intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu khoa học: Nguyên nhân và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số trên toàn thế giới

Chia sẻ: Nguyen Sinh Hoang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:14

536
lượt xem
83
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu khoa học: Nguyên nhân và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số trên toàn thế giới đề cập tới nguyên nhân và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số -  vấn đề đang làm đau đầu lãnh đạo nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam - để từ đó làm sáng tỏ vấn đề bùng nổ dân số hiện đã vượt ra ngoài biên giới của một quốc gia, một khu vực và đã trở thành một vấn đề lớn trên toàn thế giới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Phương pháp nghiên cứu khoa học: Nguyên nhân và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số trên toàn thế giới

  1. BỘ NGOẠI GIAO HỌC VIỆN NGOẠI GIAO KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO BỘ MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TIỂU LUẬN NGUYÊN NHÂN VÀ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ BÙNG NỔ  DÂN SỐ TRÊN TOÀN THẾ GIỚI Giảng viên hướng dẫn :  TS.Đỗ   Sơn Hải ­  Trưởng  khoa  QHQT Sinh viên thực hiện : Nguyễn Sinh Hoàng  Lớp : CT38H
  2. Hà Nội, tháng 5 năm 2013 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................1 NỘI DUNG TÌM HIỂU......................................................................2 I. KHÁI NIỆM VÀ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ  BÙNG NỔ  DÂN SỐ TRÊN THẾ GIỚI............................................................2 1. Khái niệm...................................................................................2 2. Thực trạng vấn đề bùng nổ dân số...........................................2 II. NGUYÊN NHÂN BÙNG NỔ DÂN SỐ....................................4 1. Sự chênh lệch lớn về tỷ lệ sinh tử ...........................................4 2. Nhu cầu về lực lượng sản xuất................................................5 3. Quan niệm lạc hậu....................................................................5 III. TẠI SAO VẤN ĐỀ DÂN SỐ LẠI ĐƯỢC COI LÀ VẤN ĐỀ  TRÊN TOÀN CẦU..........................................................................6 1. Phạm vi tác động của bùng nổ dân số......................................6 2. Hậu quả tác động của Bùng nổ dân số.....................................7 3. Bùng nổ  dân số  là vấn đề  mà một quốc gia không thể  một   mình giải quyết được....................................................................9 LỜI KẾT............................................................................................11 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................12
