intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng với việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

156
lượt xem
57
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm sâu sắc những vấn đề lí luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng; đồng thời làm rõ thực trạng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay. Mời các bạn tham khảo

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng với việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ======================== NGUYỄN THỊ NGUYỆT TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VỚI VIỆC GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC Hà Nội - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ======================== NGUYỄN THỊ NGUYỆT TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VỚI VIỆC GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 03 01 NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS. TS. PHẠM VĂN NHUẬN Hà Nội – 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Phạm Văn Nhuận. Tôi xin cam đoan đề tài này không trùng với bất cứ đề tài luận văn thạc sĩ nào đã được công bố ở Việt Nam. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài. Người cam đoan Nguyễn Thị Nguyệt
  4. LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Phạm Văn Nhuận, hiện đang công tác tại Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự, đã hướng dẫn em hoàn thành luận văn này. Đồng thời, em cũng chân thành cảm ơn sự tận tình chỉ bảo của các thầy giáo, cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội, và tất cả người thân, bạn bè đã luôn sát cánh giúp đỡ, trong suốt quá trình học tập cũng như trong thời gian thực hiện luận văn vừa qua. Em xin chân thành cảm ơn!
  5. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU: ..............................................................................................1 CHƢƠNG 1: NGUỒN GỐC VÀ NỘI DUNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG ...........................................................6 1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng ..................................................................................................6 1.1.1.Cơ sở lý luận .............................................................................................6 1.1.2.Cơ sở thực tiễn ..........................................................................................9 1.1.3.Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng .............................12 1.2. Nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng ....................18 1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng .........18 1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cơ bản của cán bộ, đảng viên ................................................................................................... 20 1.2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong quan niệm của Hồ Chí Minh về xây dựng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ............................................ 30 CHƢƠNG 2: MỘT SỐ NỘI DUNG GIÁO DỤC VÀ RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY DƢỚI ÁNH SÁNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH ........................... 41 2.1. Thực trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay ..... 41 2.1.1. Những kết quả đạt được trong giáo dục rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay ....................................................................... 41 2.1.2. Những hạn chế về đạo đức của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay ...... 50 2.1.3. Nguyên nhân.......................................................................................... 59 2.2. Một số vấn đề đặt ra trong việc giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay ......................................67 2.2.1. Nền kinh tế thị trường phát triển đã ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức của cán bộ, đảng viên......................................................................................67
  6. 2.2.2. Kiên quyết xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ....................................................................70 2.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm kế thừa và phát huy đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh trong việc giáo dục rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay .................................................71 2.3.1. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ....................................71 2.3.2. Thực hiện tốt việc“Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay .............75 2.3.3. Tăng cường công tác tổ chức cán bộ và sinh hoạt Đảng ......................79 2.3.4. Mỗi cán bộ, đảng viên luôn tích cực tự giáo dục, tự rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để thực sự là công bộc của dân..............................................................................................82 KẾT LUẬN .....................................................................................................86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................88
