intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

182
lượt xem
47
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bài viết này, tác giả đã luận chứng nhằm làm rõ vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng. Theo tác giả, để phát huy đạo đức cách mạng với tính cách một nguồn lực tinh thần trong điều kiện mới, cần: thứ nhất, coi trọng xây dựng phẩm chất chính trị và đạo đức cho cán bộ, đảng viên; thứ hai, nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc phục sự suy thoái về đạo đức trong một bộ phận cán...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

  1. TIỂU LUẬN: ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VỚI SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
  2. Trong bài viết này, tác giả đã luận chứng nhằm làm rõ vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng. Theo tác giả, để phát huy đạo đức cách mạng với tính cách một nguồn lực tinh thần trong điều kiện mới, cần: thứ nhất, coi trọng xây dựng phẩm chất chính trị và đạo đức cho cán bộ, đảng viên; thứ hai, nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên gắn với đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc phục sự suy thoái về đạo đức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; thứ ba, phát huy vai trò tiên phong của cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống gắn với đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đạo đức cách mạng là một hệ thống giá trị và định hướng giá trị được thể hiện dưới dạng các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xuất phát từ lợi ích của sự nghiệp đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân. Tính thực tiễn của nó là sự thống nhất giữa ý thức và hành vi đạo đức, tạo nên phẩm chất đạo đức - yếu tố nền tảng trong nhân cách của người cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, đạo đức cách mạng là "cái gốc", cái "nền tảng" của người cách mạng mà thiếu nó, người cách mạng không thể hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang của mình. Theo đó, đạo đức cách mạng là nguồn lực tinh thần to lớn của một Đảng cách mạng; là động lực, điều kiện để Đảng cách mạng và mỗi cán bộ, đảng viên thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử vẻ vang đối với giai cấp và toàn dân tộc. Trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh cách mạng của mình, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng bồi dưỡng, giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Nhờ đó, Đảng đã đào tạo ra những con người ưu tú hết lòng, hết sức phục vụ Đảng, phục vụ sự nghiệp cách mạng; không ít cán bộ, đảng viên của Đảng đã trở thành những tấm gương lớn về đạo đức cách mạng để quần chúng nhân dân học tập, noi theo.(*)Trải qua hơn 80 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đất nước, đạo đức cách mạng của Đảng đã trở thành hạt nhân định hướng cho sự phát triển đạo đức của toàn xã hội và Đảng ta đã trở thành biểu tượng của lương tri, của trí tuệ dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nói về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có quyền nói rằng: Đảng ta thật là vĩ đại”(1) và “Đảng ta là đạo
  3. đức, là văn minh”(2). Có thể thấy, đạo đức cách mạng của Đảng ta đã trở thành động lực tinh thần mạnh mẽ và có vai trò to lớn không chỉ đối với cán bộ, đảng viên của Đảng, mà còn đối với toàn thể nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà và đi lên chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu “to lớn và có ý nghĩa lịch sử”(3) của cách mạng Việt Nam đã đạt được qua hơn 25 năm đổi mới toàn diện đất nước đã tiếp tục khẳng định Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Trước những khó khăn, thách thức lớn do tình hình thế giới và trong nước đưa lại cũng như sự chống phá của các thế lực thù địch, Đảng ta đã giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên định nền tảng tư tưởng cùng mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Đa số cán bộ, đảng viên của Đảng, trên cơ sở thấm nhuần đạo đức cách mạng tiếp tục “phát huy vai trò tiên phong, năng động, sáng tạo trong công tác, lao động, rèn luyện phẩm chất, năng lực, có bước trưởng thành, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới, góp phần xứng đáng vào thành quả chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(4). Như vậy, trước các thách thức không nhỏ do tình hình thời cuộc và thực tiễn của sự nghiệp cách mạng đất nước đưa lại, bản lĩnh chính trị và đạo đức của Đảng ta tiếp tục được khẳng định một cách vững chắc trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Vai trò đạo đức cách mạng của Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên tiếp tục được phát huy trong thời kỳ mới.(4) Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Sự nghiệp đổi mới tiếp tục đứng trước nhiều thời cơ và vận hội to lớn do điều kiện quốc tế và các thành quả của công cuộc đổi mới đưa lại. Tuy nhiên, bên cạnh các điều kiện thuận lợi, cách mạng nước ta cũng đang đứng trước nhiều thách thức lớn. Ngoài các nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, sự chống phá của các thế lực thù địch, còn có một nguy cơ hiện hữu, như một thứ giặc “nội xâm” đang đe doạ sự tồn vong của chế độ ta, đó là tình trạng “suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả”(5). Đáng chú ý, sự suy thoái
  4. đó không chỉ liên quan đến sức chiến đấu và vận mệnh của Đảng, mà còn tạo ra các “hiệu ứng âm” ảnh hưởng đến đời sống tinh thần, đạo đức của toàn xã hội và làm giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ. Tình hình trên cho thấy, để Đảng ta hoàn thành được nhiệm vụ của người chiến sĩ tiên phong và phát huy vai trò nguồn lực tinh thần của đạo đức cách mạng trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cũng như định hướng, nêu gương cho sự phát triển đạo đức của toàn xã hội, một nhu cầu bức thiết đặt ra hiện nay là phải “xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân”(6). Cần nhận thấy rằng, từ khi Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, hoàn cảnh quốc tế và trong nước cũng như nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu mới mẻ. Việc xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và đạo đức cách mạng gắn với vai trò của một đảng cầm quyền, trong điều kiện hội nhập, mở cửa với bên ngoài, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với một môi trường văn hóa và đạo đức xã hội có nhiều biến đổi phức tạp, mà sự tác động của nó đến đạo đức của cán bộ, đảng viên và của các tầng lớp nhân dân không chỉ có mặt tích cực, mà có cả mặt tiêu cực... là một nhiệm vụ rất nặng nề. Bởi vậy, để nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình, Đảng phải coi trọng tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; rèn luyện đạo đức cách mạng trong toàn Đảng và xem đây là hai mặt của một quá trình thống nhất nhằm xây dựng Đảng vững mạnh cả về tư tưởng, chính trị lẫn tổ chức đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng, lãnh đạo.