy tháng vẫn chưa có tiến triển gì. Vào lúc 09 giờ 15 phút ngày 15 tháng 12 năm 2017, tai nạn lao động xảy  ra tại tổ  vận hành máy nghiền đá, ông Lê Văn An bị  đá văng ra từ  một lỗ  thủng tấm thép chắn đá đưa xuống miệng trục lăn. Theo tổ  vận hành cho  biết, tại hiện trường nơi làm việc của tổ không có ai có mặt nạ đeo do không  được trang cấp, trong lúc đó bụi mù mịt, tấm thép che chắn cũng đã bị  thủng   từ trước đó 2 giờ. 12
  13. Ông Lê Văn An được điều trị tại Bệnh viện Trung ương Huế đến ngày  25/02/2018 ông được xuất viện với chi phí quá trình điều trị tổng số tiền là 60  triệu đồng và bệnh viện hẹn tái khám vào 25/3/2018 giám định y khoa kết   luật ông An bị  suy giảm khả  năng lao động 20%. Ngày 01/4/2018, sau khi  điều trị và nghỉ ngơi, khi sức khỏe được hồi phục, ông Lê Văn An trở lại làm  việc với tổ vận hành của công ty và ông tiếp tục yêu cầu công ty giải quyết  chế độ  trợ  cấp tai nạn lao động nói trên và thực hiện đầy đủ  việc trang cấp   các loại phương tiện bảo vệ cá nhân cho người lao động theo quy định nhưng  công ty không giải quyết với lý do là lỗi của người lao động không chú ý  trong lúc làm việc để  xảy ra tai nạn. Trong lúc gặp khó khăn như  vậy, ông   gửi đơn khiếu nại công ty giải quyết chế  độ  tai nạn lao động với tỷ  lệ  suy  giảm khả  năng lao động 20%, vì theo ông lỗi là do lãnh đạo công ty chỉ  đạo  tiếp tục vận hành máy nghiền và không trang cấp mặt nạ  bảo hộ  lao động  nên xảy ra tai nạn. Đồng thời, công ty phải trả  tiền lương theo hợp đồng  trong thời gian điều trị. Ngày 15/4/2018, công ty có cuộc làm việc với ông Lê Văn An để  giải   quyết vướng mắc về  chế  độ  tai nạn lao động và yêu cầu khác bảo hộ  lao   động   nhưng   bất   thành.   Cũng   trong   hôm   đó   công   ty   tổ   chức   họp   rút   kinh  nghiệm về  việc để  tai nạn xảy ra, hướng giải quyết của các bên, song anh  em tổ vận hành máy nghiền thấy rằng như vậy là chưa thỏa đáng. Quá trình sử  dụng lao động tại công ty thường xảy ra mâu thuẫn về  quyền lợi và nghĩa vụ  giữa người lao động và người sử  dụng lao động, nhất  là vấn đề về bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động. Những vấn đề này  gắn liền giữa quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Vì thế nó tác động xấu đến   quá trình sản xuât kinh doanh của công ty và trật tự an ninh của toàn xã hội. 4. Nguyên nhân xảy ra tình huống 4.1. Đối với người sử dụng lao động 13
  14. Công ty đã vi phạm hành chính về quản lý lao động: không đăng ký nội  quy lao động với ngành lao động, vi phạm quy định về việc khai báo, đăng ký   và xin cấp giấy phép sử  dụng các máy móc, thiết bị, không treo các bản chỉ  dẫn về an toàn lao động; không tổ chức huấn luyện an toàn lao động. Công ty đã có cải thiện một số  phương tiện bảo vệ  người lao động,  nhưng chưa đúng theo quy định, nhiều người lao động vẫn thiếu các phương  tiện bảo hộ cần thiết . Khi tai nạn lao động xảy ra, người sử dụng lao động đã không kịp thời   khai báo với cơ  quan chức năng về  tai nạn lao động, chưa thực hiện đầy đủ  trách nhiệm bồi thường vật chất đối với người lao động. Điều cốt lỏi là, mặc dầu công ty đã biết yêu cầu của người lao động là  chính đáng, nhưng lãnh đạo công ty vẫn cố tình lờ đi, lãng tránh trách nhiệm. 