Tiểu luận: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
lượt xem 0
download
Đề tài "Phát huy sức mạnh đại đoàn kết trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)" nghiên cứu nhằm làm nổi bật vai trò và tầm quan trọng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954).
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG TIỂU LUẬN PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 - 1954) HỌC PHẦN: DEFN1401 - HỌC THUYẾT MÁC – LÊ NIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH, QUÂN ĐỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 06 năm 2021
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG TIỂU LUẬN PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 - 1954) HỌC PHẦN: DEFN1401 – HỌC THUYẾT MÁC – LÊ NIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHIẾN TRANH, QUÂN ĐỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC Họ và tên: Mạc Thanh Trúc Mai Mã số sinh viên: 46.01.905.046 Lớp học phần: DEFN140101 Giảng viên hướng dẫn : ThS. Đặng Văn Khoa Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 06 năm 2021
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................1 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ................................................................................2 3. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................ 2 4. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................................2 5. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................................2 6. Kết cấu của đề tài ......................................................................................................2 NỘI DUNG .....................................................................................................................3 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 - 1954) .........................................3 1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân ...........................................3 1.1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân ..........3 1.1.2. Một số khái niệm ..........................................................................................3 1.1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân ...5 1.2. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) .....................................................................................................................................7 1.2.1. Đại đoàn kết toàn dân là vấn đề chiến lược đảm bảo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) ............................................................................7 1.2.2. Đại đoàn kết toàn dân phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân tộc thống nhất ..................................................................................9 Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................11 CHƯƠNG 2: PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP VÀO XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY ......................................................................................................12 2.1. Vai trò của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay ...........................................................................................................12 2.2. Một số giải pháp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay ......................................................................................13
- 2.3. Trách nhiệm của sinh viên ...............................................................................17 Tiểu kết Chương 2 .......................................................................................................18 KẾT LUẬN ..................................................................................................................19 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................. 1
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đại đoàn kết toàn dân đã trở thành di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam. Tinh thần yêu nước, trọng nhân nghĩa, khoan dung, sự cố kết, đùm bọc yêu thương nhau đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi người dân, trở thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó toàn dân Việt Nam. Bất luận trong hoàn cảnh nào, đã kết thành sức mạnh vô địch, đưa dân tộc ta vượt lên mọi khó khăn, thử thách, lập nên những kỳ tích vẻ vang trong đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại đoàn kết toàn dân là truyền thống quý báu, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Truyền thống đó được đúc kết, hình thành và phát triển bởi tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ của dân tộc ta hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, chiến thắng mọi thiên tai, địch họa, để xây dựng nên Tổ quốc Việt Nam ngày càng cường thịnh. Tinh thần yêu nước ấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (Lê Huy Vịnh, 2021). Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân thực sự được nhân lên gấp bội khi ý thức dân tộc, truyền thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam - một chính Đảng của giai cấp công nhân biết kế thừa truyền thống lịch sử quý báu của dân tộc, trung thành với lợi ích của nhân dân, kiên trì phấn đấu hy sinh vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), đường lối kháng chiến của cách mạng Việt Nam mà Đảng ta xác định ngay từ đầu cuộc chiến tranh là: “Toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính” với đường lối kháng chiến đúng đắn, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh dân ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Qua thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói riêng và cách mạng Việt Nam nói chung, đã cho ta thấy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, dưới sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có tầm quan trọng đặc biệt góp phần vào công cuộc giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại” (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2016). Người cũng chỉ rõ: “Trước kia chỉ đánh nhau về mặt quân sự, nhưng ngày nay đánh nhau về đủ mọi mặt: quân sự, kinh tế, chính trị, tư
- 2 tưởng,… không dùng hoàn toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được” (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2016). Lịch sử cách mạng Việt Nam hàng thế kỷ qua cũng đã chứng minh, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được quán triệt và thực hiện đúng thì cách mạng sẽ phát triển mạnh và giành được thắng lợi. Để có thể hiểu rõ hơn tầm quan trọng cũng như vai trò của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tác giả đã chọn đề tài: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)” làm đề tài tiểu luận của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài Đề tài nghiên cứu nhằm làm nổi bật vai trò và tầm quan trọng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954). 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954). 4. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu về vấn đề sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Thời gian: Nghiên cứu thời gian từ năm 1945 đến năm 1954. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sử dụng các phương pháp về quan điểm hệ thống – cấu trúc, quan điểm lịch sử, phân tích – tổng hợp, thống kê, quan điểm thực tiễn để xem xét nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu và định hướng cho quá trình nghiên cứu. 6. Kết cấu của đề tài Đề tài gồm: Mở đầu; 2 chương; kết luận và tài liệu tham khảo.
- 3 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945 - 1954) 1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân 1.1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân * Cơ sở lý luận Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, về lực lượng nền tảng và giai cấp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân, về đoàn kết giai cấp vô sản thế giới và đoàn kết các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và sự thành công của cách mạng chủ yếu phụ thuộc vào việc tập hợp được quần chúng thành khối thống nhất mà nền tảng là liên minh công – nông – trí thức, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Từ những quan điểm trên của chủ nghĩa Mác – Lênin đã được Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc, nhờ đó đã giúp Người đánh giá được những yếu tố tích cực cũng như hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam và các nhà cách mạng lớn trên thế giới để từ đó chuyển hóa thành hệ thống tư tưởng của mình về đại đoàn kết toàn dân. * Cơ sở thực tiễn Trên cơ sở thực tiễn các phong trào yêu nước, phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tổng kết và rút ra những kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào này, trong đó có kinh nghiệm về thực hiện đoàn kết lực lượng cách mạng. Đây là cơ sở quan trọng, cần thiết cho việc hoàn thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân. Khi Người nghiên cứu về thực tiễn Việt Nam, Người rút ra bài học lịch sử sâu sắc là: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại, lúc nào nước ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” (Hương Lan, 2014.). Từ thực tiễn này, Người đã đặc biệt quan tâm chăm lo xây dựng, củng cố, phát triển khối đại đoàn kết dân tộc và chính Người đã trở thành linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc. 1.1.2. Một số khái niệm * Tư tưởng Hồ Chí Minh Là một hệ thống các quan điểm, nhận thức, tư tưởng chỉ đạo rất cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay. Đó là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-
- 4 Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Người nhiều lần khẳng định: “Nước Việt Nam là một, Dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi.”; “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.”; “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, nước ta có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế.”; “Nước độc lập mà Dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì.” (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 2021). Vì vậy, độc lập phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tức là phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, Dân tộc Việt Nam có vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, điều quan trọng là phải phát huy được sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc, tập hợp được mọi lực lượng, dân tộc, tôn giáo, mọi người dân Việt Nam yêu nước: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công!”; “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”; “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Mác-Lênin”. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo đúng đắn của một đảng cách mạng chân chính. Đảng có mạnh thì dân tộc mới mạnh, vì Đảng là đội tiên phong, là người lãnh đạo của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, 2021). * Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết Đoàn kết là thống nhất mục tiêu, ý chí và hành động có vai trò, ý nghĩa quyết định đến sự thành công của mọi tổ chức, cộng đồng và Quốc gia - dân tộc. Chân lý này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết như sau: “Muốn thắng lợi thì mỗi người phải dựa vào lực lượng của số đông người, tức là của tập thể, của xã hội. Riêng lẻ từng cá nhân thì nhất định không thắng nổi tự nhiên, không sống còn được. Để sống còn, loài người lại phải sản xuất mới có ăn, có mặc. Sản xuất cũng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội. Chỉ riêng lẻ cá nhân cũng không sản xuất được. Thời đại chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng, mọi việc càng phải dựa vào của tập thể, của xã hội; cá nhân càng không thể đứng riêng lẻ mà càng phải hòa mình trong tập thể, trong xã hội” (Hồ Chí Minh, 2011).
- 5 Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, đoàn kết là một nhu cầu khách quan, xuất phát từ mỗi cá nhân trong cộng đồng, vì lợi ích tương đồng mà có xu hướng tập hợp lại, tạo thành một khối, phát huy và cộng hưởng thế mạnh của từng cá nhân, tạo nên sức mạnh cộng đồng để cùng đạt mục tiêu chung (Khuất Việt Hùng, 2021). *Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân là một bộ phận quan trọng hợp thành trong hệ thống tư tưởng của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu toàn bộ di cảo của Người có thể nhận thấy cụm từ “đoàn kết” được Người nhắc tới hơn hai ngàn lần và cụm từ “đại đoàn kết” được Người nhắc tới hơn tám mươi lần, điều đó nói lên sự quan tâm đối với vấn đề đoàn kết ở mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh của lịch sử, đồng thời tỏ rõ tầm chiến lược tư tưởng đoàn kết của Người. Đoàn kết có thể hiểu một cách đơn giản là sự tập hợp, kết thành một khối thống nhất, cùng hoạt động vì một mục đích chung nào đó. Còn đại đoàn kết là đoàn kết rộng rãi tức muốn nhấn mạnh tới thành phần, quy mô, lực lượng của khối đoàn kết. Hồ Chí Minh nói nhiều tới đoàn kết, đại đoàn kết, tuy nhiên chỉ một lần duy nhất Người định nghĩa về khái niệm đại đoàn kết: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, cái gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác” (Hồ Chí Minh, 2011). Tư tưởng về đại đoàn kết tiếp tục được Hồ Chí Minh cụ thể hóa hơn trong các cụm từ như: “đại đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết toàn dân”, “đoàn kết dân tộc”, “toàn dân tộc ta đoàn kết”. Tuy cách diễn đạt có thể khác nhau, nhưng nội hàm của các khái niệm trên đều thống nhất khi khẳng định lực lượng của khối đại đoàn kết là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Như vậy, đại đoàn kết toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, đoàn kết mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay định cư ở nước ngoài thành một khối vững chắc trên cơ sở thống nhất về mục tiêu chung và những lợi ích căn bản. 1.1.3. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân Nội dung của tư tưởng đại đoàn kết toàn dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lấy dân làm gốc. Cả cuộc đời Người dành cho dân, cho nước, thấu hiểu nỗi thống khổ, khát vọng chính đáng của Nhân dân nên Người tin vào dân, đánh giá cao vai trò của người dân, thấy được sức mạnh vô địch của đoàn kết toàn dân. Với cách diễn đạt dễ hiểu, Người chỉ rõ: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng xong”
- 6 (Hồ Chí Minh, 2011). Người tổng kết, khẳng định chân lý: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” (Hồ Chí Minh, 2011). Tư tưởng này chứng tỏ tầm nhìn vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh so với nhiều nhà yêu nước trước đó khi họ chưa thấy được sức mạnh của quần chúng, chưa biết cách tổ chức quần chúng thành một khối thống nhất để thực hiện mục tiêu đặt ra. Nội dung của tư tưởng đại đoàn kết toàn dân của Người xuất phát từ sâu thẳm tình yêu thương con người bao la, thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn cách mạng sâu sắc; nó tỏa sáng văn hóa Hồ Chí Minh: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời” (Hồ Chí Minh, 2011). Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tư tưởng đại đoàn kết toàn dân trong mối quan hệ với đoàn kết toàn Đảng, coi đoàn kết trong Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sứ mệnh lãnh đạo của Đảng đối với đại đoàn kết toàn dân. Trước lúc đi xa, Người đã viết bản Di chúc, dặn dò những lời tâm huyết, căn cốt nhất của vị Cha già dân tộc với toàn Đảng, toàn dân, trong đó ở phần mở đầu và cuối của bản Di chúc đều nói về đoàn kết. Phần đầu, Người viết: “Trước hết nói về Đảng: Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Người nhấn mạnh: “Các đồng chí từ Trung ương cho đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Người căn dặn cán bộ, đảng viên phải hết sức coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, phê bình, tự phê bình làm cơ sở cho đoàn kết: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triến sự đoàn kết thống nhất trong Đảng”. Cuối Di chúc, Người khẳng định lại: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Như vậy, thông điệp xuyên suốt trong bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Đảng mà Người gửi lại là giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng đoàn kết trong Đảng phải gắn bó mật thiết với đoàn kết toàn dân. Khi nói về bệnh hẹp hòi trong Đảng, Người phê bình một số cán bộ, đảng viên quan liêu, hách dịch, coi thường, xa rời người dân, thiếu chân tình đoàn kết với dân: “Chỉ đoàn kết trong Đảng, cách mạng cũng không thành công được, còn phải đoàn kết nhân dân cả nước. Họ quên rằng: so với số nhân dân thì số đảng viên chỉ là
- 7 tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một người đảng viên. Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết” (Hồ Chí Minh, 2011). 1.2. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) 1.2.1. Đại đoàn kết toàn dân là vấn đề chiến lược đảm bảo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) Thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là một trong những minh chứng rõ nét cho truyền thống đại đoàn kết, ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn thể dân tộc Việt Nam trong lịch sử dựng nước, giữ nước. Tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai, Đảng ta xác định đây là cuộc kháng chiến: “Toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh”. Ngay trong “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (19/12/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “... bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì đều phải đứng lên đánh đuổi giặc Pháp, cứu Tổ quốc” (Hồ Chí Minh, 2011). Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, toàn dân, toàn quân ta từ Bắc chí Nam, từ rừng núi, nông thôn, đồng bằng đến đô thị, đâu đâu cũng đứng lên đoàn kết chiến đấu với tinh thần bất khuất, cùng các lực lượng vũ trang càng đánh càng mạnh, từng bước giành lại quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính, đẩy quân địch vào thế sa lầy, bị động. Quân và dân thủ đô Hà Nội và các thành phố, thị xã Hải Phòng, Huế, Nam Định, Đà Nẵng, Vinh đã tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, bảo vệ an toàn cho các cơ quan và nhân dân rút ra khỏi đô thị, vận chuyển một khối lượng lớn máy móc, vật tư ra vùng tự do để xây dựng hậu phương. Ở miền Nam, quân ta cũng mở nhiều trận đột kích vào Sài Gòn - Chợ Lớn, sân bay Tân Sơn Nhất, phát triển chiến tranh du kích ở đồng bằng sông Cửu Long, gây cho địch nhiều thiệt hại. Ở những vùng có chiến sự, nhân dân ta đã phá hoại đường sá, cầu cống, nhà cửa, triệt để thực hiện chính sách “vườn không nhà trống”. Hàng triệu người đã hy sinh nhà cửa, tài sản, không chịu hợp tác với giặc, tản cư ra khỏi vùng địch chiếm theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Tản cư cũng là kháng chiến”. Nhân dân vùng tự do sẵn sàng đón tiếp, giúp đỡ đồng bào tản cư nơi ăn, chốn ở, việc làm. Trong những ngày đầu kháng chiến, công tác thông tin tuyên truyền đã được triển khai mạnh mẽ. Mạng lưới báo chí ở Trung ương đã khắc phục nhiều khó khăn để phục vụ kháng chiến. Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, đài Tiếng nói Nam Bộ, hệ thống các báo của Đảng, đoàn thể, quân đội ở Trung ương vẫn bảo đảm được hoạt động trong khi di chuyển, các khu và thành phố cũng ra báo, các tỉnh đều có bản tin. Những khẩu hiệu phổ biến được viết lên ở khắp nơi là: “Toàn dân đoàn kết, kháng chiến lâu dài”; “Mỗi phố là một mặt trận”; “Mỗi làng là một pháo đài”; “Cướp súng giặc bắn giặc”; “Mỗi viên đạn là một quân thù”; “Không đi lính cho Pháp”; “Không bán lương thực cho Pháp”; “Đánh giặc, trừ
- 8 gian”; “Giữ bí mật quân sự là yêu nước”. Nhiều làng, xã, thị trấn có các bảng thông tin, chòi phát thanh để kịp thời phổ biến tin tức chiến đấu, sản xuất ( Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 2020). Năm Giáp Ngọ 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, quân và dân ta đã đánh thắng thực dân Pháp xâm lược, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Bên cạnh những ý nghĩa, giá trị to lớn về chính trị, quân sự, ngoại giao,… Chiến thắng thực dân Pháp còn khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Mặc dù gặp vô vàn gian nan, thử thách do chiến dịch diễn ra ở địa bàn rừng núi, hiểm trở, vùng Tây Bắc mới được giải phóng, kinh tế - xã hội chậm phát triển, vật chất hậu cần, kỹ thuật thiếu thốn,… nhưng chúng ta đã phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân đáp ứng đầy đủ, kịp thời mọi yêu cầu của chiến dịch, nhất là trong trận quyết chiến chiến lược. Cả nước đã huy động tới 62.000 dân công, thanh niên xung phong tham gia xây dựng và sửa chữa cầu, đường, bến bãi; vận chuyển hơn 25.000 tấn lương thực, thực phẩm, hàng ngàn tấn vũ khí trang bị, đạn dược ra mặt trận,... Khí thế bừng bừng ra trận, tinh thần đoàn kết của mọi tầng lớp nhân dân đã trở thành một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm cho thắng lợi. Tổng kết chiến dịch cho thấy, khối lượng vật chất của nhân dân cả nước đã huy động là 23.126 tấn gạo, 266 tấn muối, 992 tấn thịt, 800 tấn rau, 917 tấn thực phẩm khác,... với 216.451 lượt dân công và 12 triệu ngày công, 20.991 xe đạp thồ, 736 xe súc vật kéo, 11.400 thuyền bè mảng,... Những điều khó khăn nhất tưởng như không thể vượt qua về hậu cần chiến dịch đã được giải quyết thành công. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân đã góp phần tạo nên kỳ tích vượt bậc đó (Mỹ Kim, 2014). Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân còn được huy động ở mức cao nhất trong phối hợp tiến công trên các hướng chiến lược để căng kéo quân địch phải phân tán ra các chiến trường theo ý định của ta. Quân và dân ta ở khắp các địa phương trên cả nước, từ Tây Bắc, Liên khu III, Tả Ngạn đến Bình - Trị - Thiên, Liên khu V, Bắc Tây Nguyên, Sài Gòn - Gia Định, Nam Bộ,... đều đẩy mạnh các hoạt động phối hợp, liên tiếp tiến công tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai và nhân dân, buộc thực dân Pháp phải phân tán lực lượng khắp nơi để đối phó. Bên cạnh đó, ta cũng giải quyết hợp lý quyền lợi giữa các tầng lớp nhân dân ở vùng hậu phương, không làm suy yếu mối đại đoàn kết toàn dân. Chiến thắng thực dân Pháp nêu cao truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết của dân tộc Việt Nam, nêu cao tinh thần chiến đấu anh dũng, chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn,… của toàn quân và toàn dân ta trên khắp các chiến trường. Đó là tinh thần chiến đấu của các đơn vị kéo pháo, làm đường, đào hầm, dân công tải đạn, lương
- 9 thực dưới làn mưa bom, bão đạn của kẻ thù,… Đó còn là những tấm gương hy sinh anh dũng của các anh hùng liệt sĩ như: Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai, Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo,… Tất cả đã góp phần xây dựng nên truyền thống đoàn kết “quyết chiến, quyết thắng” cho cuộc kháng chiến. Chiến thắng thực dân Pháp là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, một vinh dự lớn lao và là niềm tự hào của dân tộc ta, một dân tộc nhỏ, yếu và một lực lượng quân đội còn non trẻ mà đã đánh thắng đội quân tối tân, nhà nghề là thực dân Pháp, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Thắng lợi của kháng chiến là do nhiều nguyên nhân tạo nên, nhưng nhân tố có tính quyết định là sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đẳn của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo, chỉ đạo ấy có mục đích chính nghĩa, có đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo đã phát huy được sức mạnh của toàn dân, kết hợp được sức mạnh toàn dân và quốc tế để giành chiến thắng. 1.2.2. Đại đoàn kết toàn dân phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân tộc thống nhất Theo Người, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi chung chung, mà phải trở thành đường lối chiến lược cách mạng, thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Nó phải trở thành sức mạnh vật chất, một lực lượng mạnh có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên tắc: Thứ nhất, đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu. Hồ Chí Minh cho rằng nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Sự đoàn kết phải lấy lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu phấn đấu. Thứ hai, đại đoàn kết phải xây dựng trên nền tảng liên minh công, nông và trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người cho rằng: Liên minh công nông- lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân. Thứ ba, mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc thống nhất lợi ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng.
- 10 Thứ tư, khối đoàn kết trong Mặt trận là đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” (lấy cái chung, đề cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt). Trong quá trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nội dung và hình thức tổ chức của Mặt trận có sự thay đổi phù hợp với nhiệm vụ cách mạng tùy từng lúc, từng nơi. Đó là Mặt trận dân chủ Đông Dương trong những năm đấu tranh hợp pháp 1936 - 1939, Mặt trận Việt Minh trong cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật đưa tới thành công của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Liên Việt trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (ở miền Bắc) và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam cùng Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình ở miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, chấn động địa cầu, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi, giải phóng được một nửa đất nước, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn ở miền Nam ruột thịt. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam, nhân dân ta đã làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; đưa đất nước ta cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế (Nguyễn Thị Dung, 2020).
- 11 Tiểu kết chương 1 Hồ Chí Minh sinh ra trong một dân tộc có truyền thống đấu tranh kiên cường vì độc lập, tự chủ nên đã nhìn thấy sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, nguồn động lực to lớn của nhân dân Việt Nam trong dựng nước và giữ nước. Sau khi tìm thấy con đường cứu nước và trước những đòi hỏi khách quan của cách mạng, Hồ Chí Minh đã sớm đưa ra quan điểm về mặt trận dân tộc thống nhất, biểu hiện cụ thể của khối đại đoàn kết dân tộc với một hệ thống những quan điểm khá hoàn chỉnh về công tác mặt trận, được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp thu và dựa vào thực tiễn ở Việt Nam, kết hợp đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một đóng góp quan trọng vào kho tàng kinh nghiệm cách mạng thế giới, làm phong phú lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác vận động và tổ chức quần chúng của Đảng Cộng sản. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã và đang chứng minh sức sống kỳ diệu của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Trung thành và kiên định đi theo ngọn cờ đại đoàn kết Hồ Chí Minh, nghiên cứu để kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đại đoàn kết của Người là một trong những nhân tố quan trọng giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành nhiệm vụ, góp phần xây dựng thành công một nước Việt Nam độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- 12 CHƯƠNG 2: PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP VÀO XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC HIỆN NAY 2.1. Vai trò của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân không chỉ phát huy vai trò trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp nói riêng và bảo vệ Tổ quốc nói chung mà sẽ luôn tiếp tục duy trì và phát triển theo thời gian. Ngày nay, vai trò của đại đoàn kết toàn dân càng cần được nâng cao và phát triển. Với tình hình đất nước ta hiện nay, tinh thần và sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân càng được thể hiện rõ khi nhân dân cả nước ta đoàn kết thống nhất, chung sức, chung lòng cùng Đảng, nhà nước và toàn dân “chống giặc và chiến thắng giặc Covid – 19”. Một lần nữa, bạn bè quốc tế có dịp kiểm chứng giá trị của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân - một quan điểm mang tính chiến lược, được Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng và được Đảng ta - do Người sáng lập, rèn luyện - thực hiện một cách xuất sắc trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Toàn dân ta còn phát huy vai trò của đại đoàn kết qua các biến cố, thiên tai, thảm họa thiên nhiên mang lại. Gần đây nhất Việt Nam ta đã cho nhân dân trên toàn thế giới thấy được tinh thần đại đoàn kết toàn dân ta khi lũ lụt xảy ra ở miền Trung. Lũ lụt đã khiến cho miền Trung chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ hư hỏng cơ sở vật chất, hạ tầng cho đến thiệt hại về người và của, tác động xấu đến đời sống của nhân dân. Trong bối cảnh sự kiện lũ chồng lũ 2020 gây thiệt hại nghiêm trọng của miền Trung, cộng đồng người Việt ở nhiều khu vực, vùng miền trong nước lẫn ngoài nước đã hoạt động quan tâm, đóng góp với mục đích hỗ trợ, vượt qua giai đoạn hiểm nguy của lũ lụt, thể hiện sức mạnh của đoàn kết với tinh thần “thương người như thể thương thân” quyết tâm không để một người nào soát lại trong khó khăn, bão lũ. Vai trò của đại đoàn kết toàn dân còn được biểu hiện qua việc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Sự thành công của việc bầu cử chính là sự đồng tâm, hiệp lực, sự đoàn kết, ủng hộ của toàn dân, ý thức trách nhiệm cao trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân. Đại đoàn kết toàn dân chính là cội nguồn sức mạnh nội lực của dân tộc Việt Nam - bài học kinh nghiệm này đã được đúc kết qua lịch sử dân tộc và tiếp tục phát huy, tỏa sáng trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân ta còn được tiếp thu và phát triển trong đối ngoại, ngoại giao Quốc tế, trong công tác xây dựng nền Quốc phòng An ninh, nơi biên cương Tổ quốc,… đại đoàn kết toàn dân là lịch sử truyền thống dân tộc, đã và đang được tiếp thu, phát triển trên mọi mặt, mọi lĩnh vực của Đất nước ta.
- 13 2.2. Một số giải pháp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay * Thực trạng Hiện nay, sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã thu được những thành tựu to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Việt Nam đang chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển. Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát triển với nhịp độ cao so với các nước khác trong khu vực. Tình hình chính trị của đất nước luôn luôn giữ được ổn định. Tình hình xã hội có tiến bộ. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế lực của đất nước ta mạnh lên rất nhiều so với những năm trước, đổi mới cho nước ta tiếp tục phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực để phát triển nhanh và bền vững. Mặt khác, nước ta đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan xen nhau. Sự nghiệp đổi mới trong những năm tới có nhiều cơ hội để phát triển. Những cơ hội tạo cho đất nước ta có thể đi tắt, đón đầu, tiếp thu nhanh những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Mặt khác, chúng ta rút ra được nhiều bài học từ cả những thành công và yếu kém của gần hai chục năm tiến hành sự nghiệp đổi mới để đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng. Những thành tựu và thời cơ đã cho phép nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp, tiếp tục ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy hơn nữa nội lực. Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ hay những khó khăn lớn trên con đường phát triển của đất nước. Ví như nạn tham nhũng, tệ nạn quan liêu cũng như sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gây bất bình và làm giảm niềm tin trong nhân dân. Các thế lực phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lợi dụng các vấn đề “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
- 14 Sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” đang đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân ở chiều sâu. Khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. * Giải pháp Trong bối cảnh tình hình trên, để tiếp tục tăng cường và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, cần thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau: Một là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để các cấp, ngành, lực lượng nhận thức sâu sắc về sự cần thiết phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” (Hồ Chí Minh, 2011), “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi...” (Lê Trọng Tuyến, 2017). Công tác tuyên truyền cần phải làm cho nhân dân thấm nhuần lời dạy của Người. Cùng với đó, cần quán triệt, thực hiện quan điểm của Đảng: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo” (Lê Trọng Tuyến, 2017). Để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, cần phát huy những yếu tố tương đồng, cố gắng tìm ra mẫu số chung của mọi giai cấp, tầng lớp, quy tụ sức mạnh của các bộ phận cấu thành dân tộc ta nhằm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Qua đó, để mọi người nhận thức rõ khối đại đoàn kết toàn dân bao gồm mọi người dân đang sinh sống, làm ăn ở trong nước và ở nước ngoài có nguồn gốc là người Việt Nam, không phân biệt là dân tộc thiểu số hay đa số, theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt giàu hay nghèo, nam hay nữ, già hay trẻ, nếu “Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ” (Hồ Chí Minh, 2011) để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về đại đoàn kết toàn dân. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với việc tăng cường, củng cố, phát huy vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng lãnh đạo thông qua đường lối, chính sách, Nhà
- 15 nước quản lý thông qua hệ thống pháp luật, nhằm tạo cơ sở cho sự thống nhất các lợi ích, thống nhất về ý chí và hành động của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, nhất là giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức. Do vậy, Đảng và Nhà nước không ngừng hoàn thiện, thể chế hóa, cụ thể hóa hệ thống đường lối, chính sách, pháp luật để “Bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” (Lê Trọng Tuyến, 2017) nhân dân thực sự làm chủ, được bày tỏ nguyện vọng của mình thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và phải được thực thi trong thực tiễn. Khắc phục triệt để tình trạng có nơi, có lúc thực hiện không đúng, thậm chí trái ngược với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách về dân tộc, tôn giáo, chính sách xã hội phải khuyến khích, động viên, phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Đồng thời, có những chính sách cụ thể, quan tâm mọi mặt đối với các tầng lớp, giai cấp trong xã hội, nhất là chính sách đối với thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, tạo điều kiện để họ khắc phục khó khăn, đảm bảo cuộc sống, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, v.v. Thực sự tôn trọng và tạo điều kiện, cơ hội để nhân dân tham gia thảo luận, góp ý những vấn đề quan trọng của đất nước; phổ biến sâu rộng và thực hiện tốt hơn nữa Quy chế Dân chủ ở cơ sở, giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức xúc đang đặt ra. Cấp ủy và chính quyền các cấp phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết khó khăn, vướng mắc và yêu cầu chính đáng của nhân dân, tin dân và tôn trọng dân. Ba là, giải quyết tốt quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội. “Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới” (Lê Trọng Tuyến, 2017). Tăng cường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng căn cứ kháng chiến cũ, các vùng chiến lược, vùng tôn giáo. Trân trọng, tôn vinh những đóng góp, cống hiến của nhân dân, có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Tôn vinh những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển đất nước “Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng. Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước của kinh tế tư nhân…” (Lê Trọng Tuyến, 2017). Tiếp tục xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp, tạo thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập,
- 16 nghiên cứu, lao động, giải trí, phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực để cống hiến cho đất nước. Thực hiện tốt chính sách bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng, hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Đối với đồng bào định cư ở nước ngoài, cần có chính sách hỗ trợ bà con ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước, đồng thời, cần có cơ chế, chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất nước. Bốn là, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân. Là tổ chức đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, sâu sát quần chúng, cơ sở, quan tâm hơn nữa đến quyền lợi chính đáng của người dân và là “cầu nối” giữa Đảng với dân, góp phần làm cho mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân ngày càng khăng khít, đảm bảo “ý Đảng” luôn hợp với “lòng dân”. Thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần tự lực tự cường, lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của mọi người dân. Phát huy vai trò của nhân dân trong việc xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh, tạo sự đồng thuận xã hội, vận động các tầng lớp nhân dân khắc phục khó khăn, kiên định với đường lối đổi mới do Đảng lãnh đạo, đưa đất nước phát triển. Năm là, kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Cấp ủy, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên cần tham gia tuyên truyền sâu rộng để mọi tầng lớp nhân dân nhận thức rõ âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch đang lợi dụng những khuyết điểm, hạn chế, sơ hở của các cấp chính quyền, của Đảng, Nhà nước và vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân. Từ đó, tạo sự chuyển biến căn bản trong nhận thức, nâng cao tinh thần cảnh giác, sự nhạy bén trong nhận diện và tích cực tham gia đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch. Thực hiện tốt các giải pháp trên sẽ góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, đảm bảo cho đất nước có đủ sức mạnh để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới (Thượng tá, TS. Lê Trọng Tuyến, 2017).
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận Tư tưởng Hồ Chí Minh: Sự vận dụng của Đảng và nhà nước ta về chính sách đối với Việt Kiều yêu nước hiện nay
30 p | 1854 | 621
-
Luận văn tốt nghiệp "Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu của Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì - Packexport”
61 p | 737 | 365
-
Đề án " Thực trạng và giải pháp cơ bản để phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại ở việt nam từ nay đến 2020 "
32 p | 1091 | 323
-
Luận văn tốt nghiệp về 'Một số biện pháp đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu của Công ty xuất nhập khẩu và kỹ thuật bao bì - Packexport”.
60 p | 496 | 195
-
Luận văn - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu
55 p | 717 | 186
-
Tiểu luận "Tình trạng "đô la hoá" nền kinh tế – chiến lược phát huy sức mạnh đồng nội tệ trong hội nhập kinh tế quốc tế"
11 p | 613 | 185
-
TIỂU LUẬN HỌC PHẦN MÔN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC.
26 p | 1031 | 161
-
Tiểu luận: Giao rừng - Cho thuê rừng
20 p | 424 | 150
-
Bài tiểu luận lịch sử đảng
15 p | 484 | 82
-
Báo cáo tiểu luận đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam: Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
48 p | 702 | 82
-
Tiểu luận: Chính sách thương mại quốc tế của Nhâṭ Bản
9 p | 297 | 79
-
Đồ án tốt nghiệp Hoàn thiện công tác kế toán lưu chuyển hàng hoá tại Công ty Phát hành sách Hải Phòng
57 p | 163 | 69
-
LUẬN VĂN: Văn hoá doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng Văn hoá doanh nghiệp
109 p | 231 | 59
-
Đề tài: Nói chuyển giao công nghệ là con dao hai lưỡi "
9 p | 141 | 46
-
Tiểu luận Lý luận chính trị: Bài học về phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và vận dụng vào công cuộc đổi mới hiện nay
27 p | 388 | 39
-
Luận văn đề tài: Văn hoá doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng Văn hoá doanh nghiệp
110 p | 111 | 30
-
Luận án tiến sĩ Sử học: Đấu tranh chính trị ở Quảng Nam - Đà Nẵng trong kháng chiến chống Mỹ từ 1954 đến 1965
229 p | 42 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn