Tiểu luận "Hàng hóa - tiền tệ"
lượt xem 255
download
Trang bị cho người học một trong những nội dung kiến thức cơ bản nhất của Kinh tế chính trị học Mác–Lênin, làm cơ sở nền móng để người học tiếp tục nghiên cứu toàn bộ học thuyết Kinh tế chính trị mácxít và có cơ sở lý luận để quán triệt đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận "Hàng hóa - tiền tệ"
- LUẬN VĂN HÀNG HOÁ TIỀN TỆ
- MỤC LỤC MỤC LỤC ................................................................................................................................................ 1 MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................. 3 1. Mục đích, yêu cầu. ........................................................................................................................... 3 2. Nội dung, thời gian. ......................................................................................................................... 3 3. Phương pháp. ................................................................................................................................... 4 4. Tài liệu. ........................................................................................................................................... 4 NỘI DUNG............................................................................................................................................... 4 I. SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA. ................................................................................... 4 1. Sản xuất hàng hoá và ưu thế của nó trong phát triển LLSX. .......................................................... 4 2. Hàng hoá. .................................................................................................................................... 7 II. Bản chất và chức năng của tiền tệ. .............................................................................................. 21 1. Nguồn gốc và bản chất của tiền. .............................................................................................. 21 2. Chức năng của tiền. .................................................................................................................. 26 III. Quy luật gía trị – quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá ............................................... 30 1. nội dung và hình thức biểu hiện của quy luật giá trị. ............................................................... 30 2. Tác động của quy luật gía trị..................................................................................................... 31 KẾT LUẬN ............................................................................................................................................. 34
- MỞ ĐẦU 1. Mục đích, yêu cầu. * Mục đích: Trang bị cho người học một trong những nội dung kiến thức cơ bản nhất của Kinh tế chính trị học Mác–Lênin, làm cơ sở nền móng để người học tiếp tục nghiên cứu toàn bộ học thuyết Kinh tế chính trị mácxít và có cơ sở lý luận để quán triệt đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. * Yêu cầu: - Hiểu rõ và nắm chắc các khái niệm cơ bản xoay quanh phạm trù hàng hoá và quy luật giá trị. - Trên cơ sở lý luận giá trị, tích cực đấu tranh phê phán các quan điểm cho rằng học thuyết Kinh tế chính trị mácxít là trừu tượng, phi hiện thực. 2. Nội dung, thời gian. * Nội dung : Chủ đề được kết cấu thành 3 phần: Phần I: Sản xuất hàng hoá và hàng hoá. Phần II: Bản chất và chức năng của tiền tệ. Phần III: Quy luật giá trị - quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá. Trong đó, trọng tâm là phần I.2 (hàng hoá) và toàn bộ phần III (quy luật giá trị - quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hoá). * Thời gian: Thời gian toàn bài: 05 tiết
- 3. Phương pháp. * Đối với người dạy: chủ yếu dùng phương pháp thuyết trình, có kết hợp đàm thoại. * Đối với người học: nghe; ghi chép nội dung cơ bản; tốc ký theo ý hiểu những nội dung GV phân tích; tham gia trao đổi các vấn đề GV đặt ra. 4. Tài liệu. - Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin, tập 1, Nxb QĐND, H – 2008 , Tr: 23-40, (Tài liệu bắt buộc). - Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (đối tượng không chuyên), Nxb CTQG, H – 2006, Tr 58 – 95. NỘI DUNG I. SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ HÀNG HÓA. 1. Sản xuất hàng hoá và ưu thế của nó trong phát triển LLSX. a. Sản xuất hàng hoá. K/n: Sản xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế, trong đó sản phẩm sản xuất ra được mua bán, trao đổi trên thị trường. Trong K/n này, có 2 vấn đề cần làm rõ: * Sản xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế: Lịch sử loài người đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế: sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hoá. * Trong sản xuất hàng hoá, sản phẩm làm ra được mua bán, trao đổi trên thị trường.
