intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Hệ tư tưởng nho giáo Việt Nam

Chia sẻ: Mai Thanh Thảo | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

159
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nho giáo khi đánh giá con người thường chú trọng đến cái đức mà ít chú trọng đến tài năng (kết quả việc làm) mặc dù họ cũng nêu đủ đức-tài, nhưng thực tế họ coi thường cái tài, đặc biệt họ không coi trọng về tri thức tự nhỉên, tri thức thực tiễn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Hệ tư tưởng nho giáo Việt Nam

  1. A. MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài Từ thế kỷ thứ III (TCN), dưới triều đại Vua Thục An D ương V ương, nước Âu Lạc đã là quốc gia có quy củ. Hình th ức nhà n ước quân ch ủ có tính chất tập quyền đã ra đời. Khối thống nhất dân tộc hình thành t ừ đó. Dân t ộc Việt Nam là một trong những dân tộc hình thành sớm bằng con đường tự nguyện của các bộ tộc. Và khối đoàn kết dân tộc luôn luôn được tăng cường. Từ buổi đầu dựng nước đến nay, người Việt Nam đã liên tục chi ến đấu để giành chủ quyền dân tộc, bảo vệ Tổ quốc đấu tranh chống nạn cát cứ, chống áp bức, bóc lột, chống lại các lực lượng phá hoại của giới tự nhiên, xây dựng cuộc sống ấm no, công bằng hơn và đấu tranh giải quyết các mâu thuẫn giữa các thành viên trong các cộng đồng lớn nhỏ. Trong cuộc chiến đấu trường kỳ và vô cùng gian nan ấy người Việt Nam đã sớm hình thành những quan điểm, tư tưởng, những tri thức chung của giới tự nhiên, xã hội, về con người và phương pháp tư duy. Những tri thức đó đã vai trò th ế gi ới quan, phương pháp luận chi phối tư tưởng, hành động của hàng trăm thế hệ. Dưới thời phong kiến, từ thời Âu Lạc đến cuối th ế kỷ XIX, ng ười Việt Nam ít có các trước tác về triết h ọc, về tư tưởng quy mô l ớn, ít có người chuyên bàn về triết học như những nước khác, nhưng cộng đồng người Việt Nam đã đông, biết suy nghĩ, hành động theo nh ững nguyên t ắc nhất quán, điều đó chứng tỏ thế giới quan của người Việt Nam đã suy nghĩ và hành động rất thống nhất trong quan niệm về bổn phận và nghĩa vụ: bổn phận với gia đình, nghĩa vụ với Tổ quốc. Có lẽ không có dân tộc nào mà số anh hùng hy sinh đời mình để bảo vệ Tổ quốc, bảo v ệ gi ống nòi đông nh ư ở Việt Nam: “Ra ngỏ gặp anh hùng”. Người Việt Nam coi trọng đạo lý, coi trọng cuộc sống tinh th ần, dám coi thường cuộc sống vinh hoa phú quý, coi trọng khí tiết, trọng danh dự, kiên cường bất khuất, đúng là “Phú quý bất năng dâm, bần ti ện b ất năng di, uy vũ bất năng khuất” (giàu sang không thể quyến rũ, nghèo hèn không đổi chí, s ức mạnh không thể khuất phục). Trân trọng và tiếp thu những tri th ức của con người Vi ệt Nam, dân t ộc Việt Nam từ những buổi đầu dựng nước, người viết quyết định chọn đề tài này để thêm một lần nữa thấm nhuần những tư tưởng đạo đức đáng quý ấy và lấy đó làm kim chỉ nam cho mọi suy nghĩ, hành động của mình đ ể s ống 1
  2. nhân văn hơn, nhân bản hơn, có ích cho mọi người, cho đời và cho Tổ quốc thân yêu. II.Mục đích nghiên cứu Sau chiến thắng Điện biên phủ chấn động toàn cầu, chiến th ắng của chiến dịch Hồ Chí Minh thần tốc, kỳ diệu “hiện tượng Việt Nam”, “s ức mạnh thần kỳ” của dân tộc Việt Nam đã trở thành bi ểu tượng chiêm ngưỡng của bạn bè khắp năm châu, trở thành đối tượng nghiên cứu hấp dẫn đối với nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước. Đồng chí Lê Duẩn nói: ”Ta là người Việt Nam, nhưng ta hiểu rõ ta cũng không phải là việc dễ, hiện nay chưa phải là chúng ta đã hi ểu rõ ng ười Việt Nam lắm đâu” (Cách mạng XHCN ở Việt Nam, nhà xuất bản Sự th ật, Hà Nội 1976) Bằng hình ảnh thơ, đồng chí Tố Hữu cũng đã viết: “Việt Nam ! Người là ta mà ta chưa bao giờ hiểu hết Người là ai?Mà sức mạnh thần kỳ” (Với Đảng, mùa xuân, 1977) Ta chưa hiểu hết ta.Và có lẽ điểm mà ta hiểu biết s ơ sài nh ất v ề ta chính là sự hiểu biết về triết lý, tư tưởng, về cách tư tưởng của ta. Đề tài này mong muốn góp một phần nhỏ vào chổ hiểu biết đó: Tìm hiểu con ng ười Việt Nam trong lịch sử ở phương diện ý thức để nhằm kh ẳng định những giá trị truyền thống văn hóa tư tưởng Việt Nam, để làm cơ sở nghiên cứu l ịch s ử, văn học nghệ thuật …để góp phần xây dựng nội dung giáo dục con ng ười mới XHCN Việt Nam . Để đạt được mục đích ấy, người viết đề ra yêu cầu: cố gắng phác h ọa đúng chân dung vốn có của hệ tư tưởng Nho giáo, nh ững cái t ốt và cái không tốt nghĩa là không chỉ nhằm ca ngợi truyền thống hay chỉ nh ằm phê phán t ư tưởng phong kiến. III.Lịch sử vấn đề Từ mấy chục năm nay có không ít các nhà nghiên cứu đề cập đến tư tưởng Việt Nam, nhưng số công trình chuyên bàn về hệ tư tưởng Nho giáo Việt Nam thì còn rất ít ỏi. 2
