intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: So sánh việc bảo hộ thị trường thương mại trong nước bằng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan

Chia sẻ: Tuấn Anh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:14

100
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết so sánh việc bảo hộ thị trường thương mại trong nước bằng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan, trình bày các biện pháp thuế quan, các biện pháp phi thuế quan, thương mại hàng hóa, ví dụ về việc bảo hộ thị trường trong nước bằng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan, so sánh thuế quan và phi thuế quan cùng với một số giải pháp,... Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: So sánh việc bảo hộ thị trường thương mại trong nước bằng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan

  1. GVHD: Bùi Ngọc Tuyền MỤC LỤC I. CÁC BIỆN PHÁP THUẾ QUAN: 1. Các khái niệm cơ bản: Thuế quan là loại thuế lấy vật phẩm xuất nhập qua biên giới quốc gia hay   quá cảnh làm đối tượng thu thuế, tạo thành khoản thu nhập thuế của nhà nước do  hải quan thực hiện.  Một số hiệp định quốc tế đã đưa ra định nghĩa rõ ràng hơn về thuế quan là “  Thuế thu theo tỷ suất thuế kê rõ trong biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu”. Khái niệm   này một mặt tách đối tượng nghiên cứu với thuế  trong nước, mặt khác tách biệt  thuế  quan với các loại thuế  khác thu  được từ  xuất khẩu, nhập khẩu như  thuế  chống phá giá, thuế  trả  đũa… các loại thuế  như  vậy chuyên thu với hàng nhập   khẩu không gắn liền với thuế quan. Thuế  trần là sự  cam kết không tăng thuế  vượt quá một mức thuế  đã được   xác định, được gọi là mức thuế  trần. Mức thuế trần được thể  hiện trong các danh  mục mở  cửa thị  trường. Trong trường hợp ngoại lệ có thể  phá bỏ  mức thuế  trần   nhưng phải tiến hành đàm phán với các nước có liên quan. Biểu thuế cam kết (Biểu thuế nhân nhượng hải quan) là những cam kết  giảm thuế và mức thuế trần đối với hàng hóa nhập khẩu. Lộ trình cắt giảm thuế là kết quả của các vòng đàm phán Urugoay về việc  thành lập WTO, theo đó chấp nhận giảm từng bước hàng rào thuế  quan. Mỗi quốc  Nhóm 1  1
  2. GVHD: Bùi Ngọc Tuyền gia tham gia thỏa thuận phải áp dụng thống nhất cam kết của mình với hàng hóa  nhập khẩu của tất cả  các nước thành viên WTO phù hợp với nguyên tắc tối huệ  quốc. 2. Vai trò của thuế quan:   Thuế  là một công cụ  quan trọng mà bất kỳ  nhà nước nào cũng sử  dụng để  hoàn thành chức năng của mình. Mục đích đánh thuế  của mỗi quốc gia,  ở vào các  thời kì khác nhau không giống nhau. Trong xã hội phong kiến, thu thuế  chủ  yếu là   tăng thu nhập tài chính quốc gia. Bước sang thời kỳ  tư  bản chủ  nghĩa, thuế  quan  không chỉ  là nguồn thu tài chính mà còn là công cụ  thực hiện chính sách ngoại  thương của các nước.  