  7. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, Người đã hiến dâng cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng cao đẹp, kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác là niềm vinh dự, tự hào và trách nhiệm đối với mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người Việt Nam. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng luôn vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác ngày càng to lớn hơn. Đảng luôn tự chỉnh đốn, tự đổi mới, giữ vững vai trò lãnh đạo, tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam được quần chúng nhân dân tin cậy và yêu mến - "Đảng ta là đạo đức là văn minh". Tuy vậy, trong những năm qua, trong Đảng có nhiều biểu hiện yếu kém, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp cần tập trung đấu tranh ngăn chặn. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư, khóa XI đã ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Trong đó, một vấn đề cần thực hiện trước mắt là thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW (ngày 14 / 5 / 2011 của Bộ Chính trị) Về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một cách thiết thực, hiệu quả nhất. Đây là yêu cầu vừa cơ bản lâu dài, vừa đòi hỏi cấp bách trong quá trình đổi mới đất nước ta hiện nay, để đạo đức cách mạng của con người Việt trong thời đại mới không ngừng được củng cố, phát triển. Bởi vậy việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là điều rất quan trọng và cấp thiết đối với toàn xã hội, mà trước hết là đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng và bộ máy Nhà nước. Trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây, cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, đội 1
  8. ngũ cán bộ, đảng viên luôn giữ vai trò rất quan trọng, là lực lượng nòng cốt đưa đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước vào cuộc sống. Được tôi luyện, trưởng thành trong bão táp cách mạng và kế thừa những tinh hoa của dân tộc, tiếp thu những yếu tố tích cực, tiến bộ của thời đại, đội ngũ cán bộ đảng viên đã không ngừng nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, lãnh đạo, quản lý và vận động quần chúng, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu, đủ cả phẩm chất và năng lực góp phần xứng đáng vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, những mặt trái của cơ chế thị trường đã không ngừng tác động đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, làm tha hóa một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ. Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ rất quan trọng và thường xuyên, qua đó để giáo dục, rèn luyện mình xứng đáng là đảng viên của Đảng cộng sản Việt Nam là “người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Do đó, tôi quyết định chọn vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng với việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng là một vấn đề lý luận cơ bản đã và đang thu hút được sự quan tâm nghiên cứu và vận dụng của nhiều tổ chức và cá nhân, cả trong nước và trên thế giới. Chương trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh (KX02) của quốc gia do GS Đặng Xuân Kỳ làm chủ nhiệm, trong đó có đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức (KX 02.08), do PGS, PTS. Nguyễn Văn Truy - chủ nhiệm, sau nghiệm thu được xuất bản cuốn sách mang tên “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Đây là một công trình nghiên cứu công phu của tập thể tác giả các nhà khoa học đã có nhiều năm nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nói riêng. Công trình đã nghiên cứu cơ bản, toàn diện về nguồn 2
  9. gốc, đặc trưng và nội dung cơ bản và khẳng định giá trị trường tồn của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh làm cơ sở cho việc quán triệt và vận dụng tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng hiện nay. Để phục vụ cho đề tài nghiên cứu cơ bản này, còn có các công trình nghiên cứu chuyên khảo khác như: “Hồ Chí Minh về đạo đức” - trích dẫn tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh; “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - truyền thống và nhân loại”, Kỷ yếu hội thảo (1993), cùng nhiều bài nghiên cứu khác được đăng trên các báo, tạp chí ở cả trong nước và ngoài nước. Nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, giá trị quý báu nhất thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học cả ở trong và ngoài nước chính là những nội dung về tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh; có nhiều nội dung đề cập tới đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hoạt động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhiều bài viết, công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên đã được xuất bản thành sách và công bố trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước. Chẳng hạn, về tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có các cuốn sách: “Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng” (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976); “Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đạo đức cách mạng” (Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986); “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993)… và các công trình khoa học: “Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo Di Chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh” (Lê Hữu Cát, Mạc Văn Nam, Tạp chí Triết học, số 9, Hà Nội, 2004); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ quân đội”, TS. Phạm Văn Nhuận (chủ biên), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004; “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” (Lê Trọng Ân, Tạp chí Triết học, số 1, Hà Nội, 2005); “ Nói đi đôi với làm phải nêu gương về đạo đức - một nguyên tắc cơ bản của đạo đức Hồ Chí Minh” (Song Thành, Tạp chí Cộng sản, số 11, Hà Nội, 2005); “ Đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh qua các phạm trù mà người đã sử dụng” (Hoàng Trung, Luận án Tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2005); “Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo 3
  10. đức cán bộ, đảng viên hiện nay” (Lê Hữu Nghĩa, Tạp chí Cộng sản, số 2 - 3, Hà Nội, 2006); “Học tập Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - xây dựng nền văn hóa đạo đức ở nước ta hiện nay”, PGS, TS. Thành Duy và TS Lê Quý Đức, Nxb Lí luận Chính trị, Hà Nội, 2007; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân” (Vũ Thị Hồng Lê, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2007); “Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong quân đội hiện nay”, PGS, TS. Phạm Văn Nhuận (Chủ biên), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008).v.v.. Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập và làm rõ những vấn đề trong quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, đem lại những đóng góp thiết thực trong nghiên cứu, học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng cho các đối tượng khác nhau theo tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng của Người. Tuy nhiên, vấn đề Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao hiệu quả giáo dục, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay vẫn chưa được tập trung nghiên cứu một cách cụ thể, sâu sắc. Vì vậy, để đẩy mạnh hơn nữa nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng với việc giáo dục,rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay là rất cơ bản và cấp thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài - Mục đích: Làm sâu sắc những vấn đề lí luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng; đồng thời làm rõ thực trạng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay. - Nhiệm vụ: Nghiên cứu những quan điểm tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam. Tìm hiểu thực tiễn giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh . 4
  11. Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng: Những quan niệm, tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và thực trạng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam. - Phạm vi: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực tiễn về đạo đức Hồ Chí Minh và vận dụng vào việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay; 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài - Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về đạo đức cách mạng nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Phương pháp nghiên cứu: Đề tài đã sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, lôgic - lịch sử, so sánh. 6. Đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài Đề tài góp phần làm rõ quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng; đề xuất những giải pháp cơ bản góp phần vào giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa lý luận: Đề tài góp phần vào việc tìm hiểu, làm sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng với việc giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. - Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập môn Triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chuyên ngành khoa học khác có liên quan. 8. Kết cấu của đề tài Gồm mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, 2 chương, (5 tiết). 5
  12. Chƣơng 1 NGUỒN GỐC VÀ NỘI DUNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG 1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng 1.1.1. Cơ sở lý luận Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, một nhân cách vĩ đại, mẫu mực. Người đã dày công xây dựng nền đạo đức cách mạng ở Việt Nam. Người phát triển lý luận đạo đức Mác - Lênin và kế thừa xuất sắc những tinh hoa đạo đức của dân tộc và nhân loại. Hồ Chí Minh luôn tự tu dưỡng, rèn luyện mình trở thành con người mẫu mực nhất, là tấm gương trong sáng nhất về đạo đức cách mạng. Trong con người Hồ Chí Minh luôn có sự thống nhất chặt chẽ giữa tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng. Đó là nét đặc trưng làm nên sức sống, sự lan tỏa mạnh mẽ của đạo đức Hồ Chí Minh sau khi ra đời đã nhanh chóng được mọi tầng lớp nhân dân tiếp nhận, phổ biến trong toàn Đảng, toàn dân và nhanh chóng trở thành đạo đức phổ biến, chủ đạo của xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và tư tưởng đạo đức truyền thống của dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ; đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cộng sản chủ nghĩa nhưng mang những đặc điểm rất Việt Nam cả về nội dung và hình thức biểu hiện. Đó là sự kết hợp sáng tạo thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa với những tinh hoa truyền thống của dân tộc Việt Nam, một dân tộc văn hiến, coi trọng phẩm giá con người và những giá trị tinh thần trong đời sống xã hội.Từ ngàn xưa, dân tộc ta đã sớm có ý thức cộng đồng, giàu lòng yêu nước, biết đoàn kết,cố kết cộng đồng trong đấu tranh chống thiên tai, giặc dã, bảo vệ và xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh rất biết quý trọng truyền thống đạo đức dân tộc và thường xuyên chắt lọc giá trị tốt đẹp, bồi đắp truyền thống yêu nước thương nòi của dân tộc ta. 6