  3. Nghiên cứu về hệ ý thức Nho giáo Việt Nam dưới th ời phong ki ến, t ức là nghiên cứu những vấn đề thuộc phạm vi dân tộc, những vấn đề quá khứ, nhưng chưa phải đã mất hẳn, do đó phải đặc biệt chú ý đến tính dân t ộc, tính truyền thống và cả tính thời sự nữa. Tuy nhiên, với cấp độ nghiên cứu là một Tiểu luận cho h ọc ph ần Tri ết học dành cho học viên cao học không thuộc nghành chuyên Tri ết vì th ế ng ười viết chỉ có thể phác họa ra những nét cơ bản nhất, cốt lõi nh ất đúng với di ện mạo vốn có của hệ tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời phong kiến và nh ận định đúng bản chất của nó. IV.Phương pháp nghiên cứu Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu, do vậy người viết nhận thấy đây là hệ tư tưởng, tức là thuộc về loại tư duy lý luận, thuộc về một b ộ môn khoa học triết học cho nên trước hết lấy lập trường, quan điểm và phương pháp triết học Mác-Lênin làm phương pháp luận chỉ đạo quá trình nghiên cứu. Đồng thời kết hợp với phương pháp trực quan, thể nghiệm, kết hợp với phân tích suy lý một cách khách quan và phương pháp xây dựng mô hình cấu trúc- nội dung của các khái niệm, các quan điểm tư tưởng. V.Kết cấu của Tiểu luận Chương I. Cơ sở của truyền thống văn hóa, tư tưởng Việt Nam thời phong kiến 1. Điều kiện lịch sử, địa lý, xã hội sản sinh nền Văn hóa, tư t ưởng Vi ệt Nam thời phong kiến. 2.Tâm lý xã hội và ảnh hưởng của nó đối với tư tưởng Việt Nam Chương II. Đặc điểm nổi bật của hệ tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời phong kiến. 1. Lịch sử phát triển và kinh điển Nho giáo. 2. Vài vấn đề cơ bản của Nho giáo. B.NỘI DUNG CHƯƠNG I. CƠ SỞ CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA, TƯ TƯỞNG VIỆT NAM THỜI PHONG KIẾN 1. Điều kiện lịch sử, địa lý, xã hội sản sinh nền Văn hóa, t ư tưởng Vi ệt Nam thời phong kiến. 3
  4. - Khối thống nhất dân tộc hình thành sớm, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”. - Liên tục chiến đấu và chiến thắng, “càng đánh càng m ạnh, càng m ạnh càng thắng to”. - Việt Nam ở phía nam Trung Quốc, phía bắc Chăm pa, phía đông dãy Trường Sơn, phía tây Biển Đông. - Ngã tư giao lưu văn hóa: Ấn Độ-Trung Hoa-Đông Nam Á-Phương Tây - Mang nền văn minh trên triền sông: Hồng - Mã - Lam - Có nền nông nghiệp lúa nước lâu đời ít phát triển. - Tàn dư công xã nông thôn “Phép vua thua lệ làng” - Gia đình-dân tộc làng nước (Những cộng đồng ổn định của xã hội Việt Nam) Gia đình là tế bào của xã hội - Chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại dai dẳng. - Có những thời kỳ mất nước kéo dài. -Không có những cuộc cách mạng triệt để về kinh tế-xã hội. -Công nghiệp và khoa học kỹ thuật chậm phát triển. 2. Tâm lý xã hội và ảnh hưởng của nó tới hệ tư tưởng Việt Nam Những điều kiện lịch sử, địa lý, xã h ội trên đây sản sinh tâm lý xã h ội đồng thời cùng với tâm lý xã hội đó tạo thành cơ sở của h ệ t ư t ưởng Vi ệt nam: -Nhân hậu-đoàn kết-thủy chung: “Thương người như thể thương thân” “Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng” “Lá lành đùm lá rách Lá rách ít đùm lá rách nhiều” -Hy sinh cho tổ quốc là một vinh dự, bổn phận -Có tinh thần “dân chủ” công xã nhân dân -Luôn luôn cần cù và sáng tạo -Trọng nhân luân, đạo lý. Trọng luân lý gia đình, trọng truyền thống: “Giấy rách phải giữ lấy lề”. Trọng tuổi tác ”kính lão đắc thọ”, trọng người có đức, có h ọc, hiếu h ọc “Muốn con hay chữ phải yêu mến thầy”. Trọng dư luận hiếu khách, trọng tình bạn. -Thích cuộc sống quân bình, hòa hợp với thiên nhiên. 4
  5. -Thích lạc quan, cởi mở, độ llượng. -Sống bình dị. Tuy nhiên, còn một số những hạn chế trong tâm lý, trong suy nghĩ của người Việt nam thời phong kiến, song vì điều kiện không cho phép nên người viết xin được không nêu ra ở đây. CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA HỆ TƯ TƯỞNG NHO GIÁO VIỆT NAM THỜI KỲ PHONG KIẾN Nền văn hóa Việt Nam đã từng phát triển trong sự giao lưu mật thiết với các nền văn hóa khác: Ấn độ-Trung Hoa-Phương Tây-Đông Nam Á, trong đó Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo ảnh hưởng rõ rệt nhất. Người Việt nam đã tiếp thu các hệ tư tưởng ấy trong nhiều tình thế: cưỡng bức, tự nguyện, vừa cưỡng bức vừa tự nguyện, trực tiếp, gián tiếp…Trên cơ sở vững ch ắc của truyền thống văn hóa dân tộc, một số yếu tố tích cực trong các học thuyết ấy đã góp phần tạo nên truyền thống văn hóa Việt Nam. Ba học thuyết Nho-Phât-Đạo đã truyền vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu của Công Nguyên bằng nhiều hình thức khác nhau. Vai trò l ịch s ử c ủa các h ệ t ưởng ấy thay đổi qua các thời kỳ lịch sử nhưng nhìn chung ta th ầy th ế lực của Nho giáo mạnh dần và đến thế kỷ thứ XV thì chiếm vị trí độc tôn. Đ ến Cách mạng tháng tám thành công đã chấm dứt vai trò lịch sử của các hệ tư tưởng phong kiến, đặc biệt là vai trò thống trị của Nho giáo. Nho giáo r ất có ý th ức về quyền uy, tỏ ra có kinh nghiệm tạo quyền uy và các hình th ức kh ống ch ế con người. Nho giáo trực tiếp phục vụ chính quyền Phong kiến, chi ph ối chính quyền, uy lực tinh thần của “thánh hiền” là tuy ệt đ ối đ ối v ới tri ều đình vua quan. Nho giáo dành được quyền đại diện dân tộc, đại diện văn hóa dân tộc, nó là cơ sở tư tưởng chung cho các triều đại phong kiến. Vì vậy, triều đại nhỏ lớn nào cũng cứ vẫn tồn tại. Học thuy ết Nho giáo t ỏ ra có kh ả năng thích ứng cao đối với các biến động của xã hội trên 2000 năm qua, trong các quốc gia lớn ở châu Á, nó kìm hãm sự phát triển của xã h ội, kéo dài tu ổi th ọ 5