- Nếu như trong nền sản xuất tự cấp tự túc, sản phẩm làm ra nhằm mục đích thoả mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất ra nó, thì trong sản xuất hàng hoá, sản phẩm làm ra nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của người khác, của xã hội và do đó, giữa những người sản xuất hàng hoá có quan hệ ràng buộc chặt chẽ với nhau thông qua việc trao đổi (mua và bán) sản phẩm trên thị trường. Như vậy, sản xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế, là sự phát triển kế tiếp của kiểu tổ chức kinh tế sản xuất tự cấp tự túc, nó ra đời trong những điều kiện nhất định, tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của LLSX. b. Hai điều kiện ra đời của sản xuất hàng hoá. * Phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội thành những ngành nghề khác nhau, tạo ra sự chuyên môn hoá lao động sản xuất. Khi đã có phân công lao động xã hội, mỗi người sản xuất, mỗi chủ thể sản xuất chỉ tạo ra một hoặc một số loại sản phẩm mà mình có khả năng, có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Đối với loại sản phẩm này, họ có thể sản xuất vượt quá nhu cầu sử dụng của mình; trong khi đó, để thoả mãn nhu cầu đa dạng của cuộc sống, họ cần phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau. Và như vậy, sẽ xuất hiện nhu cầu trao đổi sản phẩm giữa những người sản xuất với nhau. Ở đây, chúng ta cần nhận thấy rằng: phân công lao động xã hội làm cho những người sản xuất phụ thuộc vào nhau, sản xuất hàng hoá càng phát triển thì biểu hiện trên càng rõ nét. * Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất.
- Thực chất ở đây muốn nói tới quyền sở hữu, quyền chi phối của người sản xuất đối với sản phẩm do họ làm ra; do đó, người này muốn sử dụng sản phẩm của người khác buộc phải thông qua trao đổi, mua bán trên thị trường. Trong lịch, điều kiện này xuất hiện từ khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Cùng với sự phát triển của LLSX, điều kiện này không chỉ do chế độ tư hữu về TLSX quy định mà nó còn do các hình thức sở hữu khác nhau về TLSX và sự tách rời giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng TLSX quy định. Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản xuất làm cho họ độc lập với nhau, có thể đứng đối diện với nhau trong quan hệ trao đổi các sản phẩm do họ làm ra. Như vậy, phân công lao động xã hội làm cho những người sản xuất phụ thuộc vào nhau, sự tách biệt về mặt kinh tế lại làm cho họ độc lập với nhau. Đó là mâu thuẫn mà chỉ có sự ra đời của sản xuất hàng hoá mới giải quyết được. Sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại khi có đủ hai điều kiện trên, thiếu một trong hai điều kiện đó thì không có sản xuất hàng hoá. Có thể nói sản xuất hàng hóa ra đời là một tất yếu khách quan, mà nguyên nhân của nó bắt nguồn từ sự phát triển của LLSX. Vậy sự ra đời của sản xuất hàng hóa có tác động trở lại như thế nào đối với sự phát triển của LLSX? c. Ưu thế của sản xuất hàng hoá trong phát triển LLSX của nhân loại. - Sản xuất hàng hoá ra đời đã phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ trì trệ, lạc hậu, mở rộng mối liên hệ kinh tế, giải phóng LLSX. - Sản xuất hàng hoá không bị giới hạn bởi nhu cầu, nguồn lực mang tính hạn hẹp, do đó không giới hạn quy mô sản xuất, mở đường cho LLSX phát triển. - Trong sản xuất hàng hoá, những người sản xuất phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt, buộc họ luôn phải tìm cách cải tiến kĩ thuật, hợp lí hoá sản xuất, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn
- nhu cầu của người tiêu dùng. Cạnh tranh cũng là sự chọn lọc tự nhiên đối với những người sản xuất. - Sản xuất hàng hoá không chỉ mở rộng giao lưu kinh tế mà còn mở rộng giao lưu văn hoá, làm thoả mãn ngày càng tốt hơn đời sống tinh thần của người lao động, tạo động lực kích thích LLSX phát triển. Vừa rồi, chúng ta đã nghiên cứu về sản xuất hàng hóa với tư cách là một kiểu tổ chức kinh tế. Sau đây, chúng ta sẽ nghiên cứu một tế bào cơ bản của kiểu tổ chức kinh tế ấy, một yếu tố đóng vai trò là hạt nhân, là đối tượng trung tâm mà tất cả các mối quan hệ kinh tế trong kiểu tổ chức kinh tế này đều xoay quanh nó. Theo các đ/c, tế bào đó là gì? … Vâng, đó chính là hàng hóa, và bây giờ chúng ta cùng nghiên cứu hàng hóa với tư cách là một phạm trù kinh tế. 2. Hàng hoá. a. K/n hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá. * K/n hàng hóa Hàng hoá là sản phẩm của lao động, có khả năng thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và phải được đem trao đổi (bán - mua) trên thị trường. ->> Hàng hoá trước hết phải là sản phẩm của lao động. Điều đó có nghĩa, những gì không là sản phẩm do lao động của con người làm ra thì không phải là hàng hoá, tuy nhiên, không phải sản phẩm nào do con người làm ra cũng là hàng hoá. Ví dụ: nước tự nhiên không phải hàng hóa, nước tinh khiết đóng chai là hàng hóa; không khí không phải hàng hóa, bình thở ôxi là hàng hóa, … ->> Hàng hoá phải có khả năng thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Ví dụ: lương thực, thực phẩm thỏa mãn nhu cầu ăn, quần áo thỏa mãn nhu cầu mặc. Sản phẩm của lao động mà không có khả năng thoả mãn nhu cầu nào đó
- của con người thì không thể trở thành hàng hoá được vì không ai bỏ tiền hoặc sản phẩm của mình ra để đổi lấy một thứ vô ích. ->> Hàng hoá phải đựơc đem trao đổi trên thị trường. Hàng hoá là sản phẩm của lao động, có khả năng thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, nhưng không phải nhu cầu của người sản xuất ra nó, mà là nhu cầu của người khác, nhu cầu của xã hội, do đó nó phải được trao đổi trên thị trường. Từ K/n trên, ta có thể thấy rằng: hàng hoá có thể ở dạng vật thể hoặc phi vật thể, dạng phi vật thể ví dụ: một bài thơ, một bản nhạc, một phát minh khoa học, một bí quyết công nghệ, thậm chí một ý tưởng kinh doanh. Và cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, k/n hàng hoá cũng ngày càng được mở rộng hơn, có những thứ trước đây vốn không được coi là hàng hoá, nay cũng được đem trao đổi hoặc sử lý như một hàng hoá. Ví dụ: quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu kinh doanh, tên miền trên mạng thông tin (Internet), … * Hai thuộc tính của hàng hoá Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. - Giá trị sử dụng của hàng hoá: là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. ->> Mỗi hàng hoá đều có một hoặc một số công dụng nhất định, có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người, có thể là nhu cầu vật chất (ví dụ LTTP thỏa mãn nhu cầu ăn) hoặc là nhu cầu tinh thần (ví dụ một bông hoa, một bức tranh, một bài hát, một bộ phim, …thỏa mãn nhu cầu giải trí, thư giãn); có thể là nhu cầu cho tiêu dùng cá nhân (như các ví dụ trên), hoặc nhu cầu cho sản xuất như cái cuốc, cái cày của người nông dân, cái cưa, cái đục của người thợ mộc,… ->> Giá trị sử dụng của hàng hoá là do những thực thể tự nhiên của hàng hoá đó quy định, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.
- Ví dụ như gạo, sở dĩ nó có thể thỏa mãn nhu cầu “ăn” của con người là bởi trong gạo chứa tinh bột, có thể cung cấp chất dinh dưỡng để nuôi sống cơ thể. Từ khi con người tìm ra lúa gạo cho đến ngày nay và có lẽ trong tương lai xa thì gạo vẫn được con người sử dụng để ăn. ->> Giá trị sử dụng của hàng hoá được phát hiện dần trong quá trình phát triển của khoa học – kỹ thuật và của LLSX. (ví dụ ban đầu người ta chỉ biết dùng gạo nấu cơm để ăn, sau này người ta còn dùng gạo làm nguyên liệu chế biến hồ dán, làm thuốc thử iốt trong các thí nghiệm hóa học và chế biến nhiều loại thức ăn cao cấp khác, …) Chính công dụng của vật phẩm làm cho hàng hoá có giá trị sử dụng và giá trị sử dụng của hàng hóa là giá trị sử dụng xã hội. Chỉ những vật phẩm nào mà công dụng của nó thỏa mãn nhu cầu của người khác, nhu cầu của xã hội chứ không phải nhu cầu của người sản xuất ra nó thì nó mới trở thành một giá trị sử dụng, một hàng hóa. Người sản xuất, khi tạo ra các giá trị sử dụng phải luôn quan tâm tới nhu cầu của xã hội, thị hiếu của người tiêu dùng, làm cho sản phẩm làm ra được thị trường chấp nhận. Trong nền sản xuất hàng hoá, giá trị sử dụng đồng thời là vật mang giá trị trao đổi. - Giá trị của hàng hoá. Thường ngày chúng ta vẫn nói cái nhẫn vàng có giá trị lớn hơn cái nhẫn bạc, một viên ngọc nhỏ có giá trị lớn trong khi đống rác to chẳng có giá trị gì, … Vậy các đồng chí hiểu giá trị ở đây là gì? … Đây quả là một vấn đề phức tạp, bởi vì giá trị hàng hóa là một phạm trù trừu tượng, chúng ta không thể cảm nhận trực tiếp bằng các giác quan được mà phải nhận thức nó bằng tư duy. Và để hiểu được thực thể giá trị của hàng hoá, chúng ta phải tìm hiểu bắt đầu từ giá trị trao đổi.
- + Giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ về số lượng, là tỷ lệ trao đổi giữa các giá trị sử dụng với nhau. Ví dụ: 5 đấu thóc 1 m vải = 7 đấu muối 10 đấu ngô, … Từ ví dụ trên chúng ta nhận thấy, mỗi hàng hoá không phải có một giá trị trao đổi mà có nhiều giá trị trao đổi: 5 đấu thóc, 7 đấu muối và 10 đấu ngô là những giá trị trao đổi của 1 m vải, chúng có thể thay thế lẫn nhau. Vấn đề đặt ra là tại sao những giá trị sử dụng khác nhau về chất lại có thể trao đổi với nhau, thay thế lẫn nhau? … Chỉ có một khả năng, đó là tất cả chúng đều chứa đựng một cái gì đó chung, giống nhau. Theo các đồng chí, giữa các giá trị sử dụng ấy, giữa các hàng hoá ấy (vải, thóc, muối, ngô, …) đều chứa đựng cái gì giống nhau? … Vâng, đó chính là lao động của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Cho dù là vải, thóc, muối, ngô hay bất kì một hàng hóa nào khác cũng vậy, truớc hết chúng phải là sản phẩm của lao động, và để tạo ra chúng, người sản xuất đều cần phải bỏ công sức ra, hay nói cách khác là phải hao phí một lượng lao động nhất định. Như vậy, hao phí lao động là cơ sở chung cho sự trao đổi giữa tất cả các hàng hoá, là giá trị hàng hoá. + Giá trị hàng hoá. ->> Khái niệm (Tới đây ta có thể đưa ra định nghĩa ban đầu về giá trị hàng hoá): Giá trị của hàng hoá là hao phí lao động của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá đó.
- Trao đổi hàng hoá thực chất là trao đổi lao động ẩn dấu trong các hàng hoá. Đổi 1 m vải lấy 5 kg thóc, thực chất là trao đổi ngang giá hao phí lao động làm ra 1 m vải và hao phí lao động để làm ra 5 kg thóc. Điều này giải thích tại sao vàng, bạc, kim cương có giá trị lớn, trong khi nước tự nhiên, không khí là những thứ không thể thiếu đối với con người thì thậm chí không có giá trị. Đó chỉ có thể là bởi chi phí lao động để khai thác vàng, bạc, kim cương lớn, còn nước, không khí thì có sẵn trong tự nhiên, con người không cần tốn lao động để làm ra chúng. C.Mác khẳng định: “Nếu người ta tìm được cách biến than thành kim cương với một ít chi phí lao động, thì có lẽ giá trị của kim cương sẽ tụt xuống thấp hơn giá trị của gạch” [M-Ă toàn tập, T23, tr. 69]. + Mối quan hệ giữa giá trị trao đổi và giá trị của hàng hoá: Giá trị hàng hoá là nội dung bên trong, là cơ sở của giá trị trao đổi; giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị khi trao đổi. Chúng ta chỉ có thể nhận biết được giá trị hàng hóa thông qua giá trị trao đổi của nó. - Mối quan hệ giữa hai thuộc tính của hàng hóa. Như vậy, hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Đây là hai mặt đối lập, cùng tồn tại, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau. + Thống nhất: giá trị và giá trị sử dụng cùng đồng thời tồn tại trong hàng hoá, quá trình tạo ra giá trị sử dụng đồng thời là quá trình tạo ra giá trị của hàng hoá. Một vật phải có đầy đủ hai thuộc tính này mới là hàng hoá. + Mâu thuần: ->> Thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng, các hàng hoá không đồng nhất về chất, nhưng với tư cách là giá trị, các hàng hoá hoàn toàn đồng nhất về chất. Chất giá trị của tất cả các hàng hóa đều là lao động của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa ấy.
- C.Mác khẳng định: “với tư cách là những giá trị thì tất cả mọi hàng hoá đều chỉ là những lượng thời gian lao động nhất định đã kết đọng lại” [Sđd, tr.68]. ->> Thứ hai, quá trình tạo ra giá trị và giá trị sử dụng diễn ra đồng thời (trong khi sản xuất), nhưng quá trình thực hiện chúng không đồng thời. Giá trị được thực hiện trước trong lưu thông (muốn chiếm hữu một giá trị sử dụng, người tiêu dùng phải thực hiện giá trị trước, tức là trả tiền cho người sản xuất) còn giá trị sử dụng được thực hiện sau trong tiêu dùng. Chính vì có sự tách biệt giữa quá trình tạo ra và quá trình thực hiện giá trị, giữa thực hiện giá trị và thực hiện giá trị sử dụng mà sản xuất hàng hoá luôn chứa đựng trong nó nguy cơ khủng hoảng sản xuất thừa. b. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. ở Trên, chúng ta khẳng định rằng: với tư cách là giá trị, tất cả mọi hàng hóa đều giống nhau về chất, và chất giá trị hàng hóa chính là lao động của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Tuy vậy, trên thực tế, lao động của những người sản xuất không hoàn toàn giống nhau, và việc đo lường những lao động không giống nhau ấy là không thể thực hiện được. Tóm lại là chúng ta vẫn chưa thực sự tìm ra cái gì chung, đồng nhất về chất làm cơ sở cho sự trao đổi giữa các hàng hóa, hay nói khác đi là chưa tìm ra thực thể của giá trị hàng hóa. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về các loại lao động khác nhau của những người sản xuất hàng hóa, xem xem giữa chúng có cái gì hoàn toàn đồng nhất về chất? … Chúng ta cùng đi tìm hiểu tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. Nếu như hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị, thì lao động sản xuất hàng hoá cũng có tính chất hai mặt tương ứng: lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
- * Lao động cụ thể: là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những ngành nghề chuyên môn nhất định. - Mỗi lao động cụ thể có mục đích, đối tượng, công cụ, phương pháp và kết quả lao động khác nhau. Do đó, các lao động cụ thể khác nhau về chất và tạo ra các giá trị sử dụng khác nhau về chất (người thợ may tạo ra quần áo, người nông dân tạo ra lúa gạo, người thợ mộc làm ra bàn ghế, gường, tủ, …) - LLSX càng phát triển thì lao động cụ thể càng đa dạng và phong phú, tất cả các lao động cụ thể trong xã hội hợp lại thành phân công lao động xã hội. - Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, có con người, có sản xuất vật chất thì có lao động cụ thể. * Lao động trừu tượng: Rõ ràng, với tư cách là lao động cụ thể, các loại lao động của những người sản xuất hàng hóa khác nhau hoàn toàn khác nhau về chất và không thể so sánh với nhau về lượng được. Nói cách khác, chất của giá trị hàng hóa không thể là lao động cụ thể. Chúng ta tiếp tục nghiên cứu mặt thứ hai của lao động sản xuất hàng hóa: Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hoá đã gạt bỏ hình thức biểu hiện cụ thể của nó để quy về một cái chung, đồng nhất. Đó là sự hao phí SLĐ, (tiêu hao thần kinh, cơ bắp) của người sản xuất hàng hoá. ->> ở đây chúng ta nhận thấy, tất cả mọi lao động sản xuất hàng hoá, tất cả mọi lao động cụ thể, dù hình thức biểu hiện có khác nhau tới đâu thì vẫn giống nhau ở một điểm, đó chính là sự tiêu hao sức lực thần kinh, cơ bắp của người lao động. ->> Lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử. Bất kì lao động cụ thể nào cũng tiêu hao sức lao động, nhưng chỉ sự tiêu hao sức lao động của người sản xuất hàng hoá mới được coi là lao động trừu tượng.
- ->> Như vậy, chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá tạo ra giá trị của hàng hoá. Và tới đây, chúng ta có thể định nghĩa chính xác hơn, cụ thể hơn về giá trị hàng hoá: Giá trị của hàng hoá là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. * Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Lao động cụ thể và lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá không phải là hai loại lao động, hai thứ lao động khác nhau, mà là hai mặt của một quá trình diễn ra đồng thời, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn, phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động của người sản xuất hàng hoá. - Lao động cụ thể là biểu hiện của lao động tư nhân: sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào, với những tư liệu lao động và đối tượng lao động nào là việc riêng của cá nhân mỗi người sản xuất. - Lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội. Nếu như mỗi người sản xuất hàng hoá, bằng lao động cụ thể của mình, chỉ tạo ra một hoặc một số loại sản phẩm, thì nhu cầu tiêu dùng đa dạng của họ buộc họ phải có quan hệ trao đổi sản phẩm với nhau. + Việc trao đổi này không thể căn cứ vào lao động cụ thể mà phải quy về lao động chung đồng nhất – lao động trừu tượng, như vậy lao động trừu tượng biểu hiện quan hệ xã hội (quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau). + Nếu sản phẩm của lao động cá biệt nào không được xã hội chấp nhận (không bán hoặc không trao đổi được với hàng hoá khác), thì sự hao phí sức lao động của người lao động cá biệt đó không phải là lao động trừu tượng. Do đó, lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội. - Lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau, biểu hiện cụ thể trong hai trường hợp:
- + Sản phẩm do những người sản xuất hàng hoá riêng biệt không ăn khớp với nhu cầu của xã hội (hoặc không đủ đáp ứng hoặc vượt quá nhu cầu), khi sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, sẽ dẫn đến tình trạng một số hàng hoá không bán được, tức là không thực hiện được giá trị. + Mức hao phí lao động của người sản xuất cá biệt cao hơn mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận. Khi đó việc bán hàng không bù đắp được chi phí sản xuất. Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hoá, vừa quy định sự vận động, phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng của sản xuất hàng hoá. c. Lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Ở trên chúng ta đã biết chất của giá trị hàng hoá hay thực thể giá trị hàng hoá là hao phí lao động hay lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Nhưng để hai vật cùng chất có thể so sánh được với nhau thì chúng ta cần phải đo lường được lượng của chúng nữa. Vậy lượng giá trị hàng hoá là gì? * Lượng giá trị hàng hoá: là lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá và được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. ->> Là lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá. Vì chất của giá trị hàng hoá, hay thực thể giá trị hàng hoá là lao động xã hội, lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá nên lượng giá trị hàng hoá chính là lượng lao động đã tiêu hao để sản xuất hàng hoá. Vấn đề đặt ra là: “làm sao đo được lượng lao động tiêu hao này?” ->> Lượng giá trị hàng hoá được đo bằng thời gian lao động. Có nghĩa là lượng giá trị hàng hoá tỷ lệ thuận với thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra nó. Những hàng hoá mà để sản xuất ra chúng phải mất một khoảng thời gian lao động ngang nhau thì có giá trị bằng nhau.
- Nói như vậy không có nghĩa là người nào càng vụng về, càng lười biếng thì sản phẩm do anh ta làm ra có giá trị càng cao (vì anh ta phải tốn nhiều thời gian lao động hơn để tạo ra nó). Lượng giá trị hàng hoá không tính theo thời gian lao động cá biệt mà tính theo thời gian lao động xã hội cần thiết. ->> Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra một hàng hoá nào đó trong những điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội. Điều này giải thích tại sao trong xã hội, có nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hoá, trình độ tay nghề của họ khác nhau, điều kiện sản xuất có sự thuận lợi và khó khăn khác nhau dẫn tới năng suất lao động khác nhau, nhưng hàng hoá của họ vẫn có cùng gía trị, và được bán với cùng mức giá như nhau. Ví dụ tất cả những người thợ mộc sản xuất bàn ghế được chia làm 3 nhóm (mỗi nhóm có trình độ tay nghề khác nhau, làm việc trong những điều kiện khác nhau). Bảng 1 Nhóm thợ Số lượng Thời gian Hao phí cá biệt Gía trị 1 HH Ghi chú SP (Bộ) (Giờ) (Giờ/bộ) (Giờ) Nhóm 1 08 16 02 02 thợ Nhóm 2 80 80 01 10 thợ Nhóm 3 16 08 0.5 01 1 thợ Cả ngành 104 104 13 thợ Trong ví dụ trên, thời gian để người thợ mộc thuộc nhóm 1 sản xuất được 1 bộ bàn ghế là 02 giờ, người thợ thuộc nhóm 2 mất 01 giờ và người thợ thuộc nhóm
- 3 mất 0.5 giờ, tuy nhiên giá trị mỗi bộ bàn ghế do họ làm ra đều được tính bằng 01 giờ (lao động xã hội). Thực chất thời gian lao động xã hội cần thiết chính là mức hao phí lao động xã hội trung bình để sản xuất ra hàng hoá. Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát với thời gian lao động cá biệt (mức hao phí lao động cá biệt) của những người sản xuất cung cấp đại bộ phận số hàng hoá đó trên thị trường. (Trong ví dụ trên, những người thợ thuộc nhóm 2 giữ vai trò quyết định thời gian hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất bàn ghế). Thời gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng không cố định vì trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, điều kiện sản xuất bình thường ở những nước khác nhau, khu vực khác nhau là khác nhau trong khi vẫn còn tồn tại những rào cản ngăn hàng hoá lưu thông tự do giữa các nước, các khu vực, đồng thời, cùng với sự phát triển của LLSX, các yếu tố trên cũng thay đổi theo. Khi thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi thì lượng gía trị hàng hoá cũng thay đổi. Như vậy, chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết (hay thời gian lao động xã hội cần thiết) để sản xuất ra một hàng hoá mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hoá ấy. * Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng gía trị hàng hoá. Trước hết khẳng định: tất cả những yếu tố ảnh hưởng tới thời gian lao động xã hội cần thiết đều ảnh hưởng tới lượng gía trị hàng hoá. ở đây chúng ta nghiên cứu 3 nhân tố cơ bản: năng suất lao động, cường độ lao động và mức độ giản đơn hay phức tạp của lao động.
- - Năng suất lao động: là sức sản xuất của lao động. Nó được đo bằng lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian hay lượng thời gian hao phí để sản xuát ra một đơn vị sản phẩm. Trong ví dụ nêu trên (Bảng 2), năng suất lao động của những người thợ thuộc nhóm 1 - 2 - 3 lần lượt là 1 - 2 - 4 (sp/giờ) hay 1 - 0.5 - 0.25 (giờ/sp). Tăng NSLĐ là tăng số lượng sản phẩm làm ra trong khi thời gian lao động không đổi, hoặc giảm thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Để tăng NSLĐ phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao trình độ của người lao động. Năng suất lao động tỷ lệ nghịch với lượng giá trị 1 đơn vị sản phẩm và không ảnh hưởng tơí tổng giá trị của toàn bộ sản phẩm. Tức là khi NSLĐ tăng lên, giá trị của một đơn vị hàng hoá sẽ giảm xuống tương ứng, nhưng tổng giá trị của khối lượng hàng hoá thì không đổi. Ví dụ: Nhờ nâng cao trình độ tay nghệ và ứng dụng tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất, những người thợ mộc đã tăng NSLĐ lên gấp 2 lần: Bảng 2 Nhóm thợ Số lượng Thời gian Hao phí cá biệt Gía trị 1 HH Ghi chú SP (Bộ) (Giờ) (Giờ/bộ) (Giờ) Nhóm 1 16 16 01 02 thợ Nhóm 2 160 80 0.5 10 thợ Nhóm 3 32 08 0.25 0.5 1 thợ Cả ngành 208 104 13 thợ Ở đây, chúng ta thấy, với thời gian lao động như cũ (104) giờ, những người thợ mộc đã tạo ra 208 chứ không phải 104 bộ bàn ghế. Và bây giờ, tổng giá trị của 208 bộ bàn ghế bằng 104 giờ, giá trị của một bộ bàn ghế chỉ còn 0.5 giờ, thay vì một giờ như trước. Như vậy, khi NSLĐ tăng gấp đôi thì giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm đi một nửa trong khi tổng giá trị của tất cẩ hàng hóa là không đổi.
- - Cường độ lao động: là đại lượng chỉ mức độ hao phí SLĐ trong một đơn vị thời gian. Nó biểu hiện mức độ khẩn trương, căng thẳng, nặng nhọc của lao động. Tăng cường độ lao động tức là tăng mức độ hao phí sức lực thần kinh, cơ bắp của người lao động trong một đơn vị thời gian. Biểu hiện là trong cùng thời gian đó, người lao động phải làm việc khẩn trương hơn, căng thẳng hơn, vất vả hơn, … Cường độ lao động không ảnh hưởng tới giá trị một đơn vị hàng hoá nhưng tỷ lệ thuận với tổng giá trị hàng hoá. Ví dụ: một xưởng mộc muốn tăng khối lượng sản phẩm nhưng thay vì đổi mới công nghệ lại bắt các thợ mộc lao động với cường độ gấp đôi: Bảng 3 Cường độ lao động Thời gian Số lượng Giá trị 1 Tổng giá trị LĐ (giờ) SP (bộ) SP (giờ) SP (giờ) Bình thường 80 160 0.5 80 Tăng gấp đôi 80 320 0.5 160 Ở đây, chúng ta thấy, khi cường độ lao động tăng gấp đôi, trong cùng thời gian lao động là 80 giờ, số lượng sản phẩm tăng từ 160 lên 320, nhưng trong thời gian 80 giờ đó, những người thợ mộc phải lao động nhanh gấp 2 lần, căng thẳng gấp 2 lần, vất vả gấp 2 lần. Nói cách khác, mức hao phí sức lực thần kinh, cơ bắp của những người thợ mộc trong 80 giờ lao động trên bằng mức hao phí trong 160 giờ lao động bình thường, và do đó, giá trị của 320 bộ bàn ghế do họ tạo ra trong thời gian đó không phải là 80 giờ mà là 160 giờ, giá trị của mỗi bộ bàn ghế là không đổi (0.5 giờ).
- Như vậy: Tăng NSLĐ và tăng cường độ lao động đều làm cho số lượng sản phẩm hàng hoá được tạo ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, nhưng ảnh hưởng của chúng đến gía trị hàng hoá là khác nhau. Tăng NSLĐ làm cho gía trị một đơn vị hàng hoá giảm xuống trong khi gía trị của tổng số hàng hoá là không đổi, còn tăng cường độ lao động không làm thay đổi giá trị của một đơn vị hàng hoá nhưng làm cho giá trị của tổng số hàng hoá tăng lên tương ứng. - Mức độ giản đơn hay phức tạp của lao động. Chúng ta có thể trao đổi sản phẩm trong một ngày lao động của một nông dân, với một công nhân lành nghề, một kỹ sư xây dựng hay một bác sỹ được không ạ? Chắc chắn là không! Và cũng không thể trao đổi sản phẩm trong một thời gian lao động nhất định của 2 nông dân, 2 công nhân bất kỳ với nhau. Vì sao vậy? Vì họ có trình độ tay nghề khác nhau, lao động của họ có mức độ giản đơn - phức tạp khác nhau. Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới tiến hành được. Trong cùng một khoảng thời gian lao động như nhau, lao động càng có tính chất phức tạp bao nhiêu thì sản phẩm làm ra có giá trị càng cao bấy nhiêu. Ví dụ: trong Bảng 1, bây giờ ta giả sử những người thợ tiến hành sản xuất trong điều kiện giống nhau, chỉ khác nhau ở trình độ tay nghề. Trong khoảng thời gian 2 giờ, 1 người thợ thuộc nhóm 1 làm được 1 bộ bàn ghế, 1 người thợ thuộc nhóm 2 làm được 2 bộ và 1 người thợ thuộc nhóm 3 làm được 4 bộ bàn ghế. Mỗi bộ bàn ghế có giá trị bằng 1 giờ lao động xã hội cần thiết, do đó 1 giờ lao động của người thợ thuộc nhóm 3 tạo ra lượng giá trị bằng 2 giờ lao động của người thợ thuộc nhóm 2 và bằng 4 giờ lao động của người thợ thuộc nhóm 1.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn tốt nghiệp “Kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ tại công ty TNHH Thương mại Minh Tuấn”
26 p | 10341 | 3351
-
Tiểu luận " Vai trò của Ngân hàng Trung ương"
21 p | 2073 | 839
-
Luận văn - Kế toán tiêu thụ hàng hóa và xác định kết quả tiêu thụ ở Công ty Cổ phần Ô tô Vận tải Hà Tây
122 p | 1303 | 599
-
LUẬN VĂN: Kinh tế hàng hoá và sự cần thiết phải khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam
30 p | 174 | 41
-
LUẬN VĂN:Lạm phát ở Việt Nam,thực trạng và các giải pháp
23 p | 120 | 30
-
LUẬN VĂN: Tổ chức công tác kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm ở công ty may Đức Giang
92 p | 108 | 30
-
Tiểu luận Học thuyết của Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: Quan điểm của V.I.Lênin về sử dụng quan hệ hàng hóa tiền tệ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - Ý nghĩa và định hướng vận dụng cho Việt Nam
26 p | 220 | 25
-
LUẬN VĂN: Kế toán nghiệp vụ bán hàng và xác định kết quả tại Công ty TNHH sản xuất và thương mại Rạng Đôn
95 p | 89 | 23
-
LUẬN VĂN:Tín dụng thương mại và triển vọng ở Việt Nam
23 p | 100 | 16
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn