TIỂU LUẬN: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM Ở CÔNG TY 247
lượt xem 102
download
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá về kinh tế, cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở lên quyết liệt, chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Bên cạnh đó đời sống xó hội ngày càng nâng cao, nhu cầu của con người đối với hàng hoá ngày càng tăng không ngừng về số lượng và chất lượng. Để thoả món nhu cầu của người tiêu dùng, các doanh nghiệp phải nỗ lực, cố gắng tỡm kiếm cỏc phương pháp tối ưu để sản xuất và...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: TIỂU LUẬN: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM Ở CÔNG TY 247
- TIỂU LUẬN: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN TRỊ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM Ở CÔNG TY 247
- LỜI NÓI ĐẦU Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá về kinh tế, cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở lên quyết liệt, chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Bên cạnh đó đời sống xó hội ngày càng nâng cao, nhu cầu của con người đối với hàng hoá ngày càng tăng không ngừng về số lượng và chất lượng. Để thoả món nhu cầu của người tiêu dùng, các doanh nghiệp phải nỗ lực, cố gắng tỡm kiếm cỏc phương pháp tối ưu để sản xuất và cung ứng sản phẩm có chất lượng cao với giá thành hợp lý. Đó chính là con đường chủ yếu để doanh nghiệp tồn tại và phát triển lâu dài. Chất lượng sản phẩm thực sự trở thành một nhân tố cơ bản quyết định sự thành bại trong kinh doanh của doanh nghiệp cũng như sự thành công hay tụt hậu của nền kinh tế đất nước. Đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm đối với các doanh nghiệp là yêu cầu khách quan thúc đẩy sản xuất phát triển, đóng góp vào việc nâng cao đời sống của cán bộ nhân viên và người lao động trong doanh nghiệp. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp được tự chủ trong kinh doanh, được hạch toán độc lập và tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Những doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đang cạnh tranh gay gắt để ngày càng phát triển. Sản xuất kinh doanh đó thực sự trở thành mặt trận núng bỏng. Hơn nữa, từ khi có chính sách mở cửa, sức ép của hàng ngoại nhập và của người tiêu dùng đó buộc cỏc nhà kinh doanh cũng như các nhà quản trị phải hết sức coi trọng vấn để đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, bởi chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh lợi hại. Trải qua 20 năm xây dựng và trưởng thành, ngày nay Công ty 247 đó trở thành một doanh nghiệp vững mạnh trong ngành dệt may của nước ta. Mặc dù sản phẩm của công ty đó được thị trường chấp nhận và chất lượng sản phẩm ngày càng được cải tiến
- rừ rệt, song cụng tỏc chất lượng sản phẩm của công ty vẫn cũn nhiều hạn chế. Do vậy để có thể phát triển và đứng vững được trên thị trường, vấn đề đặt ra cho công ty là cần phải tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm để chiếm lĩnh thị trường, đáp ứng những nhu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng. Xuất phát từ thực tế đó, trong thời gian thực tập tại công ty 247, với sự giúp đỡ của PGS.TS. Đồng Xuân Ninh, em đó chọn đề tài: “ Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý chất lượng sản phẩm ở công ty 247.’’ làm chuyên đề tốt nghiệp, nhằm phân tích thực trạng chất lượng sản phẩm và quản trị chất lượng sản phẩm, đồng thời đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty. Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề bao gồm ba phần: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về sản phẩm và quản trị chất lượng trong doanh nghiệp. Chương 2: Thực trạng công tác quản trị chất lượng sản phẩm ở công ty 247 hiện nay. Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị chất lượng sản phẩm ở công ty 247. Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Đồng Xuân Ninh đó giỳp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Tôi xin chân thành cám ơn toàn thể cỏn bộ cụng nhõn viờn Cụng ty 247 núi chung và Phũng Kế hoạch nói riêng đó nhiệt tỡnh giỳp đỡ tôi hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp này. Vỡ thời gian và trỡnh độ cũn hạn chế nờn chuyờn đề không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự gúp ý chỉ bảo của thầy cụ, bạn bố cũng nh ư cô chú trong Công ty 247 để em có thể đi sâu nghiên cứu và phát triển đề tài này lên thành luận văn : “ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHằM HOàN THIệN CÔNG TáC QUảN trị CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM Ở CÔNG TY 247’’.
- Chương I Những vấn đề lý luận chung về chất lượng sản phẩm và quản trị chất lượng sản phẩm trong doanh nghiệp. 1. khái niệm, đặc điểm và vai trò chất lượng sản phẩm. 1.1. Khái niệm và phân loại chất lượng sản phẩm. 1.1.1. Các quan điểm về chất lượng sản phẩm. Thuật ngữ chất lượng sản phẩm xuất hiện từ rất sớm trong hoạt động của con người, khi xã hội hình thành hoạt động trao đổi hàng hóa và tiến lên mua bán hàng hóa. Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại, của khoa học kỹ thuật mà các khái niệm và định nghĩa về chất lượng cũng thay đổi và phát triển theo. Bởi vì khái niệm chất lượng luôn phải gắn liền với một đối tượng, đối tượng đó có thể là hoạt động dịch vụ hoặc một thực thể sản phẩm. Hiện nay nói đến chất lượng sản phẩm thì có rất nhiều quan điểm. Mỗi quan niệm đều có những căn cứ khoa học, ý nghĩa thực tiễn khác nhau và có những đóng góp nhất định thúc đẩy khoa học quản trị chất lượng không ngừng phát triển, hoàn thiện. Tùy theo góc độ quan niệm, xem xét của mỗi nước trong từng thời kỳ kinh tế xã hội nhất định mà nhằm những mục tiêu khác nhau mà người ta đưa ra nhiều khái niệm về chất lượng sản phẩm. Sau đây, ta có thể nêu ra một vài khái niệm về chất lượng sản phẩm.