  6. của chế độ phong kiến quân chủ tập quyền, mặt khác cũng chứng tỏ nó có nhiều kinh nghệm để tổ chức xã hội, nó thực tế hơn các hệ tư tưởng phong kiến cùng thời. 1. Sơ lược lịch sử phát triển và Kinh điển Nho giáo Nho giáo vốn là một học thuyết chính trị-xã hội, là h ệ tư tưởng chính thống của giai cấp phong kiến Trung hoa. Tư tưởng nho giáo xuất hi ện t ừ thời Tây Chu (TK X đến TK VII TCN), đến th ời kỳ Xuân Thu, Kh ổng T ử (551-479 TCN) đã sưu tập, chỉnh lý các điển tịch, tư tưởng của các Nho gia tiền bối, hệ thống lại thành một học thuyết tương đối có h ệ th ống, nh ằm mục đích phục hồi lại kỷ cương xã hội, cứu vãn tình th ế loạn lạc th ời đó: Vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con. Sang đến thời Chiến quốc, Mạnh Tử (372-289TCN), một nhà nho xuất sắc đã kế thừa và phát triển tư tưởng theo hướng duy tâm chủ nghĩa khách quan. M ạnh Tử đã đấu tranh, phản bác các học phái khác (Mạc Tử, D ương Chu…), bảo vệ Nho học. Đến đời Hán, Đổng Trọng Thư đã thần bí hóa, tôn giáo hóa Nho học bằng cách đưa vào các học thuyết Khổng-Mạnh, các tư tưởng của pháI Âm-Dương, Ngũ hành, các tư tưởng mê tín khác, đồng thời thiết lập hệ thống nghi lễ mới. Nho giáo nhằm phục vụ đắc lực hơn cho chính quyền dân chủ chuyên chế cao độ của nhà Hán. Thời Ngụy Tân Nam Bắc Triều cho đ ến Tùy Đường, Đạo giáo và Phật giáo mạnh dần lên và đạt đến cực th ịnh ở th ời Đường. Đến đời Tống (TK X, XI, XII), một loạt cự Nho ra đ ời: Chu Đôn Di, Trình Hiệu, Trinh Di, Lục Cửu Uyên... Họ đã tiếp thu tư tưởng triết lý c ủa Đạo gia, Phật học, bổ sung cho cơ sở lý luận của h ệ tư t ưởng Nho giáo, làm cho Nho giáo có cơ sở triết lý vững chắc hơn đủ sức mạnh cạnh tranh với các hệ tư tưởng khác. Đó là một lần phục hưng Nho giáo. Tống Nho có ảnh hưởng đến xã hội Việt Nam và những nước khác, đặc biệt là vai trò c ủa Chu Hy. Sau lần canh tân ấy, Nho giáo có thêm sức mạnh, sức sống mới, nhưng đồng thời nó cũng trở nên khắc nghiệt hơn, phản động hơn, phi nhân bản hơn . Kinh sách nho giáo nhiều nhưng gốc là ở Ngũ kinh-Tứ th ư Ngũ kinh. Ngũ kinh gồm: +Kinh thi: Một hợp tuyển thơ ca dân gian và thơ ca dùng để tế lễ đời nhà Chu. 6
  7. +Kinh Thư: (Thượng thư) bộ sách nói về cách trị nước và thể chế nhà nước Phong kiến, có thể coi là bộ sách “lịch sử-hiến pháp” của Trung Quốc cổ đại. +Kinh dịch: Bộ sách bói toàn và triết lý, vốn không ph ải là sách c ủa Nho gia, nhưng nhà Nho tự coi là kinh điển của mình và t ương truy ền Kh ổng Tử soạn thập dực trong Kinh dịch. +Kinh lễ: (Lễ ký) là bộ sách trình bày h ỗn hợp nhi ều v ấn đ ề nh ưng chủ yếu là lễ nghi và các quy tắc giao tiêp ứng xữ. +Kinh Xuân Thu: Bộ sử biên niên, chép sử nước L ỗ, th ời Xuân-Thu. Trong đó Khổng Tử trực tiếp tình bày tư tưởng “Chính danh”, quan đi ểm l ịch sử và các tư tưởng chính trị khác. Tứ thư (tứ truyện) gồm: +Luận ngữ: Bộ sách ghi chép lời Khổng Tử dạy cho học trò và l ời h ọc trò trường Khổng Tử bàn luận với nhau. Đây là một bộ sách có giá trị th ực lực cao nhất của thư tịch Nho học Nguyên thủy. +Mạnh Tử: Bộ sách ghi chép lời của Mạnh Tử biện luận với các học phái khác nhau và với các vua chúa đương thời. +Đại học: Bộ sách bàn về sự tu thân của người quân tử, tương truyền là sách của Tăng Tử. +Trung dung: Là bộ sách bàn về đạo “Trung dung”, lối sống “không thá quá, không bất cận” của người quân tử, là một bộ sách có ý nghĩa ph ương pháp luận cao của nhà Nho, tương truyền là sách của Tử Tư-cháu n ội c ủa Khổng Tử. 2. Vài vấn đề cơ bản của Nho giáo Nho giáo đề cập nhiều đến các vấn đề sau: -Trời, Trời-Người cảm ứng, Mệnh trời. -Vương chính, Đức trị, Nhân trị, Lễ trị, Tôn hiền thân thân. -Chính danh. -Luân thường. -Đức và Tài, lý tưởng của Nho gia (kẻ sỹ): Tu-Tề-Trị-Bình. -Sỹ-Nông-Công-Thương. -Dĩ nông vi bản… Trong tiểu luận này người viết xin trình bày vài vấn đề quan trọng nhất, xét thấy có ảnh hưởng trực tiếp đến xã hội Việt Nam thời phong kiến. a. Trời, Trời -Người cảm ứng, Mệnh trời: 7
  8. (Trời thiên đế) Nho giáo quan niệm: Trời là đấng chí tôn hoàn thi ện, toàn năng, có nhân cách, có ý chí. Trời là tổng nguyên nhân chi phối vũ trụ. Tuy ở cao xa nhưng trời ngầm xét việc trần gian và việc của thần linh, quỹ thần thưởng phạt nghiêm minh. Khi vua chúa làm điều th ất đức lớn thì trời cho ra các trương triệu để cảnh tỉnh và có thể giáng đại h ạn đ ể tr ừng tr ị (đ ại hạn, sao chổi xuất hiện, mùa hè tuyết rơi, ôn dịch, sấm sét,…). Vì v ậy Vua chúa, thần dân ai cũng phải sợ Trời, kính Trời. Khổng Tử nói: “sống chết có mệnh, giàu sang tại Trời”, “ph ải t ội v ới trời không cầu đảo vào đâu được” (Luận ngữ) Việt sử thông giám cương mục, tập 3, trang 261 chép rằng: “Người Diễn Châu chống lại mệnh lệnh triều đình, nhà vua tự cầm quân đi đánh. Khi quân về đến của biển (ở địa phân Ngọc Sơn-Thanh Hóa) gặp cơn gió m ưa mờ mịt, sấm chớp ầm ầm, mọi người đều sợ có sự bất trắc. Nhà vua đốt hương khấn Trời rằng: “Tôi là người ít đức, đứng đầu quan và dân, v ẫn n ơm nớp sợ hãi như lo lỡ sa xuống vực thẳm. Chỉ vì người Diễn Châu ngang ngạnh, không theo giáo hóa nên bất đắc dĩ phải đi đánh dẹp. Trong vòng gươm giáo chắc không khỏi có sự oan uổng tới dân lành, đến n ỗi