(6) Có thể nói, xây dựng và phát huy vai trò đạo đức cách mạng của Đảng trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước hiện nay vừa là một nhu cầu hết sức bức thiết, vừa là một vấn đề không kém phần phức tạp không chỉ liên quan đến sinh mệnh của Đảng, mà còn liên quan đến đời sống đạo đức của toàn xã hội. Về thực chất, đây là cuộc đấu tranh toàn diện và lâu dài, liên quan đến các tổ chức đảng, đến từng cán bộ, đảng viên và toàn xã hội. Đây là cuộc đấu tranh giữa đạo đức cách mạng với các tàn dư của đạo đức xã hội cũ, đồng thời là cuộc đấu tranh khắc phục các tư tưởng, tâm lý, lề thói tiêu cực về đạo đức nảy sinh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập, mở
  5. cửa. Song, vấn đề là ở chỗ, đạo đức cách mạng của Đảng phải tiếp tục khẳng định được vai trò hạt nhân định hướng, dẫn dắt cho sự phát triển đạo đức của xã hội và từng cán bộ, đảng viên của Đảng phải “thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất, đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng; năng động, sáng tạo, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách”(7) để các tầng lớp nhân dân học tập. Để tiếp tục phát huy nguồn lực tinh thần mạnh mẽ của đạo đức cách mạng trong đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, cần quan tâm nhận thức và giải quyết một số vấn đề sau: Thứ nhất, để tầm cao trí tuệ và đạo đức cách mạng của Đảng tiếp tục phát huy vai trò trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, Đảng phải đặc biệt coi trọng xây dựng phẩm chất chính trị và đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Cả lý luận lẫn thực tiễn đều cho thấy, chính trị và đạo đức là hai yếu tố nền tảng thống nhất trong nhân cách của người cách mạng. Sự suy thoái về phẩm chất của người cán bộ, đảng viên của Đảng có thể đi từ sự suy thoái về tư tưởng, chính trị; song, nhiều khi sự suy thoái đó lại bắt đầu từ sự suy thoái về đạo đức, lối sống. Nhưng cho dù khởi nguồn của sự suy thoái đó từ đâu đi nữa, thì hệ lụy của nó cũng đều gây ra các tác hại không nhỏ cho Đảng và sự nghiệp cách mạng của đất nước. Bởi vậy, xây dựng phẩm chất chính trị cho cán bộ, đảng viên của Đảng phải gắn với nâng cao đạo đức cách mạng, phải đảm bảo để mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng, mà còn có đạo đức cách mạng trong sáng, xứng đáng là những người đi tiên phong trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.(7) Thứ hai, nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phải gắn với đẩy mạnh cuộc đấu tranh khắc phục sự suy thoái về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong Đảng hiện nay. Xét về thực chất, nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên luôn phụ thuộc một cách quyết định vào vai trò chủ thể của các cấp tổ chức đảng và của từng cán bộ, đảng viên. Đây là hoạt động có mục đích để chuyển hóa các giá trị của đạo đức cách mạng thành giá trị đạo đức cá nhân và hành vi đạo đức thực tế của mỗi người. Sự nghiệp đổi mới đất nước đang đặt ra những yêu cầu mới về phẩm chất đạo
  6. đức cách mạng và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên của Đảng. Mặt khác, tình hình đạo đức trong Đảng hiện nay đòi hỏi phải “đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng”(8). Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và tự giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên không tách rời nhau, hiệu quả của công tác này phụ thuộc vào việc thấm nhuần lý tưởng và nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức của người cách mạng; coi trọng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức ở mọi lúc, mọi nơi. Người cán bộ, đảng viên phải luôn “chính tâm” với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân và đất nước lên trên hết. Có như vậy, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ không ngừng tiến bộ, làm cho Đảng mạnh lên và trở thành tấm gương để quần chúng noi theo, học tập. Sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng phải ra sức củng cố, phát triển đạo đức cách mạng lên một trình độ mới. Theo đó, việc nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện đạo đức cho cán bộ, đảng viên không tách rời cuộc đấu tranh khắc phục các tiêu cực về đạo đức trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay. Trước hết, phải đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân - một căn bệnh “đẻ ra nhiều cái xấu, thiên hình vạn trạng”(9), như suy thoái về đạo đức, lối sống; quan liêu, tham nhũng; kèn cựa, địa vị và mất đoàn kết trong Đảng, v.v.. Đây là cuộc đấu tranh không kém phức tạp diễn ra trong các tổ chức và từng con người; bởi vậy, phải được tiến hành với các giải pháp đồng bộ, kiên quyết và vững chắc.(8) Thứ ba, phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống gắn với đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII và cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Xây dựng và phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay đòi hỏi mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải tiếp tục quán triệt và đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng trong thời kỳ mới. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải tiếp tục hướng vào xây dựng từng tổ chức đảng vững mạnh và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, nâng cao đạo đức cách mạng và năng lực công tác. Mặt khác, phải gắn cuộc vận động với nâng cao hiệu quả