- Theo quan điểm triết học Mác: chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo biểu hiện giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của một sản phẩm tạo nên tính hữu ích của sản phẩm đó mà đó chính là chất lượng sản phẩm. Theo quan điểm này thì chất lượng sản phẩm chỉ xem xét thêm một thước đo duy nhất đó là thước đo giá trị sử dụng, chưa nói lên được ý nghĩa chất lượng với chi phí và sự phù hợp với nhu cầu khác nhau và khẩu vị riêng biệt của người tiêu dùng. Quan điểm của chất lượng sản phẩm theo hướng công nghệ: Chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc tính bên trong của sản phẩm có thể đo được hoặc so sánh được phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm, nó đáp ứng những yêu cầu định trước trong những điều kiện xác định về kinh tế xã hội. Theo quan điểm này chất lượng sản phẩm là những đặc tính kinh tế nội tại phản ánh giá sử dụng và chức năng của sản phẩm đáp ứng những nhu cầu định trước. Về mặt kỹ thuật, quan niệm này phản ánh đúng bản chất của sản phẩm. Tuy nhiên sản phẩm được xem xét một cách biệt lập tách rời với thị tr ường làm cho chất lượng sản phẩm không gắn với nhu cầu và sự vận động, biến đổi của nhu cầu trên thị trường. Ưu điểm của quan điểm này là dễ đánh giá mức độ chất lượng sản phẩm đạt được, nhờ đó xác định được rõ ràng những đặc tính và chỉ tiêu nào cần phải hoàn thiện. Nhược điểm cơ bản là nhìn nhận chất lượng đơn thuần về mặt kỹ thuật, dẫn đến nguy cơ làm cho chất lượng không cải tiến kịp thời, xa lánh thị trường. Trước đây, các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa nhận thức rằng: “chất lượng sản phẩm là tổng hợp những đặc tính kinh tế- kỹ thuật nội tại, phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm đó trong việc đáp ứng nhu cầu định trước cho nó trong những điều kiện xác định về kinh tế kỹ thuật”. Về cơ bản, quan điểm này phản ánh đúng bản chất của chất lượng sản phẩm, nó cho phép người ta có thể dễ dàng đánh giá mức độ chất lượng sản phẩm đạt được, nhờ đó xác định rõ ràng những đặc tính và chỉ tiêu nào cần phải hoàn thiện. Tuy nhiên sản phẩm được xem xét một cách biệt lập tách rời với thị trường làm cho chất lượng sản phẩm không gắn với nhu cầu và sự vận động, biến đổi của nhu cầu trên thị trường, với hiệu quả kinh tế và điều kiện cụ thể của
- từng doanh nghiệp. Khiếm khuyết này xuất phát từ tư tưởng của các nước XHCN trước đây là sản xuất và tiêu thụ theo kế hoạch. Điều đó dẫn đến tình trạng sản phẩm sản xuất ra không đủ để đáp ứng nhu cầu thị trường nên cho dù chất lượng không tốt nhưng sản phẩm vẫn tiêu thụ được. Hơn nữa, trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung nền kinh tế phát triển khép kín nên không tạo ra sự so sánh hay cạnh tranh về chất lượng sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường khi nhu cầu thị trường được coi là xuất phát điểm của mọi quá trình sản xuất kinh doanh. Tôn chỉ hoạt động của mọi doanh nghiệp là “sản xuất những gì mà người tiêu dùng cần chứ không sản xuất những gì mà ta có” chất lượng sản phẩm cần phải được nhìn nhận một cách linh hoạt gắn bó chặt chẽ với nhu cầu của khách hang trên thị trường. Phần lớn các chuyên gia về chất lượng trong nền kinh tế thị trường đều coi chất lượng sản phẩm là sự phù hợp với nhu cầu hay mục đích sử dụng của khách hàng. Các đặc điểm kinh tế kỹ thuật phản ánh chất lượng sản phẩm khi chúng thỏa mãn được những đòi hỏi của khách hàng. Chỉ có những đặc tính đáp ứng được nhu cầu của khách hàng mới là chất lượng sản phẩm. Điều này có nghĩa là chất lượng sản phẩm phải gắn liền với nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường. Những quan điểm này đã tạo nên lý thuyết “chất lượng sản phẩm theo hướng khách hàng”. Lý thuyết này cho rằng: “chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào đánh giá của người tiêu dùng đối với chính sản phẩm đó. Vì vậy tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá chất lượng sản phẩm là khả năng thỏa mãn những đòi hỏi yêu cầu của người tiêu dùng. Cách tiếp cận này đã dựa trên cơ sở giả định người tiêu dùng có ý chí, vì vậy mọi cố gắng được tập trung vào nghiên cứu, tìm hiểu nhu cầu khách hàng và luôn hướng tới cải tiến chất lượng liên tục để thỏa mãn nhu cầu khách hàng. Đây là một quan niệm rất đặc trưng của nền kinh tế thị trường và rất phổ biến hiện nay trong giới kinh doanh hiện đại. Theo quan điểm của tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Âu (EOQC) cho rằng: chất lượng sản phẩm là sự phù hợp của sản phẩm với yêu cầu của người tiêu dùng.ở đây người ta dựa vào mức đáp ứng nhu cầu để đánh giá chất lượng sản phẩm chứ không