  13. Đạo đức truyền thống của dân tộc ta khuyên bảo con người ăn ở có tình, có nghĩa, có đức, có nhân, biết trung, biết hiếu, v.v.. Hồ Chí Minh đã đưa vào những khái niệm đạo đức truyền thống ấy thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cộng sản, hình thành những nguyên tắc, chuẩn mực của một nền đạo đức mới để giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hồ Chí Minh là người đạt đến nghệ thuật trong việc sử dụng những từ ngữ quen thuộc với quần chúng để diễn đạt nội dung của đạo đức mới một cách dễ hiểu, dễ đi vào lòng người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của hoàn cảnh quê hương và gia đình vốn gắn bó với cuộc sống hàng ngày của Người. Tính cách xứ Nghệ với những đặc điểm như: lý tưởng trong tâm hồn, trung kiên trong bản chất, khắc khổ trong sinh hoạt, cứng cỏi trong giao tiếp… mang ý nghĩa, giá trị đạo đức nhân văn sâu sắc. Đặc biệt, Nghệ Tĩnh là nơi đã sản sinh ra nhiều tấm gương yêu nước, hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, có nếp sống văn hóa đạo đức rất tiêu biểu. Đó là những hoàn cảnh, môi trường văn hóa đạo đức rất sâu sắc mà Hồ Chí Minh đã được tiếp nhận từ lúc thiếu thời, một môi trường đặc biệt tác động, in đậm dấu ấn đến quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng sau này của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng còn được hình thành trên cơ sở tiếp thu tinh hoa đạo đức phương Đông và phương Tây, mà cốt lõi là đạo đức Mác - Lênin. Hồ Chí Minh là một người mác-xít nhưng Người không ngần ngại, mà trái lại, luôn bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với những người sáng lập các tôn giáo lớn trên thế giới và đặc biệt trân trọng các giá trị nhân văn đạo đức cao cả mà các bậc vĩ nhân đó đã đúc rút, sáng tạo được và ngưỡng mộ chính phẩm hạnh của họ. Hồ Chí Minh đã có nhận xét rất xác đáng rằng: "Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.Tôn giáo Giê-su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả.Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có 7
  14. ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện của nước ta. Khổng Tử, Giê xu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng phải đã có những điểm chung đó sao? Họ đều muốn "mưu hạnh phúc cho loài người, cho xã hội"... Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy” [10,tr 51]. Đạo đức phương Đông cũng đã có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh. Trong di sản văn hóa phương Đông, Hồ Chí Minh không chỉ giản đơn sử dụng các khái niệm và mệnh đề Nho giáo, mà trái lại, Người đã tiếp thu có chọn lọc những nội dung, mặt tích cực của Nho giáo như: ở “sự tu dưỡng đạo đức cá nhân”; phẩm chất hiếu học; về triết lý hành động, nhân nghĩa, ước vọng về một xã hội bình trị, hòa mục, thế giới đại đồng; về một triết lý nhân sinh, tu thân, tề gia, trị quốc; đề cao văn hóa trung hiếu “ dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Các khái niệm “trung, hiếu, trí, dũng, liêm” đã được Người kế thừa và phát triển một cách rất sáng tạo, biết "gạn đục khơi trong" từ những lý thuyết cũ, chắt lọc lấy cái có giá trị, bổ sung những nội dung mới. Đối với Phật giáo, Hồ Chí Minh tiếp thu giá trị tư tưởng đạo đức: vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, coi trọng tinh thần bình đẳng, chống phân biệt đẳng cấp, chăm lo điều thiện,v.v..Hồ Chí Minh còn tiếp thu Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn. Người ca ngợi chính sách của nó là “phù hợp với điều kiện của nước ta” và sử dụng học thuyết Tam dân vào việc mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc. Các giá trị cơ bản như độc lập - tự do - hạnh phúc đã được Người lựa chọn sử dụng làm mục tiêu phấn đấu, xây dựng một xã hội mới ở Việt Nam xuyên suốt quá trình hoạt động cách mạng. Nghiên cứu, tiếp thu những giá trị tư tưởng đạo đức phương Tây, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở tư tưởng bác ái của Đức Chúa Giê-su “lòng nhân ái cao cả”. Đặc biệt, Người chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái” trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền (năm 1791) của Đại cách mạng tư sản Pháp. Điều đó đã thôi thúc Người ra đi tìm đến tận quê hương của những tư tưởng ấy để xem thực tế nó như thế nào. Về tư tưởng dân chủ của cách mạng 8