Tuy nhiên, trong tất cả các nền kinh tế xã hội, thuế đều có vài trò như nhau: 2.2.1 Tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước: Trong nguồn thu ngân sách của các quốc gia, thông thường gồm các khoản   thu như: Thuế, phí và các khoản cho vay ngân sách của chính phủ. Trong các khoản   thu đó, có thể nói rằng thuế bao giờ cũng là khoản thu chủ  yếu cho ngân sách nhà   nước. Suốt thời kỳ dài của lịch sử từ sau khi thuế quan ra đời, nhìn chung mục đích   của thu thuế là để cho giai cấp thống trị hoặc thu nhập tài chính quốc gia hoặc cung   đình. Sau khi kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển,  do sự cạnh tranh gay gắt của thị  trường, để bảo vệ sản xuất và phát triển kinh tế của mình, các nước lợi dụng thuế  quan làm phương tiện bảo vệ  bảo hộ, từ  đó xuất hiện thuế  quan bảo hộ  nhưng   thuế quan tài chính vẫn là nguồn thu nhập tài chính của quốc gia. Từ  kinh nghiệm của các nước, có hai vấn đề  có tính nguyên tắc cần chú ý   trong chính sách thuế quan để có thể tạo nguồn thu dồi dào cho ngân sách là : + Đối với nhà nước, thuế suất phải đem đến một năng suất thu tối đa mà lại  không gây cản trở, thậm chí còn kích thích sự phát triển kinh tế xã hội. Thuế không   được triệt tiêu thuế mà trái lại thuế phải nuôi thuế. + Đối với người chịu thuế, thuế  cần phải hạ, làm sao để  người chịu thuế  bớt cảm thấy gánh nặng của thuế. 2.2.2 Thuế là công cụ quản lý và điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế quốc dân: Khi kinh tế  phát triển, chính phủ  có thể  gia tăng thuế  để  làm cán cân thu   nhập nghiêng về phía nhà nước,  hạn chế thu nhập có thể sử dụng, tăng tích lũy nhà  nước, tạo ra một nguồn nhất định dự  phòng khi kinh tế  bị  suy thoái hay gặp điều  kiện bất lợi. Nói cách khác, chính phủ sẽ giảm thuế khi nền kinh tế khó khăn. Nhóm 1  2
  3. GVHD: Bùi Ngọc Tuyền Để phù hợp với chính sách của chính phủ trong từng giai đoạn, thuế được sử  dụng như  một biện pháp chỉnh lại cơ  cấu sản xuất thông qua các mức thuế  suất   phân biệt đối với từng sản phẩm, dịch vụ hoặc giữa các ngành sản xuất kinh doanh   khác nhau, có chính sách ưu đãi thuế đối với một số mặt hàng, ngành hàng. 2.2.3 Bảo hộ và thúc đẩy sản xuất nội địa phát triển: Để  bảo hộ  sản xuất trong nước, một trong những biện pháp hữu hiệu mà  chính phủ  các nước hay sử dụng là đánh thuế  cao hàng nhập khẩu để  làm tăng giá  thành hàng hóa nhập khẩu, dẫn  đến giảm mức cạnh tranh với sản phẩm trong   nước. Thuế bảo quan bảo hộ nói chung là bảo hộ cho công nghiệp nội địa còn yếu   kém và hàng hóa mẫn cảm cạnh tranh. Tỷ  lệ  thuế  quan bảo hộ  về  lý thuyết sẽ  không thấp hơn mức chênh lệch giữa giá trong nước và giá nhập khẩu. Nhưng trong  thực tế thì tỷ lệ thuế cao hay thấp còn phụ  thuộc vào tình hình cung cầu cũng như  điều kiện thay đổi cung cầu gây ảnh hưởng đến giá cả hàng nhập khẩu. 2.2.4 Thực hiện phân biệt đối sử trong quan hệ thương mại: Có thể nói, thuế  quan là biện pháp hay sử  dụng để  thực hiện phân biệt đối   xử  giữa các nước trong quan hệ  thương mại. Các nước có thể  thực hiện thuế   ưu   đãi đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước có thỏa thuận áp dụng chính sách tối huệ  quốc hoặc những thỏa thuận ưu đãi riêng và áp dụng thuế trả đũa đối với hàng hóa   nhập khẩu từ  nước có thực hiện các biện pháp bán phá giá, trợ  giá của chính phủ  hoặc từ những nước có sự phân biệt đối xử hàng hóa của nước mình. 2.2.5 Góp phần điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội  trong phân phối: Trong nền kinh tế  tập trung, tình trạng phân cực giàu nghèo là khó có thể  tránh khỏi. Tình trạng này không chỉ nói lên mức sống bị phân biệt mà còn liên quan   đến đạo đức, công bằng xã hội. Vì vậy sử can thiệp, điều tiết của chính phủ  là rất  quan trọng, trong đó thuế là một công cụ hữu ích. Thông qua thuế, chính phủ có thể  thực hiện điều tiết thu nhập bằng cách đánh thuế  cao đối với những công ty, cá   nhân có thu nhập cao và đánh cao vào những hàng hóa dịch vụ cao cấp mà đối tượng   phục vụ chủ yếu là tầng lớp có thu nhập cao và ngược lại. Có thể nói thuế đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chính sách ngoại   thương của mọi quốc gia. Trong xu hướng đưa hoạt động ngoại thương và thương  mại quốc tế vào môi trường tự do cạnh tranh, các quốc gia đều cố gắng giảm dần   mức thuế quan xuống, tiến tới xóa bỏ các rào cản thương mại. Hiệp định chung về  thuế  quan và thương mại ( GATT ) đã đề  xướng tự  do thương mại. Trong 7 vòng   đàm phán ( 1948 – 1994 ) các thành viên GATT đã đạt thỏa thuận giảm thuế  cho   89.900 hạng mục hàng hóa. Tỷ lệ thuế quan nói chung đã giảm đi nhiều, theo hiệp   định Urugoay ( kết quả vòng đàm phán thứ 8 của GATT ), mức thuế quan trung bình  giảm 40%. Khi đó mức thuế  nói chung  ở  các nước  công nghiệp phát triển còn  Nhóm 1  3
  4. GVHD: Bùi Ngọc Tuyền khoảng không quá 5%, trừ  hàng dệt và may mặc, mức trung bình khoảng 10­40%   chủ  yếu là đối với hàng nhập khẩu từ  các nước đang phát triển. Mức thuế  quan  trung bình  ở  các nước Đông Á chỉ  còn 5­15%, Nam Á 10­60%, Mỹ  Latinh, Trung   Đông, Châu Phi 10­25%. 3. Phân loại thuế quan: 2.3.1 Phân loại theo mục đích đánh thuế: ­ Thuế  tài chính (thuế  ngân sách):  Là thuế  đánh vào hàng hóa để  tăng thu  nhập cho ngân sách nhà nước. ­ Thuế  quan bảo hộ:  Là mức thuế  suất cao đánh vào hàng nhập khẩu, làm  cho giá cả  hàng nhập khẩu cao hơn so với giá hàng trong nước và bị  suy   giảm sức cạnh tranh, tạo điều kiện cho sản xuất trong nước. 2.3.2 Phân theo đối tượng chịu thuế: ­ Thuế xuất khẩu: Chủ yếu đánh vào những mặt hàng mà nhà nước hạn chế  xuất khẩu ra nước ngoài. Những mặt hàng xuất khẩu này sau khi chịu thuế  sẽ bị hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị  trường thế  giới do những bất lợi   về giá cả. ­ Thuế  nhập khẩu:  Đánh vào hàng nhập khẩu, thực hiện đồng thời cả  hai  chức năng về tài chính và bảo hộ. ­ Thuế quá cảnh: Là loại thuế đánh vào hàng hóa khi đi qua biên giới hay lãnh  thổ của một quốc gia. 2.3.3 Phân loại theo phương pháp tính thuế: ­ Thuế tính theo giá: Là loại thuế tính theo tỷ lệ phần trăm so với giá trị của  lô hàng. ­ Thuế  tính theo lượng: Là loại thuế tính  ổn định theo số lượng hoặc trọng   lượng của lô hàng. ­ Thuế hỗn hợp : Là loại thuế kết hợp cả tính theo giá và tính theo lượng. 