làm cho Hoàng Thiên nổi giận, một mình tôi đây dù ph ải ch ịu nạn cũng không dám ân hận gì, nhưng còn sáu quân vô tội thì sao? Kính xin lòng Trời soi xét cho “Khấn vừa xong chưa dứt lời, sấm gió yên ngay…” Lời phê (của Tự Đức): “Lời Lý Thái Tổ khấn Trời, tỏ ra rất có đ ức đ ộ đế vương, thật chẳng khác Thành Thang nhà Thương đem sáu việc trách mình trong khi gặp nạn bảy năm hạn hán, th ảo nào gi ữa Ng ười và Tr ời có s ự cảm ứng không sai“ (Sáu việc đó là: Chính sự không có chừng mực chăng? Cung thất đồ sộ chăng? nữ sắc quá nhiều chăng? oan uổng nhi ều chăng? hay nghe lời nịnh nọt chăng? làm mất lẽ công bằng chăng?) Người bình dân Việt Nam cũng tin ở Trời cầu mong Trời “lạy trời m ưa xuống, lấy nước tôi uống…”, có khi trách trời “Trời ơi, Trời ở không cân, Người ăn không hết người làm không ra”, Nguyễn Du tổng hợp quan niệm Trời của Nho gia và của bình dân: “… Ngẫm hay muôn sự tại Trời Trời kia đã bắc làm người có thân Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao” hay 8
  9. “…Đã mang lấy nghiệp vào thân Cũng đứng trách lẫn Trời gần, Trời xa” rồi “…Đã cho lấy chữ hồng nhan. Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân…” (Truyện Kiều) Ông Trời của Nho gia và ông Trời của bình dân ở Việt Nam không giống nhau hoàn toàn. Người bình dân quan niệm ông Trời là một đấng toàn năng, biết thương người, hay bênh vực cho kẻ nghèo hèn, kẻ yếu th ế bị áp bức cho người hiền lành đạo đức người bình dân thường kết hợp Trời-Bụt- Tiên thành một hình tượng chung, và mỗi khi gặp nạn, hoặc có điều oan ức thì liền kêu cứu Trời-Bụt cứu giúp. Ông Trời của Nho gia trang nghiêm, độc đoán, quyền uy, Trời là sức mạnh đáng sợ ai cũng phải khuất phục. + Thiên Tử Nhà vua tự coi mình là Thiên Tử (con Trời) tức là ng ười có th ể làm mô giới giữa người với Trời-Đất, quỷ thần. Trong lực lượng siêu nhiên, ở ngôi chí tôn có Trời (Thượng đề, Thiên đế) dưới Trời có đủ loại thần linh (riêng người Việt Nam thì trong số thần linh đó có nhiều vị thần v ốn là nh ững nhân vật lịch sử đã từng có công đức lớn với dân, với nước, sau khi ch ết cũng hi ển linh phù trợ muôn dân, có khi còn ra trận mạc để cùng với người sống đánh giặc, cứu nước (Trương Hống và Trương Hát, Đức Thánh Trần…). Sau nữa các gia đình cũng có liên hệ với tổ tiên của mình. Tổ tiên cũng ph ụ trợ hoặc quở trách con cháu. Người Việt Nam từ xưa đã có tục thờ cúng tổ tiên. Nho giáo du nhập và khẳng định thêm các tính ngưỡng ấy. Thiên Tử đứng đ ầu muôn dân và cai quản thần linh. Quân quyền cho phối thần quyền. Thiên Tử thụ lãnh sứ mệnh ở Trời để trị dân và chịu trách nhiệm với Trời. Lễ tế Trời ở Nam Giao (Thừa Thiên Huế) do Thiên Tử làm chủ tế thể hiện quan niệm đó. + Trời-Người cảm ứng: Tư tưởng Trời-Người cảm ứng (Thiên nhân t ương cảm) là một lo ại t ư tưởng nguyên thủy, tiềm logic, nhưng đã tồn tại suốt thời đại phong ki ến và có ảnh hưởng sâu rộng. Tư tưởng ấy đã trở thành một phương thức tư duy phổ biến trong nhân dân và giới trí thức cũ. Tư tưởng “Thiên nhân tương cảm:” dựa trên nguyên lý “đồng loại tương đồng” (đồng thanh tương ứng, 9
  10. đồng khí tương cầu). Trời và Người cùng một loại cho nên lòng ng ười thi ện hay ác đều có ảnh hưởng đến sự vận hành của vũ trụ: “Nhật thực có thường độ” (định luật) nhưng nhân sự thì biến đổi th ế nào vẫn liên quan đến nó. Con người sắp làm điều bất thi ện mà h ễ m ặt trăng đi vào độ giao thực thì nó liền lấn át và che lấp mặt Trời. Đó là cá c ủa con người động đến Trời. Lại như mặt trời sắp mưa dầm thì người nào bị đánh hay ngã bị thương, tất thấy đau buốt, đó là khí Trời đã động đ ến người. Đi ều đó có thể chứng nghiệm được rõ Trời với Người có cùng một lẽ” (Vân đài loại ngữ-Lê Quý Đôn, NXBVH tập 1 trang 59)” Cuối thế kỷ XVIII và XIX, tư tưởng (Trời-Người cảm ứng) phát triển mạnh ở Việt Nam: Nhiều trí thức lớn như Phạm Viên, Lê Hữu Trác, Nguy ễn Thiếp… đều có chịu ảnh hưởng. Trong văn học cũng có nhiều tác phẩm thể hiện tư tưởng ấy: Tục truyền ký của Đoàn Thị Điểm, Vũ trung tùy, Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ; Thoái thực ký văn của Trương Quốc Dụng, kể cả truyện Kiều của Nguyễn Du… + Mệnh trời: Trời chi phối con người bằng Mệnh Trời. Mỗi ng ười sinh ra, già, ch ết, mạnh khỏe, ốm đau, nghèo hèn, sướng khổ…tất cả đều do mệnh Trời. Nhà Nho có tư tưởng định mệnh. Họ cho rằng mọi việc lớn nh ỏ đều do ti ền đ ịnh: “Nhất ẩm, nhất trác giai do tiền định” (Một miếng cơm, một ngụm nước đều do tìên đinh). Con người phải an phận th ủ th ường, vui với s ố ph ận đã an bài. Tuy vậy Nhà nho cũng cho rằng con người phải cố gắng h ết sức mình làm hết bổn phận của mình thì mới biết được Mệnh trời. Như vậy lý luận c ủa Nho gia có mâu thuẫn, giải pháp của họ về vấn đề quan hệ giữa sức người với Mệnh Trời không triệt để. Họ thường cho rằng do Trời nhưng cùng do Người. Kinh thư có nói: “Lòng dân là ý Trời”. Lòng chân thành s ự h ối c ải c ủa con người có thể cảm động đến Trời, sửa được mệnh Trời “xưa nay nh ận định đã thắng Thiên cũng nhiều” Quan niệm con người đều có số phận tiền định, sự việc do Mệnh Trời, thời vận quyết định. -Đặng Dung khi thất thế đã tìm nguyên nhân thất bại ở thời vận : “Thời lai đồ điếu thành công dị, Vẫn cứ anh hùng ẩm hậu đa” (Cảm hoài) -Trong Nhi Độ Mai có câu : “Nhân duyên vốn sẵn tại trời” 10
  11. -Nguyễn Công Trứ: “Bởi số chạy sao cho khỏi số, Chung cuộc thời chi cũng tại trời” -Nguyễn Đình Chiểu trong Lục Văn Tiên khi luận về Gia Cát cũng khẳng định thời vận quyết định: “Thương ông Gia Cát tài bành Gặp cơn Hán mạt chịu đành tam phân” Đặc biệt truyện Kiều của Nguyễn Du thể hiện rất rõ tư tưởng “Trời- Người cảm ứng” và quan niệm “Tài mệnh tương đố”. Mười lăm năm lưu lạc của Thúy Kiều là tiền định, Thúy Kiều gắn bó với hồn ma Đạm Tiên b ằng mộng triệu, chiêm bao và hơn nữa những lần chiêm bao, đoán t ướng, đoán chừng đều ứng nghiệm cả *Chiêm bao: “Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu, Thoắt đâu thấy một Tiểu Kiều. … Thưa rằng “Thanh khí xưa nay, Mới cùng nhau ban ngày đã quên?” … Vâng trình hội chủ xem tường, Mà sao trông sổ đoạn trường có tên Âu đành cũng kiếp nhân duyên Cũng người một hội, một thuyền đâu xa” “Trong mê dường đã đứng bên mặt nàng Rỉ rằng: nhân quả dở dang, Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao? Số còn nặng nghiệp má đào Người dù muốn quyết trời nào đã cho” *Đoán tướng: “Có người tướng sĩ đoán ngay một lời: Anh hoa phát tiết ra ngoài, Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa” *Đoán chừng: “Sinh rằng giải cấu là duyên Xưa nay nhân định thắngThiên cũng nhiều” 11
  12. Các loại mộng triệu, chiêm bao, đoán tướng, đoán chừng đều chuyển thành sự thực cả: “Hỏi ra mới biết là sông Tiền Đường, Nhớ lời thần mộng rõ ràng, Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây Đạm tiên nàng nhé có hay Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta” và cuối cùng thì “nhân định” đã “thắng thiên”: “Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau Tiền Đường thả một bè lau rước người” Cuộc đời của Kiều đã có trong sổ định mệnh. Nhưng cái tài của Kiều vẫn cố vươn lên, thế là Tài và Mệnh xung khắc cho đ ến lúc Ki ều ph ải nhảy xuống sông Tiền Đường mới kết thúc. Đợt thứ nhất:Tài của Kiều trong đà thuận lợi, Thúy Kiều gặp Kim Trong, cái Mệnh chưa xuất hiện nhưng hình như cũng đã rình rập, phục sẵn trong cái cơ hội tốt đẹp ấy: “Khúc đâu Hán Sở chiến trường Nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng chen nhau. Khúc đâu Tư Mã “Phương cầu” Nghe ra như oán như sầu phải chăng … Rằng hay thì thật là hay Nghe ra ngậm đắng nuột cay thế nào” Liền sau đó các Mệnh xuất hiện, bằng sự vu oan giá h ọa của tên bán tơ, Kiều phải tự bán mình chuộc cha. Cái Mệnh đã th ắng b ằng s ự vu oan đánh lén. Mệnh thằng Tài, cái Tài chịu oan nhưng không chịu nhục, Thúy Kiều hành động chưa có chỗ nào sai lầm. Đợt thứ hai: Cài Tài giúp Kiều gượng d ậy g ặp Thúc Sinh, cái M ệnh xuất hiện qua mưu mô của Hoạn Thư xảo quy ệt mà già d ặn, công khai, tr ực diện đánh gục cài Tài. Cài Tài bị cầm tù, không kêu oan đ ược, Thúy Ki ều l ần này không phải không có lỗi: “Cùng trong một tiếng tơ đồng Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm” Đợt thứ ba: Cài Tài giúp Kiều vượt qua trỗi dậy vinh quang hi ển hách, gặp Từ Hải. Nhưng cái Mệnh cũng đã đến ngay bằng sự tráo trở c ủa Hồ Tôn 12
  13. Hiến và lần này chính Kiều đã phạm sai lầm, cái Tài đã nối giáo cho gi ặc đ ể Kiều phải chuốc lấy tai vạ đến nỗi Từ Hải phải chết đứng. Cái Tài sa c ơ, b ị điểm nhục, tuyệt vọng: “Một cung gió thảm mưa sầu Bốn dây rõ máu năm đầu ngón tay” Đợt thứ tư: Trong cuộc xung đột giữa Tài và Mệnh, Kiều “Có Tài mà cậy chi Tài Chữ Tài liền với chữ tai một vần”. Gieo mình xuống sông Tiền Đường, Kiều một lần cuối cùng quy ết thoát khỏi Định Đệnh và “nhận định” đã “thắng thiên”. Sức người đã đổi được Mệnh Trời. Nhưng không phải nhờ cái Tài mà bằng cái Tâm (Đó là l ời giải độc đóa của Nguyễn Du): “Khúc đâu đầm ấm dương hòa Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh. Khúc đâu êm ái xuân tình, Ấy hồn thục đế hay mình đỗ quyên … Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy? Tẻ vui bởi tại lòng này Hay là khổ nặng đến ngày cam lai?” Tư tưởng “Trời-Người cảm ứng”, tư tưởng định mệnh tồn tại dai dẳng như thế, do nền khoa học phát triển chậm, do chế độ quân chủ chuyên ch ế, ra sức duy trì nó. Người dân chất phác tin vào Trời, c ầu mong ở tr ời, tin là có Mệnh Trời, vì họ bất lực trước số phận. Khi gặp các biên cố trong gi ới t ự nhiên, biến cố trong xã hội , sự thay vua đổi chúa. H ọ không hi ểu nguyên nhân và bất lực thì bèn cho đó là “ý Trời đã đ ịnh, s ố Tr ời là v ậy” đ ể t ự an ủi. Người có học, kẻ thống trị thì vừa tin là có Mệnh Trời vừa có ý thức lợi dụng Mệnh Trời để sai khiến người dân. b. Luân thường: Luân thường là một học thuyết luân lý chính trị quan trọng trong bậc nhất của Nho giáo, bao gồm Ngũ luân và Ngũ thường b1. Ngũ luân Đây là năm mối quan hệ cơ bản giữa ngưới với người trong xã h ội phong kiến: Quân-Thần; Phu-Tử; Phu-Phụ; Huynh-Đệ; Bằng-Hữu + Quân-Thần: bàn vế quan hệ Vua-tôi, nới rộng ra là quan h ệ c ấp trên và cấp dưới trong chính quyền phong kiến. Đó là mối quan hệ chính trị-xã hội 13
  14. trên-dưới. Nội dung của luân này phần lớn được quy định rõ trong kinh sách Nho giáo được xây dựng thành thể chế, có hình pháp bảo vệ và công luận, dư luận ủng hộ. Thường được diễn đạt bằng công thức: “Quân nhân th ần trung” và được đặc trưng bằng chữ Trung. Và theo Khổng Tử, Trung có nghĩa là “Kỷ dục lập nhi lập nhân. Kỷ dục đạt nhi đạt nhân”-Một lòng một dạ, h ết lòng hết sức phụng sự bề trên. Vua chư hầu trung với Thiên tử, thần dân trung với Vua, tớ trung với chủ…Nhưng nếu vua bạo ngược, hôn ám quá mức thì sao? Bề tôi có th ể “Điếu phạt” trừ kẻ bạo ngược. Như Vũ Vương phạm Trụ, Thành Thang di ệt Kiệt (Theo Mạnh Tử, Kiệt và Trụ là những tên tàn bạo, không phải là vua, vũ vương Thành Thang không giết vua mà đã giết những tên tàn bạo hôn ám) Như thế là nhà Nho đã khéo léo mở ra một lối thoát nh ỏ cho lý lu ận lịch sử, khi thật cần thiết. Tuy nhiên trong lịch sử lâu dài của xã h ội phong kiến, nhà Nho ít khi phát biểu các tư tưởng “điếu phạt” ấy, h ọ chỉ tán t ụng cái tinh thần tận trung, ngu trung. Ngay ở Việt Nam cũng có những nhà Nho ngu trung. Ví dụ Trần Danh Hán, Lý Trần Quán. Dưới chế độ quân chủ chuyên chế, tội bất trung là tội lớn nhất, ai phạm tội ấy, hoặc có khi ch ỉ b ị nghi ngờ, là có thể bị tru di tam tộc (Chẳng hạn Trần Nguyên Hãn đời Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi đời Lê Thái Tông, Nguyễn Văn Thành đời Gia Long…) hoặc ở Trung Quốc thì có Hàn Tính đời Hán, Hàn Phi đời Tần… + Phụ-Tử: Đây là quan hệ cha-con, nói rộng ra là mối quan h ệ gi ữa ông bà, cha mẹ, con cái. Nói chung đó là mối quan hệ gia đình, huyết th ống, th ế hệ trước-sau, trên-dưới. Nội dung của luân có ghi trong kinh sách nhưng chủ yếu do người ta tự giác thực hiện được dư luận, công luận bảo vệ cũng có trường hợp được đưa ra nghị luận ở triều đình, công sở Thường diễn đạt bằng công thức: Phu từ tử hiếu Đặc trưng bằng chữ: Hiếu Chữ Hiếu quy định rằng con cháu phải phụng sự cha mẹ, ông bà, sớm thăm viếng, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ, làm cho cha mẹ vinh hiển không làm cho cha mẹ mang nhục, phải giữ cái chí của cha, tuyệt đối ph ục tùng cha mẹ, giữ nề nếp gia đình, gia phong, phải giữ gìn cái thân th ể hình hài c ủa mình, vì đó là một phần máu huyết của cha mẹ để lại, ph ải có con cái đ ể n ối dõi, phải thờ cúng tổ tiên ông bà, cha mẹ sau khi đã chết. Khổng Tử đã từng dạy cho học trò: “Cha mẹ còn, chưa được đi xa” 14
  15. Nho giáo lấy gia đình làm trung tâm, mở rộng ra nữa là thiên h ạ, do đó chữ hiếu rất quan trọng. Có hiếu mới có trung, người bất hiếu với cha mà trung thành với vua là không thể có được. Thời Khổng-Mạnh chữ hiếu và chữ trung đã được đề cao, nh ưng chưa có chủ trương ngu hiếu, ngu trung từ đời Hán về sau tệ ngu hiếu ngu trung mới được phát triển. Khổng Tử nói về chữ hiếu chữ trung như sau: “Ai Công nước Lỗ ba lần hỏi Khổng Tử:“Con theo mệnh cha là hiếu không? Tôi theo mệnh vua có phải là trung không? Cả ba lần Khổng Tử đều không đáp. Sau đó Khổng Tử đem chuy ện ấy nói lại với Tử Cống và hỏi Tử Cống nghĩ thế nào. Tử Cống đáp: “Con theo mệnh cha là hiếu, tôi theo mệnh vua là trung còn nghi ngờ gì nữa?”. Kh ổng tử nói “Anh không hiểu gì hết. Con theo mệnh cha đâu đã là hi ếu, tôi theo m ệnh vua đâu phải là trung: Chỉ khi nào…” Ở Việt Nam đạo hiếu cũng được đặc biệt coi trọng. Lục Vân Tiên sắp vào trường thi, được tin là mẹ chết bèn bỏ thi trở về, khóc lóc thương xót đến mù cả hai mắt. (chính Nguyễn Đình Chiểu tác giả Lục Vân Tiên cũng vậy: năm 1848 ông từ Gia Định ra kinh đô đ ể ch ờ khoa thi hội, nhưng sắp thi thì được tin mẹ mất, ông trở về chịu tang, thương khóc mẹ và đường sá gian nan vất vả, ông bị bệnh mù cả hai mắt) -Kim Trong khi được tin cha gọi về hộ tang chú, đã từ giã Thúy Kiều lên đường về ngay. Thúy Kiều càng tỏ ra hiếu thuận: “Dù khi lá thắm chỉ hồng Nên chăng cũng bởi tại lòng mẹ cha” Và quả là Kiều “nặng vì hiếu, nhẹ vì tình”, nên đã “bán mình chu ộc cha”. +Phu-Phụ: Luân này bàn về mối quan hệ giữa chồng với vợ (các loại thê thiếp) đấy là mối quan hệ gia đình, không huy ết th ống, cùng th ế h ệ. Nhà nho rất coi trong mối quan hệ này, xem đó là đầu mối của mối quan hệ gia đình. Kinh sách nói nhiều về mối quan hệ này. Sự thực hiện luân này chủ yếu dựa vào quyền lực của người đàn ông gia trưởng, không hoàn toàn t ự giác thường xảy ra mối bất hòa trong gia đình, được công luận và dự luận bảo vệ, và đôi khi được cả pháp lý can thiệp. Diễn đạt bằng công thức :“Phụ nghĩa phụ thính” Đặc trưng bằng chữ : Tiết-Nghĩa 15
  16. “Tiết” là cái đức của người vợ đối với chồng, “nghĩa” là cái đức của chồng đối với vợ. Luân này có nhiều quy định cụ thể: Phu xướng phụ tùy tam tòng tứ đức… Đây là một trong những luân phi nhân bản nh ất, b ất công nh ất. Người đời phản đối dạo đức Nho giáo, thường trước tiênm nh ằm vào luân này đặc biệt là trong thơ văn + Huynh-Đệ: Luân này bàn về mối quan hệ anh-em và nói rộng ra là mối quan hệ anh-chị-em trong gia đình, gia tộc. Đó là mối quan h ệ gia đình huyết thống cùng thế hệ. Các quy định của luân này chủ yếu do người ta tự giác thực hiện được dư luận và xã hội bảo vệ. Diễn đạt bằng công thức: Huynh lương đệ đễ. Đặc trưng bằng chữ : Đễ, chữ Đễ chỉ về kính, thuận. Tô Hoài trong Dế Mèn phiêu lưu ký có một đoạn thú vị nói về t ư tưởng của cái luân này như sau: Trong chuyến đi xa, về thăm mẹ và anh em, D ế Mèn đến thăm nhà anh hai trước rồi mới đến thăm anh trưởng. Thế là “Trong thấy em, mặt anh trưởng cứ lạnh như đá”. “Anh tôi nói mát: “Chả dám! Chú còn nhớ phép lịch sự đến thăm anh. Xin chả dám, tôi đáp: -Thưa anh, đi đâu thì em v ẫn nh ớ anh em ta cùng lứa mẹ sinh ra. Anh cười nhạt: -Hừ, chú bảo chú nhớ anh mà chú lại vào nhà th ằng hai trước khi đến đây, thế thì phỏng thử chú coi gia giáo nhà ta là cài gì, đuôi l ộn lên đầu hử?. -Thưa anh, em cũng biết thế, nhưng vì anh hai đau yếu, lại tiện em đi qua nhà, thấy nên mới vào thăm anh trước.” Tôn ti, thứ bậc của xã hội phong kiến đến mức như vậy đó. +Bằng-Hữu: Luân này bàn về quan hệ bạn bè, quan hệ giao tiếp tự nguyện, tự chọn. Đó là mối quan hệ xã hội, cùng thế hệ. Đặc trưng bằng chữ: thành, chữ tín. Chủ yếu do tự nguyện thực hiện và được dư luận xã hội bình phẩm. Tăng Tử nói: “Quân tử lấy văn mà họp bạn, lấy bạn giúp mình làm điều nhân là nền tảng vững chắc cho sự kết bạn” Nguyễn Đức Đạt (một nhà Nho, một nhà giáo, quê Nghệ Tỉnh rất nổi tiếng thế kỷ XIX) trong Nam Sơn tùng thoại có đoạn vấn đáp độc đáo: “Hỏi: Thầy, bạn ai hơn? Đáp: Bạn hơn. Hỏi: Đạo làm bạn thế nào? 16
  17. Đáp: Có bạn mới có đủ công dụng ngũ luân…” Như vậy thầy đã cần mà bạn còn cần hơn. Đồng chí Phạm Văn Đồng có lần cũng đã nói: “Quan hệ th ầy-trò là quan hệ bạn bè” Trong văn cổ của ta có những tình bạn tuyệt đẹp: -Họ Trần, họ Mai trong Nhị độ mai -Vân Tiên, Tử Trực, Hớn Minh trong Lục Vân Tiên -Lưu Bình, Dương Lễ trong chuyện cùng tên Trong văn học Trung Quốc cũng vậy, có: -Chuyện “Đào viên kết nghĩa” Lưu Bị-Quan Công-Trương Phi kết nghĩa anh em , sống chết có nhau. -Bá Nha-Tử Kỳ , đôi bạn tri âm. Trong văn học cổ Việt Nam, nhiều mối tình được xây dựng trên cơ sở tình bạn cao cả, cho nên có những biểu hiện của tư tưởng bình đẳng, kính trọng lẫn nhau, hiếm có trong các nên văn học khác. -Kim Trong với Thúy Kiều: “Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?” -Thúy Kiều thì: “Thưa rằng: Tiện kỷ sá chi, Đã lòng dạy đến, dạy thì phải vâng” -Kim TRọng: “Vội vàng sinh đã tay nâng ngang mày” (vừa kính trọng, vừa trang nhã bình đẳng) -Kiều Nguyệt Nga với Lục Văn Tiên: “Trước xe quân tử hãy ngồi Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa” Đến cuối truyện khi Lục Vân Tiên đã đỗ trạng nguyên: “Vân Tiên vội vã xuống quỳ vòng tay Thưa rằng: may gặp nàng đây Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn” Người Việt Nam có đủ thứ tình bạn tri âm, tri kỷ, bạn th ơ, bạn rượu, bạn buôn, bạn hàng, bạn cờ, bạn đường, bạn trăm năm, bạn tâm giao, b ạn học, bạn đồng môn, đồng nghiệp, bạn nối khố… Tóm lại: Nho giáo đã khái quát các mối quan hệ xã hội vô cùng ph ức tạp thành năm loại quan hệ và sắp xếp theo thứ tự trên đây. Các m ối quan h ệ này bổ sung choi nhau để bao quát hết mọi mặt cơ bản của cuộc sống thực hiện đầy đủ ngũ luân tức là đạt đạo, làm trái ngũ luân là trái đ ạo. V ị trí, t ầm 17
  18. quan trọng của ngũ luân không ngang nhau. Nếu cần thu gọn lại thì nhà Nho đưa ra khái niệm tam cương: Quân thần; Phụ-tử; hu-phụ. Nếu cần rút gọn lại nữa thì nhà Nho có đạo Quân-Thần (hay là Trung-Hiếu). Nói gọn lại nữa thì còn một chữ Trung Thực chất các chữ Hiếu, Tiết, Nghĩa, Tín cũng là Trung cho nên có th ể nối chung quy lại đạo Nho là đạo Trung (đạo Trung thứ gần với đạo nhân- theo lời Khổng tử, tăng Tử cũng giải thích: “Đạo c ủa phu t ử ch ỉ là Trung th ứ mà thôi vậy”-Luận ngữ) Trung và Hiếu là hai phẩm chất cơ bản mà luân lý chính trị Nho giáo đòi hỏi nghiêm khắc nhất. Đó là tiêu chuẩn chủ yếu dùng đ ể đánh giá con người. Ở Việt Nam, đạo quân thần cũng đặc biệt được coi trọng, tất nhiên nội dung chữ Trung, chữ Hiếu không hoàn toàn giống như cách hiểu của nho giáo Trung Quốc. Nguyễn Công Trứ nói thẳng: Không Quân-Thần-Phụ-Tử đách ra người”. Còn đến như Cao Bá Quát cũng không thoát khỏi đạo quân thần: Tương truyền có lần Cao Bá Quát đến thăm Nguyễn Văn Siêu, th ấy nhà b ạn có treo câu đối: “Thần khả báo quân ân, tử đương thừa phụ đạo” . Ông bảo nên s ửa lại. Siêu cười bảo tại sao. Quát đáp: “Sao lại để thần tử lên trên quân phụ” và sửa lại: “Quân ân thần khả bảo, phụ đạo tử đương thừa” Những nhà nho yêu nước, tiến bộ tuy cũng dùng đến ch ữ Trung, chữ Hiếu… nhưng nội dung ý nghĩa được cải biến nhiều như Nguy ễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Đình Chiểu… đã hiểu và v ận d ụng chữ Trung, chữ Hiếu một cách sáng tạo, phù hợp với yếu cầu và truy ền thống văn hóa, lịch sử Việt Nam, có ý nghĩa tiến bộ h ơn h ẳn nội dung v ốn có của chữ đó. Thuyết ngũ luân của Nho giáo là một học thuyết luân lý-chính trị ph ản ánh tập trung nhất quan điểm lập trường của giai cấp thống trị phong kiến. Trừ luân thứ năm, còn bốn luân đều đứng trên lập trường c ủa giai c ấp th ống trị, bênh vực cho bề trên, trọng nam kinh nữ, bất công áp ch ế, n ặng t ư t ưởng tôn ti thứ bậc. Nhiều quy định khắt khe, ràng buộc con người quá đáng, làm cho con người không được tự do để suy nghĩ, lựa ch ọn trong hành vi, ph ải hành động theo những quy định có sẵn từ thời nào, trong đó phi lý nhất phải kể đến luân thứ 3: Phu-Phụ. Có điều cần lưu ý là sức mạnh nào điều khiển người ta tuân theo hàng ngàn quy định bất công đó. Nhà nho chủ yếu không 18
  19. phải dựa vào sức mạnh của luật pháp cũng không phải sức mạnh của kinh tế, của lòng tin tôn giáo mà chủ yếu là sức mạnh c ủa công lu ận d ư lu ận xã h ội. Khi xã hội đã tạo được công luận dư luận và tập quán, t ập t ục thì con ng ười hậu thế rất khó đấu tranh để được thoát khỏi những quy định đó. Xét v ề m ặt hình thức: thì các luân đều có yêu cầu đối với c ả hai phía nh ưng th ực ch ất là ưu tiên cho một phía và kiềm chế ràng buộc phía kia. Đối với Vua-Cha- Chồng-Anh nhà nho đã nêu ra các yêu cầu lỏng lẽo không xác đ ịnh: Nhân-T ừ- Nghĩa-Lương còn với bầy tôi vợ-con-em thì nhà Nho đưa ra những yêu c ầu chặt chẽ, cụ thể: trung-hiếu-tiết-đễ. Nội dung của các luân được kinh sách ghi thành các quy định gọn như những công thức, những quy trình ứng xữ, những quy định ấy lại được nghi thức hóa gọi là lễ, cái lễ được nhà nước đem ra giáo hóa và thực hành cho mọi người gọi là lễ giáo rồi cuối cùng kết h ợp với chính tr ị t ạo thành cái mà nhà Nho gọi là nền chính-giáo. Học thuyết ngũ luân vô cùng ph ản động, bất công, nhưng do tính duy lý của hệ tư tưởng Nho học từng quy định cụ th ể nói chung không quá phi lý, nó phản ánh phần nào nhu c ầu th ực t ế c ủa xã h ội, có cái lý tồn tại của nó, do đó người ta có cảm giác có thể sống được trong cái lưới luân lý khắc nghiệt của ngũ luân. Đó cũng là m ột trong nh ững lý do làm cho học thuyết ngũ luân tồn tại lâu dài đến như thế. Cả năm luân chủ yếu nói về quan hệ cá nhân và các nhân mà ít nói đ ến quan hệ giữa cá thể với cộng đồng nhất là với tổ quốc. Chỉ có luân th ứ 5 là bình đẳng có nhiều điều kiện tốt đẹp. b2. Ngũ thường: Nhân-Nghĩa-Lễ-Trí-Tín Ngũ đức là năm cái đức vốn có, hằng thường của con người. Ngũ thường là năm cái tính cần thiết của con người, nó không những là tính cách riêng của mỗi người mà còn là tính chung của Trời-Đất phúc cho người ta. Theo Mệnh Tử, người ta sinh ra ai cũng có mầm mống của nhân-nghĩa-l ễ-trí, ông gọi là tứ đoạn biết thương xót là đầu mỗi nhân, biết phân bi ệt tốt x ấu là đầu mối nghĩa, biết sỉ nhục là đầu mối của lễ, biết đúng sai là đầu mối của trí. Cái mà trời phú cho con người ta gọi là tính. Tính ấy thi ện, tính bi ểu hi ện ra ở mỗi người cụ thể và trong những việc làm cụ thể thì gọi là tâm. Nói theo chữ tính là “đạo”. Trau dồi cho “đạo” gọi là “giáo” (Mạnh Tử chủ trương tính “thiện”; Tuân Tử thì có chủ trương tính “ác”. Tính là thiện, nhưng trong xã hội không phải ai cũng thiện. Sở dĩ như vậy là do ng ười ta t ập nhi ễm nh ững cái ác trong cuộc sống, cái tâm tính của người ta bị vật dục che lấp, bởi vậy 19
  20. cái đạo học của Nho gia không ngoài việc “tìm lại cái tâm đã mất” (M ạnh Tử ) hoặc “làm sáng cái đức sáng” (Đại hoc) Giữ được cái tâm đó là thánh hiền, để mất cái tâm ấy là đ ạo t ặc. Sách Trung Dung nói rằng, Khổng Tử dạy năm điều gọi là đạt đạo (ngũ luân) và dạy 3 điều gọi là đạt đức: Nhân-Trí-Dũng. Mạnh Tử nêu ra đức: Nhân-Nghĩa- Lễ-Trí. Đến đời hán thì Đổng Trọng Thư thêm vào ch ữ tín thành ra ngũ thường: “Yêu là nhân, phải là nghĩa, hợp lý là lễ, thông đ ạt là trí, tri th ủ là tín, cả 5 đức đều ở trong tín, theo tín là thánh, trở về với tín là hi ền”. Hàn Dũ m ột nhà Nho đời Đường định nghĩa chung về đức: “có đủ nơi mình không mong chờ ở ngoài gọi là đức” Ngũ thường bao gồm những nội dung sau đây: + Nhân: Khổng Tử là người đầu tiên xây dựng khái niệm Nhân, ông đ ề cao đức Nhân, bản thể hóa đạo Nhân, coi đó là đạo của Trời-Đ ất. Nhân đ ứng đầu các đức khác. Nếu không có Nhân thì Nghĩa-L ễ-Trí… ch ỉ là hình th ức âm nhạc, văn thơ… cũng không có giá trị gì. Con người mất đạo Nhân thì không còn là con người. Nhân là viên đá tảng của Khổng Nho. Các nhà Nho hậu thế căn bản vào quan ni ệm ấy, ch ỉ có thay đổi, thêm bớt đôi điều chi tiết. (Mạnh Tử ghép nghĩa với nhân và có nhân nghĩa…) Nhân là gì, thì chính Khổng Tử cũng ch ưa từng định nghĩa rõ ràng. Sách luận ngữ trên 100 lần nói đến chữ Nhân, nội dung đại thể như sau:-ái nhân- khắc kỷ phục lễ-trung thứ-quý sinh… Nhân là bản chất, là tâm hồn của con người. Đạo Nhân rất g ần gũi, r ất phổ biến, nhưng cũng rất cao xa, ít ai đạt được. Nhan Uyên, một học trò xu ất sắc nhất của Khổng Tử, mới “Có thể giữ được đức Nhân trong ba tháng liền” (Luận ngữ) kẻ khác chỉ vài ba ngày thôi. Nguyễn Đức Đạt, trong Nam Sơn tùng thoại, có cách giải thích dễ hiểu: “Hỏi: Làm ơn cho người có phải là nhân không? Đáp: Nhân ví như sự yên vui, ơn ví như nụ cười, tâm thực vui thì c ười hay không cười vẫn là vui, người quân tử đã Nhân thì làm ơn hay không làm ơn vẫn là kẻ nhân. Kẻ bất nhân thì không cứ gì phải giết người gieo vạ cho người mới là bất nhân. Chỉ việc làm ơn mà không hiểu nguyên do việc làm ơn thì không thể nói chuyện làm ơn được” 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2