  3. LỜI MỞ ĐẦU           Ngày nay, khái niệm “con quái vật dân số” hay “quả bom dân  số” đã trở  nên không còn xa lạ  gì với mỗi chúng ta. Gọi như  vậy   phần nào đã cho chúng ta một cái nhìn khái quát nhất về  tính nguy  hại và cấp thiết, cũng như  những áp lực mà vấn đề  dân số  gây ra   cho chúng ta. Trong vòng bốn thập niên trở lại đây, nhân loại đã có  cái nhìn khác về vấn đề dân số, con người đã có cái nhìn nghiêm túc   hơn trước thực trạng diễn biễn ngày càng phức tạp của vấn đề  dân  số. Trong bài tiểu luận này,  tôi chỉ muốn đề cập tới nguyên nhân và   thực trạng của vấn đề  bùng nổ  dân số  ­ vấn đề  đang làm đau đầu  lãnh đạo nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam ­ để từ  đó làm sáng tỏ  vấn đề  bùng nổ  dân số  hiện đã vượt ra ngoài biên  giới của một quốc gia, một khu vực và đã trở thành một vấn đề lớn   trên toàn thế giới.  Bài tiểu luận của tôi được tìm hiểu theo 3nội dung lớn như sau: I. Khái niệm và thực trạng của vấn đề bùng nổ dân số trên thế giới II. Nguyên nhân bùng nổ dân số III. Tại sao vấn đề dân số lại được coi là vấn đề trên toàn cầu 1
  4. NỘI DUNG TÌM HIỂU I. KHÁI NIỆM VÀ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ  BÙNG NỔ  DÂN SỐ TRÊN THẾ GIỚI 1. Khái niệm            Dân số  là tập hợp những người sinh sống trong cùng một   quốc gia, khu vực, vùng địa lí kinh tế hoặc một đơn vị hành chính.           Bùng nổ dân số là sự gia tăng dân số quá nhanh trong một thời   gian ngắn,gây  ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã  hội1.            Như vậy bản chất của bùng nổ  dân số  chính là sự  tăng lên   nhanh chóng một cách đột biến của số lượng người sinh sống trong   phạm vi của một quốc gia, khu vực, vùng địa lí, hay nói rộng ra đó  là sự gia tăng trên phạm vi toàn cầu. 2. Thực trạng vấn đề bùng nổ dân số a. Cấp độ quốc tế            Dân số  phát triển với tốc độ  chóng mặt. Xét trong toàn bộ  tiến trình lịch sử  xã hội cho đến nay, tỉ  lệ  phát triển dân số  trên  phạm vi toàn thế giới ngày càng cao.           Vào những năm công nguyên, dân số thế giới chỉ vào khoảng   250 triệu người. Cách đó 1.600 năm, dân số thế giới tăng trưởng rất  chậm, đến năm 1650 dân số thế giới chỉ tăng gấp đôi con số trên.           Năm 1825, dân số thế giới lên đến 1 tỉ người.           Năm 1925 dân số thế giới là 2 tỉ người. 50 năm tiếp theo dân  số thế giới tăng gấp đôi, tức là vào năm 1975 đạt tới 4 tỉ người.           Năm 1987, vào ngày 11 tháng 7,dân số thế giới tròn 5 tỉ người,  tức là chỉ cần 12 năm đã tăng thêm 1 tỉ người.           Dân số thế giới đã vượt qua ngưỡng 6 tỉ người vào cuối thập   kỷ XX, đạt 6,616 tỉ người vào năm 2007, với tỷ lệ tăng dân số hằng  năm 1,2% (so với 2% của những năm thập kỷ  60 của thế  kỷ  XX).  Chỉ  trong vòng 12 năm, thế  giới đã tăng thêm 1 tỉ  dân (từ  1987 ­  1999), là giai đoạn ngắn nhất trong lịch sử loài người đểcó thêm 1 tỉ   Từ điển bách khoa toàn thư 1 2
  5. dân và 1 tỉ  tiếp theo sẽ  đạt được sau 13 năm. Theo dự  báo, dân số  thế giới sẽ tăng thêm 2,6 tỉ trong vòng 45 năm tới, tức đến năm 2050  dân số thế giới sẽ đạt 9,1 tỉ người . Như vậy có thể  thấy thời gian   để  dân số  thế  giới tăng thêm gấp đôi, cũng như  thời gian để  Trái  Đất đón thêm 1 tỉ công dân mới ngày càng được rút ngắn một cách  nhanh chóng. Người ta tính rằng cứ 6 tháng dân số thế giới lại tăng   thêm bằng số dân của nước Pháp (50 triệu) và cứ sau 10 năm lại có   một nước Trung Quốc ra đời ở những vùng nghèo nàn nhất trên Trái  Đất. Đó quả thật là những con số khủng khiếp.           Tuy nhiên tốc độ tăng dân số ở các khu vực khác nhau trên thế  giới là không giống nhau. Có một nghịch lí là khu vực các nước  nghèo và kém phát triển nhất lại là những khu vực có tốc độ  tăng  dân số  nhanh nhất. Theo điều tra của Cục Điều tra dân số  Mỹ, tốc  độ  tăng dân số  nhanh nhất lại là  ở các khu vực nghèo khổ  nhất tại   châu Phi, Trung Đông và tiểu lục địa Ấn Độ, nơi trung bình một phụ  nữ  đẻ  7 con. Trong tương lai gần, tốc độ  phát triển dân số  nhanh  nhất vẫn là khu vực châu Phi và Nam Á. Trong vòng nửa đầu thế kỉ  XXI, dân số  châu Phi sẽ  tăng khoảng 2,4 ­ 3 lần, cao hơn tốc độ  tăng dân số  toàn cầu khoảng 1,7 ­ 1,8 lần. Cũng như  vậy tốc độ  tăng dân số ở khu vực Nam Á cũng cao hơn tốc độ tăng dân số toàn  cầu 10 ­15%.           Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2000 ­ 2005, theo thống kê của   Liên hợp quốc, hằng năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu  người, trong đó 6 nước có số  dân tăng thêm chiếm 45% là  Ấn Độ  (số  dân tăng thêm chiếm 22%), Trung Quốc (11%), Pa­ki­xtan, Ni­ giê­ri­a, Mỹ, Băng­la­đét (mỗi nước 4%). Ngoài ra, 16 nước khác có  số  dân tăng thêm chiếm 25%, trong đó In­đô­nê­xi­a (số  dân tăng  hằng năm 2,7 triệu), Băng­la­đét (2,6 triệu), Bra­xin (2,5 triệu), Ê­ti­ ô­pi­a   (1,8   triệu),   Cộng   hòa   Công­gô   (1,5   triệu),   Phi­líp­pin   (1,5  triệu), Mê­hi­cô (1,4 triệu), Ai­cập (1,3 triệu),  Áp­ga­ni­xtan (1,2  triệu), Việt Nam (1,1 triệu), Thổ  Nhĩ Kỳ  (1 triệu), U­gan­đa (0,9  triệu), I­rắc (0,7 triệu), Kê­ni­a (0,7 triệu), Cộng hòa Tan­dani­a (0,7  triệu), Cô­lôm­bi­a (0,7 triệu) và Xu­đăng (0,7 triệu). Trong khi dân  sốcủa nhiều nước, đặc biệt là  ở  châu Phi và châu Á tiếp tục gia  tăng trong vài thập niên tới, thì  ở  một số  nước phát triển đạt dưới   mức sinh thay thế lại có xu thế  suy thoái dân số trong vòng 50 năm   (2000 ­ 2050) như CHLB Nga (số dân giảm 35 triệu), U­crai­na (23  3
  6. triệu), Nhật (15 triệu), Ba­lan (7 triệu), Ru­ma­ni (5 tri ệu), CHLB   Đức (4 triệu), Bê­la­rút và Bun­ga­ri (3 triệu)2. Như vậy, sức ép dân  số đối với đa số các nước đang phát triển, trong đó có nước ta do số  dân tăng thêm hằng năm còn rất lớn trước đời sống kinh tế, chính trị  và xã hội, hạn chế  đến khả  năng cải thiện, phát triển và tiềm  ẩn   nguy cơ  tụt hậu. Dân số  tăng nhanh nằm  ở  khu vực những nước   đang phát triển, với hơn 95% sự gia tăng dân số nằm ở khu vực này.           Hiện nay, dân số thế giới đang gia tăng với tỷ lệ trung bình là   1,2%/năm. Cục điều tra dân số  Mỹ  dự  báo, tốc độ  này sẽ  giảm  xuống còn 0,5% năm 2050. Khi đó, Ấn Độ  sẽ  vượt Trung Quốc trở  thành nước đông dân nhất thế giới. b.  Cấp độ quốc gia            Trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay, có một vấn đề  nan  giải đó là sự tăng nhanh dân số ở khu vực các thành phố lớn. Tỷ lệ  dân cư  tại các thành phố, đặc biệt là các thành phố  lớn ngày càng  cao. Năm 1955, dân số đô thị là 872 triệu người (chiếm 32% dân số  toàn cầu), năm 1975 là 1,5 tỉ người (chiếm 38%), năm 1995 là 2,6 tỉ  người (chiếm 45%). Theo dự báo của Liên Hợp Quốc, tới năm 2025  số  dân sống  ở  các đô thị  sẽ  chiếm 60% dân số  toàn cầu. Số  thành   phố  có trên 10 triệu dân cũng tăng lên nhanh chóng. Nếu như  năm  1975 mới chỉ  có 5 thành phố  như  vậy thì tới năm 1995 đã có 14   thành phố, theo dự đoán thì tới năm 2025 chỉ riêng châu Á sẽ có tới  20 thành phố trên 10 triệu dân3. Khi dân số đô thị toàn cầu bùng nổ  (cứ 38 năm lại tăng gấp đôi) các thành phố lớn nhất thế giới ngoại  trừ Tokyo sẽ bị tụt xuống cuối danh sách vào năm 2015 và thay thế  chúng là các đô thị  nhỏ  hơn mà  ở  đó đang có sự  bùng nổ  dân cư,  cũng theo dự đoán này, Bombay và New Delhi sẽ trở thành các thành  phố  lớn thứ hai và thứ  ba trên thế  giới thay thế  cho Mexico city và  New York hiện nay. II. NGUYÊN NHÂN BÙNG NỔ DÂN SỐ 1. Sự chênh lệch lớn về tỷ lệ sinh tử            Trong giai đoạnđầu phát triển lịch sử phát triển của nhân loại,   tỷ lệ sinh tương đối cao do nhu cầu duy trì nòi giống và nhu cầu lực   lượng sản xuất phục vụ phát triển xã hội, trong khi đó tỉ lệ tử cũng   tương   đối   cao   do   điều   kiện   sống   hạn   chế,   thiên   tai,   dịch   bệnh    Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam 2  Nguyễn Trọng Chuẩn, Những vấn đề toàn cầu trong hai thập niên đầu của thế kỉ XXI, tr.195 3 4
  7. nhiều… Do đó, trong giai đoạn này tỷ  lệ  sinh và tử  tương đối cân  bằng. Ngược lại, trong giai đoạn “bùng nổ  dân số” tỷ  lệ  sinh vẫn   tiếp tục được duy trì trong khi đó tỷ  lệ  tử  có xu hướng giảm do   điều kiện sống được nâng cao, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của  khoa học kỹ  thuật, các nhu cầu cơ  bản của con người được chú  trọng đặc biệt là trong công tác vệ sinh và y tế dẫn tới tỉ lệ tử giảm   xuống. Thêm vào đó, tuổi thọ  của con người được nâng cao dần,  năm 1975 tuổi trung bình của dân cư  thế  giới là 21,9 tuổi, tới năm  2000 là 26,6 tuổi. quá trình toàn cầu hóa đã mang lại cho các quốc   gia kém phát triển khả năng tiếp cận với những tiến bộ khoa học kĩ  thuật. Những căn bệnh trước kia được coi là nan y đã tìm ra phương  pháp chữa trị, người dân đã biết sử  dụng rộng rãi các loại thuốc  vắc­xin, thuốc kháng sinh... Mặt khác khoa học kĩ thuật cũng góp  phần làm giảm tỉ lệ tử ở trẻ sơ sinh, mang lại nhiều cơ hội cho các   cặp vợ  chồng hiếm muộn… Chính những yếu tố  trên đã làm nảy   sinh tình trạng mất cân bằng giữa sinh và tử, dẫn đến tình trạng   tăng dân số một cách chóng mặt. 2. Nhu cầu về lực lượng sản xuất                 Ở  các quốc gia kém phát triển, những nơi mà khoa học kỹ  thuật chưa mấy phát triển và việc áp dụng khoa học và sản xuất  còn rất hạn chế, lực lượng sản xuất vẫn chỉ mới  ở trình độ  cơ  khí  thủ  công, sử  dụng lao động cơ  bắp, lao động chân tay là chủ  yếu,   cộng với những nguồn năng lượng có sẵn trong tự  nhiên để  sản   xuât, trong xã hội như  vậy thì dân số  càng tăng, sức lao động càng   nhiều, càng đẩy mạnh sức sản xuất xã hội. Do đó mà dân số  thế  giới của chúng ta không ngừng tăng lên một cách nhanh chóng, để  đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của từng quốc gia. 3. Quan niệm lạc hậu            Ở một số nước đặc biệt là các nước phương đông vẫn còn   một số  quan niệm lạc hậu: sinh nhiều con, tư  tưởng trọng nam   khinh nữ, muốn sinh con trai… Điều này có thể  thấy rất rõ ở  Việt  Nam, tại các vùng dân tộc thiểu số hoặc các vùng nông thôn thường   có tư tưởng sinh càng nhiều càng tốt và nhất thiết phải có con trai,  do đó mà  ở  các vùng này gia đình nào cũng có 3 con trở  lên.  Ở  các  nước này vai trò và địa vị của người phụ nữ vẫn còn rất thấp, phụ  nữ  nhiều nơi vẫn chưa được giải phóng hoàn toàn. Ngược lại có   5
  8. thể  thấy  ở  các quốc gia phát triển phương Tây, nơi mà người phụ  nữ khá bình đẳng với nam giới và tham gia ngày càng nhiều vào lực  lượng lao động của xã hội thì tỉ lệ sinh rất thấp, chính quyền nhiều  nước còn phải đề ra các chính sách khuyến khích tăng tỉ  lệ sinh. Ở  một số nước nghèo và các nước đang phát triển thì vấn đề tiếp cận,   và nhận thức về dân số còn rất hạn chế, đặc biệt là châu phi và một  số nước ở châu Á, kinh tế nghèo đói, lương thực không đủ ăn chưa  nói đến vấn đề  tiếp cận đến vấn đề  giáo dục dân số  và kế  hoạch  hóa gia đình. Họ thiếu những kiến thức và phương tiện cơ  bản về  phòng tránh thai. Thậm chí nhiều khi chính các nhà lãnh đạo cũng có   nhận thức chưa đầy đử  về  vấn đề  này, ví dụ  cách đây 8 năm thị  trưởng thành phố  Mannila đã ra lệnh cấm các trung tâm y tế  cung  cấp các biện pháp ngừa thai hiện đại như  bao cao su, thuốc tránh  thai và triệt sản nhằm mục đích bảo vệ các giá trị cuộc sống. III. TẠI SAO VẤN ĐỀ  DÂN SỐ  LẠI ĐƯỢC COI LÀ VẤN ĐỀ  TRÊN TOÀN CẦU 1. Phạm vi tác động của bùng nổ dân số           Vấn đề bùng nổ dân số có thể được nhìn nhận từ hai góc độ.   Trên phạm trù quốc tế, có một thực tế là hiện nay vấn đề  bùng nổ  dân số chỉ diễn ra chủ yếu ở các nước đang phát triển và chậm phát   triển, có thể thấy 60% dân số tập trung tại các nước châu Á và châu   Phi, các khu vực còn lại như châu Âu và châu Mỹ dân số chỉ chiếm  40% dân số thế giới. Điều đáng lo ngại hơn là các khu vực kém phát   triển này tốc độ  tăng dân số  luôn  ở  mức cao hơn rất nhiều so với  các nước phát triển. Trong giai đoạn 2000 ­ 2005, theo thống kê của  Liên hợp quốc, hằng năm dân số thế giới tăng thêm khoảng 76 triệu  người, trong đó 6 nước có số dân tăng thêm chiếm 45% và 16 nước   khác   có   số   dân   tăng   thêm   chiếm   25%   thì   ngoài   4   nước   là   Mỹ,  Côlômbia, Mêhicô và Braxin ra thì còn lại đều là các quốc gia châu  Á và châu Phi, và ngoài trừ  Mỹ,  Ấn Độ, Braxin, Trung Quốc ra thì  các nước còn lại đều là các nước đang và kém phát triển. Trong khi   đó thì ở một số nước phát triển như Nga, Nhật hay CHLB Đức đạt  dưới mức sinh thay thế lại có xu thế suy thoái dân số trong vòng 50  năm (2000 ­ 2050). Như  vậy nhìn vào bề  mặt của vấn đề  có thể  nhiều người sẽ  nghĩ vấn đề  bùng nổ  dân số  chỉ  là vấn đề  của các  nước đang phát triển, và quả  thật những hậu quả  mà vấn đề  bùng  nổ dân số mang lại cho các nước này là không phải bàn cãi. Nhưng  6