  7. cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và xử lý “kịp thời, nghiêm minh, công khai theo kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với những cán bộ, công chức tham nhũng”(10). Để đạo đức cách mạng của Đảng tiếp tục phát huy vai trò trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cần đề cao tính tiên phong, gương mẫu về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở mọi cương vị lãnh đạo. Nhân dân ta có truyền thống coi trọng đạo đức, thường đánh giá, xem xét người lãnh đạo mình trước hết về mặt đạo đức. Do vậy, để định hướng, nêu gương cho sự phát triển đạo đức của toàn xã hội, cán bộ và đảng viên của Đảng phải đi đầu trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống. Để thực hiện tốt vấn đề trên, cần tiếp tục nâng cao hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn xã hội. Trong cuộc vận động này, cán bộ, đảng viên của Đảng phải đi đầu, đi trước để các tầng lớp nhân dân học tập, noi theo.(10) Phát huy vai trò đạo đức cách mạng của Đảng là một vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách đặt ra đối với sự nghiệp lãnh đạo cách mạng của Đảng trong thời kỳ mới. Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước đang đòi hỏi phải tiếp tục phát huy nội lực tinh thần từ bên trong của Đảng, đó là tầm cao trí tuệ và đạo đức cách mạng của một Đảng cầm quyền - một Đảng không có lợi ích nào khác là phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Trong sự nghiệp đó, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải thấu triệt hơn nữa lời căn dặn trước lúc đi xa của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(11). --------------------------------- (*) Đại tá, tiến sĩ, chủ nhiệm Khoa Triết học, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng. (1) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.2. (2) Hồ Chí Minh. Sđd., tr.5. (3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.17.
  8. (4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.216. (5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.22. (6) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.279. (7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.182 - 183. (8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.286. (9) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.9. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.456. (10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Sđd., tr.289. (11) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.498. LUẬN ĐIỂM “KHOA HỌC TRỞ THÀNH LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRỰC TIẾP” CỦA C.MÁC VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một số nội dung cơ bản trong luận điểm của C.Mác dự báo khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đồng thời, tác giả đã phân tích và luận chứng vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong xã hội hiện đại, cho rằng khoa học – công nghệ và sản xuất đang có xu hướng nhất thể hóa. Trên cơ sở đó, luận chứng một số giải pháp để phát huy hiệu quả của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay. Cách đây trên 160 năm, C.Mác đã đưa ra nhận định về xu thế nhất thể hoá giữa khoa học và sản xuất bằng luận điểm nổi tiếng: "Khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”. Điều này đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ và trở thành xu thế tất yếu
  9. trong sự phát triển của nền sản xuất hiện đại trên thế giới. Khoa học và công nghệ hiện đại ngày càng đóng vai trò quan trọng, to lớn trong nền sản xuất xã hội và trong đời sống nhân loại, đồng thời là một đặc điểm nổi bật của thời đại ngày nay và là yếu tố đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại. Về luận điểm “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác, đến nay vẫn có những ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, ý kiến khác lại cho rằng khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thậm chí có ý kiến cho rằng C.Mác không nói như vậy. Theo chúng tôi, luận điểm “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” của C.Mác có nghĩa là khoa học trực tiếp tham gia vào việc sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.(*)Bởi vì, khoa học (biểu hiện ở các tri thức khoa học, thành tựu của khoa học, phát minh khoa học) là sản phẩm sáng tạo của tư duy con người, khi được con người ứng dụng trong hoạt động sản xuất, hay nói cách khác là khi được chuyển hoá, được “vật chất hoá” thành công cụ sản xuất và được con người sử dụng trong hoạt động lao động để tạo ra của cải vật chất thì nó trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Còn khoa học với tính cách một hình thái ý thức xã hội thì nó là yếu tố thuộc về kiến trúc thượng tầng chứ không thể là lực lượng sản xuất hay thành tố của lực lượng sản xuất được. Trong các tác phẩm của mình, C.Mác đã nhiều lần khẳng định vai trò cũng như sức mạnh cải tạo thế giới của tri thức khoa học khi nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đồng thời, ông cũng chỉ rõ rằng, tự bản thân khoa học không thể gây ra bất kỳ một tác động tích cực hay tiêu cực nào đối với thế giới, mà phải thông qua sự vận dụng vào hoạt động thực tiễn của con người thì nó mới phát sinh tác dụng. Trong Gia đình thần thánh, C.Mác chỉ rõ: Tư tưởng căn bản không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn. Trong Lời nói đầu Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, C.Mác một lần nữa khẳng định: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”(1). Trong các yếu tố cấu thành và quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất thì công cụ lao động giữ vị trí rất quan trọng, nó là cái quyết định năng suất lao động,
  10. biểu hiện khả năng chinh phục và làm chủ tự nhiên của con người, Ph.Ăngghen gọi nó là khí quan của bộ óc người, là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá, nhằm nối dài bàn tay và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người, còn C.Mác thì chỉ rõ: “Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”(2), “Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”(3). Yếu tố trực tiếp quyết định sự phát triển của công cụ lao động chính là khoa học và công nghệ, bởi nhờ có thành tựu khoa học (những phát kiến khoa học) và công nghệ, công cụ lao động được cải tiến không ngừng nhằm giảm nhẹ lao động cơ bắp của con người và làm cho lao động đạt hiệu quả cao hơn. Do đó, có thể nói, sự phát triển của khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến sự phát triển của lực lượng sản xuất; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ sẽ dẫn đến cuộc cách mạng trong sự phát triển của lực lượng sản xuất.(1) Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại và là yếu tố không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Các thành tựu khoa học và công nghệ ngày càng xâm nhập sâu vào quá trình sản xuất và trở thành lực lượng trực tiếp sản xuất; thời gian ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất trực tiếp ngày càng ngắn dần. Nói cách khác, quá trình nhất thể hoá giữa khoa học và công nghệ với sản xuất đang ngày càng rõ nét và trở thành xu thế tất yếu. Thực tiễn cho thấy, nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển trên thế giới chủ yếu dựa vào tri thức khoa học với các tiến bộ khoa học và công nghệ. Trong điều kiện hiện nay, bất kỳ quốc gia nào muốn trở thành nước phát triển thì không thể không chú trọng hàng đầu vấn đề này. Tất nhiên, cần lưu ý rằng, thứ nhất, sức mạnh và tiềm lực của khoa học và công nghệ bao gồm sức mạnh của khoa học (khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn) và sức mạnh của công nghệ (bao gồm công nghệ chiến lược, công nghệ quản lý và công nghệ kỹ thuật). Thứ hai, khoa học và công nghệ có thể là động lực phát triển kinh tế, nhưng tự nó không trở thành động lực phát triển xã hội. Nó chỉ trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội khi được định hướng, quản lý nhằm đem lại lợi ích chung cho quần chúng nhân dân, vì mục tiêu phát triển, công bằng và tiến bộ xã hội. Nếu đi ngược mục tiêu đó, nó sẽ tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn xã hội, thúc đẩy sự
  11. phân hoá xã hội và cản trở sự phát triển bền vững của xã hội, thậm chí trở thành nhân tố phá hoại sự tiến bộ xã hội. Thứ ba, khoa học và công nghệ phải được kết hợp chặt chẽ với yếu tố con người thì mới phát huy được tác dụng tích cực của nó. Trong trường hợp khoa học và công nghệ quá lạc hậu hoặc vượt quá xa so với năng lực của người sử dụng thì đều không đưa lại hiệu quả mong muốn trong thực tiễn. Thứ tư, không chỉ những tri thức khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, mà cả tri thức khoa học xã hội và nhân văn cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình sản xuất. Nó là cơ sở lý luận cho việc quản lý các quá trình sản xuất hiện đại, công nghệ hiện đại, nhằm sử dụng mọi nguồn lực một cách có hiệu quả, tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững. Trong lịch sử không phải bao giờ khoa học cũng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Điều này có nguyên nhân từ cách phân chia truyền thống đối với hoạt động nghiên cứu khoa học thành: nghiên cứu lý thuyết, nghiên cứu triển khai và dự án sản xuất thử - thử nghiệm. Cách phân chia này đã coi khoa học và công nghệ và sản xuất là hai lĩnh vực riêng biệt. Vì vậy, trong suốt một thời gian dài, người ta chỉ tập trung ưu tiên cho phát triển khoa học và công nghệ ở các viện, trường, sau đó mới tìm cách “gắn kết” khoa học và công nghệ với sản xuất. Điều này đã tác động tiêu cực đến sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng như sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá trên thị trường. Cho đến đầu thế kỷ XIX, khoa học vẫn chỉ đóng vai trò gián tiếp trong quá trình sản xuất. Mặc dù vậy, C.Mác với bộ óc thiên tài của mình đã khẳng định, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng như sản xuất, xu thế nhất thể hoá giữa khoa học với sản xuất sẽ trở thành tất yếu. Dự báo khoa học đó đã trở thành hiện thực khi xuất hiện phổ biến một dạng nghiên cứu mới - nghiên cứu sản xuất (R&P - Research & Production). Nếu như kết quả của nghiên cứu lý thuyết là các sản phẩm mang tính lý thuyết, kết quả của nghiên cứu triển khai là các sản phẩm thử nghiệm mang tính khoa học và kỹ thuật, thì kết quả của nghiên cứu sản xuất là các sản phẩm mang tính xã hội và hàng hoá, là kết tinh các thuộc tính khoa học, kỹ thuật, pháp luật, thẩm mỹ... Nói cách khác, sản phẩm của nghiên cứu sản xuất chính là công nghệ sản xuất. Nghiên cứu sản xuất ra đời gắn liền với sự chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế tri thức ngày nay, nghiên cứu sản xuất lại càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Thông
  12. qua nghiên cứu sản xuất, hàm lượng chất xám trong mỗi sản phẩm hàng hoá ngày một gia tăng. Nói cách khác, khoa học đã kết tinh và thăng hoa trong mỗi sản phẩm hàng hoá. Đối với nước ta, quá trong trình xây dựng phương thức sản xuất mới trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu đang là một yêu cầu cấp thiết. Để thực hiện yêu cầu này, Bộ Chính trị đã đề ra một số chủ trương chiến lược quan trọng, trong đó điển hình là chủ trương tập trung xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm tại ba miền Bắc, Trung, Nam nhằm tập trung nguồn lực đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội cả nước. Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết và Quyết định để cụ thể hoá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tại ba vùng kinh tế trọng điểm. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược này, khoa học và công nghệ phải thực sự là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Muốn vậy, trước hết phải tập trung phát triển khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất, nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất và hệ thống hạ tầng kỹ thuật khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất. Thực tế chỉ ra rằng, trong điều kiện kinh tế thị trường toàn cầu hoá ngày nay, nền kinh tế của một quốc gia chỉ có thể tồn tại và phát triển khi các sản phẩm hàng hoá của nó luôn được đổi mới và có tính cạnh tranh về chất lượng, giá cả, mẫu mã... Những đòi hỏi như vậy chỉ được đáp ứng khi các cơ sở sản xuất có tiềm lực mạnh về khoa học và công nghệ và nó trực tiếp tham gia sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá. ở Việt Nam, nếu trong nửa cuối thập niên 80 của thế kỷ trước, “khoán 10” thành công dựa trên cơ sở thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, giải phóng sức lao động của người nông dân, thì cơ sở thành công của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội hiện nay chính là nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất bằng việc kết hợp có hiệu quả giữa tiềm lực người lao động Việt Nam với sức mạnh khoa học và công nghệ hiện đại. Để phát triển lực lượng sản xuất, nhất thiết phải có sức mạnh khoa học và công nghệ, đặc biệt ưu tiên khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất trong các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất.
  13. Trong những năm vừa qua, các thành tựu của khoa học và công nghệ được ứng dụng ngày càng rộng rãi trong lao động sản xuất và đời sống của người dân Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng cuộc sống của người dân. Không ít phát minh, sáng chế đã trở thành niềm tự hào của người Việt trước cộng đồng quốc tế, điển hình như việc sáng chế máy hút bùn công suất 30m3/h của anh Trần Văn Dũng (Trà Vinh), máy gặt đập liên hợp MGĐ-140 của kỹ sư Nguyễn Minh Hùng (Đồng Nai), hay việc di chuyển các công trình xây dựng của “thần đèn” Nguyễn Cẩm Luỹ... Chúng ta cần đẩy mạnh việc xuất khẩu những “công nghệ” như vậy ra nước ngoài thay vì chỉ xuất khẩu dầu thô, than đá, mủ cao su... Bên cạnh một số thành tựu đã đạt được trong thời gian vừa qua, việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất trực tiếp vẫn còn tồn tại không ít hạn chế, bất cập. Ngân sách đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ chưa được định hướng ưu tiên trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh, chủ yếu dừng lại ở nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu triển khai. Nguồn nhân lực lao động kỹ thuật vừa yếu, vừa phân tán nên chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Đây là tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Bên cạnh đó, với quan niệm cho rằng chỉ các sản phẩm của nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu triển khai mới được coi là sản phẩm của nghiên cứu khoa học, còn các sản phẩm của nghiên cứu sản xuất, cho dù có tính khoa học và kỹ thuật, nếu do các doanh nghiệp thực hiện, tức có thêm tính hàng hoá và tính xã hội, thì cũng chỉ được coi là sáng kiến cải tiến kỹ thuật chứ chưa phải là nghiên cứu khoa học. Do vậy, không tạo ra động lực cho các nghiên cứu sản xuất phát triển và ảnh hưởng đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhìn chung, hoạt động khoa học và công nghệ thời gian qua chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ có hiệu quả cao cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Sự phối hợp, hợp tác nghiên cứu giữa các tổ chức, cá nhân trong hoạt động khoa học và công nghệ thiếu chặt chẽ, dẫn đến hiệu quả không cao; việc ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất còn chưa lường hết được những tác động tiêu cực của nó nên không có biện pháp chủ động ngăn chặn, làm xuất hiện nhiều vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc, như môi trường sống bị ô nhiễm, đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, lao động giản đơn dư thừa... Đây thực sự là những nguy cơ đe doạ sự ổn định xã hội và phát triển bền vững của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
  14. hóa hiện nay. Trên cơ sở các phân tích nêu trên, để hoạt động khoa học và công nghệ thực sự phát huy hiệu quả đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay, cần thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau đây: Một là, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách, luật pháp để xây dựng, sử dụng và phát huy có hiệu quả đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật hiện có, nâng cao tính cạnh tranh trong hoạt động của các cá nhân và tổ chức làm khoa học để tạo động lực phát triển khoa học và công nghệ; thu hút có hiệu quả các nguồn lực xã hội, các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong và ngoài nước để phục vụ phát triển hạ tầng khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất; tập trung đầu tư xây dựng các khu công nghệ có quy mô hợp lý, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng tỉnh và vùng; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trực tiếp sản xuất. Trên cơ sở đó, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các tổ chức khoa học và công nghệ có khả năng nghiên cứu ứng dụng, cải tiến công nghệ nhằm phục vụ trực tiếp nhu cầu sản xuất kinh doanh của xã hội tham gia vào các khu công nghệ này. Hai là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và thực hiện xã hội hoá lĩnh vực khoa học và công nghệ đi đôi với xoá bỏ cơ chế quan liêu, độc quyền trong khoa học để tạo điều kiện, môi trường cho cạnh tranh bình đẳng trong lĩnh vực này. Hình thành các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ tập trung để hỗ trợ giải quyết các nhu cầu về công nghệ của doanh nghiệp. Các tổ chức này có thể là đơn vị sự nghiệp công lập, ngoài công lập hoặc doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực lao động kỹ thuật theo hướng thích ứng với nhu cầu thị trường (kể cả với những thị trường công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu quy mô lớn) và phục vụ trực tiếp nhu cầu của doanh nghiệp. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia liên kết đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ cũng như thu hút nhân lực kỹ thuật cao từ nước ngoài. Tiếp tục chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp nghiên cứu khoa học theo mô hình tổ chức khoa học và công nghệ công lập, hoạt động theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 5/9/2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