- chú ý đến các thuộc tính sản phẩm. Từ đó có thể tác động đến các thuộc tính làm tăng chất lượng sản phẩm. Như vậy có rất nhiêù quan điểm về chất lượng sản phẩm khác nhau và ở mỗi quan điểm khái quát hóa về chất lượng sản phẩm trên những góc độ khác nhau và phù hợp với từng góc độ nghiên cứu. Để phát huy mặt tích cực và khắc phục những hạn chế của các quan niệm trên tổ chức tiêu chuẩn chất lượng quốc tế ISO- International Organization for Standardization đưa ra khái niệm: Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng của nó, thể hiện được sự thỏa mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn” – Giáo trình “Quản trị kinh doanh tổng hợp trong các doanh nghiệp”, NXB Khoa học kỹ thuật, 1997. Các chỉ tiêu này không tồn tại độc lập, tách rời mà còn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vai trò ý nghĩa của từng chỉ tiêu rất khác nhau đối với những sản phẩm khác nhau. Mỗi loại sản phẩm cụ thể sẽ có những chỉ tiêu mang tính trội và quan trọng hơn những chỉ tiêu khác. Mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn và quyết định những chỉ tiêu quan trọng nhất phù hợp với điều kiện sản xuất của doanh nghiệp để làm ra được những sản phẩm mang sắc thái riêng biệt độc đáo khác với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Đây có thể coi là quan niệm hiện đại nhất về chất lượng sản phẩm và được đa số chấp nhận một cách phổ biến trên thế giới. Chất lượng sản phẩm là tập trung những thuộc tính nhằm thỏa mãn nhu cầu phù hợp với công dụng của nó nhưng không phải là tất cả những thuộc tính của sản phẩm mà bao gồm những thuộc tính làm cho sản phẩm có khả năng thỏa mãn những nhu cầu nhất định, phù hợp với công dụng của nó.Tập hợp các thuộc tính của sản phẩm trong chất lượng sản phẩm không phải là phép cộng đơn giản mà trong đó các thuộc tính có tác động tương hỗ với nhau. Sự thay đổi thành phần cấu tạo và mối quan hệ trong tập hợp các thuộc tính sẽ tạo ra các chất lượng khác nhau. Chất lượng sản phẩm là một chỉ tiêu động nghĩa là khi trình độ kỹ thuật thay đổi khi tay nghề công nhân được nâng cao, khi những nhu cầu của thị trường cũng cao hơn thì chỉ tiêu chất lượng cũng được công nghiệp nâng lên. Cơ chế thị trường đòi hỏi
- các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi đổi mới sản phẩm nâng cao chất lượng để tồn tại và phát triển. Đó là động lực thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế phát triển. 1.1.2. Phân loại chất lượng sản phẩm Tùy từng góc độ dể xem xét , có thể có nhiều cách phân loại chất lượng sản phẩm khác nhau. Nhưng hiện nay chất lượng sản phẩm thường được phân loại như sau: - Chất lượng thiết kế: là giá trị thể hiện bằng các tiêu chuẩn chất lượng được phác thảo bằng các văn bản, bản vẽ. - Chất lượng tiêu chuẩn: là chất lượng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu kỹ thuật của quốc gia, quốc tế địa phương hoặc ngành. - Chất lượng thị trường : là chất lượng bảo đảm thỏa mãn những nhu cầu nhất định mong đợi của người tiêu dùng . - Chất lượng thành phần: là chất lượng bảo đảm thỏa mãn những nhu cầu mong đợi của một hoặc một số nhóm người nhất định. - Chất lượng phù hợp: là chất lượng phù hợp với ý thích sở trường, và tâm lý của người tiêu dùng. - Chất lượng tối ưu: là giá trị các thuộc tính của sản phẩm hàng hóa phù hợp với nhu cầu xã hội nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất. 1.2. Đặc điểm của chất lượng sản phẩm . Chất lượng sản phẩm là một phạm trù tổng hợp về kinh tế xã hội và công nghệ, chất lượng sản phẩm luôn gắn bó chặt chẽ với những mong đợi của khách hàng và những xu hướng vận động của những mong đợi đó trên thị trường. Bởi vậy, chất lượng sản phẩm là một phạm trù có ý nghĩa tương đối, không phải là bất biến mà thường xuyên thay đổi theo thời gian và không gian. Chất lượng sản phẩm có thể được coi là tốt trong một thời điểm nhất định tại một thị trường nhất định nhưng có thể sẽ không phù hợp trong giai đoạn khác hoặc tại một thị trường khác.
