intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Lý luận tuần hoàn & chu chuyển của tư bản, vận dụng vào các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Chia sẻ: Lâm Tài Đức | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:23

254
lượt xem
59
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận: Lý luận tuần hoàn & chu chuyển của tư bản, vận dụng vào các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trình bày lý luận về vấn đề tuần hoàn và chu chuyển của tư bản; vận dụng lý luận vào các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; một số đề xuất để các doanh nghiệp khấu hao nhanh tài sản cố định.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Lý luận tuần hoàn & chu chuyển của tư bản, vận dụng vào các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

  1.   LỜI MỞ ĐẦU  Là một nước đang phát triển trong thời kỳ  quá độ  đi lên chủ  nghĩa xã hội, Việt  Nam luôn đứng trước những cơ hội và thách thức của thời đại đòi hỏi Đảng và nhà nước   ta phải có đường lối, chủ  trương và chính sách đúng đắn, phù hợp với hoàn cảnh thực  tiễn. Phát triển và hội nhập là một trong những xu thế lớn hiện nay. Đối với Việt Nam,   nhất là trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa nền kinh tế  đi lên  theo định hướng XHCN, hội nhập cùng nền kinh tế  thị  trường thế  giới là nhiệm vụ  rất  quan trọng. Đó không chỉ là thời cơ, điều kiện cần thiết để sản phẩm hàng hóa của Việt   Nam được có mặt nhiều hơn trên thị trường quốc tế mà còn là thử thách lớn về nhiều mặt   đối với các doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam. Năm 1986, Đại hội ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VI quyết định chuyển   nền kinh tế  nước ta sang nền kinh tế thị  trường có sự  quản lý của nhà nước theo định  hướng XHCN. Đó là dấu móc lịch sử vô cùng quan trọng đối với đất nước, và cũng kể từ  đây nền kinh tế của ta đã vấp phải những khó khăn nhất định, bởi vì để  xây dựng thành   công một nền kinh tế mới, nền kinh tế thị trường có đinh hướng XHCN, chúng ta cần một   khối lượng vốn đầu tư  khổng lồ  từ  nhiều nguồn khác nhau. Không những thế  chúng ta   còn gặp phải nhiều khó khăn khác trong việc sản xuất, lưu thông, tìm kiếm thị  trường và  đối tác,… Hơn bao giờ hết chúng ta cần có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, cần có một  cơ sở lý luận làm kim chỉ nam dẫn đường. Lý luận đấy không thể nào khác hơn đó chính   là chủ  nghĩa Mác – Lênin. Tiêu biểu hơn đó chính là đề  tài nghiên cứu mà em sẽ  đưa ra   trong bài tiểu luận này: “Lý luận tuần hoàn & chu chuyển của tư bản, vận dụng vào các   doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của Việt Nam trong nền kinh tế  thị  trường  định   hướng XHCN”.
  2. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh Với kiến thức bản thân còn hạn chế, em tự thấy mình còn nhiều thiếu xót, em rất   mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cho bài viết của em được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn! SV: Lâm Tài Đức Trang 2
  3. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh   NỘI DUNG  I.  Lý luận về vấn đề tuần hoàn và chu chuyển của tư bản  Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản xuất và  quá trình lưu thông. Lưu thông của tư  bản, theo nghĩa rộng, là sự  vận động của tư  bản,   nhờ  đó mà tư  bản lớn lên và thu được giá trị  thặng dư, cũng tức là sự  tuần hoàn và chu  chuyển của tư bản. 1.  Tuần hoàn của tư bản  Mọi tư bản công nghiệp (ngành sản xuất vật chất) trong quá trình vận động để đạt   được mục đích (m) đều phải theo công thức: SLĐ T H  ... SX ... H'   T' (T    T) TLSX a) Ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản Mọi tư bản công nghiệp đều vận động qua 3 giai đoạn: T   TLSX + SLĐ SX H’   T’ LT = mua Tạo ra H’ LT = bán Trong 3 giai đoạn vận động này, tư bản tồn tại dưới 3 hình thái, thực hiện 3 chức  năng và quay trở về với hình thái ban đầu (T) có kèm theo m.  Giai đoạn thứ nhất (giai đoạn lưu thông):  SLĐ T H TLSX ­ Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ (T).  ­ Tiền được sử dụng để mua tư liệu sản xuất (TLSX) và sức lao động (SLĐ). Hàng   hoá tư liệu sản xuất và hàng hoá sức lao động phải phù hợp với nhau về số lượng và chất  lượng.  Tư bản tiền tệ chuyển hóa thành tư bản sản xuất.  Giai đoạn thứ hai (giai đoạn sản xuất):  SLĐ H  ... SX ... H' TLSX ­ Trong giai đoạn này tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản sản xuất (TBSX), có chức  năng thực hiện sự  kết hợp hai yếu tố  tư  liệu sản xuất và sức lao động để  sản xuất ra   hàng hoá mà trong giá trị của nó có giá trị thặng dư. ­ Trong các giai đoạn tuần hoàn của tư  bản thì giai đoạn sản xuất có ý nghĩa quyết  SV: Lâm Tài Đức Trang 2
  4. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh định nhất, vì nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.  Tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư bản hàng hóa. SV: Lâm Tài Đức Trang 3