  9. trong thời đại ngày nay không một vấn đề  nào có thể  tách ra riêng  lẻ mà nó luôn có liên hệ chặt chẽ với các vấn đề khác. Vân đề bùng  nổ  dân số  cũng vậy. Có thể  có người sẽ  suy nghĩ rằng Việt Nam  sinh nhiều thì  ảnh hưởng gì tới Mỹ? Đúng là không  ảnh hưởng  nhiều thật nếu chỉ có Việt Nam nhưng trên thực tế, ngoài Việt Nam   ra còn có rất nhiều các nước trên thế giới cũng đang trong tình trạng  như  vậy,điều đó sẽ  mang lại những  ảnh hưởng không nhỏ  tới các  quốc gia khác, đặc biệt là các nước phát triển. Một điều tất yếu là  khi dân số trong nước quá đông thì người ta sẽ phải tìm đường sang  các nước khác, chủ  yếu là các nước phát triển. Điều mà tôi muốn   nói tới là vấn đề người nhập cư và di dân. Mặc dù trong chiến tranh  thế  giới II đã từng xuất hiện một làn sóng di cư   ồ   ạt từ  các nước,  các khu vực có chiến sự sang nước Mỹ, nguồn nhập cư này đã góp   phần không nhỏ  vào thành công của nước Mỹ  sau này, tuy nhiên   vấn đề  hiện nay là mặc dù nhiều nước  đã thắt chặt chính sách  người nhập cư  nhưng số  lượng người nhập cư  vẫn không giảm,  chủ yếu là qua con đường nhập cư bất hợp pháp. Nhập cư bất hợp   pháp sẽ  dẫn tới những hậu quả không nhỏ  cho các nước phát triển  cả  về  an ninh và xã hội. Đó là tình trạng tội phạm gia tăng, xã hội   bất ổn, xung đột giữa các nhóm sắc tộc. 2. Hậu quả tác động của Bùng nổ dân số a.  Dân số và vấn đề nghèo đói, lạc hậu            Ở phương Tây, có tác giả cho rằng: nếu dân số tăng lên 1%   thì thu nhập quốc dân tăng khoảng 4%.  Ở  nhiều nước kém phát   triển thuộc châu Phi, tỉ lệ tăng dân số hàng năm rất cao lên đến 3%,   nếu muốn đảm bảo nhu cầu cho số  dân mới tăng đó thì thu nhập  quốc dân bình quân mỗi năm phải tăng khoảng 13%, điều đó là vô   cùng khó khăn ngay cả với một quốc gia phát triển chứ đừng nói là  một quốc gia kém phát triển. Trong phạm vi một quốc gia, việc  bùng nổ dân số sẽ khiến cho mức sống của người dân trong nước bị  hạ xuống,mức sống của người dân giảm dẫn tới các dịch vụ  chăm   sóc tối thiểu không được đáp ứng, dịch bệnh gia tăng. Trên phạm vi   quốc tế, bùng nổ  dân số  sẽ  dẫn tới sự  chênh lệch trong phân phối  của cải giữa các khu vực, khiến cho những nước giàu vẫn cứ giàu,  những nước nghèo vẫn cứ nghèo, mặt bằng chất lượng dân số của   thế giới bị kéo tuột xuống.  b. Dân số và vấn đề bệnh tật 7
  10.           Mặc dù chưa có nhà khoa học nào khẳng định được mối liên  hệ giữa vấn đề  bùng nổ  dân số  và bệnh tật, tuy nhiên trên thực tế,  tại các quốc gia đang và kém phát triển, những nước có tốc độ bùng  nổ  dân số  cao nhất thế  giới cũng là những nước mà  ở  đó vấn đề  dịch bệnh đang trở  nên rất nghiêm trọng. Có thể  lấy ví dụ  sau để  thấy được điều đó: theo thống kê năm 2000, thế giới có khoảng 40  triệu người bị  nhiễm AIDS, trong đó 90% là  ở  các nước đang phát  triển, chủ  yếu là  ở  các quốc gia châu Phi (chiếm tới 2/3 số  người   mắc bệnh). Bùng  nổ  dân số  dẫn tới  điều liện sống  nghèo khổ,   chiến tranh xung đột triền miên khiến cho các dịch vụ chăm sóc sức   khỏe cho người  dân không  được  đảm bảo chính là nguyên nhân  chính dẫn tới bệnh tật tràn lan ở châu lục này. c.  Dân số và vấn đề tài nguyên thiếu hụt            Trong xã hội công nghiệp hiện đại, để  đảm bảo cho cuộc  sống của mỗi nguời, mỗi năm phải đào lên được 25 loại khoáng sản  trong lòng đất. Tài nguyên dầu lửa, nếu tiếp tục được khai thác với  tốc độ  như  trong thập niên 90 của thế kỉ trước thì sẽ  cạn kiệt đến   năm 2016. Tài nguyên than trên thế  giới cũng chỉ  còn dùng được   1500 năm nữa, và  ước tính 12 loại tài nguyên khác chỉ duy trì đựoc  50 năm nữa là cùng. Trong đó nghiêm trọng nhất là phải kể tới vấn  đề  thiếu nước  ngọt. Vào đầu thế  kỉ  XXI, một số  vùng Nam Á,  Trung Mỹ, nhất là Bắc Phi, Đông Phi, Tây Phi đã xuất hiện tình  trạng thiếu nước ngọt hoàn toàn. d. Dân số và vấn đề thiếu đất canh tác, lương thực căng thẳng           Với sự tăng trưởng cùa dân số  trên toàn thế  giới, bình quân  ruộng đất canh tác theo đầu người ngày một giảm đi. Năm 1950  bình quân ruộng đất theo đầu người trên thế  giới là 8,5 mẫu, năm  1960 giảm xuống chỉ còn 7,1 mẫu, năm 1968 là 6,1 mẫu, năm 1974  còn 5,6 mẫu và tới năm 1980 chỉ  là 3,9 mẫu. Ruộng đất canh tác  giảm đi tất nhiên không chỉ vì lí do dân số bùng nổ mà còn do nhiều   nguyên nhân khác như  quá trình công nghiệp hóa, đô thị  hóa, tuy   nhiên nguyên nhân dân số  tăng lên vẫn là nguyên nhân chủ  yếu.   Ruộng đất giảm, dân số tăng nhanh làm cho vấn đề lương thực trên  phạm vi toàn cầu ngày càng trở lên căng thẳng. Đầu năm 2008 vừa  qua đã xảy ra cuộc khủng hoảng lương thực lớn và chưa bao giờ  vấn đề  an ninh lương thực lại được đặt ra cấp thiết như  lúc này.  Hiện nay đại đa số  các đang phát triển tại châu Á, châu Phi và Mỹ  La­tinh đã phải nhập lương thực, đó là một minh chứng rõ ràng cho   8
  11. hậu quả của việc bùng nổ dân số tại các nước này. e. Dân số và vấn đề ô nhiễm môi trường           Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa  đang diễn ra trên khắp thế giới, sự bùng nổ dân số đã khiến cho tình  hình ô nhiễm môi trường ngày càng trở  lên nghiêm trọng. Tại các   nước đang phát triển, do sức ép của việc phát triển kinh tế, cho đến  nay vẫn tiếp tục sử dụng sử dụng một cách rộng rãi các loại thuốc  trừ sâu, khai thác đất quá mức… khiến cho sự phá hoại môi trường   sinh thái ngày càng tăng lên. g. Dân số và vấn đề an ninh, xã hội           Dân số tăng nhanh gây ra nhiều bất ổn trong xã hội, đó là nạn   cướp bóc, khủng bố… Dễ thấy khi dân số tăng cao, việc kiếm được  miếng ăn sẽ ngày càng trở lên khó khăn hơn, và để đảm bảo sinh tồn  cho mình người ta có thể  sẵn sàng làm mọi việc, kể  cả  phạm tội.   Nghiêm trọng hơn, xuất phát từ vấn đề dân số quá nhiều dẫn tới việc   thiếu đất sống, thiếu “không gian sinh tồn” có thể  dẫn tới các cuộc  xung đột, chiến tranh giữa các nhóm người, gây nên những hậu quả to  lớn.           Có thể thấy vấn đề bùng nổ dân số đối với vấn đề nghèo đói,   dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, khan hiếm tài nguyên đều có quan  hệ  trực tiếp hoặc gián tiếp. Bản thân các vấn đề  đó đã là các vấn  đề mang tính toàn cầu, có ảnh hưởng tới sự tồn vong của nhân loại,  chính vì vậy, không còn gí nghi ngờ  nữa, vấn đề  bùng nổ  dân số  cũng là một vấn đề  có tầm ảnh hưởng sâu sắc, rộng lớn tới tương  lai của nhân loại. 3. Bùng nổ  dân số  là vấn đề  mà một quốc gia không thể  một  mình giải quyết được           Thực vậy, các nước nghèo là những nước có tốc độ bùng nổ  dân số nhiều nhất nhưng bản thân các nước này vì thiếu các yếu tố  về  vốn, công nghệ  nên không đủ  khả  năng thực hiện các chương   trình dân số một cách hiệu quả, do đó nhất thiết phải có sự giúp đỡ,  tài trợ của các quốc gia phát triển hơn. Trên thực tế, từ cuối thế kỉ  XX, khi hiện tượng bùng nổ  dân số  xuất hiện thì cũng là lúc các   nước bắt đầu ngồi lại với nhau để  bàn bạc về vấn đề  này. Có thể  kể  đến 3 hội nghị  toàn cầu lớn bàn về  vấn đề  dân số  là hội nghị  năm 1974 tại Bucharest, hội nghị  năm 1984 tai Mexico city và hội  nghị năm 1994 tại Cairo. Đặc biệt là trong hội nghị Cairo năm 1994,   9
  12. các nước đã đề  ra được một chương trình kế  hoạch hành động 20  năm cho vấn đề  dân số, các nước giàu còn còn cam kết sẽ  dành  0,7% GNP để  giúp đỡ  các nước kém phát triển, lạc hậu trong vấn  đề  dân số  (tuy nhiên trên thực tế  chỉ  có vài nước Bắc Âu là thực   hiện cam kết này). Ngoài các hội nghị trên còn phải kể tới hàng loạt   các hội nghị cấp khu vực và vai trò của các tổ chức quốc tế khác mà   nổi lên là vai trò của UNFPA­Quỹ  dân số  Liên Hợp Quốc. Thành   viên của UNFPA là tất cả các nước thành viên Liên Hợp Quốc. Vai  trò của UNFPA là trợ giúp các nước đang phát triển thông qua việc  cung cấp các dịch vụ  có chất lượng trong sức khỏe sinh sản và kế  hoạch hóa gia đình; thúc đẩy việc thực hiện chiến lược dân số  do   hội nghị  Cairo thông qua năm 1994; thúc đẩy sự  hợp tác và điều  phối giữa các tổ  chức Liên Hợp Quốc, các tổ  chức song phương,   các chính phủ, các tổ  chức phi chính phủ  và khu vực tư  nhân trong   việc giải quyết các vấn đề về dân số và phát triển. Từ khi bắt đầu   hoạt động năm 1969 đến nay, tổ chức này đã cung cấp 5 tỉ USD cho   việc viện trợ các nước đang phát triển. Giữa Việt Nam và UNFPA  trong thời qua cũng đã có sự  hợp tác khá chặt chẽ  và hiệu quả.  Những nỗ  lực trên đã chứng tỏ  rằng vấn đề  bùng nổ  dân số  đã và  đang nhận được ngày càng nhiều sự quan tâm của cộng đồng quốc  tế, do đó có thể khẳng định lại một lần nữa vấn đề bùng nổ dân số  là một vấn đề toàn cầu. 10
  13. LỜI KẾT           Khi mà nguồn tài nguyên trên trái đất đang ngày một cạn kiệt,  việc sử  dụng hợp lý các nguồn tài nguyên này luôn là vấn đề  tối   quan trọng đối với sự  tồn vong của con người. Dân số  toàn cầu  bùng nổ  tạo nên yêu cầu phải kìm hãm đà tăng dân số. Mặt khác,  việc kiềm chế  tình trạng dân số  già  ở  các nước phát triển cũng là  vấn đề  cấp bách. Bùng nổ  dân số  là  yếu tố  có ảnh hưởng lớn tới   quan hệ  quốc tế trong thời kỳ hội nhập và toàn cầu hoá. Như  vậy,   việc lựa chọn một giải pháp thích hợp để đạt được hiểu quả mong  muốn, đồng thời giảm thiểu tối đa tác dụng phụ  đối với cân bằng   xã hội, chất lượng dân số là một câu truyện dài kỳ. Giải pháp tối ưu  cần có sự  đóng góp tích cực của các nhà chuyên môn để  có thể  áp  dụng   trên   phạm   vi   toàn   cầu,   giúp   nhân   loại   hướng   tới   một   kỷ  nguyên văn minh. 11
  14. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Trọng Chuẩn: Những vấn đề  toàn cầu trong hai thập  niên đầu của thế kỉ XXI. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. 2. Nguyễn Trần Quế: Những vấn  đề  toàn cầu hóa hiện nay.  NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006. 3. Vương Dật Châu (Chủ  biên), An ninh Quốc tế trong thời đại  toàn cầu hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2004 4. http://www.tapchicongsan.org.vn 5. http://www.vietnamnet.vn 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2