4.2. Đối với người lao động Phần lớn công nhân là những lao động trong nông nghiệp từ các địa bàn  gần công ty, do có nhu cầu về  việc làm và thu nhập nên được nhận vào làm   việc, họ  lại là người có trình độ  văn hóa thấp, nhận thức về  pháp luật lao  động chưa đầy đủ, không có chuyên môn, kỹ thuật. Công ty lại đóng tại vùng   đồi núi, nên họ thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về pháp luật.  Vì kế sinh nhai của họ và gia đình nên họ không có cách nào khác phải  lao động trong tình trạng nguy hiểm thường xuyên rình rập.  Một vấn đề  nữa là ông Lê Văn An còn chủ  quan khi xem thường các  quy trình, quy phạm cũng như mối nguy hiểm khi vận hành, sử dụng máy móc  thiết bị.Ông không đủ  hiểu biết và bản lĩnh từ  chối khi phải làm việc trong   điều kiện không đảm bảo an toàn lao động. 4.3. Công tác quản lý nhà nước về lao động Hạn chế của các cơ quan quản ký nhà nước về lao động trong các hoạt   động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật va hướng dẫn thi   hành pháp luật lao động tại các doanh nghiệp, cụ  thể  là thực hiện Bộ  Luật  14
  15. lao động, Luật an toàn, vệ  sinh lao động như: vi phạm chế  độ  hợp đồng lao   động, chế  độ  an toàn vệ  sinh lao động, chế  độ  bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã   hội, chế  độ  tai nạn lao động, Luật Công đoàn và một số  quyền và lợi ích   khác. Không  kịp   thời   trong   việc   giải   quyết  các   khiếu   nại,  tranh  chấp   về  quyền lợi của người lao động. Chậm trể  trong việc điều tra, xác minh, kết  luận, nhằm hướng dẫn, yêu cầu, thậm chí thực hiện các biện pháp c ưỡng  chế theo luật định nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng  của người lao động. 4.4. Về tổ chức công đoàn Công đoàn công ty thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích   hợp pháp của đoàn viên, người lao động vẫn còn hạn chế. Cán bộ  công đoàn  công ty chưa phát huy được trách nhiệm để  gặp người sử dụng lao động đối   thoại, trao đổi, thương lượng về  những vấn  đề  lao động và sử  dụng lao  động.   Liên   đoàn   Lao   động   thị   xã   chưa   kịp   thời   tuyên   truyền,   vận   động,  hướng dẫn   hoạt động cho công đoàn cấp dưới, đoàn viên, người lao động  nắm bắt được những nội dung cơ  bản về  quyền và nghĩa vụ  của người sử  dụng lao động và người lao động.  5. Hậu quả của tình huống Tình trạng vi phạm pháp luật về lao động, nhất là an toàn lao động, vệ  sinh lao động, các vụ tai nạn lao động diễn ra ngày càng phức tạp. Trong quá   trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp ít quan tâm xem xét những kiến  nghị  thích đáng đảm bảo an toàn trong sản xuất của người lao động, thiếu  hiểu biết pháp luật về lao động. Do đó, có những sai sót trong việc xử lý, giải   quyết gây ra khiếu nại, khiếu kiện kéo dài và ngày càng phức tạp gây nên dư  luận không tốt trong nhân dân. 15
  16. Những vi phạm an toàn lao động, vệ  sinh lao động không được quan  tâm xử  lý triệt để. Tai nạn lao động xảy ra, nó luôn mang đến bất lợi cho   người sử  dụng lao động và người lao động, trong đó người lao động trong  hầu hết các trường hợp là người chịu nhiều thiệt thòi về  kinh tế, gặp khó  khăn về  đời sống, có khi còn phải mang thương tật, thậm chí phải chịu tàn  phế suốt đời hoặc nguy hiểm đến tính mạng. Về phía người sử dụng lao động, khi tai nạn lao động xảy ra sẽ có ảnh   hưởng đến việc sản xuất kinh doanh, phải chịu các phí tổn bồi thường, có  trường hợp phải chịu trách nhiệm pháp lý, thậm chí có trường hợp phải thua  lỗ, phá sản. Xuất phát từ việc thiếu kiểm tra, đôn đốc, giám sát của cơ quan quản lý  nhà nước và các tổ  chức chính trị  xã hội, việc chấp hành pháp luật lao động  của doanh nghiệp chưa nghiêm dẫn đến vi phạm pháp luật kéo dài không  được phát hiện, ngăn chặn đã làm  ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của   doanh nghiệp, việc làm và đời sống của người lao động. Tổ  chức công đoàn  cấp trên chưa kịp thời tuyên truyền, vận động tổ chức công đoàn cơ sở, thông   qua đó tuyên truyền các chủ  trương, chính sách của Đảng và pháp luật của  Nhà nước để người lao động hiểu biết và thực hiện tốt, đồng thời có thể  tự  đấu tranh để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của mình. Mặt khác, Đảng và Nhà nước ta đang ra sức xây dựng một nhà nước  pháp quyền xã hội chủ  nghĩa thì trình trạng chậm chạp, xử  lý chưa đến nơi  đến chốn của cơ  quan chức năng đối với các bên liên quan khi tai nạn lao  động xảy ra cũng sẽ  tạo ra sự  giảm sút niềm tin vào pháp luật, pháp chế  xã  hội chủ  nghĩa và chế  độ  xã hội chủ  nghĩa. Hậu quả  sâu xa nhất là vấn đề  pháp luật chưa được tôn trọng triệt để, pháp chế  xã hội chủ  nghĩa và pháp   luật nhà nước chưa được thực thi nghiêm chỉnh làm ảnh hưởng đến đời sống   người lao động, đến sản xuất kinh doanh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay,  đất nước ta bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề cạnh tranh,   16
  17. một vấn đề  sống còn của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế  đang đặt ra hết sức gay gắt. III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG 1. Mục tiêu cần giải quyết Trên cơ sở phân tích hồ sơ tài liệu, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ  Luật lao động, Luật An toàn vệ  sinh lao động trong phạm vị  tình huống cụ  thể này, tôi xác định mục tiêu cần giải quyết, đó là: Khắc phục tình trạng vi phạm an toàn lao động, vệ  sinh lao động kéo  dài nhiều năm gây hậu quả nghiêm trọng tại công ty trách niệm hữu hạn Việt  Nhật. Ông Lê Văn An phải được chủ  doanh nghiệp lập hồ  sơ  và giải quyết   chế  độ  trợ  cấp tai nạn lao động, trang bị  các phương tiện bảo hộ  lao động  cho người lao động. Trách nhiệm pháp lý của mỗi bên theo quy định của pháp luật, trước  mắt là công ty kịp thời giải quyết vấn đề  trang cấp phương tiện bảo vệ  người lao động để đảm bảo an toàn trong sản xuất. Công ty tạo điều kiện để ông Lê Văn An tiếp tục làm việc tại công ty   để giải quyết việc làm sau khi ông bị tai nạn lao động. 2. Phương án giải quyết tình huống Để  giải quyết nội dung đơn khiếu nại của ông Lê Văn An cần chú ý   rằng  ở  đây có hai nội dung là trường hợp vi phạm về  an toàn, vệ  sinh lao  động, và trường hợp tai nạn lao động nặng, có hậu quả  khá nghiêm trọng và  có thể  kéo dài. Qua kết quả  điều tra, phân tích như  đã nêu  ở  phần trên thì   nguyên nhân chính  thuộc về lỗi của người sử dụng lao động là công ty trách  nhiệm hữu hạn Việt Nhật đã vi phạm pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động.  Tôi xin đưa ra một số phương án giải quyết đồng thời phân tích tìm phương   án tối ưu nhất. 2.1. Phương án thứ nhất 17
  18. Qua đơn của ông Lê Văn An, Uỷ ban nhân dân thị xã Hương Trà  quyết  định thành lập đoàn kiểm tra gồm các ngành chức năng tham gia giải quyết  như sau: Đại diện  Phòng Lao động ­ Thương binh và Xã hội;  Phòng Tư  pháp;  Thanh Tra thị  xã; Công an thị  xã; Phòng Tài nguyên ­ Môi trường; Liên đoàn  Lao động thị xã; Phòng Y tế thị xã Hương Trà. Đoàn kiểm tra trực tiếp đến địa điểm sản xuất của công ty TNHH Việt  Nhật để xác định việc vi phạm các quy định về an toàn vệ sinh lao động, diễn   biến tai nạn lao động và tiến hành các bước điều tra theo đơn khiếu nại và   theo các quy định của pháp luật. Nếu vụ  việc giải quyết không thỏa mãn được nguyện vọng của các  bên thì cần thành lập đoàn điều tra tai nạn lao động cấp tỉnh, sau đó sẽ  quay  về thực hiện các bước phương án thứ 2. Ưu điểm của phương án: Thời gian thực hiện nhanh, ít làm ảnh hưởng  đến sản xuất kinh doanh của công ty. Nhược điểm của phương án: Nếu đoàn điều tra cấp thị  xã không đủ  sức giải quyết thì có thể dẫn đến những quyết định không công bằng gây ảnh  hưởng xấu đến tình trạng sản xuất kinh doanh, tình hình an ninh trật tự  tại   địa phương. Đoàn kiểm tra cấp thị xã có thể không đủ sức giải quyết vụ việc.  Khi đó tiến hành thành lập đoàn kiểm tra cấp tỉnh. Do đó, sẽ kéo dài thời gian   giải quyết, tạo tâm lý căng thẳng cho hai bên. 2.2. Phương án thứ hai Xác định việc vi phạm an toàn vệ  sinh lao động để  xảy ra tai nạn lao   động trên đây là vi phạm pháp luật lao động nghiêm trọng cần nhanh chóng  thành lập đoàn kiểm tra về  an toàn – vệ  sinh lao động, tai nạn lao động cấp  tỉnh. 18
  19. Quyết định thành lập đoàn kiểm tra cấp tỉnh gồm các thành phần: Đại  diện Thanh tra Sở Lao động ­ Thương binh và Xã hội, Đại diện Sở Y tế, Đại  diện Liên đoàn Lao động tỉnh. Đoàn kiểm tra cũng tiến hành làm việc với lãnh đạo công ty và người bị  tai nạn lao động, nghe hai bên trình bày ý kiến về từng vụ việc cụ thể, có giải   trình chi tiết theo trình tự thời gian diễn biến của sự việc. Đoàn kiểm tra tổng hợp các ý kiến và kết luận về  mức độ  sai phạm   của từng bên, từng sự  việc cụ thể. Từ  đó đưa ra được nguyên nhân để  từng   bên nhận ra và cam kết có biện pháp khắc phục hậu quả  sửa chữa khuyết   điểm và thực hiện đúng chế  độ, chính sách đúng với các quy định của pháp  luật hiện hành. Nếu mức độ sai phạm của chủ doanh nghiệp đúng theo đơn khiếu nại  của ông Lê Văn An thì đoàn điều tra sẽ đề nghị xử phạt theo Nghị định Nghị  định số 95/2013/NĐ­CP ngày 22/8/2013 và Nghị định số 88/2015/NĐ­CP ngày  07/10/2015 của Chính phủ quy định về việc xử phạt hành chính về hành vi vi  phạm pháp luật lao động. Ưu điểm của phương án: Thời gian giải quyết sẽ nhanh hơn, sớm giải  tỏa được mâu thuẩn và tâm lý căng thẳng giữa hai bên, sớm ổn định sản xuất  kinh doanh. Người lao động và chủ doanh nghiệp sẽ tốn ít thời gian cho việc   hội họp, đón tiếp đoàn điều tra tập trung cho việc sản xuất kinh doanh. Nhược điểm của phương án. Do sự việc mỗi bên đưa ra chưa có đủ cơ  sở  vững chắc, các cứ  liệu chưa chính xác, không có thời gian hội ý, tham  khảo ý kiến của mỗi bên để  đưa ra những phân tích xác đáng mà chỉ  lắng   nghe ý kiến của mỗi bên, vừa phân tích vừa tổng hợp để chỉ rõ chỗ đúng chỗ  sai, nên việc hòa giải sẽ gặp khó khăn hơn. Trong những trường hợp phức tạp, phương án này có thể làm cho đoàn  điều tra không thể  hiện đạt các yêu cầu đề  ra khi giải quyết vụ  tai nạn lao   động. 2.3.  Phương án thứ ba 19
  20. Thành lập đoàn điều tra như  phương án hai, đoàn kiểm tra cũng tiến   hành làm việc với lãnh đạo công ty và người bị tai nạn lao động, nghe hai bên  trình bày ý kiến về từng vụ việc cụ thể, có giải trình chi tiết theo trình tự thời  gian diễn biến của sự việc. Bước 1: Đoàn điều tra tiến hành tiếp xúc với ông Lê Văn An tìm hiểu  về quá trình chữa trị vết thương, việc chăm sóc, chi trả các khoản chi phí về  các quyền lợi khác của người sử dụng lao động. Bước 2: Đoàn điều tra làm việc trực tiếp với lãnh đạo công ty để  xác  minh nội dung đơn, đồng thời yêu cầu cung cấp hồ  sơ về  quản lý lao động,  hồ sơ BHXH, BHTN, TNLĐ tại doanh nghiệp, xác định hiện trường nơi xảy   ra tai nạn lao động, việc thực hiện các kiến nghị về an toàn vệ sinh lao động  của các đoàn kiểm tra về  an toàn vệ  sinh lao động trước đây, tình hình thực   hiện các quy định của pháp luật về an toàn vệ sinh lao động tại doanh nghiệp.   Việc bồi thường tai  nạn lao  động trước  đây (nếu có)  và bồi thường cho  trường hợp ông Lê Văn An  Bước 3: Đoàn kiểm tra làm việc với các đoàn kiểm tra về  an toàn vệ  sinh lao động trước đây để vừa kiểm tra vừa thu nhập thêm thông tin làm cơ  sở so sánh đối chiếu thông tin giữa 3 bước. Bước 4: Tổng hợp nội dung, kết quả  làm việc của từng bước và kết  quả của từng nội dung, mức độ  phạm lỗi do mỗi bên gây ra để  từ  đó hướng   dẫn các biện pháp, giải pháp khắc phục hậu quả, tổ chức cuộc họp để nghe ý  kiến phản ánh trực tiếp của hai bên. Trên cơ  sở  đó, căn cứ  vào quy định của  pháp luật giải quyết sự việc thấu tình đạt lý. Ưu điểm của phương án: Thông qua các cuộc gặp gỡ, đoàn điều tra có  thời gian và điều kiện để thẩm tra thông tin do hai bên cung cấp, có thời gian   để  thu thập thêm chứng cứ, số  liệu, từ  đó có thể  đưa ra những kết luận,  những giải pháp biện pháp, hình thức xử  lý chính xác, khách quan thấu tình,  đạt lý, có tính thuyết phục cao. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1