  5. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh  Giai đoạn thứ ba (giai đoạn lưu thông):  H’ – T’ ­ Trong giai đoạn ba tư bản tồn tại dưới hình thái tư bản hàn g hóa, chức năng là thực  hiện giá trị của khối lượng hàng hóa đã sản xuất ra trong đó đã bao hàm một lượng giá trị  thặng dư . ­ Nhà tư bản xuất hiện trên thị trường để bán hàng, nhà tư  bản bán hàng đúng giá trị  thu được T’ > T vì trong H’đã có giá trị thặng dư.   Kết thúc giai đoạn ba tư bản hàng hoá chuyển hóa thành tư bản tiền tệ (lớn hơn   tư bản ứng trước). b) Ba hình thức tuần hoàn của tư bản Hình thức tuần hoàn của tư bản là hình thức kể từ khi tư bản được ứng ra đến khi   quay trở lại cũng dưới hình thức đó có ba hình thức tuần hoàn: tư bản tiền tệ, tư bản sản  xuất, tư bản hàng hoá. ­ Tư bản tiền tệ: bắt đầu là tiền, kết thúc cũng là tiền còn tư bản hàng hoá và tư bản  sản xuất là trung gian. ­ Tư  bản sản xuất: H’ – T’ – H quá trình sản xuất diễn ra, bắt đầu là sản xuất, kết  thúc là sản xuất còn tư bản hàng hoá và tư bản tiền tệ chỉ là trung gian. ­ Tư bản hàng hoá: H’ – T’ – H – SX – H” bắt đầu là hàng hoá kết thúc cũng là hàng  hoá còn tư bản tiền tệ và tư bản sản xuất là trung gian. Sự  vận động qua ba giai đoạn nói trên là sự  vận động có tính tuần hoàn:  tư  bản  ứng ra dưới hình thái tiền và rồi đến khi quay trở về cũng dưới hình thái tiền có kèm theo   giá trị  thặng dư. Quá trình đó tiếp tục được lặp đi, lặp lại không ngừng gọi là sự  vận  động tuần hoàn của tư bản.   ậy,  tu  V   ần hoàn của tư  bản là sự vận động liên tục của tư  bản trải qua 3 giai    đoạn, lần lượt mang 3 hình thái khác nhau, thực hiện 3 chức năng khác nhau để  rồi lại   quay trở về hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư. Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Giai đoạn 3 (MUA) (SX) (BÁN) Tuần hoàn của tư  bản c) Ý nghĩa của tuần hoàn tư bản ­ Nghiên cứu sự  biến hoá từ  tư  bản tiền tệ  thành tư  bản sản xuất rồi đến tư  bản   hàng hoá, mà sự vận động của chúng như một chuỗi những biến hoá hình thái của tư bản   cho thấy tư  bản không phải là vật  ở  trạng thái tĩnh, mà nó lấy vật làm hình thái tồn tại  SV: Lâm Tài Đức Trang 3
  6. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh trong quá trình vận động. ­ Thực tiễn sản xuất và lưu thông cho thấy không phải lúc nào các  giai đoạn và các  hình thái tư bản trong quá trình tuần hoàn đều ăn khớp với nhau mà không có sự ách tắc và   gián đoạn. Mỗi sự  ách tắc, gián đoạn  ở  một giai đoạn nào đó đều gây rối loạn hay đình   trệ  cho sự tuần hoàn của tư bản. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đ ến thời gian tư bản nằm  lại  ở  mỗi giai đoạn. Do vậy, thu hẹp hay kéo dài các thời gian đó đều  ảnh hưởng đến   hiệu quả hoạt động của tư bản. ­ Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành một cách bình thường khi hai điều kiện sau đây   đựơc thoả mãn:  Các giai đoạn của chúng diễn ra liên tục Các hình thái tư bản cùng tồn tại và được chuyển hoá một cách đều đặn ­ Tuần hoàn của tư  bản qua ba giai đoạn, trong mỗi giai đoạn tư  bản tồn tại dưới   hình thái và thực hiện chức năng tương  ứng điều đó chứa đựng khả  năng tách rời. Khả  năng trên biến thành hiện thực khi tái sản xuất tư bản phát triển thì những chức năng trên  được chuyên môn hoá tách ra thành những ngành độc lập, những thương nghiệp,  công  nghiệp, ngân hàng. 2.  Chu chuyển của tư bản  Sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó với tư  cách là một quá trình định kỳ  đổi mới   và thường xuyên lặp đi lặp lại, thì gọi là chu chuyển của tư bản. a) Thời gian chu chuyển tư bản Thời gian chu chuyển tư bản là thời gian tính từ  khi tư  bản  ứng ra dưới một hình  thái nhất định cho đến khi thu về  cũng dưới hình thái ban đầu, có kèm theo giá trị  thặng  dư. Thời gian chu chuyển tư bản cũng là thời gian tư bản thực hiện được một vòng tuần  hoàn. Tuần hoàn tư bản bao gồm quá trình sản xuất và quá trình lưu thông, nên thời gian  chu chuyển của tư bản cũng bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông. Thời gian chu chuyển = thời gian sản xuất + thời gian lưu thông TG  TG vận chuyển THỜI  LƯU  TG bán GIAN  THÔNG TG mua CHU  CHUYỂN  TG dự trữ sản xuất TG  CỦA SX TG gián đoạn lao động TƯ BẢN TG lao động  Thời gian sản xuất:  SV: Lâm Tài Đức Trang 4
  7. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh ­ Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian  sản  xuất lại bao gồm thời gian lao động, thời gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất. ­ Thời gian sản xuất = thời gian lao động + thời gian gián đoạn lao động + thời gian  dự trữ sản xuất. ­ Thời gian lao động là thời gian người lao động tác động tác động vào đối tượng lao   động để tạo ra sản phẩm. Đây là thời kỳ hữu ích nhất, vì nó tạo ra giá trị hàng hoá. ­ Thời gian gián đoạn lao động là thời gian đối tượng lao động tồn tại dưới dạng bán  thành phẩm nằm trong lĩnh vực sản xuất, nhưng không chịu tác động trực tiếp của lao  động mà chịu sự  tác động của tự  nhiên  (Ví dụ:  thời gian để  cây lúa tự  lớn lên, rượu  ủ  men, gạch mộc hoặc gỗ phơi cho khô…). Thời kỳ này có thể xen kẽ với thời kỳ lao động  hoặc tách ra thành một thời kỳ  riêng biệt; có thể  dài ngắn khác nhau tuỳ  thuộc vào các   ngành sản xuất, các sản phẩm chế tạo và phụ thuộc vào công nghệ sản xuất. ­ Thời gian dự  trữ  sản xuất là thời gian các yếu tố  sản xuất đã được mua về, sẵn   sàng tham gia quá trình sản xuất, nhưng chưa thực sự  được sử  dụng vào quá trình sản  xuất, còn ở dạng dự trữ tạo điều kiện cho sản xuất diễn ra liên tục. Quy mô dự  trữ  phụ  thuộc vào nhiều yếu tố như: đặc điểm của các ngành, tình hình thị trường và năng lực tổ  chức, quản lý sản xuất… ­ Cả thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất đều không tạo ra giá  trị sản phẩm. Sự tồn tại hai thời kỳ này là không tránh khỏi nhưng nói chung thời gian của  chúng càng dài, hay sự chênh lệch giữa thời gian sản xuất với thời gian lao động càng lớn   thì hiệu quả  hoạt động của tư  bản càng thấp. Rút ngắn thời gian này có tác dụng quan  trọng để nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản.  Thời gian lưu thông  ­ Thời gian lưu thông là thời kỳ tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Thời gian này  bao gồm thời gian mua và thời gian bán, kể cả thời gian vận chuyển. ­ Thời gian lưu thông = thời gian mua + thời gian bán ­ Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó không sản  xuất ra hàng hóa, cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư. ­ Thời gian lưu thông dài hay ngắn phụ thuộc vào các nhân tố  sau đây: thị  trường xa  hay gần, tình hình thị trường xấu hay tốt, trình độ phát triển của vận tải và giao thông.  Thời gian chu chuyển của tư bản càng rút ngắn thì càng tạo điều kiện cho giá trị   thặng dư được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nahnh hơn. b) Tốc độ chu chuyển của tư bản ­ Thời gian chu chuyển tư  bản chịu sự   ảnh hưởng của nhiều yếu tố  nên thời gian  chu chuyển trong cung một ngành và giữa những ngành khác nhau là rất khác nhau. Để so  sánh được cần tính tốc độ chu chuyển tư bản. ­ Tốc độ chu chuyển của tư bản là số  vòng (lần) chu chuyển của tư bản trong một   năm. Ta có công thức số vòng chu chuyển của tư bản như sau: SV: Lâm Tài Đức Trang 5
  8. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh CH n ch Trong đó:  (n) là số vòng quay (hay lần) chu chuyển của tư bản (CH) là thời gian trong năm (ch) là thời gian cho 1 vòng chu chuyển của tư bản SV: Lâm Tài Đức Trang 6
  9. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh Ví dụ: Một tư  bản có thời gian 1 vòng chu chuyển là 6 tháng thì tốc độ  chu chuyển  trong năm là: 12 tháng n 2 vòng 6 tháng  Như  vậy, tốc độ  chu chuyển của tư bản tỷ lệ nghịch với  thời gian 1 vòng chu   chuyển của tư  bản. Muốn tăng tốc độ  chu chuyển của tư  bản phải giảm thời gian sản   xuất và thời gian lưu thông của nó. 3.  Tư bản cố định và tư bản lưu động  Trong quá trình sản xuất, các bộ  phận khác nhau của tư  bản chu chuyển không  giống nhau. Căn cứ vào phương thức chu chuyển của từng bộ phận, Mác chia tư bản sản  xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động. a) Tư bản cố định ­ Tư  bản cố  định là bộ  phận tư  bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị  nhà xưởng... về hiện vật tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất, nhưng giá trị  của nó bị  khấu hao từng phần và được chuyển dần vào sản phẩm mới được sản xuất ra. ­ Trong quá trình sử  dụng tư  bản cố  định bị  hao mòn dần và có hai hình thức hao   mòn: Hao mòn hữu hình: hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể  nhận thấy.  Hao mòn hữu hình do quá trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận   của tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới chỗ hỏng và phải được thay thế. Hao mòn vô hình: hao mòn thuần túy về mặt giá trị do sự phát triển của khoa học   công nghệ dẫn đến máy móc bị mất giá trong khi vẫn đang sử dụng. ­ Để  tránh hao mòn vô hình, các nhà tư  bản tìm cách kéo dại ngày lao động, tăng   cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc,… nhằm tận dụng công suất của máy móc trong  thời gian càng ngắn càng tốt.   Tăng tốc độ  chu chuyển của tư  bản cố  định là một biện pháp quan trọng để   tăng quỹ  khấu hao tài sản cố  định, làm cho lượng tư  bản sử dụng tăng lên, tránh được   thiệt hại hao mòn hữu hình do tự nhiên phá hủy và hao mòn vô hình gây ra. Nhờ đó mà có   điều kiện đổi mới thiết bị nhanh. b) Tư bản lưu động Tư bản lưu động là bộ phận tư bản tồn tại dưới  dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật  liệu  phụ,  sức lao động,… giá trị  của nó lưu thông toàn bộ  cùng với sản phẩm và được   hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi quá trình sản xuất.  Chu chuyển chung  Chu chuyển chung là con số chu chuyển tư bản của các bộ  phận cuả  tư bản. Chu   chuyển chung có liên quan đến chu chuyển cuả tổng tư bản ứng trước.Chu chuyển chung   nhanh hay chậm phụ thuộc tốc độ chu chuyển của tư bản cố định và tư bản lưu động. SV: Lâm Tài Đức Trang 6
  10. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh G CĐ G LĐ T K Trong đó: GCĐ = Giá trị tư bản cố định / Số năm sử dụng Glđ = Giá trị tư bản lưu động X Số vòng (lần) chu chuyển của nó trong năm K = Tổng tư bản ứng trước T = Tốc độ chu chuyển chung  Chu chuyển thực tế  Chu chuyển thực tế  là thời gian thực tế  để  tất cả  các bộ  phận của tư  bản được  khôi phục lại cả về hiện vật và giá trị.  Giải pháp nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản  ­ Từ công thức tốc độ chu chuyển tư bản cho thấy thời gian chu chuyển tư bản phụ  thuộc vào độ  dài hay ngắn của thời gian sản xuất và thời gian lưu thông. Nói cách khác,  phụ thuộc vào những biện pháp phát huy các nhân tố thuận lợi và hạn chế nhân tố không  thuận lợi  ảnh hưởng đến thời  gian sản xuất và thời gian lưu thông của một vòng chu  chuyển tư bản. ­ Thời gian sản xuất dài, ngắn ngoài sự phụ thuộc vào đặc điểm của từng ngành sản  xuất khác nhau, còn phụ  thuộc vào trình độ  tiến bộ  khoa học kỹ  thuật công nghệ  và sự  ứng dụng vào quá trình sản xuất, phụ  thuộc vào trình độ  tổ  chức phân công lao độn g và  trình độ dịch vụ các yếu tố gắn với đầu vào của sản xuất. Nhữn g tác động của cuộc cách  mạng khoa học công nghệ  hiện đại và của nền kinh tế  thị  trường hiện đại cho phép sử  dụng những thành tựu kỹ thuật và công nghệ sản xuất mới, cho phép tổ chức sản xuất và  dịch vụ  sản xuất một cách khoa học … từ  đó đã rút ngắn đáng kể  thời kỳ  gián đoạn lao   động, thời kỳ dự trữ sản xuất, để tăng thời kỳ lao động và do đó làm tăng hiệu quả hoạt  động của tư bản. ­ Thời   gian lưu thông  dài,  ngắn phụ  thuộc  vào nhiều  nhân tố  như:  tình hình  thị  trường (cung – cầu và giá cả…); khoảng cách từ  sản xuất đến thị  trường; trình độ  phát  triển của giao thông vận tải… Mặc dù, sự tồn tại thời gian lưu thông là tất yếu và có vai  trò rất quan trọng đối với thời gian sản xuất, song rút ngắn thời gian lưu thông sẽ làm cho   tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông giảm xuống tăng lượng tư bản đầu tư  cho sản xuất,   tạo ra nhiều giá trị và giá trị thặng dư hơn, nên làm tăng hiệu quả hoạt động của tư bản. ­ Do chịu  ảnh hưởng của nhiều nhân tố, nên thời gian chu chuyển của các tư  bản   diễn ra khác nhau. Để nâng cao hiệu quả sử dụng tư bản, các nhà tư bản thường tìm mọi   biện pháp khai thác mặt thuận lợi và hạn chế mặt không thuận lợi của những nhân tố nói  trên để nâng cao tốc độ chu chuyển tư bản nhằm tăng cường bóc lột ngày càng nhiều giá  trị thặng dư của người công nhân.  Tư  bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư  bản cố định. Việc tăng tốc độ  chu   chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng: Một mặt, tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư  SV: Lâm Tài Đức Trang 7
  11. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước Mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả  biến làm cho tỷ  suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hằng năm tăng lên. II.  Vận dụng lý luận vào các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp của Việt Nam trong    nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Trước năm 1986, nền kinh tế  nước ta phát triển theo mô hình tập trung quan liêu   bao cấp nên hầu hết các doanh nghiệp đều là của nhà nước. Sự  phát triển của các doanh  nghiệp quốc doanh rất trì trệ, lạc hậu do thiếu vốn và do thói ỷ lại vào nhà nước của các   doanh nghiệp. Chủ yếu trong thời kỳ này là các doanh nghiệp hoạt động theo sự  chỉ  đạo  của nhà nước, chưa phát huy được yếu tố nhân lực cũng như nguồn vốn của nhà nước. Từ  sau năm 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang một thời kỳ  mới.   Môi trường hoạt động của các doanh nghiệp có những biến đổi sâu sắc: nền kinh tế  nhiều thành phần, nền kinh tế khép kín trước đây đã chuyển dần sang nền kinh tế mở, các   doanh nghiệp nhà nước được tiếp cận với thị  trường mới, kỹ  thuật mới, cách quản lý  mới. Nhưng đồng thời đứng trước những thử  thách khắc nghiệt của sự  xâm nhập cạnh   tranh quyết liệt của các hàng ngoại trong cơ  chế  thị  trường. Vai trò, trách nhiêm, đường   lối quản lý của doanh nghiệp có sự  đổi mới sâu sắc, tình trạng thiếu đồng bộ  của chính   sách luật lệ quản lý đã từng bước được khắc phục. Trong điều kiện đó, hệ  thống doanh   nghiệp nước ta bước đầu được sắp xếp lại, số  lượng các doanh nghiệp nhà nước tuy  giảm so với trước nhưng những doanh nghiệp  đang hoạt động vẫn chiếm giữ  những   ngành then chốt. Nhiều doanh nghiệp đã trụ vững và đã phát huy được vai trò định hướng,   trung tâm liên kết các thành phần kinh tế. Tuy có đổi mới quan trọng, nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn những mặt  yếu kém: ­ Số  lượng doanh nghiệp nhiều nhưng phần lớn là quy mô nhỏ, bố  trí phân tán, 2/3   số doanh nghiệp có quy mô dưới 200 lao động, 4% số doanh nghiệp có quy mô trên 1000   lao động, 81,7% doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng Việt Nam. ­ Trình độ công nghệ, kỹ thuật quá lạc hậu, mức độ hoàn chỉnh đồng bộ thấp, do đó  hao phí vật chất lớn, chất lượng sản phẩm kém, sản xuất không năng suất nên không có  khả năng cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. ­ Sự đóng góp của doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước tương đối lớn nhưng chưa   tương xứng với sự đầu tư của nhà nước cho các doanh nghiệp. ­ Hệ thống quản lý các doanh nghiệp còn nhiều yếu kém. ­ Đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề trình độ chuyên môn thấp, chưa được đào tạo  căn bản hệ thống. Từ  thực tế  trên, chúng ta phải sớm đưa ra những biện pháp để  khắc phục những  tồn tại yếu kém trên. 1.  Xác định đường lối sản xuất, kinh doanh cho doanh nghiệp  SV: Lâm Tài Đức Trang 8
  12. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh ­ Như chúng ta đã biết, hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần   tương  ứng với nó là nhiều hình thức sở  hữu khác nhau. Bên cạnh các chính sách kinh tế  khuyến khích thành lập doanh nghiệp ngày một nhiều. Song việc thành công hay thất bại   lại do rất nhiều yếu tố  tác động. Nhưng nhân tố  then chốt là sự  quyết định của nhà tư  bản. ­ Ngay từ  đầu, doanh nghiệp phải xác định cho mình một hướng đi đúng đắn, thích   hợp nhất, đó là việc trả  lời  ba câu hỏi: sản xuất cải gì?, sản xuất như  thế  nào? và sản  xuất cho ai?. Chỉ khi doanh nghiệp trả lời được ba câu hỏi này một cách đầy đủ, rõ ràng,  chính xác nhất thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ được giải quyết  tốt. Như vậy có thể nói, các doanh nghiệp đã thực hiện quá trình tuần hoàn tư bản. ­ Trả  lời cho câu hỏi sản xuất cái gì doanh nghiệp cần có chiến lược phân tích nhu   cầu thị  trường xem thị  trường đang thiếu cái gì, mà nhu cầu về  mặt hàng này đang tăng   mà nó sẽ  mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho doanh nghiệp trong khả năng vốn hiện có.  Sau đó nhà tư bản sẽ bỏ vốn để mua tư liệu sản xuất như nguyên vật liệu, sức lao động,   nhà xưởng… Đây là giai đoạn vốn của doanh nghiệp từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình  thái hiện vật. Ở giai đoạn này nhà tư bản phải biết cân đối vốn để mua tư liệu sản xuất   và trả  lương cho công nhân theo tỷ  lệ  thích hợp. Nếu một trong hai nhân tố  đó không  được phân bổ  phù hợp sẽ  làm cho quá trình sản xuất không hiệu quả  ảnh hưởng tới sự  tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. ­ Dựa vào phân tích tốc độ  chu chuyển của vốn các doanh nghiệp không chỉ  lên kế  hoạch sản xuất kinh doanh mà còn phải xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn bằng   cách hình thành các quỹ như: quỹ đầu tư phát triển, quỹ khấu hao, quỹ phúc lợi. Sau một  thời gian sản xuất những quỹ này được đưa ra sử  dụng mở  rộng sản xuất, cải tiến máy  móc, nhập các dây truyền sản xuất hiện đại làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí cá  biệt, giảm giá thành sản phẩm, để tăng tính cạnh tranh trên thị trường. 