- Mỗi sản phẩm được đặc trưng bằng các tính chất đặc điểm riêng biệt nội tại của bản thân sản phẩm. Những đặc tính đó phản ánh tính khách quan của bản thân sản phẩm thể hiện trong quả trình hình thành và sử dụng sản phẩm.Những đặc tính khách quan này phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm. Mỗi tính chất được biểu thị bằng các chỉ tiêu lý hóa nhất định có thể đo lường đánh giá được. Vì vậy nói đến chất lượng phải thông qua hệ thống chỉ tiêu tiêu chuẩn cụ thể. Đặc điểm này khẳng định những sai lầm cho rằng chất lượng sản phẩm là các chỉ tiêu không thể đo lường đánh giá được. Nói đến chất lượng sản phẩm là phải xem xét sản phẩm đó thỏa mãn đến mức độ nào nhu cầu của người tiêu dùng, mức độ thỏa mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thiết kế và những tiêu chuẩn được đặt ra cho mỗi sản phẩm. ở các nước tư bản qua phân tích thực tế chất lượng sản phẩm trong nhiều năm qua người ta đi đến kết luận rằng chất lượng sản phẩm tốt hay xấu thì 75% phụ thuộc vào giải pháp kinh tế 20% phụ thuộc vào công tác kiểm tra kiểm soát và chỉ có 5% phụ thuộc vào kết quả nghiệm thu cuối cùng . Chất lượng sản phẩm cũng mang tính dân tộc thể hiện ở truyền thống tiêu dùng. Mỗi dân tộc mỗi quốc gia mỗi vùng đều có thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Mỗi sản phẩm có thể được coi là tốt ở nơi này nhưng lại là không tốt không phù hợp tại nơi khác. Trong kinh doanh không thể có một mức như nhau cho tất cả các vùng mà cần căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để đề ra phương án chất lượng cho phù hợp. Chất lượng chính là sự phù hợp về mọi mặt với yêu cầu của khác hàng . Khi nói đến chất lượng sản phẩm cần phân biệt rõ hai loại đặc tính chủ quan và khách quan của chất lượng: Đặc tính khách quan của chất lượng sản phẩm được thể hiện trong việc tuân thủ thiết kế sản phẩm . Sản phẩm được sản xuất ra mà có những đặc tính kinh tế kỹ thuật càng gắn liền với tiêu chuẩn thiết kế thì chất lượng sản phẩm càng cao. Chất lượng sản phẩm được phản ánh thông qua tỷ lệ phế phẩm và sản phẩm hỏng qua việc loại bỏ sản phẩm không đạt yêu cầu thiết kế. Loại chất lượng này phụ thuộc chặt chẽ vào tính chất
- đặc điểm và trình độ công nghệ, trình độ tổ chức quản lý sản xuất của các doanh nghiệp dó đó ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh về giá cả của sản phẩm . Đặc tính chất lượng sản phẩm chủ quan hay còn gọi là chất lượng trong sự phù hợp phụ thuộc vào mức độ phù hợp của sản phẩm so với yêu cầu và mong muốn của khách hàng. Mức độ phù hợp càng cao thì chất lượng sản phẩm càng cao. Loại chất lượng này phụ thuộc vào mong muốn và sự đánh giá chủ quan của người tiêu dùng và nó tác động mạnh mẽ đến khả năng tiêu thụ của sản phẩm . 1.3. Vai trò của chất lượng trong sản xuất kinh doanh . Hiện nay cơ chế thị truờng đã tạo ra nhiều động lực mạnh mẽ nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng .Tuy nhiên qua sự chi phối của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy luật cạnh tranh, cơ chế kinh tế này cũng đặt ra những thách thức khó khăn mới đối với các doanh nghiệp . Nền kinh tế thị trường cho phép các doanh nghiệp tự do cạnh tranh với nhau trên mọi phương diện nhờ vậy mà người tiêu dùng được tự do lựa chọn các sản phẩm theo yêu cầu sở thích và khả năng của họ do đó doanh nghiệp nào thu hút được khách hàng sử dụng sản phẩm của mình nhiều nhất thì doanh nghiệp đó sẽ tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Chính điều này đã buộc các doanh nghiệp này phải tìm mọi cách để phục vụ khách hàng tốt nhất. Đối với mọi doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp sản xuất nói riêng chất lượng sản phẩm luôn là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định khả năng cạnh tranh trên thị truờng của họ. Chất lượng sản phẩm là cơ sở các doanh nghiệp thực hiện chiến lược Marketing, mở rộng thị trường, tạo uy tín và danh tiếng cho sản phẩm của mình, khẳng định vị trí của sản phẩm trên thị trường. Từ đó, người tiêu dùng sẽ ưa thích và quyết định sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp, đó chính là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Sự thành công của doanh nghiệp không chỉ phụ thuọc vào năng lực sản xuất cao, khả năng tiêu thụ lớn, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào việc doanh nghiệp có thực hiện
- tốt việc tiết kiệm nguyên vật liệu, thiết bị và lao động trong quá trình hoạt động sản xuất. Các doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện tốt tiết kiệm bằng cách liên tục nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Với mục tiêu “làm đúng ngay từ đầu”, doanh nghiệp sẽ hạn chế được nhiều khoản chi phí không cần thiết mà họ phải chi ra cho những phế phẩm. Việc làm này không chỉ đem lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp mà còn tác động tích cực đến nền kinh tế bằng việc tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, giảm bớt những vấn đề về ô nhiễm môi trường. Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tìm tòi, nghiên cứu các tiến bộ khoa học – kỹ thuật và ứng dụng những tiến bộ mới này vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp có thể tiến hành đầu tư đổi mới công nghệ nhằm làm giảm lao động sống, tiết kiệm nguyên vật liệu và nâng cao năng lực sản xuất. Do vậy doanh nghiệp có thể làm giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, từ đó giúp cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh là tăng mức lợi nhuận của mình. Đồng thời cũng là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường. Khi doanh nghiệp đạt được mức lợi nhuận cao, họ sẽ có những điều kiện tốt có thể đảm bảo việc làm ổn định và nâng cao thu nhập cho người lao động có thể đóng góp hết sức mình cho công việc, cho doanh nghiệp - Chất lượng làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và thể hiện sức mạnh cạnh tranh của doanh nghiệp . - Chất lượng nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, nhờ đó mà uy tín của doanh nghiệp cũng được đảm bảo. Đó là cơ sở quan trọng để doanh nghiệp phát triển một cách bền vững và lâu dài. - Nâng cao chất lượng sản phẩm có thể giúp cho người tiêu dùng tiết kiệm được thời gian sức lực trong việc tiêu dùng sản phẩm. Đây là một giải pháp quan trọng thống nhất lợi ích giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất . - Nâng cao chất lượng là cơ sở để tăng năng suất và khẳng dịnh vị trí của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế . Trong môi trường phát triển kinh tế hội nhập ngày nay, cạnh tranh trở thành một yếu tố mang tính quốc tế đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi
- doanh nghiệp. Theo M. E. Porter( Mỹ) thì khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp được thể hiện thông qua hai chiến lược cơ bản là phân biệt hóa sản phẩm và chi phí thấp. Chất lượng sản phẩm trở thành một trong những chiến lược quan trọng nhất làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Xu thế toàn cầu hóa, mở ra thị trường rộng lớn hơn nhưng cũng làm tăng thêm cung trên thị trường. Người tiêu dùng có quyền lưạ chọn nhà sản xuất, cung ứng một cách rộng rãi hơn. Yêu cầu về chất lượng của thị trường nước ngoài rất khắt khe, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài rất lớn, chất lượng sản phẩm cao, chi phí sản xuất hợp lý. Tình hình đó dặt ra những thách thức to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam việc tham gia thị trường thế giới. Chất lượng sản phẩm sẽ là yếu tố đầu tiên quan trọng nhất cho sự tham gia của sản phẩm Việt Nam vào thị trường quốc tế và nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta . 2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm. 2.1. Các chỉ tiêu thuộc tính chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm được phản ánh thông qua một hệ thống các chỉ tiêu cụ thể. Những chỉ tiêu chất lượng đó chính là các thông số kinh tế - kỹ thuật và các đặc tính riêng có của sản phẩm, phản ánh tính hữu ích của sản phẩm. Các chỉ tiêu không tồn tại một cách độc lập là có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vai trò, ý nghĩa của từng chỉ tiêu cụ thể rất khác nhau với những sản phẩm khác nhau. Muốn đánh giá chính xác và khách quan chất lượng sản phẩm, cần xem xét một hệ thống các chỉ tiêu đặc trưng cả bên trong và bên ngoài của sản phẩm. Mỗi sản phẩm đều được đặc trưng bởi các tính chất, đặc điểm riêng, đây chính là những đặc tính khách quan của sản phẩm được thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm đó. Mỗi tính chất được biểu thị bởi các chỉ tiêu cơ, lý, hóa, nhất định, có thể đo lường đánh giá được. Qua đó, ta có thể so sánh giữa các sản phẩm với nhau trên cùng một tiêu chí để biết được sản phẩm nào có chất lượng cao hơn. Điều này đã cho thấy sự sai lầm của quan điểm cho rằng chất lượng sản phẩm là cái không thể đo lường, đánh giá được.
- Mỗi loại sản phẩm cụ thể có những chỉ tiêu mang tính nổi trội và quan trọng hơn những chỉ tiêu khác. Vì vậy, các doanh nghiệp sẽ phải lựa chọn và quyết định những chỉ tiêu nào quan trọng nhất làm cho chất lượng sản phẩm của mình mang sắc thái riêng, phân biệt với những sản phẩm khác đồng loại trên thị trường. Có rất nhiều các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm, sau đây là một số nhóm chỉ tiêu cụ thể: - Chỉ tiêu chức năng, công dụng của sản phẩm: Đó chính là những đặc tính cơ bản của sản phẩm đưa lại nhất định về giá trị sử dụng, tính hữu ích của chúng, đáp ứng được những đòi hỏi cần thiết của người tiêu dùng. - Chỉ tiêu độ tin cậy: Đặc trưng cho thuộc tính giữ được khả năng làm việc chính xác tin tưởng của sản phẩm trong một khoảng thời gian xác định. - Chỉ tiêu tuổi thọ: Thể hiện thời gian tồn tại có ích của sản phẩm trong quá trình đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. - Chỉ tiêu lao động học: Đặc trưng cho quan hệ giữa người và sản phẩm như các chỉ tiêu: Vệ sinh, nhân chủng, sinh lý của con người có liên quan đến quá trình sản xuất và sinh hoạt. - Chỉ tiêu thẩm mỹ: Đặc trưng cho sự truyền cảm, sự hợp lý về hình thức và sự hài hòa về kết cấu. - Chỉ tiêu công nghệ: Đặc trưng cho quá trình chế tạo, đảm bảo tiết kiệm lớn nhất các chi phí. - Chỉ tiêu thống nhất hóa:Đặc trưng cho mức độ sử dụng của sản phẩm, các bộ phận được tiêu chuẩn hóa, thống nhất hóa và mức độ thống nhất với các sản phẩm khác. - Chỉ tiêu sinh thái: Đặc trưng cho độ độc hại của sản phẩm tác động đến môi trường khi sử dụng. - Chỉ tiêu an toàn: Đặc trưng cho tính đảm bảo an toàn về sức khỏe cũng như tính mạng của người sản xuất và người tiêu dùng. - Chỉ tiêu về chi phí, giá cả: Đăc trưng cho hao phí xã hội cần thiết để tạo ra sản phẩm. Tùy theo từng loại sản phẩm mà doanh nghiệp nên tập trung giả quyết những chỉ tiêu nào. Các chỉ tiêu này không tồn tại dộc lập, tách rời mà còn có mối quan hệ
- chặt chẽ với nhau.Vai trò và ý nghĩa của từng chỉ tiêu rất khác nhau đối với những sản phẩm khác nhau. Mỗi loại sản phẩm cụ thể có những chỉ tiêu mang tính trội và quan trọng hơn những chỉ tiêu khác. Mỗi doanh nghiệp phải lựa chọn và quyết định những chỉ tiêu quan trọng nhất phù hợp với điề kiện sản xuất của doanh nghiệp để làm ra những sản phẩm mang sắc thái riêng biêt, độc đáo khác với những sản phẩm cùng loại trên thị trường. Nhưng nhìn chung, một số sản phẩm được coi là có chất lượng cao khi nó đảm bảo thỏa mãn một hệ thống các chỉ tiêu ràng buộc. Việc xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu để đánh giá chất lượng sản phẩm tùy thuộc vào từng loại sản phẩm cụ thể. Đối với các sản phẩm khác nhau chỉ tiêu đánh giá khác nhau; phương tiện kiểm tra khác nhau, có thể tựu trung lại thành hai ngành lớn đó là ngành sản xuất phi thực phẩm và ngành sản xuất thực phẩm. Đối với ngành sản xuất phi thực phẩm, các chỉ tiêu phản ánh: - Độ bền. - Độ chính xác. - Độ an toàn, tiện lợi khi sử dụng. - Hình thức thẩm mỹ. - Tính kinh tế. Đối với những sản phẩm thực phẩm, các chỉ tiêu chất lượng phải đạt: - Giá trị dinh dưỡng cao. - Hệ số tiêu hóa lớn. - Vệ sinh an toàn cho sức khỏe. - Các chỉ tiêu lý- hóa tương ứng. - Các chỉ tiêu thẩm mỹ. - Các chỉ tiêu về kinh tế. 2.2. Các chỉ tiêu thực hiện chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, để đánh giá, phân tích tình hình thực hiện chất lượng sản phẩm giữa các bộ phận, giữa các thời kỳ sản xuất ta có thể có các chỉ tiêu so sánh như sau: Tỷ lệ sai hỏng để phân tích tình hình sai hỏng trong sản xuất: + Dùng thước đo hiện vật để tính, ta có công thức:
- SLSP Sai hỏng 100% Tỷ lệ sai hỏng = SLSP Sai hỏng + SLSP tốt Trong đó, số sản phẩm hỏng bao gồm sản phẩm hỏng có thể sửa chữa được và số sản phẩm hỏng không thể sửa chữa được. + Dùng thước đo giá trị để tính, ta có công thức: Chi phí về sản phẩm hỏng Tỷ lệ sai hỏng = 100%x Giá thành công xưởng của Sản phẩm hàng hóa Trong đó, chi phí sản phẩm hỏng bao gồm chi phí về sản phẩm sửa chữa được và chi phí về sản phẩm hỏng không sửa chữa được. Trên cơ sở tính toán về tỷ lệ sai hỏng đó ta có thể so sánh giữa kỳ này với kỳ trước, hoặc giữa năm này với năm trước, nếu tỷ lệ sai hỏng này nhỏ hơn kỳ trước tức là chất lượng sản phẩm kỳ này tốt hơn kỳ trước và ngược lại. Dùng thử hạng chất lượng sản phẩm: Để so sánh chất lượng sản phẩm của kỳ này so với kỳ trước người ta căn cứ vào công thức thẩm mỹ và các chỉ tiêu về mặt cơ, lý, hóa của sản phẩm. Nếu thứ hạng chất lượng sản phẩm thấp thì sản phẩm được bán ở mức giá thấp, còn nếu thứ hạng chất lượng sản phẩm cao thì sẽ bán được với giá cao. Để đánh giá thứ hạng chất lượng sản phẩm ta có thể sử dụng phương pháp giá đơn vị bình quân. Công thức tính như sau: (Q1 P k1) + ( Q2 Pk2) + ….. + ( Qn Pkn ) P= Q1 + Q2 + …..+ Qn
- Trong đó: P: Giá đơn vị bình quân. Pki: Giá đơn vị kỳ gốc của thứ hạng i ( i = 1,2,…n). Qi : Số lượng sản phẩm sản xuất của thứ hạng i. Theo phương pháp này, ta tính giá đơn vị bình quân của thời kỳ phân tích và kỳ kế hoạch. Sau đó, so sánh giá đơn vị bình quân kỳ phân tích so với kỳ kế hoạch.Nếu giá đơn vị bình quân kỳ phân tích cao hơn kỳ kế hoạch ta kết luận doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch chất lượng sản phẩm và ngược lại. Để sản xuất kinh doanh một sản phẩm nào đó, doanh nghiệp phải xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, phải đăng ký và được cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm Nhà nước ký duyệt. Tùy theo từng loại sản phẩm, tùy từng điều kiện của mình mà doanh nghiệp cần xây dựng tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm sao cho đáp ứng được yêu cầu của cả nhà quản lý và người tiêu dùng. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm được tạo ra trong toàn bộ chu kỳ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp,bắt đầu từ khâu thiét kế sản phẩm tới các khâu tổ chức mua bán nguyên vật liệu, triển khai quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Do tính chất phức tạp và tổng hợp của khái niệm chất lượng nên việc tạo ra và hoàn thiện chất lượng sản phẩm chịu tác động của rất nhiều các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh bên ngoài và những nhân tố bên trong của doanh nghiệp các nhân tố này có mối quan hệ chặt chẽ ràng buộc với nhau, tạo ra tác động tổng hợp đến chất lượng sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất ra. 3.1. Nhóm các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. 3.1.1. Các nhân tố thuộc môi trường chung. a.Môi trường kinh tế.
- Trong môi trường kinh doanh, các yếu tố kinh tế dù ở bất kỳ cấp độ nào quốc tế hay quốc gia cũng có vai trò quan trọng và quyết định hàng đầu tới hoạt động sản xuất kinh doanh và các yếu tố này cũng ảnh hưởng gián tiếp tới công tác chất lượng sản phẩm nói riêng của mỗi doanh nghiệp. Các nhân tố kinh tế có ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp cần phải được nghiên cứu phân tích và dự đoán bao gồm: Trạng thái phát triển của nền kinh tế ( giai đoạn của chu kỳ kinh tế ), tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, lãi suất ngân hàng, các chính sách kinh tế của Nhà nước … Các nhân tố kinh tế trong môi trường kinh tế quốc dân tương đối rộng, nó ảnh hưởng đến nhiều mặt của công tác chất lượng sản phẩm trong mỗi doanh nghiệp, do đó các doanh nghiệp cần chọn lọc những ảnh hưởng của các nhân tố này ( cả ở dạng đe dọa và cơ hội). Ngày nay, xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế được đề cập nhiều lần với cả mặt tích cực và tiêu cực của nó. Đối với chất lượng sản phẩm của hàng hóa, xu hướng này đã tạo ra những tác động nhất định. Nó buộc hầu hết các doanh nghiệp hiện nay phải tích cực tăng cường hoạt động nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng tốt thì doanh nghiệp đó cùng với sản phẩm của mình sẽ có thể tồn tại và phát triển được trong thị trường cạnh tranh khốc liệt với quy mô rộng lớn như hiện nay. Ngược lại, doanh nghiệp có thể sẽ bị phá sản nếu như chất lượng sản phẩm của họ không đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của thị trường được quốc tế hóa . Vì vậy ảnh hưởng của xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế đối với các chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp là rất lớn. b.Môi trường chính trị – pháp lý. Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh nhất định, trong đó môi trường pháp lý với những chính sách và cơ chế quản lý kinh tế có tác động trực tiếp và to lớn đến việc tạo ra và nâng cao chất lượng sản
- phẩm của các doanh nghiệp. Cơ chế quản lý kinh tế tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư nghiên cứu nhu cầu, thiết kế sản phẩm. Nó cũng tạo ra sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua cơ chế khuyến khích cạnh tranh, bắt buộc các doanh nghiệp phải nâng cao tính tự chủ sáng tạo trong cải tiến chất lượng sản phẩm. Mặt khác ,cơ chế quản lý kinh tế còn làm môi trường lành mạnh, công bằng, đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp sản xuất đầu tư cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm và bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực đảm bảo chất lượng sản phẩm. Một cơ chế phù hợp sẽ kích thích các doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư, cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, .Ngược lại cơ chế không khuyến khích sẽ tạo ra sự trì trệ, giảm động lực nâng cao chất lượng. c. Môi trương văn hóa - xã hội. Ngoài các yếu tố bên ngoài nêu trên, yếu tố văn hóa xã hội của mỗi khu vực thị trường, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có ảnh hưởng rất lớn đến hình thành các đặc tính chất lượng sản phẩm. Những yêu cầu về văn hóa, đạo đức, xã hội và tập tục truyền thống, thói quen tiêu dùng có ảnh hưởng trực tiếp tới các thuộc tính chất lượng sản phẩm, đồng thời có ảnh hưởng gián tiếp thông qua các quy định bắt quộc mỗi sản phẩm phải thỏa mãn những đòi hỏi phù hợp với truyền thống, văn hóa, đạo đức xã hội của cộng đồng xã hội. Chất lượng là toàn bộ những đặc tính thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng nhưng không phải tất cả mọi nhu cầu cá nhân đều được thỏa mãn. Những đặc tính chất lượng sản phẩm chỉ thỏa mãn toàn bộ nhu cầu cá nhân nếu nó không ảnh hưởng tới lợi ích xã hội. Trong thực tế, các vấn đề về phong tục tập quán, lối sống, trình độ, dân trí tôn giáo, tín ngưỡng… Có ảnh hưởng rất sâu sắc đến cơ cấu của nhu cầu thị trường, theo đó những mong nuốn của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm họ mua cũng phụ thuộc nhiều vào các yếu tố trên. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất cần đặc biệt chú trọng tới những những tác động mang tính văn hóa, xã hội này. Chẳng hạn , trong ngành Dệt may, kết cấu dân cư và trình độ dân trí có ảnh hưởng trước hết đến thẩm
- mỹ, thị hiếu …Tiếp đó là các đòi hỏi về mẫu mã, chủng loại, màu sắc… của sản phẩm may mặc. d. Trình độ tiến bộ khoa học – công nghệ. Trình độ chất lượng sản phẩm không thể vượt quá giới hạn khả năng của trình độ tiến bộ khoa học – công nghệ của một giai đoạn lịch sử nhất định. Chất lượng sản phẩm trước hết thể hiện những đặc trưng về trình độ kỹ thuật tạo ra sản phẩm đó. Các chỉ tiêu kỹ thuật này lại phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật, công nghệ sử dụng để tạo ra sản phẩm. đây là giới hạn cao nhất mà chất lượng sản phẩm có thể đạt được. Tiến bộ khoa học – công nghệ tạo ra khả năng không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.Tác động của tiến bộ khoa học công nghệ là không giới hạn, nhờ đó mà sản phẩm sản xuất ra luôn có các thuộc tính chất lượng với những chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật ngày càng hoàn thiện, mức thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng ngày càng tốt hơn. Tiến độ khoa học công nghệ tạo ra phương tiện điều tra, nghiên cứu khoa học chính xác hơn, xác định đúng đắn nhu cầu và biến đổi nhu cầu thành đặc điểm sản phẩm chính xác hơn nhờ trang bị những phương tiện đo lường, dự báo, thử nghiệm , thiết kế tốt hơn, hiện đại hơn. Công nghệ thiết bị mới ứng dụng trong sản xuất giúp nâng cao các chỉ tiêu kinh tế – kỹ thuật của sản phẩm. Nhờ tiến bộ khoa học – công nghệ làm xuất hiện các nguồn nguyên liệu mới tốt hơn, rẻ hơn nguồn nguyên liệu sẵn có. Khoa học quản lý phát triển hình thành những phương pháp quản lý tiên tiến hiện đại góp phần nắm bắt nhanh hơn, chính xác hơn nhu cầu khách hàng và giảm chi phí sản xuất, từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng mức thỏa mãn khách hàng. Trong thời đại ngày nay, sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ có ảnh hưởng mạnh mẽ và quyết định đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhờ những thành tựu khoa học mà các sản phẩm có được độ bền chính xác hơn với những nguyên
- liệu rẻ hơn tốt hơn. Từ đó doanh nghiệp có thể tiến tới hoàn thiện của mình nhằm đáp ứng tốt nhất những yêu cầu của người tiêu dùng. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp công nghiệp có đặc trưng chủ yếu là sủ dụng nhiều loại máy móc thiết bị với những quy trình công nghệ khác nhau để sản xuất ra sản phẩm, thì khoa học công nghệ càng có ảnh hưởng quan trọng đến năng suất lao động, khả năng sản xuất của doanh nghiệp, trở thành động lực chính thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. 3.1.2. Các nhân tố thuộc môi trường ngành * Nhu cầu thị trường: Đây là nhân tố quan trọng nhất, là xuất phát điểm, tạo lực hút định hướng cho sự phát triển chất lượng sản phẩm. Sản phẩm chỉ có thể tồn tại khi nó đáp ứng được những mong đợi của khách hàng. Xu hướng phát triển và hoàn thiện chất lượng sản phẩm phụ thuộc chủ yếu vào đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu thị trường. Nhu cầu càng phong phú đa dạng và thay đổi nhanh càng cần hoàn thiện chất lượng để thích ứng kịp thời đũi hỏi ngày càng cao của khỏch hàng.Yờu cầu về mức chất lượng đạt được của sản phẩm phải phản ánh được đặc điểm và tính chất của nhu cầu. Đến lượt mỡnh, nhu cầu lại phụ thuộc vào tỡnh trạng kinh tế, khả năng thanh toán, trỡnh độ nhân tố, thói quen, phong tục, tập quán, lối sống, và mục đích sử dụng sản phẩm của khách hàng. Xác định đúng nhu cầu, cấu trúc, đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu là căn cứ đầu tiên, quan trọng nhất đến hướng phát triển của chất lượng sản phẩm. Nhu cầu là xuất phát điểm của quá trỡnh quản lý chất lượng, tạo ra động lực, định hướng cho sự cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Cơ cấu, tính chất, đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Có nhiều trường hợp chất lượng sản phẩm được đánh giá cao ở một thị trường nhất định, trong một thời gian nhất định, nhưng lại không phù hợp tại một thị trường khác hoặc trong giai đoạn khác. Thông thường khi mức sản phẩm của xó hội cũn thấp, cỏc sản phẩm ở tỡnh trạng khan hiếm thỡ yờu cầu của người tiêu dùng cũn chưa cao, họ chưa thật quan tâm đến
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận Một số giải pháp huy động vốn nhằm thúc đẩy sự pháp triển của các doanh nghiệp
17 p | 554 | 202
-
Tiểu luận: “Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp (FDI ) nhằm hình thành và phát triển các KCN tập trung trên địa bàn tỉnh Hưng Yên ”
57 p | 570 | 185
-
Tiểu luận: " Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty In Nông nghiệp và Công nghiệp Thực phẩm"
69 p | 307 | 136
-
Tiểu luận: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
97 p | 319 | 119
-
Tiểu luận Một số giải biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn Cố Định tại Công ty chè Long Phú
30 p | 265 | 94
-
Tiểu luận: " Một số giải pháp góp phần hoàn thiện các hình thức trả lương tại Công ty gạch ốp lát Hà nội"
75 p | 286 | 88
-
Tiểu luận: "Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh chương trình xoá đói giảm nghèo tại Yên Bái"
60 p | 131 | 76
-
Tiểu luận: “Một số giải pháp đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Dược Liệu Trung Ương I”
80 p | 236 | 72
-
Tiểu luận: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Mobile Marketing cho công ty truyền thông Gapit
52 p | 278 | 62
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tạo động lực tại tập đoàn vận tải Phượng Hoàng
27 p | 178 | 51
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước
34 p | 465 | 51
-
TIỂU LUẬN:Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ ở Công ty Thực Phẩm Hà Nội.Lời nói đầuSau 15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đang từng bước thay đổi, cùng hoà nhập chung vào nền kinh tế thị trường đầy sôi động của khu vực cũng như của t
78 p | 182 | 40
-
Tiểu luận: Một số giải pháp hỗ trợ người khuyết tật
13 p | 785 | 36
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp chống lãng phí thất thoát vốn trong đầu tư XDCB
43 p | 179 | 24
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp đầu tư thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp điện tử Hà Nội
119 p | 139 | 17
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp phát triển thị trường hàng hoá của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010
45 p | 111 | 13
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Thủ Đô
103 p | 121 | 13
-
TIỂU LUẬN: Một số giải pháp khắc phục những yếu kém về hoạt động tài chính cho công ty TNHH Hợp Hưng
61 p | 121 | 11
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn