intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam

Chia sẻ: Bluesky_12 Bluesky_12 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:21

333
lượt xem
106
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Du lịch là một ngành kinh tế mang tính xã hội sâu sắc, nó chịu sự tác động rất lớn của nhiều mặt trong đời sống xã hội, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết và tác động trở lại đời sống xã hội. Du lịch càng phát triển càng có những ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội. Do đó việc xuất hiện một khoa học mới - khoa học du lịch (du lịch học), nghiên cứu chuyên sâu về du lịch là một tất yếu. Du lịch học hiện đại không chỉ nghiên cứu...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam

  1. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam TIỂU LUẬN Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam 1
  2. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam MỞ ĐẦU Du lịch là một ngành kinh tế mang tính xã hội sâu sắc, nó chịu sự tác động rất lớn của nhiều mặt trong đời sống xã hội, đồng thời cũng có mối quan hệ mật thiết và tác động trở lại đời sống xã hội. Du lịch càng phát triển càng có những ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội. Do đó việc xuất hiện một khoa học mới - khoa học du lịch (du lịch học), nghiên cứu chuyên sâu về du lịch là một tất yếu. Du lịch học hiện đại không chỉ nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận mà còn cả những vấn đề thực tiễn trong hoạt động du lịch. Những vấn đề của du lịch học được thể hiện qua chủ đề của từng năm mà Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) phát động. Đó đ ều là những vấn đề cấp thiết của du lịch học đại, liên quan mật thiết và có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động du lịch. Một trong những vấn đề cũng rất đ ược quan tâm của du lịch học hiện đại là vấn đề về nguồn nhân lực trong du lịch. Nguồn nhân lực du lịch là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu mang tính quyết định trong tiến trình phát triển du lịch, bởi con người chính là chủ thể của hoạt động lao động. Sở dĩ nguồn nhân lực du lịch trở thành một trong những vấn đề cấp thiết của du lịch học hiện đại là vì khi du lịch ngày càng phát triển thì nhu cầu về nguồn nhân lực ngày càng cao cả về số lượng và chất lượng. Trong khi đó, hiện nay nguồn nhân lực du lịch đang còn thiếu, sự phân bố và chất lượng nguồn nhân lực giữa các khu vực, quốc gia trên thế giới không đồng đều. Du lịch muốn phát triển để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đòi hỏi phải có nguồn nhân lực với chất lượng cao, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập như hiện nay. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo chung đó, mặc dù ở Việt Nam du lịch là một ngành mới và chỉ thực sự bắt đầu phát triển mạnh vào những năm cuối thế kỷ 20. Đề tài “Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam” khảo sát tình hình thực trạng nguồn nhân lực du lịch ở Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp để phát triển nguồn nhân lực du lịch đáp ứng được nhu cầu của tình hình mới. Tiểu luận gồm 2 chương: Chương 1. Thực trạng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam Chương 2. Dự báo nhu cầu lao động và đề xuất giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam 2
  3. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam NỘI DUNG CHƯƠNG 1 THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH VIỆT NAM 1.1. Số lượng và cơ cấu lao động 1.1.1. Số lượng lao động Năm 2003, số lao động trong toàn ngành (kể cả các doanh nghiệp tư nhân) đ ạt con số trên 830.000 lao động, trong đó có khoảng 230.000 lao đ ộng trực tiếp. Theo Báo cáo tại Hội thảo quốc gia “Đào tạo nhân lực du lịch theo nhu cầu xã hội” diễn ra tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 07 tháng 3 năm 2008, cả nước hiện nay có hơn 1 triệu lao động làm việc trong ngành du lịch, trong đó có khoảng 285.000 lao đ ộng trực tiếp và 750.000 lao động gián tiếp, chiếm gần 3% tổng số lao động trong toàn quốc, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt khoảng 4,3%. Theo đánh giá chung của ngành Du lịch Việt Nam, số lượng nguồn nhân lực trên thực sự chưa đáp ứng đủ nhu cầu hiện tại, đặc biệt là ở các doanh nghiệp mới thành lập hoặc mở rộng, ở các tỉnh đồng bằng hoặc vùng miền núi. Ở nhiều sở Du lịch hoặc Sở Thương mại - Du lịch, lực lượng cán bộ quản lý nhà nước về du lịch còn rất mỏng, do đó hiệu quả công tác quản lý còn rất hạn chế. 1.1.2. Cơ cấu lao động a) Cơ cấu theo ngành nghề Hiện nay, trong nguồn nhân lực du lịch Việt Nam, lao động quản lý chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng số lao động của ngành (25%); lao động phục vụ trực tiếp các ngành nghề chuyên sâu chiếm 75%, trong đó lễ tân chiếm 9%, phục vụ buồng là 14,8%, phục vụ bàn và bar (ăn uống) là 15%, nhân viên nấu ăn là 10,6%; nhân viên lữ hành và hướng dẫn viên là 4,9%; nhân viên lái xe du lịch là 10,6%; còn lại là các lao động làm ngành nghề khác 36,5%. Giữa các lĩnh vực chuyên môn lại diễn ra tình trạng cơ cấu lao động trong du lịch có tỷ lệ không đồng đều (lễ tân, buồng, bàn, lữ hành, hướng dẫn viên,…) và thấp so với tỷ lệ chung của lao động trực tiếp. Điều dễ nhận thấy là nhân lực trong du lịch hiện nay được hình thành và đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau do vậy chất lượng không đồng đều, chưa phù hợp với yêu cầu chuyên môn. 3