  15. Mỹ, Người đã tiếp thu giá trị về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nước Pháp là nơi mà chủ nghĩa nhân văn rất phát triển. Chủ nghĩa nhân văn là đạo đức về sự cao quý của con người. Ở đây, Hồ Chí Minh đã có điều kiện tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng triết học tiến bộ mà đại biểu là tư tưởng của các nhà triết học thời kỳ Khai sáng và thời kỳ cách mạng tư sản Pháp, như Diderot, Voltaire, Rousseau, Montesquieu… và chủ nghĩa xã hội không tưởng của Xanhximông, Phuriê, Ôoen… Các nhà tư tưởng này đều hướng đến một xã hội lý tưởng, đề cao con người. Hồ Chí Minh không chỉ học hỏi, tiếp thu được kho tàng lý luận của phương Tây mà còn học hỏi được nhiều điều từ bạn bè quốc tế trong quá trình sống và làm việc ở đó. Người hiểu được tấm lòng khoan dung độ lượng của con người nơi đây. Đặc biệt, từ năm 1920, Hồ Chí Minh đã đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây được coi là nguồn gốc lý luận trực tiếp quyết định bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng và hành động của Người trở nên khoa học và cách mạng. Hồ Chí Minh không tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin một cách rập khuôn, máy móc, giáo điều, mà Người nắm vững cái cốt lõi, linh hồn sống của nó là phương pháp biện chứng duy vật để giải quyết thành công các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh ca ngợi phương pháp làm việc biện chứng, đề cao phần tinh túy nhất, sâu sắc nhất trong học thuyết Mác - Lênin mang tính nhân đạo, nhân văn cao cả. Như vậy, học thuyết Mác - Lênin nói chung, về đạo đức nói riêng không phải là nguồn gốc lý luận duy nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, nhưng là nguồn gốc lý luận nền tảng và chủ yếu nhất, chính nhờ nguồn gốc này mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu và phát triển đạo đức truyền thống của dân tộc và nhân loại lên một tầm cao mới, mang bản chất khoa học và cách mạng trở thành Đạo đức mới, Đạo đức cách mạng Việt Nam. 1.1.2. Cơ sở thực tiễn Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, đất nước ta rơi vào cảnh nô lệ lầm than dưới ách thống trị của đế quốc thực dân Pháp. Nhân dân ta đã liên tiếp nổi dậy 9
  16. chống lại ách cai trị của thực dân Pháp nhưng do thiếu đường lối chính trị đúng đắn lãnh đạo nên các phong trào đấu tranh đều lần lượt thất bại. Giữa lúc đó, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Người đã đến nhiều nước thuộc địa ở khắp các châu lục Á, Phi, Mỹ, Âu cũng như các nước tư bản phát triển nhất - Mỹ, Anh, Pháp. Người vừa kiếm sống, vừa hoạt động trong các phong trào công nhân và lao động ở nhiều nước trên thế giới. Người được tiếp xúc với những người lao động nghèo khổ và thấy được những bất công của xã hội tư bản. Điều đó càng thôi thúc Người tìm cho được con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại cần lao. Hồ Chí Minh ra sức học tập, nghiên cứu các trào lưu tư tưởng cách mạng, các thể chế chính trị và từng bước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin; tìm thấy con đường đúng đắn cứu nước, giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người xây dựng nên lý luận về cách mạng thuộc địa để lãnh đạo, tổ chức, xây dựng lực lượng, đưa cách mạng Việt Nam tiến lên giành thắng lợi. Như vậy, thực tiễn phong phú của thời đại và hoạt động thực tiễn cách mạng mà Hồ Chí Minh đã từng trải qua là một nguồn gốc, cơ sở có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành, phát triển và hoàn thiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Còn về mặt chủ quan do chính nhân cách vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, nói đi đôi với làm, lý luận gắn với thực tiễn đã từng bước xây dựng nên tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng về đạo đức cách mạng nói riêng. Có thể nói rằng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một tấm gương đạo đức của một vĩ nhân, một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, nhưng đó đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người bình thường, ai cũng có thể học theo để trở thành một người cách mạng chân chính, một công dân tốt trong xã hội. Tấm gương đạo đức của Người được thể hiện đó là: Đạo đức Hồ Chí Minh là tấm gương trọn đời phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân loại. Hồ Chí Minh luôn có một ham muốn là làm sao cho nước nhà được hoàn 10
  17. toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Trên con đường thực hiện mục tiêu đó, Người đã chấp nhận sự hy sinh, không quản gian nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện bằng được mục tiêu đó. Sự kiên định mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời của Hồ Chí Minh đã được nhân dân thế giới thừa nhận và kính phục. Cuộc đời của Hồ Chí Minh là một chuỗi năm tháng đấu tranh vô cùng gian khổ, vượt qua bao khó khăn, Người kiên trì mục đích của cuộc sống, bảo vệ chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách; bình tĩnh, chủ động vượt qua mọi thử thách. Hồ Chí Minh là một người hết lòng thương yêu, quý trọng đối với nhân dân. Người luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, luôn dựa vào dân, “lấy dân làm gốc”. Người giáo dục cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần phục vụ, tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, phải chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với nhân dân, bởi “nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”. Người dạy cán bộ phải gần dân, không được lên mặt “quan cách mạng”, cậy quyền cậy thế đè đầu cưỡi cổ dân. Mặc dù uy tín rất cao, được nhân dân suy tôn là “vị cha già dân tộc”, nhưng không bao giờ Người xem mình đứng cao hơn nhân dân. Người coi việc gánh chức Chủ tịch cũng như việc “người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận”. Hồ Chí Minh có một tấm lòng nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực. Cả cuộc đời Người chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cả cuộc đời Người lo cho dân tộc Việt Nam. Trái tim yêu thương mênh mông của Người ôm trọn mỗi nỗi đau khổ của nhân dân. Tình thương yêu đó được mở rộng đối với nhân dân lao động toàn thế giới. Đối với những người lầm đường, ngay cả những người chống đối hay kẻ thù, Hồ Chí Minh cũng thể hiện một tấm lòng khoan dung, độ lượng hiếm có. Đối với kẻ thù khi chúng đã bị thất thế, đầu hàng, Người luôn luôn nhắc nhở chúng ta phải đối xử với chúng một cách khoan hồng, phải làm “cho thế giới biết rằng dân tộc ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước”. 11
  18. Hồ Chí Minh còn là con người chí công vô tư, luôn sống giản dị và khiêm tốn, cần kiệm, ít lòng ham muốn về vật chất, đó là “tư cách của người cách mạng”. Người đề ra và tự mình gương mẫu thực hiện. Cuộc đời của Người từ một thợ ảnh bình thường ở ngõ hẻm Công-poanh đến khi làm chủ tịch nước, sống giữa thủ đô Hà Nội, vẫn là một cuộc đời thanh bạch, giản dị, tao nhã. Khách nước ngoài vào thăm nhà sàn của Bác đã rất xúc động khi được biết Người không hề có một chút của riêng. Đó là một “cuộc đời thanh bạch chẳng vàng son”, suốt đời thực hiện cần kiệm liêm chính. Nét nổi bật trong đạo đức Hồ Chí Minh là sự khiêm tốn phi thường. Mặc dù có công lao rất lớn, Người không để ai sùng bái cá nhân mình mà luôn luôn nêu cao sự nghiệp của toàn đảng, toàn dân, toàn quân ta. Người nói: Quần chúng mới là người làm nên lịch sử và lịch sử là lịch sử của chính họ chứ không phải của một cá nhân anh hùng nào. Bấy nhiêu đức tính cao cả chung đúc lại trong một con người đã làm cho tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên cao thượng tuyệt vời. Nhưng cũng chính từ sự kết hợp của những đức tính đó, Người là tấm gương cụ thể, gần gũi mà mọi người đều có thể noi theo. Như vậy có thể nói, từ những học thuyết cổ, kim, đông, tây đã được Hồ Chí Minh tiếp nhận sáng tạo, “gạn đục khơi trong” để xây dựng cho mình một hệ thống tư tưởng Đạo đức mới, Đạo đức cách mạng Việt Nam. 1.1.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng Trước khi nghiên cứu về đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta cần phải nghiên cứu thật kỹ những khái niệm cơ bản như đạo đức, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng làm tiền đề quan trọng để chúng ta có thể nhận thức được lý do tại sao cần phải giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ khi con người thoát thai từ động vật và có những biến chuyển trong quá trình phát triển xã hội loài người. Đạo đức thuộc về ý thức xã hội thể hiện sự phản ánh của con người trong mối quan hệ với tự nhiên - xã hội và ngay chính bản thân con người với 12
  19. nhau, thể hiện trình độ phát triển của con người trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Xét về yếu tố cá nhân, đạo đức là nhân tố quan trọng bậc nhất trong nhân cách của mỗi một con người, nó thể hiện mối quan hệ giữa bản thân cá nhân với cộng đồng xã hội và giới tự nhiên. Đây cũng là lý do tại sao trong tác phẩm Luận cương về Phoi-ơ-bắc, C.Mác lại khẳng định: Trong tính hiện thực của mình, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội [35, tr.11]. Con người là động vật cao cấp, nhưng khác biệt với tự nhiên, con người có các mối quan hệ xã hội. Và chính đạo đức của con người được hình thành từ các mối quan hệ xã hội đó, hay nói cách khác, đạo đức xã hội chính là thành tố quan trọng của bản chất “xã hội” của con người. Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, moris, nghĩa là lề thói “moralis”, nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa. Còn có một danh từ thường được xem như đồng nghĩa với đạo đức là luân lý học, có gốc từ chữ Hy Lạp là ethicos, cũng có nghĩa là lề thói, tập tục. Như vậy, khi ta nói đến đạo đức là nói đến những lề thói, tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người trong giao tiếp với nhau hàng ngày. Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại xuất hiện sớm. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người trong xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức ở người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà con người phải tuân theo. Quan điểm mác xít coi đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, một chế định xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống. Đạo đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh tế. Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện bản chất xã hội của đạo đức được quy định bởi trình độ phát triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức xã hội của con người. Ph.Ănghen viết: “Chung qui lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0