  15. Cần lưu ý rằng, xã hội hoá hoạt động nghiên cứu, đào tạo khoa học và công nghệ là việc làm cần thiết. Tuy nhiên, không thể chỉ dừng lại ở việc tạo thuận lợi trong việc thành lập, tổ chức hoạt động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức này, mà phải tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt động của nó để đảm bảo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước, đồng thời thống nhất công tác quản lý nhà nước giữa hai lĩnh vực khoa học và công nghệ và đào tạo, tránh tình trạng dàn trải ở quá nhiều bộ, ngành, cơ quan. Ba là, tiếp tục đổi mới công tác lý luận trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, đảm bảo có hệ thống đối với những vấn đề mang tính chiến lược và tính dự báo, làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chính sách phát triển khoa học và công nghệ của Chính phủ. Để làm được điều này, việc tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn là hết sức quan trọng. Lý luận trong lĩnh vực khoa học và công nghệ phải có mối liên hệ chặt chẽ và phù hợp với lý luận trong các lĩnh vực khoa học khác, như lý luận về mục tiêu đổi mới thể chế kinh tế, về mục tiêu giáo dục và đào tạo, về chế độ sở hữu, v.v.. Bốn là, căn cứ đặc điểm và tình hình của đất nước, tiềm lực kinh tế - xã hội và trình độ phát triển của khoa học và công nghệ trong từng giai đoạn để xác định mục tiêu trọng điểm và lựa chọn nhiệm vụ trọng tâm tập trung đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học, đảm bảo thiết thực, hiệu quả, tránh ôm đồm vượt quá khả năng hoặc xác định không rõ mục tiêu trọng điểm của việc nghiên cứu, dẫn đến lãng phí nguồn lực. Các phân tích khoa học và thực tế đã chỉ ra rằng, trong 4 yếu tố cơ bản làm cho đất nước phát triển, nếu có nguồn nhân lực và hạ tầng kỹ thuật thì có thể thu hút được vốn và công nghệ. Vì thế, đối với hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay, trước tiên cần chú trọng đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ có chất lượng cao và hạ tầng kỹ thuật để đáp ứng tốt đòi hỏi của sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tiễn cho thấy, chỉ các nước lớn, có tiềm lực mạnh về nhiều mặt mới đủ khả năng tập trung cho cả 3 loại nghiên cứu, các nước trung bình chỉ đủ khả năng tập trung cho nghiên cứu triển khai và nghiên cứu sản xuất, một số nước như Hàn Quốc chỉ tập trung cho nghiên cứu triển khai, Trung Quốc tập trung cho nghiên cứu triển khai và nghiên cứu lý thuyết... và điều đó mới đưa lại hiệu quả thiết thực trong thực tiễn. Ngoài ra, việc lựa chọn con đường nghiên cứu khoa học và công nghệ cũng cần cần nhắc trên cơ sở kế thừa kinh nghiệm của các nước đi trước. Chẳng hạn, ở châu
  16. Âu trước đây, việc nghiên cứu khoa học diễn ra theo chu trình thuận từ nghiên cứu lý thuyết đến nghiên cứu triển khai và nghiên cứu sản xuất, tức là từ khoa học đến công nghệ, nhưng ở một số nước châu á lại chọn con đường phát triển theo chu trình nghịch từ nghiên cứu sản xuất đến nghiên cứu triển khai và nghiên cứu lý thuyết, tức là từ công nghệ đến khoa học, và điều này đã đem lại hiệu quả to lớn bất ngờ. Điển hình là trường hợp của Nhật Bản thời Minh Trị đã mua máy móc của phương Tây để sản xuất và bắt chước công nghệ, tiếp theo là cải tiến và xây dựng công nghệ riêng, rồi mới từng bước xây dựng một nền khoa học. Nhờ vậy, chỉ sau một thời gian ngắn, Nhật Bản đã trở thành một quốc gia hùng mạnh về khoa học và công nghệ. Sau này, Hàn Quốc với chính sách phát triển các khu công nghệ, Trung Quốc với quyết tâm trở thành “công xưởng của thế giới”... thực chất đều lựa chọn con đường phát triển khoa học và công nghệ theo chu trình nghịch và đã đạt được những thành tựu to lớn. Năm là, thúc đẩy và tạo điều kiện về cơ chế, chính sách, nhất là cơ chế tài chính cho mối liên doanh, liên kết giữa “bốn nhà” (Nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nông) để ứng dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ vào sản xuất trong quá trình sản xuất hàng hoá. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo môi trường văn hoá - xã hội và đẩy mạnh công tác truyền thông để người dân hiểu và tôn trọng khoa học và công nghệ cũng như việc ứng dụng nó trong sản xuất và đời sống. Đây cũng là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng một nền văn hoá mới tiên tiến mà ở đó, có sự thống nhất giữa những yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng, trong đó cách mạng trong lĩnh vực khoa học đang vượt trước cách mạng trong lĩnh vực kỹ thuật và công nghệ đã tạo điều kiện đẩy nhanh tiến bộ công nghệ. Ngược lại, sự tiến bộ của công nghệ lại thúc đẩy khoa học phát triển nhanh hơn nữa và đưa khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp trong nền kinh tế toàn cầu hoá. Khoa học và công nghệ đã và đang trở thành động lực phát triển hàng đầu của lực lượng sản xuất ở hầu hết các quốc gia phát triển trên thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ khiến tốc độ thay đổi mọi mặt của đời sống xã hội diễn ra nhanh tới mức chưa từng xảy ra trong lịch sử nhân loại từ trước tới nay. Bên cạnh mặt tích cực, sự phát triển của nó cũng khiến nhiều quốc gia, các tổ chức và định chế quốc tế lớn khó quản lý hay kiểm soát sự thay đổi đó một cách hiệu quả, đồng thời
  17. đặt ra không ít thách thức lớn đối với nhân loại. Để khắc phục và đối phó có hiệu quả với những vấn đề nêu trên, đòi hỏi sự nỗ lực chung và hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia, dân tộc, không phân biệt văn hoá, thể chế chính trị. Trong bối cảnh đó, sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng như xu thế nhất thể hoá giữa khoa học và công nghệ với sản xuất phải được định hướng và quản lý chặt chẽ, nhằm mục tiêu vì con người, vì sự phát triển bền vững và tiến bộ xã hội. --------------------------- (*) Tiến sĩ, Văn phòng Chính phủ. (1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.1. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.580. (2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.23, tr.269. (3) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.4, tr.187 TƯ DUY PHÁT TRIỂN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẤT NƯỚC LƯƠNG ĐÌNH HẢI (*) Trong bài viết này, trên cơ sở phân tích một cách khái quát thực trạng của đất nước trong bối cảnh mới, tác giả khẳng định rằng cần thiết phải có một tư duy mới, quan niệm mới hay lý thuyết phát triển mới thì mới có thể đưa đất nước phát triển nhanh hơn. Đồng thời, tác giả cũng phân tích một số khía cạnh, nội dung cơ bản của tư duy mới dựa trên yêu cầu phát triển đột phá và những tiền đề nhất định đã xuất hiện ở nước ta hiện nay. Một trong những đặc điểm nổi bật của Việt Nam trong giai đoạn phát triển hiện nay là tính chất sản xuất nhỏ vẫn ảnh hưởng và chi phối mọi mặt của đời sống xã hội. Trong tư duy, suy nghĩ, lối sống và nói chung trong toàn bộ nền văn hoá dân tộc, từ
  18. văn hoá dân gian đến văn hoá bác học, từ sản xuất vật chất đến đời sống tinh thần, tính chất sản xuất nhỏ thể hiện khá đậm nét. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, không phải mọi thứ nảy sinh trong nền sản xuất nhỏ ngày nay đều là bất hợp lý, là lạc hậu, cản trở sự phát triển. Nhưng, tính chất sản xuất nhỏ với tính cách tàn dư quá khứ lại gây ảnh hưởng trái chiều một cách mạnh mẽ đến sự phát triển của tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện đại. Nhận thức đúng những biểu hiện và tác động trái chiều của tính chất sản xuất nhỏ là điều kiện cần cho việc hạn chế những ảnh hưởng của nó và đảm bảo cho sự phát triển có chất lượng tốt hơn trên mọi phương diện. Đời sống vật chất, tồn tại xã hội quyết định đời sống tinh thần, ý thức xã hội. Không ai chối cãi điều này, nhưng cần nhớ rằng, đó là xét đến cùng. Trong thực tiễn đời sống cá nhân cũng như đời sống xã hội, chúng ta có thể thấy tình hình dường như không phải lúc nào cũng vậy mà ngược lại thì mới đúng. Mọi sự phức tạp trong đời sống xã hội dường như đều xuất phát trực tiếp từ ý thức con người, nghĩa là từ những ý nghĩ, quan niệm, cách nhìn nhận, trình độ văn hoá, kiến thức, sự hiểu biết, kinh nghiệm hay sự từng trải thực tiễn của những con người trong cuộc và trong một chừng mực nào đó, còn xuất phát từ cả tính cách, nhân tâm, khát vọng của họ. Nhưng, những cái đó lại cũng xuất phát từ những yếu tố nói trên. Như vậy, có thể nói, dường như mọi sự biến trong xã hội con người đều trực tiếp xuất phát từ văn hóa được chứa đựng, tích tụ và trầm lắng trong ý thức con người.(*) Một nền sản xuất nhỏ đã tồn tại qua hàng ngàn năm lịch sử tất yếu để lại một nền văn hoá, có thể tạm gọi là văn hoá sản xuất nhỏ, xét từ bình diện xã hội; và cũng tất yếu như vậy, để lại một tư duy sản xuất nhỏ với những nội dung văn hoá sản xuất nhỏ, xét cả từ bình diện xã hội lẫn cá nhân. Trong xã hội hiện nay, văn hoá sản xuất nhỏ, tư duy sản xuất nhỏ đang tồn tại như một trong những yếu tố trong dung môi của sự phát triển xã hội. Tư duy sản xuất nhỏ vừa là sản phẩm của các xã hội truyền thống, chưa qua công nghiệp hoá và hiện đại hoá xã hội, vừa là yếu tố đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc duy trì, củng cố sự tồn tại của các xã hội này(1). Lịch sử nhiều nước phương Đông, đặc biệt của Việt Nam và Trung Quốc, cho thấy một trong những nét đặc trưng của tư duy sản xuất nhỏ, khác với tư duy của các xã hội hiện đại, là định hướng trở về quá khứ nổi trội hơn so với hướng tới tương lai. Cách giải quyết những vấn đề hiện tại được rút ra từ khuôn mẫu giải quyết vấn đề của tiền nhân; xã
  19. hội quá khứ là hình mẫu cho xã hội hiện tại; thời Nghiêu, Thuấn là thời đại mẫu mực cho mọi xã hội về sau,… Với tư duy kỹ trị, tương lai bao giờ cũng tiến bộ hơn quá khứ và hiện tại; xã hội hạnh phúc, phồn vinh đang ở phía trước chứ không phải ở phía sau. Những hành xử của các bậc tiền nhân chỉ để tham khảo kinh nghiệm chứ không phải là khuôn mẫu buộc phải tuân theo,… Bởi vậy, chỉ tư duy phát triển (bao gồm nhiều loại tư duy khác nhau, trong đó có tư duy kỹ trị) mới thích hợp với xã hội phát triển, xã hội đang hiện đại hoá. Các xã hội đang phát triển và hiện đại hoá luôn đòi hỏi có các dạng tư duy phát triển đồng hành với nó. Đất nước và dân tộc ta đang ra sức thực hiện khát vọng phát triển, hiện đại hoá xã hội, đặng sánh vai cùng các cường quốc năm châu. Công cuộc đổi mới 25 năm qua đã thu đuợc nhiều thắng lợi to lớn, tạo đà và thế cho sự phát triển tiếp theo. So với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội nói chung của nước ta trong những năm qua là rất ấn tượng, chỉ đứng sau Trung Quốc. Sự chuyển đổi từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại đã diễn ra nhanh chóng trên hầu hết các mặt, các vùng, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhưng ngay từ khi bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI này đã bắt đầu một thời kỳ mới, thể hiện một tình thế phát triển mới, đòi hỏi cái mà có người gọi là những đột phá mới trong tư duy, hoặc lý luận phát triển mới, còn theo chúng tôi là đòi hỏi một dạng tư duy phát triển mới.(1). Trong thời đại cách mạng khoa học - kỹ thuật, công nghệ và toàn cầu hoá, tốc độ phát triển các lực lượng sản xuất vô cùng nhanh chóng so với các giai đoạn trước đây của lịch sử. Vòng đời của các sản phẩm tiêu dùng ngày càng rút ngắn lại theo tỷ lệ nghịch với tốc độ phổ cập đại trà của sản phẩm ấy. Vòng đời các công nghệ sản xuất quy định vòng đời các sản phẩm tiêu dùng dường như không chỉ ngày một ngắn đi, mà còn trực tiếp quy định sự sống còn của các doanh nghiệp, công ty. Hiện nay, tốc độ thay đổi và khả năng thích ứng công nghệ trở thành vấn đề sống còn của các công ty, các nền kinh tế, chứ không phải là vấn đề quy mô lớn hay bé của chúng như trước đây(2). Trong bối cảnh thế giới đang phát triển và đi vào tương lai với tốc độ hết sức nhanh chóng, thì chúng ta lại đang tụt hậu. Nếu mắc phải sự sai sót, dù chỉ là những sai sót nhỏ trên con đường phát triển, chúng ta sẽ bị chậm chân, sự tụt hậu càng xa hơn, càng khó khắc phục hơn, nguy cơ tụt hậu dài lâu càng hiển hiện.
  20. Với một tầm nhìn mới, xa hơn, không dừng lại ở năm 2020 mà chúng ta đang hy vọng là đến thời điểm đó, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, giả sử đến năm 2040, chúng ta sẽ thấy rõ hơn nhu cầu phát triển với tốc độ nhanh hơn, chất lượng tốt hơn, hiệu quả lớn hơn, thành tựu to lớn hơn, đang ngày một trở nên hết sức cấp bách. Sau khoảng 30 năm nữa, nếu với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người như hiện nay (bình quân 8,6%/năm từ 1990 đến nay), Trung Quốc có thể đạt mức thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ 48.000 đôla Mỹ, cao hơn mức của Nhật Bản và tương đương Mỹ, Hà Lan hiện nay, hoặc nếu mức tăng truởng GDP bình quân đầu người hàng năm giảm còn khoảng 5,8 - 6%/năm, thì Trung Quốc cũng đạt khoảng 30.000 đôla, tương đương mức của Italia, Tây Ban Nha hiện nay. Trong khi đó, nếu với mức độ tăng trưởng được xem là cao như hiện nay (khoảng 6% trong hơn 20 năm vừa qua), thì đến năm 2040, GDP bình quân đầu người của chúng ta mới chỉ khoảng 8.000 đôla, bằng mức của Mêhicô năm 2006. Còn nếu tốc độ tăng trưởng GDP đầu người hàng năm chậm lại, chỉ còn trung bình khoảng 4,8 - 5% năm, thì đến khi đó chúng ta chỉ được khoảng 4.000 đôla, thấp hơn mức của Malaixia hiện nay. ở đây, chúng ta mới chỉ nói đến mặt lượng của tăng trưởng mà chưa nói đến mặt chất của tăng trưởng – mặt mà hiện nay chúng ta đang còn nhiều bất cập.(2). Từ góc độ phát triển nói chung, chúng ta đang đứng trước hàng loạt vấn đề nan giải mà từ nay đến năm 2040 sẽ ngày càng trở nên căng thẳng và không thể không giải quyết. Đó không chỉ là tốc độ phát triển nhanh của thế giới và các nước trong khu vực, của khoa học và công nghệ, sự biến động của nền kinh tế thế giới, nói tóm lại là của những yếu tố bên ngoài, mà còn là của các yếu tố bên trong. Cùng với những yếu tố bên ngoài, các yếu tố bên trong cũng đang tạo nên những sức ép rất lớn, những chướng ngại cản trở chúng ta phát triển nhanh, làm tăng nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. Trong hàng loạt các yếu tố ấy, trước hết phải kể đến điều kiện tài nguyên, môi trường. Đất nước chúng ta không thuộc loại giàu có tài nguyên thiên nhiên như một số nước khác trên thế giới. Các nguồn tài nguyên không quá khan hiếm, nhưng có trữ lượng thấp. Một số nguồn tài nguyên đã bắt đầu cạn kiệt. Hàng năm, thiên tai, dịch bệnh luôn xảy ra và diễn biến phức tạp, khó lường, gây ảnh hưởng lớn đến tốc độ
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2