  4. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam Trên cơ sở tổng hợp báo cáo và dự báo của các Sở quản lý du lịch, Tổng cục Du lịch dự báo cơ cấu lao động trong những năm tới: lĩnh vực khách sạn - n hà hàng cần đông lao động nhất, chiếm 50,5%; kế đến là dịch vụ giải trí, dịch vụ khác chiếm 35,4%; lữ hành, vận chuyển du lịch chiếm 13,7%. b) Cơ cấu theo trình độ Theo thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam, tính đến năm 2005, trong tổng số lao động ngành du lịch có khoảng 0,21% cán b ộ đạt trình độ sau đại học; 12,75% cán bộ đạt trình độ đại học và cao đẳng; đa số lao động trong ngành du lịch được đ ào tạo ở trình độ trung cấp, dạy nghề hoặc được đ ào tạo bồi dư ỡng tại chỗ. Cụ thể là khoảng 25,8% cán bộ đ ạt trình độ trung cấp, 18,1% cán bộ đạt trình độ sơ cấp và 43,14% cán bộ được đào tạo bồi dưỡng tại chỗ. Trong số lao động trực tiếp, có 32% lao động biết tiếng Anh; 3,2% biết tiếng Pháp; 3,6% biết tiếng Trung Quốc ở các mức độ khác nhau. Số lao động sử dụng thông thạo các ngoại ngữ khác không nhiều. c) Cơ cấu theo vùng, miền Cả nước hiện có hơn một triệu lao động, trong đó chỉ khoảng gần 1/3 trong số đó là lao động trực tiếp, còn lại là lao động gián tiếp. Tình trạng phân bố lao động giữa các vùng miền cũng không đồng đều, khoảng 40% tập trung tại miền Bắc, 50% tại miền Nam và 10% tại miền Trung. Điều này cũng lý giải vì sao ở khu vực miền Trung tốc độ phát triển du lịch chưa cao. d) Cơ cấu theo độ tuổi Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, tính đến 2005, khoảng 40% lao động du lịch có độ tuổi dưới 30 tuổi; 36% lao động du lịch nằm trong độ tuổi từ 30 đến 40; 21% lao động du lịch nằm trong độ tuổi từ 41 đến 50; 3% lao động du lịch nằm trong độ tuổi trên 50. Như vậy về cơ bản, lao động trong ngành du lịch của nước ta nằm trong độ tuổi khá trẻ. Điều đó chứng tỏ chúng ta có nhiều thuận lợi trong công tác đào tạo, bồi dưỡng bởi lớp trẻ thường có khả năng tiếp thu nhanh việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. 1.2. Chất lượng nguồn nhân lực du lịch Nhìn chung chất lư ợng nguồn nhân lực du lịch của Việt Nam đang dần dần đư ợc nâng cao. Trong những năm qua, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho nguồn nhân lực du lịch luôn được quan tâm chú trọng. Tuy nhiên, vấn đề bức xúc nhất hiện nay của đội ngũ lao động trong du lịch là “vừa thiếu, vừa yếu”. Ngoại trừ một số doanh nghiệp liên 4
  5. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam doanh với nước ngoài, đ ội ngũ lao động được đào tạo tại chỗ, hoặc gửi đi đ ào tạo ở nước ngoài nên chất lượng có tốt hơn, đáp ứng đ ược yêu cầu và đư ợc đánh giá khá cao, còn lại về cơ bản chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, số lượng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của du lịch để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và còn có khoảng cách khá xa so với trình độ của các nước trong khu vực cũng như thế giới. Chất lượng của nguồn nhân lực du lịch được đánh giá từ trình đ ộ văn hóa đến trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ ngoại ngữ. Về trình độ văn hóa: Hiện nay số lao động chưa tốt nghiệp phổ thông trung học chiếm 30% trong tổng số lao động ngành du lịch, chủ yếu ở các bộ phận phục vụ trực tiếp như nhân viên phục vụ bàn, buồng, nhân viên tạp vụ hay bảo vệ tại các cơ quan, doanh nghiệp… T ỷ lệ này có thể còn tồn tại trong một thời gian dài, đặc biệt là ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nơi mà phần lớn người dân sống nhờ vào nguồn du lịch sông nư ớc nên hầu như “người người làm du lịch, nhà nhà làm du lịch”. Về chuyên môn, nghiệp vụ: Tỷ lệ lao động có chuyên môn, nghiệp vụ về du lịch còn thấp, chỉ chiếm khoảng 43% tổng số lao động du lịch. Còn phần lớn số lao động còn lại là từ các ngành nghề khác chuyển sang hoặc lao động chưa qua đào tạo, bồi dưỡng. Qua số liệu trên có thể thấy rằng hơn một nửa số lao động trong du lịch là không có chuyên môn, nghiệp vụ. Thậm chí, ở một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long 80% lao động chưa qua đào tạo, bồi dưỡng về du lịch. Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nư ớc cũng như các doanh nghiệp còn chưa theo kịp với sự phát triển và hội nhập, năng lực quản lý cũng như trình độ chuyên môn còn nhiều hạn chế. Tại một số cơ quan quản lý nhà nước cũng như một số doanh nghiệp có đội ngũ quản lý với trình đ ộ chuyên môn cao. Bên c ạnh đó ở nhiều cơ quan quản lý nhà nư ớc và doanh nghiệp khác, đ ội ngũ quản lý còn thiếu kiến thức về quản trị kinh doanh du lịch, thậm chí không có chuyên môn, nghiệp vụ về du lịch. Điều này khá phổ biến ở các doanh nghiệp du lịch thuộc sở hữu Nhà nước và đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân ở nhiều địa phương. Chính vì vậy, tính chuyên nghiệp trong doanh nghiệp đó thường bị hạn chế và hầu như bị áp đặt theo tư duy của người lãnh đạo. Trình độ, tay nghề của một bộ phận lớn lực lư ợng lao động trực tiếp còn hạn chế, phục vụ du lịch còn theo thói quen, theo kinh nghiệm và chủ yếu theo bản năng tự nhiên. Đội ngũ hư ớng dẫn viên không chỉ yếu về trình đ ộ ngoại ngữ, không tinh thông về nghiệp vụ mà còn thiếu những hiểu biết về truyền thống văn hoá, lịch sử cũng như những giá trị của các danh lam thắng cảnh, tính chuyên nghiệp chưa cao, và đôi khi có thái độ không đúng đối với du khách. Phần lớn nguồn nhân lực trong ngành du lịch hiện 5
  6. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam nay đư ợc đào tạo trong trường Đại học ngoại ngữ mà không được đào tạo trong các khoa du lịch của các đại học khác. Có một thực tế, hiện hầu hết các khách sạn cao cấp đều vấp phải khó khăn trong việc tìm kiếm nhân viên đã qua đào tạo một cách bài bản, giỏi ngoại ngữ. Chính vì thế hầu hết các sinh viên chuyên ngành du lịch khi đ ược nhận vào làm việc tại các khách sạn này đều phải qua lớp đào tạo lại ngắn hạn. Về trình độ ngoại ngữ: Hiện nay, hơn một nửa lao động làm việc trong du lịch không biết ngoại ngữ, đây là một hạn chế rất lớn của du lịch Việt Nam. Trình độ ngoại ngữ có thể nói là công cụ tối cần thiết để ngư ời làm du lịch tiếp cận với du khách quốc tế. Số lao động biết ít nhất một ngoại ngữ chiếm 45% tổng số lao động (trong đó chủ yếu biết tiếng Anh). Ngay cả số lao động biết tiếng Anh cũng chỉ có 15% ở trình độ đại học, còn lại là ở trình độ A, B, C. Số lao động biết 2 ngoại ngữ trở lên khoảng 28%. Theo một khảo sát ngẫu nhiên do TOEIC Việt Nam (đơn vị năm 2006 đã được Tổng cục Du lịch chọn làm đối tác xây dựng thang chuẩn tiếng Anh cho 6 nghề trong ngành du lịch) tiến hành tại khoảng 200 doanh nghiệp khách sạn và lữ hành trên toàn quốc, cho thấy đại bộ phận nhân viên có trình độ tiếng Anh rất thấp so với vị trí đảm nhiệm. Cá biệt, một số lượng không nhỏ nhân viên thuộc hạng khách sạn 5 sao chỉ đạt mức điểm 10/990 của bài thi TOIEC. Như vậy có thể thấy rằng, chất lượng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam hiện nay cũng đang là một vấn đề đáng phải quan tâm. Vấn đề đặt ra hiện nay là chúng ta cần phải có một chiến lược để phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu về mặt số lượng mà phải đảm bảo chất lượng, với một cơ cấu hợp lý. 1.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc rất lớn vào công tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực. Muốn nguồn nhân lực có chất lượng thì một yêu cầu đặt ra là nguồn nhân lực đó phải được đào tạo một cách bài bản theo đúng chuẩn mực. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch ở Việt Nam hiện nay đư ợc tiến hành song song giữa hệ thống đào tạo quốc gia và tại các doanh nghiệp du lịch. Hệ thống đ ào tạo quốc gia là các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Các doanh nghiệp du lịch bao gồm cả các khách sạn, nhà hàng và các công ty lữ hành. Bên cạnh đó là các chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo hình thức liên kết hoặc do các nư ớc, các tổ chức hay dự án của nư ớc ngoài tài trợ. 1.3.1. Đào tạo tại hệ thống đào tạo quốc gia a) Về số lượng và cơ cấu 6
  7. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam Hiện nay nước ta có khoảng 40 trường đại học và 83 trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề tham gia đào tạo các chuyên ngành liên quan đ ến du lịch, hàng năm đào tạo hàng chục ngàn học sinh và sinh viên làm việc trong ngành du lịch. Theo kinh nghiệm của các nước tiên tiến, tỷ lệ giữa 3 cấp đạo tạo đại học : trung học (nhân viên kỹ thuật) : sơ cấp (dạy nghề) là 1: 4: 10 trong khi đó cơ cấu đào tạo của nước ta những năm qua là 1 : 1,3 : 1; riêng cơ cấu đào tạo lao động cho ngành du lịch có tỷ lệ khoảng 3 : 1 : 6. Như vậy, giữa số lượng và cơ cấu đ ào tạo theo trình đ ộ trong quá trình phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam hiện nay đang tồn tại mâu thuẫn. Khả năng đào tạo đội ngũ lao động có trình độ đại học thừa so với nhu cầu, trong khi đó khả năng đào tạo lao động có trình độ cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề lại quá thiếu so với nhu cầu dự kiến. Điều này dẫn đến tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ” trong nguồn nhân lực du lịch như hiện nay. b) Về chất lượng đào tạo Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc rất lớn vào hoạt động đ ào tạo, bồi dưỡng, đặc biệt là đào tạo tại hệ thống đ ào tạo quốc gia. Trong những năm qua, hệ thống này ở Việt Nam đ ã tăng lên một cách nhanh chóng với sự ra đời của nhiều trường, khoa ở các bậc khác nhau có chuyên ngành đào tạo liên quan đ ến du lịch và hàng năm cung cấp cho ngành du lịch một số lượng lao động đáng kể. Số lượng nhân lực được đào tạo ra mới chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu thị trường. Công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch của Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập. Một số cơ sở đ ào do được đầu tư thích đáng từ các nguồn tài trợ nước ngoài và được sự quan tâm của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo và du lịch nên có nhiều thuận lợi trong viêc đảm bảo chất lượng đ ào tạo nguồn nhân lực du lịch có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, đáp ứng được yêu cầu của ngành nghề trong quá trình hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất trong quá trình phát triển nguồn nhân lực du lịch là chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng các loại lao động. Chương trình đào tạo của các trường hầu hết còn nặng về lý thuyết và xa rời thực tế. Nhu cầu về nhân lực của ngành du lịch rất lớn, nhưng học sinh, sinh viên ra trường tìm được việc làm không dễ mà nguyên nhân chính vẫn là do kiến thức đ ược trang bị trong thời gian đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu công việc. Sở dĩ có tình trạng trên là do các cơ sở đào tạo, đặc biệt là các trường đại học đều chú trọng đào tạo sinh viên theo diện rộng, để sinh viên sau khi ra trư ờng dễ thích ứng với hoàn cảnh, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi ngành du lịch đang là ngành mang tính cạnh tranh cao hơn so với các ngành dịch vụ khác. 7
  8. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam Chương trình đ ào tạo, bài giảng, giáo trình, tài liệu tham khảo dù có đư ợc bổ sung dần nhưng vẫn còn quá ít so với các ngành nghề đ ào tạo khác và so với yêu cầu đào tạo nhân lực du lịch. Đội ngũ cán bộ giảng dạy tại các cơ sở đ ào tạo du lịch ở Việt Nam hiện nay vừa thiếu vừa còn một số hạn chế như số lượng cán bộ giảng dạy đã qua đào tạo ở trình độ cao chuyên về du lịch không nhiều, hầu hết các cán bộ giảng dạy còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm, hoặc đ ược chuyển từ các môn khác, ngành khác sang dạy về du lịch. Chính vì vậy, số cán bộ giảng dạy có khả năng viết đư ợc giáo trình, tài liệu tham khảo, sách chuyên ngành phục vụ cho việc giảng dạy và học tập còn rất hạn chế. Cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và thời gian thực tập cũng ảnh hư ởng không nhỏ đến chất lư ợng đào tạo. Do đặc thù của nhân lực trong ngành du lịch là có tính định hướng nghề nghiệp rất cao nên một trong những yêu cầu không thể thiếu trong quá trình đào tạo là sinh viên phải đ ược thực hành, thực tập để gắn lý thuyết đã được học với thực tế. Nhiều trường đại học và cao đẳng chưa trang bị đư ợc phòng thực hành, xưởng thực tập ngành nghề, nghiệp vụ cho sinh viên, sinh viên phải học lý thuyết quá nhiều, ít có cơ hội thực hành để vận dụng lý thuyết đã được học trên lớp. Một số trường chưa có đ ịnh hướng thực tập cuối khóa và thực tập môn học cho sinh viên một cách cụ thể, rõ ràng và chưa xác đ ịnh được thời gian cần thiết cho công việc này. Mặc dù việc đào tạo ngoại ngữ cho sinh viên du lịch đ ã đ ược các trư ờng hết sức chú ý nhưng hiệu quả đem lại chưa cao. Chương trình ngoại ngữ chưa tập trung vào chuyên ngành, chưa được nhấn mạnh các kỹ năng cần thiết cho sinh viên du lịch như nghe nói, giao tiếp... Do đó, phần lớn sinh viên sau khi tốt nghiệp không có khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ. 1.3.2. Đào tạo theo dự án và bồi d ưỡng ngắn hạn Tranh thủ nguồn tài trợ quốc tế và kết hợp với một phần nhỏ ngân sách nhà nước, hàng năm đội ngũ cán bộ quản lý đ ương chức, cán bộ nguồn thực sự có trình độ, năng lực và trẻ được đi đào tạo, bồi dưỡng các khoá ngắn hạn về chuyên ngành du lịch ở các nước có du lịch phát triển như Trung Quốc, Singapore, Thái Lan, Bỉ, Luxembourg, Tây Ban Nha... Bên cạnh đó nhiều khoá bồi dưỡng kiến thức quản lý du lịch ngắn hạn 5 ngày đến 2 tuần đư ợc thực hiện ở trong nư ớc, do chuyên gia nước ngoài giảng dạy, nên đã mở rộng đối tượng được tham gia bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành du lịch. Tổng cục Du lịch cũng tổ chức các lớp bồi dưỡng dư ới hình thức gửi đi nước ngoài, mời tham dự các lớp học tại Việt Nam do chuyên gia nước ngoài giảng dạy cho cán bộ viên chức đơn vị sự nghiệp trực thuộc và công chức quản lý nhà nước về du lịch 8
  9. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam tại địa phương. Các Sở quản lý du lịch, các đơn vị sự nghiệp cũng chủ động đ ào tạo lại và bồi dư ỡng đội ngũ cán bộ, công chức của mình bằng kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước hàng năm, từ chương trình hành động quốc gia về du lịch từ năm 1999 và các nguồn tài trợ khác. Những năm qua công các đ ào tạo lại, bồi dưỡng đội ngũ quản lý và lao đ ộng tại các doanh nghiệp cũng được Tổng cục Du lịch quan tâm định hư ớng, hỗ trợ và trực tiếp tổ chức các khoá bồi dưỡng ưu tiên về những nội dung như quản trị kinh doanh du lịch, khách sạn, quản trị nhà hàng, quản trị lễ tân, quản trị phục vụ ăn uống, quản trị lưu trú, bán và tiếp thị sản phẩm du lịch... Tổng cục Du lịch đã tổ chức nhiều khoá bồi dưỡng chuyên đ ề về du lịch cho các đối tượng thuộc hầu hết các chức danh trong doanh nghiệp, như giám đốc, phó giám đốc khách sạn, công ty lữ hành; hư ớng dẫn viên; nhân viên lễ tân; nhân viên nấu ăn. Đối với các lớp bồi dưỡng trong nước được quốc tế tài trợ, Tổng cục Du lịch mời chuyên gia từ các nước tài trợ (như Singapore, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Thái Lan...) và chuyên gia của Tổ chức Du lịch Thế giới về giảng dạy. Đặc biệt chương trình đào tạo trong khuôn khổ dự án Luxembourg (chương trình đ ào tạo giảng viên tại chỗ) và chương trình công nhận các kiến thức đã có (APL) đã tạo cơ hội cho nhiều ngư ời lao động vừa làm vừa học. Tổng cục Du lịch còn là đ ầu mối tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cử công nhân viên chức đi học tập tu nghiệp nước ngoài được cấp học bổng toàn phần hoặc một phần (Bỉ: 3 tháng; Đức: 18 tháng; Áo: 10 tháng...). Trong khuôn khổ chương trình hành động quốc gia về du lịch, Tổng cục Du lịch trực tiếp tổ chức hoặc giao các Sở quản lý du lịch tổ chức các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch cho người lao động thuộc tất cả các thành phần kinh tế, tập trung chủ yếu ở lĩnh vực khách sạn, nhà hàng, lữ hành và hướng dẫn viên du lịch. Trong 15 năm gần đây, ngành Du lịch Việt Nam đang tăng trưởng nhanh. Hàng năm ngành du lịch sẽ có khoảng 25.000 lao động mới, chủ yếu ở trình độ cơ bản, ngoài ra khoảng 25.000 lao động trong ngành cần đào tạo lại. Tuy nhiên, việc đào tạo và đào tạo lại chưa có sự chuẩn hoá trên phạm vi toàn quốc do đó dẫn đến sự khô ng đ ồng nhất giữa các k ỹ năng nghề nghiệp trong cùng một công việc. Vì vậy, hiệu quả công việc chưa cao. Do đó, Tổng cục Du lịch Việt Nam cùng với Cộng đồng Châu Âu thực hiện “Dự án phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam”với tổng số vốn 12 triệu Euro. Dự án đã triển khai xây dựng và ban hành hệ thống tiêu chuẩn 13 kỹ năng nghề du lịch; triển khai hệ thống công nhận kỹ năng nghề tại các doanh nghiệp du lịch theo đúng đ ịnh hướng của ngành; xây dựng, áp dụng và triển khai chương trình phát triển đào tạo viên được công nhận đối với một số kỹ năng nghề quan trọng... 9
  10. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam Mục tiêu tổng thể của dự án là “Nâng cao tiêu chuẩn và chất lượng nguồn nhân lực trong ngành du lịch Việt Nam” giúp Chính phủ và các doanh nghiệp du lịch có khả năng duy trì bền vững chất lượng và số lư ợng nguồn nhân lực đ ào tạo sau khi dự án kết thúc. Do đ ó, trọng tâm của dự án là tập huấn nâng cao kỹ năng đ ào tạo để có thể triển khai đào tạo các tiêu chuẩn kỹ năng nghề đ ã được công nhận cho đội ngũ nhân viên tại nơi làm việc. Kết quả của hoạt động này là một đội ngũ đào tạo viên tại chỗ có trình độ chuyên môn cao cùng với tài liệu hướng dẫn tiêu chuẩn kỹ năng nghề trình đ ộ cơ bản, tài liệu hướng dẫn cho đào tạo viên và chương trình video hỗ trợ đào tạo. Các đào tạo viên tại chỗ này sẽ trở thành những nhà đào tạo chính cho lao đ ộng tại doanh nghiệp mình đ ể chuẩn hoá các thao tác k ỹ năng nghề cho toàn bộ nhân lực trong doanh nghiệp mình đ ể từ đó góp phần chuẩn hoá trên toàn quốc. 1.3.3. Đào tạo tại các doanh nghiệp du lịch Ngành du lịch của Việt Nam là một ngành tương đối trẻ, được thành lập từ năm 1960 và chỉ mới thực sự phát triển mạnh từ những năm cuối thế kỷ 20. Do lịch sử phát triển ngành du lịch, nên hiện nay ở nước ta vẫn còn hàng chục nghìn cán bộ trong ngành du lịch, nhất là ở các doanh nghiệp Nhà nước được luân chuyển từ các lĩnh vực khác sang mà chưa đư ợc đào tạo và đào tạo lại một cách cơ bản về du lịch. Đáng chú ý là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì hầu hết chủ sở hữu là lao động quản lý chưa được đào tạo một cách cơ bản. Vì vậy đ ây là một trong những nguyên nhân làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch và hạn chế tốc độ phát triển du lịch, hạn chế việc thu hẹp khoảng cách trình độ phát triển của nước ta so với các nư ớc khác trong khu vực và trên thế giới. Trong những năm qua, một số khóa bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các đối tượng trên đ ã đư ợc các doanh nghiệp chú trọng tổ chức, nhưng còn quá ít về số lượng và hạn chế về chất lượng; chương trình, nội dung bồi dưỡng chưa phù hợp về thời gian và nhu cầu của từng đối tư ợng và của thực tiễn; kế hoạch mở lớp thường thông qua ngay từ đầu năm nên các cơ sở thường bị động và gặp khó khăn trong việc bố trí học viên tham gia. Ngoài đào tạo chính thức, các doanh nghiệp du lịch còn tổ chức đào tạo cho đội ngũ nhân viên của mình ngay tại nơi làm việc. Một số doanh nghiệp chỉ thực hiện hình thức đào tạo như kèm cặp, người đi trước hướng dẫn người đi sau hoặc chủ động liên kết với các trường để đào tạo và thường là các doanh nghiệp nhà nước. Trong khi đó, một số doanh nghiệp lại sử dụng hình thức gửi đào tạo tập trung, mời chuyên gia, giáo viên đến bồi dưỡng cho đội ngũ nhân viên hoặc hỗ trợ một phần kinh phí cho nhân viên đi học. Đặc biệt là những doanh nghiệp mới, những công ty liên doanh đã tập trung đ ào tạo lại và bồi dưỡng cho đội ngũ chủ chốt và nhân viên nghiệp vụ ngay từ khi còn xây dựng cơ 10
  11. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam sở vật chất kỹ thuật. Một số doanh nghiệp đ ã xây dựng được chiến lư ợc phát triển nguồn nhân lực, ngay từ đầu đã tập trung đầu tư đào tạo bộ máy khung thông qua hình thức gửi đi nước ngoài hoặc mời chuyên gia trong chuỗi khách sạn quốc tế lớn đến huấn luyện. Nhìn chung, các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có các chương trình đào tạo tại chỗ hiệu quả, còn các doanh nghiệp nhỏ thường không có đủ khả năng đào tạo như vậy. 1.3.4. Công tác hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch Đến nay, Tổng cục Du lịch đã ký kết 26 hiệp định song phương hợp tác du lịch với các nư ớc, tham gia Hiệp định du lịch ASEAN, tham gia các tổ chức quốc tế liên quan đến du lịch, các chương trình và dự án hợp tác khu vực, liên khu vực, trong đó hợp tác phát triển nguồn nhân lực du lịch luôn là nội dung được ưu tiên. Việc huy động nguồn lực quốc tế cho phát triển nguồn nhân lực du lịch trong những năm qua đã thu được những kết quả đáng kể. Dự án đào tạo du lịch - khách sạn của Chính phủ Luxembourg tài trợ và Dự án phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam do Cộng đồng Châu Âu (EU) tài trợ là hai dự án lớn với mục tiêu phát triển toàn diện nguồn nhân lực du lịch Việt Nam. Bên cạnh đó còn có các dự án hỗ trợ kỹ thuật của Tây Ban Nha, Singapore, Bỉ, Tổ chức Du lịch thế giới (WTO), Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA),...; đã có nhiều chương trình nghiên cứu, khảo sát, tư vấn, và các khóa đào tạo về phát triển nguồn nhân lực du lịch với sự hợp tác của các chuyên gia nước ngoài được tổ chức. Đến nay, tổng vốn ODA toàn ngành d u lịch đ ã thu hút được để phục vụ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch ước khoảng 40 triệu USD. Nhờ thế, đã có thêm nguồn lực tài chính, hiện vật và kinh nghiệm cho công tác đào tạo, bồi dư ỡng nhân lực ngành du lịch. Hoạt động liên kết đào tạo với các cơ sở đ ào tạo du lịch nước ngoài cũng được đẩy mạnh trong khuôn khổ hợp tác đa phương (đã có 19 cơ sở đào tạo du lịch của nư ớc ta tham gia mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch châu Á - Thái Bình Dương APETIT, 06 cơ sở tham gia mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch ASEAN) hoặc song phương (chủ yếu với các trường trong khu vực ASEAN). Nhiều cơ sở đào tạo trong nước đã liên kết với các cơ sở đào tạo du lịch nước ngoài đào tạo các chuyên ngành du lịch dưới nhiều hình thức như kết hợp đào tạo trong nước và học chuyển tiếp tại nước ngoài, đào tạo qua mạng..., mời chuyên gia nư ớc ngoài vào giảng dạy tại các cơ sở đào tạo du lịch của Việt Nam. Hiện nay xu hướng gửi cán bộ đi tu nghiệp ở các nước có ngành du lịch phát triển như Đức, Thụy Sỹ, Luxembourg, Úc, Singapore, Thái Lan... ngày một rõ nét. Nhiều cơ sở đào tạo cũng mời chuyên gia tình nguyện nước ngoài vào làm việc, hỗ trợ đ ào tạo nhân lực du lịch. Trong các doanh nghiệp du lịch có vốn đầu tư nước ngoài có nhiều 11
  12. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam chuyên gia giỏi thực hiện hoạt động đ ào tạo, bồi dư ỡng tại chỗ, góp phần đáng kể nâng cao chất lượng nhân lực du lịch Việt Nam. 12
  13. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam CHƯƠNG 2 D Ự BÁO NHU CẦU LAO ĐỘNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN N GUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH VIỆT NAM 2.1. Dự báo nhu cầu lao động trong những năm tới Theo "Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 - 2010", dự kiến đến năm 2010 Việt Nam sẽ đón và phục vụ 5,5 - 6 triệu lư ợt khách quốc tế, 25 triệu lượt khách nội địa và đạt mức thu nhập từ 4 - 4,5 tỷ USD. Ngành du lịch sẽ cần đ ến 1,4 triệu lao động, trong đó lao động trực tiếp trong du lịch là hơn 333.000 người. Như vậy, trong 3 - 4 năm tới cần phải thu hút và đào tạo mới cho khoảng 100.000 lao động du lịch, chưa kể hơn 50% số lao động hiện có chưa được đ ào tạo và một bộ phận lớn lao động cần phải đào tạo lại. Đó là con số không nhỏ và cũng là một nhiệm vụ không hề nhẹ nhàng và đơn giản đối với công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch Việt Nam. Tổng cục Du lịch đã xây dựng "Chương trình Phát triển nguồn nhân lực du lịch du lịch đến năm 2015 và tầm nhìn 2020" để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đảm bảo phát triển bền vững trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nư ớc. Đây là chương trình hành đ ộng có tính chất tổng thể, được xây dựng trên cơ sở tổng kết quá trình quản lý và đánh giá, dự báo yêu cầu về nhân lực du lịch của các sở quản lý du lịch ở 64 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Tổng cục Du lịch với sự hỗ trợ của chuyên gia tư vấn quốc tế (Tổ chức Du lịch Thế giới và Cộng đồng Châu Âu). Theo chương trình này, ngành Du lịch Việt Nam xác định đến năm 2015, nguồn nhân lực du lịch có ít nhất 500.000 lao động trực tiếp và 1,3 đến 1,5 triệu lao động gián tiếp, đạt các chỉ tiêu sau: - 70 - 80% đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước về du lịch ở TƯ và địa phương đư ợc đào tạo chuyên môn, đáp ứng được yêu cầu công việc. - 60 - 70% đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước ở doanh nghiệp và giám sát được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về du lịch. - 60% lao đ ộng phục vụ du lịch được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn du lịch, ngoại ngữ, tin học. - 80% cơ sở đ ào tạo du lịch đ ào tạo chương đáp ứng yêu cầu thực tiễn với 80 - 90% giáo viên được đ ào tạo và chuẩn hóa; cơ sở vật chất, thiết bị giảng dạy được trang bị, nâng cấp đồng bộ đảm bảo cơ sở đ ào tạo hiện đại. 13
  14. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam Cũng theo chương trình này, đến năm 2020 nguồn nhân lực du lịch của Việt Nam phải đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Tổng số vốn cho Chương trình phát triển nguồn nhân lực du lịch tới năm 2015 là 2.400 tỷ đồng. 2.2. Đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam Để phát triển nguôn nhân lực du lịch Việt Nam thì một trong những công tác cần quan tâm nhất là vấn đề đào tạo, bồi dư ỡng nguồn nhân lực. Để phát triển nguồn nhân lực du lịch, chúng ta phải có hàng loạt các giải pháp mang tính đồng bộ và sự phối kết hợp từ Trung ương đ ến địa phương. Dư ới đây là một số giải pháp cần thiết nhằm phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam trong thời kỳ hiện nay: 2.2.1. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm vừa để dịnh hướng đúng, tằng cường năng lực hoạch định chính sách, vừa để hình thành khung pháp lý và cơ chế trong đào tạo, bồi dư ỡng và phát triển nguồn nhân lực du lịch. Một thực tế dễ nhận thấy hiện nay là hàng loạt các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ du lịch ra đời, trong đó có cả những cơ sở hoạt động mà không được cấp phép. Mỗi cơ sở lại có cách thức hoạt động riêng, hoạt động đ ào tạo một cách tràn lan không theo quy hoạch, chuẩn mực dẫn đến chất lượng đ ào tạo không đảm bảo, làm ảnh hư ởng không nhỏ đến sự nghiệp phát triển du lịch. Chính vì vậy việc xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động đ ào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch; xây dựng cơ chế chính sách và quy chế quản lý hoạt động đào tạo, bồi dư ỡng nhân lực du lịch là việc làm hết sức cần thiết vào lúc này. Cần nhanh chóng hình thành đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch ở các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương và địa phương trong đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra liên ngành và chuyên ngành đối với các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực du lịch trong toàn quốc, có hình thức xử lý thích đáng đối với các cơ sở vi phạm quy định. 2.2.2. Xây dựng các tiêu chuẩn nghề trong từng lĩnh vực ngành nghề Tiêu chuẩn hóa một bước nguồn nhân lực du lịch ở các lĩnh vực, ngành nghề theo yêu cầu thực tế trong nước, phù hợp với các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế tạo điều kiện cho hộ i nhập quốc tế về lao động trong du lịch là việc làm quan trọng. Các Bộ, ban ngành liên quan cần phải xây dựng đ ược hệ thống tiêu chuẩn đối với các chức danh và 14
  15. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam cấp bậc ngành nghề trong du lịch. Đây là nhiệm vụ mang tính quy chuẩn, tạo hệ thống chuẩn mực đ ánh giá trình độ tay nghề một cách thống nhất trong cả nước, là cơ sở để các cơ sở đào tạo, người sử dụng lao động và người lao động phấn đấu, hoàn thiện. Trong những năm qua, Dự án phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam do EU tài trợ đ ã mang lại hiệu quả cao trong công tác đ ào tạo nguồn nhân lực du lịch và đã xây dựng đ ược 13 tiêu chuẩn nghề du lịch. Chứng chỉ Nghiệp vụ Du lịch Việt Nam (VTCB) do dự án này cấp đã được quốc tế công nhận. Vì vậy cần tiếp tục thúc đ ẩy và mở rộng phạm vi hoạt động của mô hình này; phối hợp với cơ quan hữu quan và Dự án EU về phát triển nguồn nhân lực du lịch để hoà nhập hệ thống chứng chỉ VTCB trong hệ thống đào tạo quốc gia; lồng ghép hoạt động này với Chương trình hành đ ộng quốc gia về du lịch. Phối hợp các ngành liên quan và các cơ sở đào tạo tổ chức thực hiện chương trình khung các chuyên ngành du lịch bậc trung học chuyên nghiệp; phối hợp xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chương trình khung đ ào tạo du lịch bậc cao đẳng và đại học để thống nhất quản lý trong cả nước và nâng cao chất lượng đào tạo. Trong quá trình xây dựng chương trình, giáo trình môn học, chú trọng tham khảo, học tập kinh nghiệm quốc tế nhằm đạt tới những tiêu chuẩn chung trong khu vực và quốc tế, tạo tiền đề phát huy tính tích cực và năng đ ộng của thị trường lao động không biên giới, không rào cản trong quá trình hội nhập. 2.2.3. Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng du lịch đảm bảo sự cân đối giữa các cấp bậc đào tạo, ng ành nghề đào tạo và phân bổ hợp lý giữa các vùng, miền Một trong những vấn đề của nguồn nhân lực du lịch Việt Nam là tình trạng mất cân đ ối trong cơ cấu đào tạo giữa các trình độ cũng như trong sự phân bố lao động của các vùng miền. Do vậy việc phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo, bồi dưỡng du lịch trên toàn quốc cần phải tập trung giải quyết triệt để vấn đề trên. Cần nâng cấp cơ sở đào tạo hiện có; tập trung đầu tư một số cơ sở đào tạo trọng điểm đạt tiêu chuẩn tiên tiến của quốc tế ở các địa phương là trọng điểm du lịch và nơi có xu hướng phát triển mạnh du lịch như Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Nha Trang, Lâm Đồng, Cần Thơ, Thái Nguyên... tiến tới thành lập trường Đại học du lịch của cả nước. Bên cạnh đó cần đầu tư xây dựng các cơ sở đào tạo và hình thành bộ phận đào tạo du lịch ở các trường nghề của các đ ịa phương khác, đặc biệt ở các khu vực miền Trung, Tây Nguyên và Tây Bắc. Khuyến khích việc mở các cơ sở đào tạo du lịch ở các doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo ngoài công lập và các cơ sở có vốn đầu tư của nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam. Cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo, chú trọng đào tạo bậc co đẳng và trung học nghề. Cần phải tạo ra sự liên thông giữa các chương trình đào tạo và giữa các 15
  16. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam cơ sở đào tạo, do đó tạo ra tính liên tục và kết hợp trong quá trình đào tạo, từ đào tạo trung học, cao đảng đến đại học và sau đ ại học, kết hợp giữa đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng ngắn hạn và đào tạo dài hạn, đ ào tạo chính quy và đào tạo tại chức, đào tạo trong nước và đào tạo ở nước ngoài 2.2.4. Nâng cao điều kiện đào tạo, bồi dưỡng du lịch Việc nâng cao điều kiện đ ào tạo, bồi dưỡng du lịch đòi hỏi phải có sự đồng bộ cả về cơ sở vật chất; đội ngũ giáo viên, giảng viên; chương trình và giáo trình đào tạo. Về cơ sở vật chất: Xuất phát từ thực tế hầu hết các trường, các cơ sở đ ào tạo hiện nay còn thiếu hoặc chưa có đầy đủ hệ thống trang thiết bị phục vụ đào tạo, chưa có các phòng, xưởng thực tập, thực hành cho học sinh, sinh viên, hệ thống thư viện xuống cấp... vì vậy việc tập trung đầu tư cơ sở vật chất của các cơ sở đ ào tạo, bồi dưỡng nhằm mở rộng quy mô và nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo du lịch là việc làm cần thiết. Cần phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo với cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và doanh nghiệp du lịch để tạo cơ sở kiến tập, thực tập cho học sinh và sinh viên. Về đội ngũ giáo viên giảng viên: Chất lượng nguồn nhân lực du lịch phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ giáo viên, giảng viên có chất lượng hay không. Hiện nay, số lượng giáo viên, giảng viên của các cơ sở đào tạo vừa thiếu, vừa yếu và hầu hết là các giáo viên trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm giảng dạy. Vì vậy, cần phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên và đào tạo viên đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đạt tiêu chuẩn về chất lượng đáp ứng nhu cầu vừa tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên và giáo viên cho các cơ sở đào tạo du lịch bằng nhiều hình thức, cả ở trong và ngoài nước; thu hút giảng viên từ các cơ quan quản lý nhà nư ớc và các doanh nghiệp bao gồm công chức, viên chức, các nhà quản lý, các nhà khoa học có trình độ, các doanh nhân, nghệ nhân, các công nhân kỹ thuật tay nghề bậc cao; nâng cao trình đ ộ tin học và ngoại ngữ cho giảng viên, giáo viên, nhằm ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy và tạo điều kiện cho giảng viên, giáo viên tự nghiên cứu, trao đổi trực tiếp các lĩnh vực chuyên môn với các chuyên gia nước ngoài và đủ khả năng tham gia các hội nghị, hội thảo, diễn đ àn quốc tế và học tập, tu nghiệp ở nước ngoài. Cần mở các lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ giáo viên, giảng viên, đặc biệt là cho đội ngũ giáo viên, giảng viên trẻ. Về chương trình đào tạo: Không ngừng đổi mới mục tiêu, nội dung chương trình đào tạo du lịch từ dạy nghề, trung học, cao đẳng đến đại học theo hư ớng chuẩn hoá, hiện 16
  17. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam đại hoá, phù hợp với nhu cầu của xã hội và th ị trường. Cần tiếp cận nhu cầu thực tế về năng lực làm việc trong các lĩnh vực của ngành, trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, mang nét đặc trưng của Việt Nam, đảm bảo tính liên thông giữa các bậc đ ào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân. Từng bước chuyển đổi việc xây dựng chương trình môn học theo niên chế, truyền thống hiện nay sang chương trình theo tín chỉ. Cần tăng cường đào tạo ngoại ngữ và tin học, nhất là ngoại ngữ và tin học chuyên ngành cho học sinh, sinh viên bởi đây là công cụ cần thiết khi bước vào thời kỳ hội nhập. Tăng cường việc sử dụng ngoại ngữ trong việc giảng dạy của giảng viên và học tập của sinh viên. Về giáo trình đào tạo và tài liệu tham khảo: Hiện nay, giáo trình và tài liệu học tập cho sinh viên n gành du lịch của nước ta đang thiếu trầm trọng hoặc đang dần bị lạc hậu so với thời đại. Vì vậy, cần sớm biên soạn và hoàn thiện giáo trình, tài liệu học tập cho sinh viên phù hợp với các tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Các cơ sở đào tạo cần hợp tác với nhau để biên soạn các giáo trình cơ bản hoặc biên dịch các tài liệu của nư ớc ngoài; áp dụng bộ đề chuẩn của Dự án phát triển nguồn nhân lực Việt Nam trong kiểm tra, đánh giá chất lượng học sinh, sinh viên. Các trường đào tạo tay nghề cần tiến tới xây dựng bộ giáo trình chuẩn để sử dụng thống nhất trong cả nước. Cùng với biên soạn giáo trình, việc biên soạn tài liệu tham khảo, tài liệu học tập cũng hết sức cần thiết. Các trư ờng nên phân công đội ngũ cán bộ giảng dạy, chuẩn bị các điều kiện cơ sở vật chất và triển khai thực hiện. 2.2.5. Tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước phục vụ đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch Các cơ quan chức năng, mà cụ thể là Tổng cục du lịch cần nghiên cứu, ban hành các chính sách để thực hiện xã hội hoá công tác đ ào tạo du lịch và tạo điều kiện cho những người có nhu cầu học tập về du lịch có thể tiếp cận và hưởng thụ đ ược những dịch vụ mà hệ thống đào tạo, bồi dưỡng du lịch cung cấp. Cần sử dụng một cách có hiệu quả nguồn ngân sách nhà nước cho đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch. Khuyến khích các trường, cơ sở đào tạo lập các cơ sở sản xuất, cơ sở dịch vụ phù hợp ngành nghề đào tạo để học sinh, sinh viên có điều kiện thực hành Tiếp tục đẩy mạnh việc đa dạng hoá các loại hình đào tạo, bồi dưỡng. Tập trung và sử dụng có hiệu quả kiến thức và kinh nghiệm của các nhà khoa học đầu ngành trong nước, của người Việt Nam ở nước ngoài và ngư ời nư ớc ngoài để phục vụ công tác phát triển nguồn nhân lực du lịch. Tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế để thu hút vốn đ ầu tư và công nghệ tiên tiến của nước ngoài phục vụ cho phát triển nguồn nhân lực du lịch Việt Nam. Nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực du lịch nhằm huy động sự hỗ trợ phát triển chính thức nước ngoài (ODA), đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và các hình thức 17
  18. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam đầu tư khác phục vụ phát triển nguồn nhân lực du lịch. Tiếp tục khai thác và sử dụng có hiệu quả dự án Luxembourg, dự án EU và các dự án khác phục vụ phát triển nguồn nhân lực du lịch. Cần khuyến khích và tạo điều kiện cho cơ sở đào tạo liên kết, hợp tác với các cơ sở đào tạo trong khu vự và trên thế giới... 2.2.6. Đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực d u lịch Trong thời đại ngày nay, khoa học - công nghệ được ứng dụng rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực. Khoa học - công nghệ mang lại nhiều lợi ích và thuận lợi trong cuộc sống. Việc tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ trong đào tạo phát triển nhân lực du lịch là cần thiết, nhất là khi chúng ta đã bước vào thời kỳ hội nhập WTO. Do đó cần phải đ ầu tư nhiều hơn nữa về cơ sở vật chất, trang thiết bị để từng bước ứng dụng, khai thác hiệu quả của công nghệ thông tin để phát triển nguồn nhân lực du lịch như công tác quản lý đào tạo; xây dựng giáo trình điện tử trong đào tạo du lịch; sử dụng Internet để thiết lập hệ thống thông tin qua mạng giữa các đầu mối đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch; mở rộng các hình thức đào tạo mới như đào tạo từ xa, đào tạo qua mạng... 2.2.7. Tạo môi trường thuận lợi cho đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch - Cần thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền rộng rãi trong cộng đồng bằng nhiều hình thức về vai trò, vị trí và hiệu quả của du lịch, về trách nhiệm phát triển du lịch, cách ứng xử trong du lịch..., tạo môi trường tốt cho hoạt độ ng đ ào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch, đặc biệt chú ý đến đối tượng cán bộ quản lý thuộc các lĩnh vực liên quan đến du lịch, đội ngũ giáo viên các bậc đ ào tạo, cán bộ chính quyền địa phương và những người tiếp xúc trực tiếp với khách du lịch. - Lồng ghép chương trình giáo dục du lịch trong giảng dạy tại cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục phổ thông, trong các trường chính trị của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các trường đảng, đoàn thể và hành chính trung ương phù hợp với tính chất của mỗi cơ sở đào tạo. - Mở rộng và tăng cường liên kết giữa cơ sở đào tạo với các ngành, địa phương, các điểm, khu du lịch, các doanh nghiệp du lịch. - Tạo điều kiện để các thành phần xã hội có thể tham gia, đóng góp xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy và học, góp ý kiến cho các chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực du lịch, các tiêu chuẩn kỹ năng, nội dung chương trình đào tạo, cơ cấu trình độ đào tạo; hỗ trợ kinh phí cho ngư ời học, tiếp nhận sinh viên đ ến thực tập và tiếp nhận học sinh tốt nghiệp vào làm việc. 18
  19. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam - Nâng cao hình ảnh nghề nghiệp du lịch thông qua đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông; xây dựng chương trình quảng bá nhằm mục đích khuyến học và định hướng nghề nghiệp du lịch. 2.2.8. Tăng cường liên kết, hợp tác trong hoạt động đào tạo nhân lực Việc tăng cường liên kết, hợp tác nhằm tranh thủ sự giúp đỡ và tiếp thu những kinh nghiệm, kỹ thuật tiên tiến của các nước, các tổ chức, các doanh nghiệp. Các cơ sở đào tạo nên tăng cường liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp bởi các doanh nghiệp thường có nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ nhân viên rất lớn. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tổ chức đư ợc hoạt động bồi dưỡng cho nhân viên của mình. Do đó, các cơ sở đào tạo nên liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp để tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cho doanh nghiệp. Đây là hình thức đào tạo, bồi dưỡng đem lại hiệu quả cao, đáp ứng được yêu cầu đặt ra của doanh nghiệp và hạn chế được chi phí cho doanh nghiệp. Đồng thời việc các cơ sở đào tạo nên liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp cũng là cơ sở tạo đầu ra cho học viên, sinh viên sau khi ra trường, tạo ra các cơ sở thực tập tin cậy nhằm nâng cao chất lượng trong quá trình đào tạo. Các doanh nghiệp cũng cần tăng cường liên kết, hợp tác với các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp khác trong công tác đào tạo.Việc tăng cường liên kết, hợp tác với các cơ sở đào tạo giúp doanh nghiệp có thể phát triển được mô hình đào tạo tại chỗ theo đ ơn đặt hàng, vừa tiết kiệm chi phí, vừa mang lại hiệu quả cao, đáp ứng được nhu cầu sử dụng của các doanh nghiệp. Đồng thời, qua đó doanh nghiệp cũng sẽ lựa chọn, tuyển dụng đ ược nhân lực có chất lượng đáp ứng đ ược yêu cầu của mình. Các doanh nghiệp có thể có các chương trình tài trợ trong việc biên soạn và in ấn giáo trình, trao học bổng cho sinh viên, tiếp nhận, hư ớng dẫn tạo điều kiện cho sinh viên thực tập... Việc liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp với nhau trong công tác đào tạo, bồi dưỡng sẽ có tính khả thi và hiệu quả cao, đặc biệt các doanh nghiệp trên cùng một địa bàn, trong cùng một địa phương và có sự hỗ trợ của cơ quan quản lý du lịch tại địa phương hoặc của các hiệp hội ngành nghề. 19
  20. Tiểu luận: Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam KẾT LUẬN Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển du lịch. Nguồn nhân lực du lịch Việt Nam đang đứng trước thực trạng thiếu về số lư ợng, yếu về chất lượng; cơ cấu về trình độ và phân bố giữa các doanh nghiệp, vùng miền không cân đối; trình độ ngoại ngữ, tin học kém… Đây thực sự là điều đáng lo ngại cho ngành du lịch Việt Nam, nhất là khi Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO. Vấn đề đặt ra đối với nguồn nhân lực du lịch Việt Nam hiện nay là cần đào tạo nguồn nhân lực; tranh thủ mọi sự hợp tác, hỗ trợ của nước ngoài; huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để có thể phát triển nguồn nhân lực theo chuẩn khu vực và quốc tế, góp phần đưa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn như Đảng và Nhà nước đã xác đ ịnh. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2