2.  Nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp  ­ Đổi mới và kiện toàn bộ máy quản lý từ trên xuống dưới, chỉ số thông qua đổi mới  chúng ta mới nó giúp chúng ta làm việc tốt hơn, các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả  hơn. Thông qua đổi mới chúng ta xóa bỏ được cơ  chế  quản lý cũ, quan liêu, bao cấp chỉ  biết đến các chính sách, mệnh lệnh mà không có các biện pháp khuyến khích lao động,   khuyến khích phát triển. ­ Nâng cao năng lực của các cán bộ  quản lý. Chúng ta phải thường xuyên đào tạo,   bồi dưỡng kiến thức mới cho họ, chỉ có làm như  vậy mới đáp ứng được xu thế  của thời   đại. Một cán bộ  quản lý có năng lực, có tri thức là một điều kiện không thể  thiếu được   cho các doanh nghiệp. ­ Cần nghiên cứu chuyển các tổ chức quốc doanh sang chế độ trách   nhiệm hữu hạn,  lấy vốn pháp định làm cơ  sở  cho việc xử  lý các quan hệ  kinh tế  giữa các doanh nghiệp   cũng như giữa các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng. SV: Lâm Tài Đức Trang 9
  13. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh ­ Các doanh nghiệp cần phải có một chế  độ  quản lý tài chính công khai, có sổ  sách   ghi chép, tránh tình trạng lập các quỹ  đen chi tiêu không đúng mục đích của các cán bộ  quản lý. ­ Tránh tình trạng hai sổ sách trong công tác kế  toán, chỉ  giao sự quản lý cho các cơ  quan chuyên môn phụ trách, đảm nhiệm, các cơ quan cấp trên chỉ định hướng xem xét kế  hoạch phát triển. ­ Quản lý sản xuất cần phải thấy rõ được số lượng, khối lượng và chất lượng của  sản phẩm, tránh tình trạng sản xuất tràn lan không tiêu thụ được sản phẩm. ­ Sản xuất cần năng động, bắt kịp nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. ­ Quản lý, đầu tư nguồn vốn có hiệu quả, có mục đích tránh tình trạng đầu tư không  trọng điểm, không đem lại kết quả gây ra thất thoát ngân sách cho nhà nước. ­ Quản lý người lao động  là quản lý một thực thế sinh học chứ không phải là quản  lý một cái máy chúng ta phải có các chính sách kinh tế đề  kích thích người lao động làm  việc tốt hơn hiệu quả hơn. 3.  Tiết kiệm tư bản ứng trước  ­ Các máy móc thiết bị  sau một thời gian dài hoạt động sẽ  bị  hao mòn dần, chuyển  một phần giá trị  vào sản phẩm. Ngoài việc cải tiến máy móc, nhập thêm những dây  truyền sản xuất tiên tiến, hiện đại các doanh nghiệp phải dựa vào kinh nghiệm sản xuất   kinh doanh mà dự tính trước những công việc khấu hao tài sản cố định.  ­ Mặt khác, để  tránh hao mòn vô hình, doanh nghiệp phải hết sức tiết kiệm các chi  phí bảo quản và sửa chữa bằng các nâng cao ý thức người lao động đối với việc sử dụng  máy móc, tăng cường sử dụng hết công suất để thu hồi vốn nhanh và thu nhiều lợi nhuận  trong thời gian ngắn nhất. 4.  Đưa ra các giải pháp tăng tốc độ chu chuyển vốn  Muốn quay vòng vốn nhanh để tiếp tục một chu kỳ sản xuất mới các doanh nghiệp  phải ra sức rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông vì nó là thành phần tạo nên   thời gian chu chuyển của vốn. Các doanh nghiệp ở nước ta trong cơ chế thị trường có sự  quản lý của nhà nước thường đưa ra các giải pháp sau để rút ngắn thời gian sản xuất: ­ Áp dụng khoa học kỹ  thuật hiện đại để  tăng năng suất lao động. Bên cạnh nhập   khẩu một số dây truyền hiện đại các doanh nghiệp không nên bỏ qua những dây truyền có  khả năng sử dụng bằng cách bán lại cho những doanh nghiệp cần nó. ­ Mở rộng quan hệ để liên doanh, liên kết. Việt Nam là một trong những nước nghèo  nhất trên thế  giới. Do đó liên doanh liên kết là con đường ngắn nhất để  bắt kịp với sự  tiến bộ của thế giới. ­ Cải tiến bộ máy tổ  chức và quản lý lao động. Hiện nay một số  doanh nghiệp nhà  nước có cơ cấu tổ chức cồng kềnh, dẫn đến việc giải quyết công việc chậm chạp, chồng   chéo lên nhau, vi phạm quyền hạn và trách nhiệm của người này với người khác. Vì vậy   các doanh nghiệp cần phải tinh giản tối đa cơ  cấu hành chính. Còn đối với người lao   SV: Lâm Tài Đức Trang 10
  14. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh động trực tiếp phải bố trí thời gian làm việc hợp lý 40 giờ một tuần đồng thời trả  lương   và những phần thưởng xứng đáng cho người lao động để  họ  có thời gian và vật chất để  cải thiện đời sống, khiến họ làm việc có năng suất và hiệu quả hơn. Còn để rút ngắn thời gian lưu thông cần sử dụng các biện pháp sau: ­ Các doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, nắm bắt được tâm lý,  nhu cầu của người tiêu dùng để  từ  đó có quyết định mở  rộng hay thu hẹp sản xuất mặt  hàng của doanh nghiệp trên thị trường. ­ Thường xuyên cải tiến mặt hàng, làm phong phú các chủng loại, phù hợp với mọi   đối tượng, độ  tuổi, giới tính. Sự  đa dạng của hàng hoá đem lại lợi ích rất lớn: không   những thoả  mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng mà còn tận dụng những tư  liệu sản  xuất chưa dùng đến và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. ­ Áp dụng các hình thức thanh toán linh hoạt, xác định rõ các thị trường để phân phối   các hàng hoá sao cho thích hợp nhất. 5.  Hạn chế rủi ro trong kinh doanh  Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh diễn ra hết sức khốc liệt, nó tạo ra nhiều cơ  hội làm ăn mới song cũng chứa đầy thử  thách và đe doạ. Nắm bắt được quy luật tuần   hoàn và chu chuyển vốn, các doanh nghiêp tận dụng nhiều cơ hội để đầu tư mở rộng sản   xuất kinh doanh. 6.  Quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả  Trong mỗi doanh nghiệp việc tạo vốn và sử  dụng vốn có hiệu quả  là một tron g  những vấn đề  quan trọng nhất để  có thể  duy trì và phát triển doanh nghiệp. Ngay từ  xa   xưa các nhà kinh tế đã đánh giá cao vai trò của vốn. Mác đã trình bày vai trò của vốn qua   nhiều học thuyết trong đó có “tuần hoàn và chu chuyển”.  Dựa trên những luận điểm đó  chúng ta có thể đưa ra một số những phương pháp, biện pháp, công cụ  quản lý nhằm sử  dụng hiệu quả nhất các nguồn vốn của doanh nghiệp. a) Lựa chọn phương án kinh doanh, phương án sản phẩm Hiệu quả sử  dụng vốn trước hết, được quyết định bởi việc doanh nghiệp có khả  năng sản xuất và tiêu thụ  sản phẩm. Trong điều kiện kinh tế  thị  trường quy mô và tính   chất sản xuất, kinh doanh không phải do chủ  quan doanh nghiệp quyết định mà do thị  trường quyết định. Vì vậy giải pháp đầu tiên có ý nghĩa quyết định hiệu quả  kinh doanh  hiệu quả sử dụng vốn là phải lựa chọn đúng đắn phương án kinh doanh, phương án sản   phẩm. Các phương án đó phải được xây dựng trên cơ sở tiếp cận thị trường. Có như  vậy   sản phẩm sản xuất ra của doanh nghiệp mới có khả  năng tiêu thụ  được, quá trình sản   xuất mới tiến hành bình thường, tài sản cố định mới có khả năng phát huy hết công suất,   vốn lưu động chu chuyển đều đặn. b) Lựa chọn và sử dụng hợp lý các nguồn vốn Ngoài nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư  thì các doanh nghiệp cần huy động   SV: Lâm Tài Đức Trang 11
  15. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh những nguồn vốn bổ sung nhằm đảm bảo sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường và  mở rộng quy mô hoặc đầu tư chiều sâu. Các nguồn huy động bổ sung vốn bao gồm nhiều   nguồn: nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ sung, vay ngân hàng, vay các đối tượng khác, liên  doanh liên kết.  Đối với việc tạo vốn đầu tư  Để hình thành và thúc đẩy các nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp, chính phủ ban  hành đồng bộ, đầy đủ  cơ chế  chính sách về  huy động vốn để  tạo hành lang pháp lý cho   doanh nghiệp thực hiện việc huy động vốn. ­ Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng: nhà nước cần có chính sách lãi suất tiền  vay hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế hiện tại của các doanh nghiệp, có chính sách chú  trọng việc mở  rộng vay dài hạn để  doanh nghiệp vừa có khả  năng đầu tư  đổi mới công  nghệ, thiết bị, vừa cân đối khả năng trả nợ… Muốn vậy, nhà nước cần tiếp tục cải cách  chính sách tiền tệ tạo ra điểm gặp nhau giữa cung và cầu về  vốn, mục tiêu chính là giải  quyết ba vấn đề: chính sách lãi suất, tỷ giá và quản lý ngoại hối. ­ Đối với các tổ  chức xã hội, đoàn thể: khuyển khích các tổ  chức xã hội (bảo hiểm  xã hội và các công ty bảo hiểm thương mại…), tham gia cho doanh nghiệp vay vốn để tận  dụng nguồn vốn nhàn rỗi của các cơ  quan này, đồng thời mở  rộng thị  trường vốn trong   nước, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của doanh nghiệp. ­ Đối với quần chúng nhân dân, người lao động: xây dựng một chính sách huy động  vốn cụ thể, trong đó quy định trần lãi suất, hình thức vay trả… Nên gắn lợi ích người lao   động với hình thức huy động vốn như việc làm, thu nhập… ­ Đối với khu vực doanh nghiệp: Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng hình thức thuê mua, thuê vận hành. Đây  là những giải pháp cho doanh nghiệp thiếu vốn muốn đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị.   Song để  áp dụng hình thức này chúng ta cần hình thành những công ty thuê mua có chức   năng hỗ  trợ  doanh nghiệp trong việc lựa chọn bạn hàng, đánh giá chất lượng máy móc  thiết bị… Thực hiện việc liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp với các thành phần  kinh tế  khác để  thu hút nguồn tài chính, trình độ  quản lý, công nghệ  của những đối tác  này. Song có một vấn đề nhà nước cần quan tâm là quyền lợi của doanh nghiệp trong kinh  doanh. Cho phép những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả  vay lại những nguồn vốn viện   trợ của nước ngoài. Chính phủ  cần xúc tiến, đẩy mạnh việc ra đời thị  trường chứng khoáng để  tạo   môi trường cho việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Tiếp tục sắp xếp, củng cố khu vực doanh nghiệp, đẩy mạnh công tác cổ  phần  hoá. Việc sắp xếp khu vực doanh nghiệp thời gian qua  đã có những bước tiến đáng  mừng: thu hẹp lại khu vực DNNN, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này. SV: Lâm Tài Đức Trang 12
  16. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh  Đối với việc quản lý và sử dụng vốn trong doanh nghiệp  Để  thực hiện tốt công tác này phải có sự  kết hợp từ  hai phía: nhà nước và doanh  nghiệp, trong đó khuyến khích nâng cao tinh thần trách nhiệm của doanh nghiệp (cá nhân   và tập thể cán bộ công nhân viên). Nhà nước chỉ đóng vai trò giám sát. Về phía nhà nước: ­ Nhà nước cần sớm triển khai việc đánh giá hệ  số  tín nhiệm đối với các doanh   nghiệp để từ đó áp dụng những ưu đãi với mức độ khác nhau đối với từng doanh nghiệp:  những doanh nghiệp có hệ số tín nhiệm cao sẽ được  ưu tiên vay vốn trước, vay số lượng  lớn, trong trường hợp cần thiết có thể lấy uy tín làm yếu tố đảm bảo vay. ­ Bất kỳ một dự án vay vốn nào của doanh nghiệp đều phải được xem xét tính hiệu  quả  và khả năng trả  nợ mới được phép triển khai. Tăng cường công tác hoạt động kiểm   tra giám sát để kịp thời pháp hiện những sai phạm trong việc huy động vốn, việc lập đề  án, việc sử dụng vốn, việc tích luỹ vốn trả nợ. ­ Cơ quan quản lý doanh nghiệp cần xây dựng những nguyên tắc kiểm tra, kiểm soát  thường niên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp chế độ giám sát tình hình sử dụng và  huy động vốn tại doanh nghiệp, có ý kiến kịp thời trước sự thay đổi nguồn vốn tại doanh   nghiệp. Phải gắn quyền lợi và trách nhiệm quản lý doanh nghiệp trước sự thiếu hụt mất   mát tài sản, tiền vốn. Về phía doanh nghiệp: ­ Vấn đề  cốt lõi để  quản lý sử  dụng tốt nguồn vốn là hoạt động sản xuất   kinh  doanh của doanh nghiệp phải thực sự hiệu quả, doanh nghiệp phải làm ăn có lợi nhuận  phải có tích luỹ. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tự  đánh giá lại mình về  khả  năng cạnh  tranh, nguồn lực của doanh nghiệp. Từ  đó xây dựng kế  hoạch kinh doanh cho phù hợp.   Nghị định 59/CP ban hành ngày 3/10/1996 đã quy định cụ thể hơn cơ chế quản lý tài chính  và hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp, song cần xây dựng hoàn chỉnh các chính sách   kinh doanh, phương hướng phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực một cách cụ  thể  để  từng doanh nghiệp xác định nhiệm vụ, kế hoạch cho mình. ­ Nghị  định 59/CP là một bước tiến trong việc nâng cao hiệu quả  công tác quản lý,   sử dụng và phát triển tài sản và tiền vốn tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, quyền lợi và trách  nhiệm của ban lãnh đạo, ban kiểm soát nội bộ  doanh nghiệp cần được quy định cụ  thể  hơn: Mức độ chịu trách nhiệm, biện pháp xử lý, cấp quyết định xử lý… ­ Nhanh chóng hình thành ban kiểm soát, kiểm toán nội bộ  doanh nghiệp để  giúp  doanh nghiệp kịp thời phát hiện những sai sót về sử dụng vốn trong hoạt động. Quy định trách nhiệm của cá nhân, tập thể trong việc đi vay, cho vay, bảo lãnh vay,   sử dụng vốn vay và trả nợ. c) Tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh Đây là một vấn đề  quan trọng giúp quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành thông   suốt đều đặn, nhịp nhàng giữa các khâu dự  trữ, sản xuất, tiêu thụ. Nhằm hạn chế tối đa  tình trạng ngừng việc của máy móc, ứ đọng vật tư… gây lãng phí yếu tố sản xuất và làm  SV: Lâm Tài Đức Trang 13
  17. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh chậm tốc độ luân chuyển vốn.  Quản lý vốn cố định  Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định các doanh nghiệp cần: ­ Bố  trí dây truyền sản xuất hợp lý, khai thác hết công suất thiết kế, giảm chi phí  khấu hao trong giá thành sản phẩm. ­ Xử lý dứt điểm những tài sản cố định không cần dùng hư hỏng chờ thanh lý nhằm  thu hồi vốn cố định chưa sử dụng vào luân chuyển, bổ sung thêm vốn cho sản xuất. ­ Phân cấp quản lý tài sản cố định cho các phân xưởng, bộ phận trong nội bộ doanh   nghiệp giảm tối đa thời gian ngừng vịêc giữa ca hoặc ngừne việc để sửa chữa. ­ Doanh nghiệp phải thường xuyên quan tâm đến việc bảo toàn vốn cố  định, tránh  mất mát hư hỏng trước thời hạn khấu hao.  Quản lý vốn lưu động  Hiệu quả  sử  dụng vốn lưu động phụ  thuộc vào việc sử  dụng tiết kiệm và tăng   nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Do vậy các doanh nghiệp cần có các biện pháp  quản lý như sau: ­ Xác định đúng nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho từng kỳ  sản xuất. Nếu tính   không đúng dẫn đến tình trạng thiếu vốn sẽ khó khăn về khả năng thanh toán, sản xuất bị  ngừng trệ, hoặc thừa vốn dẫn đến lãng phí làm chậm tốc độ luân chuyển vốn. ­ Tổ  chức tốt quá trình thu mua, dự  trữ  vật tư, hạn chế tình trạng  ứ  đọng làm mất   phẩm chất vật tư, gây ứ đọng vốn lưu động. ­ Tổ  chức đa dạng các hình thức tiêu thụ  sản phẩm, mở  rộng thị  trường trong và   ngoài nước nhằm tiêu thụ sản phẩm nhanh, vươn lên làm chủ thị trường. ­ Tiết kiệm các yếu tố  chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí lưu thông nhằm góp  phần giảm chi phí sản xuất tăng lợi nhuận. d) Mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh ­ Trong điều kiện cách mạng công nghệ, việc mạnh dạn áp dụng kỹ  thuật tiến bộ  vào sản xuất kinh doanh là một trong những điều kiện quyết định lợi thế và khả năng phát   triển của doanh nghiệp. ­ Kỹ thuật tiến bộ và công nghệ hiện đại là điều kiện vật chất để doanh nghiệp sản  xuất ra những sản phẩm mới, h ợp thị  hiếu, chất lượng cao, nhờ đó doanh nghiệp có thể  tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, tăng giá bán, tăng lợi nhuận. Đồng thời nhờ áp dụng  kỹ thuật tiến bộ, doanh nghiệp có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất sản phẩm, giảm tiêu hao   nguyên vật liệu hoặc sử dụng các loại vật tư thay thế nhằm tăng tốc độ luân chuyển vốn,  tiết kiệm chi phí vật tư, hạ giá thành sản phẩm. ­ Nhìn chung TSCĐ, công nghệ sản xuất ở đa số các doanh nghiệp của nước ta hiện   nay rất lạc hậu, do vậy các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc cạnh tranh với  các sản phẩm nhập ngoại cả  về chất lượng, kiểu dáng và giá bán. Để  đáp ứng nhu cầu   thị  trường trong nước và từng bước tăng khối lượng, chủng loại sản phẩm có khả  năng  SV: Lâm Tài Đức Trang 14
  18. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh xuất khẩu, các doanh nghiệp phải mạnh dạn đầu tư  đổi mới thay thế  TSCĐ cũ, lạc hậu   bằng TSCĐ mới, hiện đại, thay đổi công nghệ  sản xuất. Sự  đầu tư  đổi mới kỹ  thuật,   công nghệ  có thể  làm cho tỷ  trọng vốn cố  định trên tổng số  vốn sản xuất – kinh doanh  tăng lên, tổng chi phí nguyên vật liệu, chi phí tiền lương công nhân sản xuất … kết quả  cuối cùng là sản xuất và tiêu thụ được nhiều sản phẩm chất lượng cao, tăng giá bán, tăng   khối lượng lợi nhuận thu được và tăng hiệu qua sử dụng vốn sản xuất kinh doanh. e) Tổ chức tốt công tác hạch toán, kế toán và phân tích hoạt động kinh tế ­ Qua số liệu, tài liệu kế toán, đặc biệt là các báo cáo kế toán tài chính doanh nghiệp  thường xuyên nắm được số vốn hiện có, cả  về mặt giá trị  và hiện vật, nguồn hình thành  và các biến động tăng, giảm vốn trong kỳ, mức độ  đảm bảo vốn lưu động, tình hình và   khả  năng thanh toán… Nhờ  đó, doanh nghiệp đề  ra các giải pháp đúng đắn để  xử  lý kịp   thời các vấn đề tài chính nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh thuận lợi theo kế hoạch   đề ra như huy động vốn bổ sung, xử lý số vốn thừa, đẩy mạnh tiến độ tiêu thụ sản phẩm,  thu hồi khoản phải thu, thanh toán các khoản nợ đến hạn trả… ­ Tuy nhiên, kế  toán là hệ thống thông tin thực hiện, các số  liệu, tài liệu kế toán tự  nó chưa thể chỉ ra những biện pháp cần thiết để tăng cường quản lý vốn. Do vậy, định kỳ  doanh nghiệp phải thực hiện phân tích hoạt động kinh tế, trong đó có phân tích tình hình  tài chính và hiệu quả  sử  dụng vốn. Thông qua tìm ra nguyên nhân để  có biện pháp khắc   phục kịp thời. III.  Một số đề xuất để các doanh nghiệp khấu hao nhanh tài sản cố định  1.  Khái niệm  ­ Khấu hao là việc định giá, tính toán, phân bổ  một cách có hệ  thống giá trị  của tài  sản do sự hao mòn tài sản sau một khoảng thời gian sử dụng. ­ Khấu hao TSCĐ là sự phân bổ dần giá trị  TSCĐ vào giá thành sản phẩm nhằm tái  sản xuất TSCĐ sau khi hết thời gian sử dụng.  Có 2 phương pháp khấu hao chủ  yếu là:  phương pháp khấu hao tuyến tính cố  định (khấu hao đường thẳng) và các phương pháp   khấu hao nhanh.  Như  vậy, hao mòn TSCĐ là một hiện tượng khách quan làm giảm giá trị  và giá   trị sử dụng của TSCĐ, còn khấu hao là một biện pháp chư  quan trong quản lý nhằm thu   hồi lại giá trị đã bị hao mòn. 2.  Một số đề xuất  a) Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản ­ Nâng cao năng suất lao động để rút ngắn thời gian lao động. ­ Áp dụng khoa học kỹ thuật để rút ngắn thời gian gián đoạn lao động. SV: Lâm Tài Đức Trang 15
  19. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh ­ Hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng dẫn đến rút ngắn thời gian chu chuyển. b) Áp dụng các phương pháp khấu hao một cách linh hoạt Vận dụng một cách linh hoạt, chủ động các phương pháp khấu hao TSCĐ. Ví dụ: Đối với 1 doanh nghiệp, trước tiên ta nên đăng ký phương pháp khấu hao theo  đường thẳng ở năm đầu. Nếu như thỏa mãn 3 điều kiện sau: ­ Doanh nghiệp khấu hao theo phương pháp khấu hao nhanh mà vẫn có lãi, hay nói  cách khác là doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. ­ Chỉ áp dụng với TSCĐ mới, chưa sử dụng. Áp dụng cho những TSCĐ trong những  ngành có tốc độ phát triển cao, dễ xảy ra hao mòn vô hình (trượt giá). ­ Mức khấu hao nhanh không được vượt quá 2 lần mức khấu hao đường thẳng.  Khi ấy thì ta mới nên khấu hao theo phương pháp khấu hao nhanh. Lưu ý các ưu, khuyết điểm của 2 phương pháp khấu hao TSCĐ: ­ Phương pháp khấu hao tuyến tính cố  định (khấu hao đường thẳng) có ưu điểm là  việc tính toán đơn giản, tổng mức khấu hao của TSCĐ được phân bổ  đều đặn trong các  năm sử  dụng TSCĐ và không gây ra sự  đột biến trong giá thành sản phẩm hàng năm,   nhưng nhược điểm là trong nhiều trường hợp không thu hồi vốn kịp thời do không tính   hết được sự hao mòn vô hình của TSCĐ. ­ Các phương pháp khấu hao nhanh: Ưu điểm của các phương pháp khấu hao nhanh: Thu hồi vốn nhanh, giảm bớt được tổn thất do hao mòn vô hình. Đây là một biện pháp “hoãn thuế” trong những năm đầu của doanh nghiệp. Nhược điểm: Có thể  gây nên sự  đột biến về  giá thành sản phẩm trong những  năm đầu do chi phí khấu hao lớn, sẽ  bất lợi trong cạnh tranh. Do vậy  đối với những  doanh nghiệp kinh doanh chưa ổn định, chưa có lãi thì không nên áp dụng các pp khấu hao  nhanh. IV.  Kết luận  Việt Nam là một quốc gia đang phát triển trên con đường mà chủ  nghĩa Mác –   Lênin đã để lại. Tuy vậy, không phải là chúng ta đi một cách dập khuôn và máy móc theo  họ mà phải kế thừa, phát huy và vận dụng một cách sáng tạo những điều đó vào tình hình   cụ thể của đất nước ta. Như chúng ta đều biết, doanh nghiệp là tế bào cơ bản của nền kinh tế quốc dân, là  nơi kết hợp một cách có hiệu quả  các nguồn lực để  tạo ra của cải cho xã hội, là nguồn   gốc tạo nên sức mạnh kinh tế. Sự giàu có của một quốc gia. Trong giai đoạn hiện nay của  nước ta việc quản lý và sử dụng vốn hiệu quả của các doanh nghiệp là một vấn đề tương   đối phức tạp. Giữa lý luận và hiện thực còn có nhiều vướng mắc mâu thuẫn chưa thực sự  giải quyết được. Vì vậy nghiên cứu học thuyết “tuần hoàn và chu chuyển tư  bản” với   điều kiện hiện có của doanh nghiệp là rất cần thiết cho mỗi doanh nghiệp để  xác định   được vị trí và chỗ đứng trên thị trường . SV: Lâm Tài Đức Trang 16
  20. Tiểu luận triết học GV: Thầy Trần Trọng Oánh Với học thuyết “tuần hoàn và chu chuyển tư bản” của Mác, ta đã có những tiền đề  và cơ  sở  lý luận cho sự  phát triển nền kinh tế  của đất nước theo con đường đúng đắn,  hợp lý nhất. Học thuyết này mang một ý nghĩa thực tiễn to lớn không chỉ ở thời điểm nó  ra đời mà còn có tác dụng ngay cả  thời điểm hiện nay.  Với lý luận này chúng ta có thể  nhìn nhận rõ hơn về vấn đề tuần hoàn và chu chuyển tư  bản cũng như  nguồn vốn trong   các doanh nghiệp. Là cơ sở cho các doanh nghiệp nhìn nhận đúng hơn vai trò của vốn để  từ đó xây dựng những phương án, giải pháp cho vấn đề sử dụng vốn trong doanh nghiệp.   Đây là nhân tố và tiền đề cho sự phát triển của mỗi quốc gia. SV: Lâm Tài Đức Trang 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
16=>1