2.3.4 Phân loại theo mức tính thuế: ­ Thuế  suất  ưu đãi : Áp dụng đối với hàng hóa có xuất xứ  từ  những nước  hay khu vực hợp tác kinh tế trên cơ sở ký kết các thỏa thuận dành cho nhau  những ưu đãi về thuế quan. ­ Mức thuế phổ thông: Là mức thuế áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu từ  những nước hoặc khu vực không có thỏa thuận dành cho nhau ưu đãi về thuế  quan. Nhóm 1  4
  5. GVHD: Bùi Ngọc Tuyền ­ Mức thuế tự vệ: Là mức thuế do chính phủ quyết định áp dụng trong từng  trường hợp cụ thể. Ví dụ: Khi hàng hóa nước ngoài được bán phá giá trong  thị  trường nước mình hoặc hàng hóa nhập khẩu từ  một nước có chính sách  bảo hộ, trợ giá cho hàng xuất khẩu. II. CÁC BIỆN PHÁP PHI THUẾ QUAN: 1. Khái niệm: Phi thuế quan là những biện pháp ngoài thuế quan làm cản trở tự do thương   mại. Trước kia các nước thường hay sử dụng biện pháp phi thuế quan với mục đích   chủ yếu là để bảo hộ sản xuất trong nước, nhưng hiện nay cùng với xu thế quốc tế  hóa ngày càng được mở rộng, biện pháp này dần dần được xóa bỏ và thay thế bằng  các biện pháp thuế quan. Phi thuế quan được hiểu  là cách thức ngăn chặn hoặc gây trở ngại cho hàng  hóa nhập khẩu nhưng không phải là đánh thuế nhập khẩu. 2. Vai trò của phi thuế quan: Phi thuế  quan cũng thường được sử  dụng với những mục đích tương đối  giống thuế quan. Tuy nhiên, theo thời gian, đi đôi với sự phát triển nhanh chóng của   nền kinh tế là sự phát sinh nhiều vấn đề và vai trò của phi thuế quan đã được mở  rộng, gây ảnh hưởng gián tiếp đến những quan hệ khác. Một trường hợp điển hình   là nó được sử  dụng như  là một trong những biện pháp hiệu quả  để  bảo vệ  môi  trường – một vấn đề được coi là vấn đề  toàn cầu hiện nay. Vấn đề  này cũng ảnh   hưởng đến chính sách ngoại thương giữa các nước, đặc biệt là quan hệ  giữa các   nước phát triển và các nước đang phát triển, liên quan đến việc chuyển vốn và công  nghệ. Theo nguyên tắc lợi thế  so sánh, ngoại thương sẽ  tạo ra lợi nhuận cho cả  nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, nhưng đối với những nguồn tài nguyên thiên  nhiên như nước, không khí, đất đai mà mọi người nghĩ là vô tận thì không thể phản  ánh được chi phí môi trường vì chi phí để  bảo vệ, làm sạch hầu như  không thể  hiện. GATT   thừa   nhận   những   trường   hợp   ngoại  lệ   của   việc   tự   do  hóa   ngoại   thương như  đưa ra những biện pháp qui định để  bảo vệ  sức khỏe của con người,   tài nguyên thiên nhiên nhưng vấn đề bảo vệ môi trường cũng không được qui định  rõ ràng. Trên thực tế, các nước vẫn đưa ra những biện pháp khác nhau để  bảo vệ  môi trường đối với hoạt động ngoại thương, trong đó tích cực sử  dụng các biện  pháp phi thuế quan như đặt ra tiêu chuẩn về vệ sinh đối với mặt hàng lương thực  thực phẩm, tiêu chuẩn về kỹ thuật đối với máy móc thiết bị,… 3. Các biện pháp phi thuế quan: Nhóm 1  5
  6. GVHD: Bùi Ngọc Tuyền Các biện pháp phi thuế  quan có thể  chia làm 2 nhóm chính: Hàng rào hành  chính và Hàng rào kỹ thuật.  Hàng rào hành chính là các quy định có tính chất mệnh lệnh hành chính nhà  nước nhằm ngăn chặn hoặc hạn chế xuất nhập khẩu. Hàng rào hành chính  bao gồm các quy định pháp luật về  cấm nhập, cấm xuất, giấy phép, hạn  ngạch, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc. 2.3.1 Cấm xuất khẩu nhập khẩu : Cấm xuất khẩu, nhập khẩu  là việc các quốc gia cấm xuất khẩu hoặc   nhập khẩu một loại hàng hóa hoặc sản phẩm nào đó. Đây là biện pháp bảo hộ cao   nhất, gây ra hạn chế lớn nhất đối với thương mại quốc tế.  Trong thương mại quốc tế  có nhiều trường hợp cấm nhập khẩu như: Cấm   hoàn toàn, cấm theo mùa, cấm tạm thời, cấm vận, cấm sản phẩm nhạy cảm, tạm   dừng cấp phép nhập khẩu... WTO yêu cầu không được phép áp dụng, nếu không có   lý do chính đáng.  Tuy nhiên, các thành viên có thể thi hành các biện pháp cấm xuất khẩu, nhập  khẩu trong một số trường hợp ngoại lệ sau:  ­ Cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia. ­ Cần thiết để bảo vệ  đạo đức xã hội, bảo vệ  con người, động vật và thực  vật, bảo vệ  các tài nguyên thiên nhiên khan hiếm (Điều XX của Hiệp định   chung về  Thuế  quan và Thương mại 1994 (GATT 1994) quy định các thành   viên WTO có thể  được phép áp dụng các biện pháp không mâu thuẫn với  những quy định trong các Hiệp định của WTO, nếu việc áp dụng các biện  pháp này “là cần thiết để bảo vệ sức khoẻ, cuộc sống của con người, động   thực vật” (Mục XX.b) hoặc “có liên quan tới việc bảo tồn các tài nguyên   thiên nhiên có thể  bị  cạn kiệt” (Mục XX.g) bảo vệ các tài sản quốc gia về  nghệ thuật, lịch sử hay khảo cổ, với điều kiện là các biện pháp này cần phải   thực hiện kèm theo việc hạn chế sản xuất hay tiêu dùng nội địa liên quan tới   chúng; và liên quan tới nhập khẩu hay xuất khẩu vàng và bạc; ­ Được áp dụng một cách tạm thời để  ngăn cản hay giảm bớt sự  khan hiếm   lương thực, thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác; Cần thiết để  áp   dụng các tiêu chuẩn hay quy định để phân loại, xếp hạng hay tiếp thị các sản   phẩm trong thương mại quốc tế. Danh mục hàng cấm nhập khẩu của Việt Nam hiện nay bao gồm vũ khí, đạn   dược, vật liệu nổ; hóa chất độc; pháo các loại; hàng điện tử  đã qua sử  dụng...   Ngoài ra trong nhiều văn bản pháp luật của Việt Nam cũng có quy định về  cấm,   hạn chế nhập khẩu các loài động thực vật quý hiếm, giống cây trồng, vật nuôi phù  hợp với Công  ước Cities , các loại phế  thải, phế liệu, hóa chất độc hại theo Công  Nhóm 1  6
  7. GVHD: Bùi Ngọc Tuyền ước Basel ... Quy định cấm nhập khẩu  ở  Việt Nam chủ  yếu dựa trên những cân  nhắc về  mục tiêu an ninh xã hội. Về  cơ  bản các quy định về  cấm, hạn chế  nhập   khẩu của Việt Nam vì lý do môi trường, an toàn và an ninh phù hợp với các quy  định của WTO chứ  không gây phân biệt đối xử, không tạo ra rào cản trá hình đối   với thương mại và dựa trên cơ sở khoa học. 2.3.2 Hạn ngạch nhập khẩu: Hạn ngạch nhập khẩu  là  giới hạn về  khối lưọng hoặc  giá trị  đối với  những hàng hóa nhất định được phép mang từ  nước ngoài vào trong một thời gian  nhất định, thường là một năm. Trên thực tế, việc quản lý các hạn ngạch về  giá trị  khó thực hiện vì thế các hạn ngạch về số lượng được áp dụng một cách phổ  biến.   Nhà nước quy định hạn ngạch nhập khẩu là để  bảo hộ  sản xuất trong nước, bảo  vệ tài nguyên và cải thiện cán cân thanh toán. 2.3.3 Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER): Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một biến tướng của hạn chế nhập khẩu,   là thỏa thuận theo đó một nước đồng ý hạn chế  xuất khẩu của mình sang nước  khác đối với một mặt hàng xác định với một mức tối đa. Các thỏa thuận này tự  nguyện chỉ ở mức độ xuất khẩu muốn tránh một mối đe dọa lớn hơn đối với ngoại  thương của mình và do đó chọn biện pháp ít thiệt hại hơn. Nói cách khác, hạn chế xuất khẩu tự nguyện được đưa ra theo yêu cầu của   nước nhập khẩu và được nước xuất khẩu chấp nhận nhằm ngăn chặn những mối   đe dọa và hạn chế đối với ngoại thương nước mình. 2.3.4 Giấy phép nhập khẩu: Giấy phép nhập khẩu hàng hoá là một biện pháp quản lý nhập khẩu của  Nhà nước. Nó đòi hỏi khi nhập khẩu hàng hoá phải có giấy phép của cơ quan quản   lý Nhà nước. Trong hiệp định về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu của WTO, giấy   phép nhập khẩu được coi là thủ  tục hành chính của chế  độ  giấy phép nhập khẩu,   yêu cầu các nhà nhập khẩu phải đệ  trình đơn hoặc các tài liệu khác cho cơ  quan   quản lý hành chính có liên quan như là một số điều kiện để nhập khẩu. Giấy phép nhập khẩu có hai loại thường gặp: Giấy phép tự  động và giấy  phép không tự động. Với loại giấy phép thứ nhất: Người nhập khẩu xin phép nhập  khẩu thì cấp gay không cần đòi hỏi gì cả. Với loại giấy phép thứ  hai: người nhập  khẩu bị ràng buộc bởi các hạn chế nhập khẩu. Giấy phép nhập khẩu ngày nay ít được sử  dụng hơn so với trước. Mặc dù  vậy, hệ thống giấy phép này vẫn cần để quản lý nhập khẩu một số mặt hàng. 2.3.5 Chế độ hạn ngạch thuế: Nhóm 1  7
  8. GVHD: Bùi Ngọc Tuyền Chế  độ  hạn ngạch thuế  là chế  độ  trong đó quy định áp dụng dụng mức  thuế thấp hơn hoặc bằng không (0%) đối với những hàng hoá được nhập khẩu theo  đúng số  lượng quy định, nhằm bảo đảm cung cấp với giá hợp lý cho người tiêu  dùng. Khi hàng hoá nhập khẩu vượt quá số lượng quy định thì sẽ áp dụng mức thuế  cao (thuế lần 2) để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước. Chế độ hạn ngạch nhập khẩu thuế được thiết lập dựa trên quan điểm đảm  bảo hài hoà mục tiêu bảo vệ  người tiêu dùng và mục tiêu bảo hộ  người sản xuất  nội địa. Vì vậy, Chính phủ  thường nghiên cứu kỹ  càng việc áp dụng chế  độ  hạn   ngạch thuế đối với từng mặt hàng trên cơ sở xem xét cung cầu, thực trạng sản xuất   trong nước để đề ra mức thuế olần một, lần hai và thời hạn áp dụng... nhằm thúc  đẩy tự do hoá ngoại thương. Như vậy chế độ hạn ngạch nhập khẩu, nhà nhập khẩu chỉ được phép nhập   khẩu trong phạm vi số  lượng quy định., Còn trong chế  độ  hạn ngạch thuế, nhà   nhập khẩu vẫn có thể nhập khẩu vượt quá số lượng quy định nhưng phải nộp thuế  theo mức thuế quy định (mức thuế lần 2) đối với phần vượt đó.  Theo quy định của GATT/ WTO, các nước thành viên không được sử  dụng  chế độ hạn ngạch thuế với điều kiện không có sự phân biệt đối sử với tùng nước.   Hàng rào kỹ thuật: 2.3.6 Các biện pháp mang tính hành chính – kỹ thuật hạn chế nhập khẩu:  Đây là nhóm biện pháp nhằm gián tiếp ngăn cản, giám sát hàng xuất, nhập   khẩu ra nước ngoài và từ  nước ngoài vào. Các biện pháp hành chính kỹ  thuật rất   phong phú và đa dạng. Tuỳ  thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế, mỗi quốc gia   đưa ra những biện pháp hành chính kỹ thuật khác nhau để kiểm soát hàng hoá xuất  khẩu, nhập khẩu. III. Thương mại hàng hóa: 1. Khái niệm thương mại hàng hóa: Hàng hóa: sản phẩm nào được xác định là hàng hóa trong thương mại Quốc   tế được xác định theo công ước của hệ thống hải quan thế giới về hệ thống hài hòa  mã số và mô tả hàng hóa ( HS ). Thương mại hàng hóa Quốc tế là tổng thể các hoạt động thương mại liên  quan tới hàng hóa được các nước tiến hành với nhau Khái niệm thương mại được hiểu nghĩa rộng của thuật ngữ này bao gồm tất  cả các tính chất mang tính thương mại. 2. Những đặc điểm cơ bản của thương mại hàng hóa: Nhóm 1  8
  9. GVHD: Bùi Ngọc Tuyền 2.2.1 Tính hữu hình của đối tượng trao đổi: Sản phẩm đưa ra thị trường trao đổi tồn tại ở dạng vật thể hữu hình, nên các  chủ thể thương mại có thể dùng các giác quan để cảm thụ về hàng hóa. Nhà kinh doanh, người tiêu dùng và cơ quan quản lý nhà nước đều có thể dễ  dàng hơn trong việc nhận biết sản phẩm về số  lượng, chất lượng, mức độ  công   năng, lợi ích và sự an toàn của sản phẩm đối với người dùng. 2.2.2 Sự chuyển quyền sở hữu sản phẩm trong trao đổi: Dù các giao dịch có đa dạng như  thế nào chăng nữa, trong thương mại hàng  hóa, kết thúc quá trình mua bán quyền sở hữu về sản phẩm sẽ chuyển từ người bán   sang người mua. Tuy nhiên, người mua không được sở  hữu về  tài sản trí tuệ  hay  bản quyền, nhãn hiệu sản phẩm đó. 2.2.3 Lưu thông hàng hóa tách rời sản xuất và tiêu dùng: Chức năng sản xuất, lưu thông và tiêu dùng đối với hàng hóa tương đối độc  lập với nhau. Đối với nhà sản xuất, có thể sản xuất ra bán ngay hoặc chưa bán, người tiêu  dùng mua hàng hóa nhưng chưa thể  sử  dụng, còn đối với nhà thương mại có thể  mua nhưng chưa bán hoặc bán nhưng lại chưa mua. 2.2.4 Tính   thống   nhất   và   mâu   thuẫn   giữa   các   khâu   của   quá   trình   lưu  thông: Quá trình lưu thông hàng hóa bao gồm quá trình mua, bán, vận chuyển và dự  trữ  kho hàng. Nhìn nhận tổng thể quá trình lưu thông, hàng hóa chỉ  thoát khỏi quá   trình sản xuất và vận động tới tiêu dùng nếu có sự  thống nhất và kết hợp các quá  trình bộ phận lưu chuyển hàng hóa ( mua, bán ) và giao nhận ( Vận chuyển và kho   hàng ). Tuy nhiên, ở từng khâu của quá trình lưu thông lại có sự  mâu thuẫn và tách  rời giữa lưu chuyển hàng hóa và giao nhận, hoặc mâu thuẫn trong từng quá trình bộ  phận đó. IV. VÍ DỤ VỀ VIỆC BẢO HỘ THỊ TRƯỜNG TRONG NƯỚC BẰNG CÁC  BIỆN PHÁP THUẾ QUAN VÀ PHI THUẾ QUAN: 1. Biện pháp thuế quan: 3/2002, Chính Phủ Hoa Kỳ đã áp đặt 1 khoản thuế theo giá trị  với mức thuế  từ 8 30% lên các mặt hàng thép nhập khẩu từ bên ngoài.   Mục đích: Bảo vệ các nhà sản xuất sắt thép trong nước khỏi sự  cạnh tranh   của thép nhập khẩu giá rẻ. Nhóm 1  9
  10. GVHD: Bùi Ngọc Tuyền Tác động: Làm tăng giá thép và sản phẩm thép tại Hoa Kỳ lên tới 3050%  11/2003 WTO đã tuyên bố: mức thuế  mà Hoa Kỳ  đánh lên thép nhập khẩu đã vi   phạm các nguyên tắc của WTO  Hoa Kỳ đã bỏ thuế này vào tháng 12 cùng năm. Trong nước sản xuất được 40.000 tấn đối với mặt hàng A nhưng nhu cầu  lên tới 70.000 tấn Áp dụng thuế  thấp cho 30.000 tấn đầu tiên nhập về, tới tấn  30.001 phải áp dụng thuế cao hơn (công cụ phổ biến được nhiều nước áp dụng). Ô tô ở Mỹ và các nước được nhập khẩu vào Mỹ  có mức thuế là 3%. Ngược lại ô tô của Mỹ nhập khẩu sang Nhật phải chịu loại thuế nhập khẩu.   Nhật áp dụng thuế hàng hóa 23%, đối với lonh kiện điều hòa nhiệt độ thuế 18.5%,   thậm chí chi phí chuyên chở cũng bị đánh thuế.  1 chiếc ô tô của Mỹ bán tại Nhật có thể đắt gấp đôi so vs ở Mỹ. Thuế  của Mỹ  là thuế  quan tài chính trong khi thuế  mà Nhật áp dụng mang  tính chất thuế bảo hộ nhiều hơn. 2. Biện pháp phi thuế quan:  Ví dụ 1: Với các mặt hàng điều hòa nhiệt độ, tủ  lạnh, hàm lượng sáng tạo  tại nước hưởng GSP không được ít hơn 40%, đồ  trang trí làm từ  kim loại  không ít hơn 30%... Đặc biệt, mặt hàng giày dép sẽ chỉ được hưởng GSP nếu   các bộ  phận như  mũi, đế…  ở  dạng rời được sản xuất  ở  nước hưởng GSP   hoặc nhập khẩu từ những nước này.  ­ Giấy phép để nhập khẩu là giấy tờ bắt buộc phải làm đơn để được cấp giấy  phép cho một vài loại hàng hoá. Những thủ tục này làm rào cản tới các loại   hàng hoá cần nhập khẩu. ­ Cấm xuất nhập khẩu liên quan tới quy định của mỗi nước không cho xuất   hoặc nhập khẩu một số loại hàng hoá như  về  an ninh, về  quốc phòng, môi  trường hay những sản phẩm gây ảnh hưởng tới sức khoẻ. Các tiêu chuẩn vệ  sinh, kiểm dịch động thực vật cũng gây ra các rào cản thương mại. ­ Hạn chế  việc xuất khẩu tự  nguyện. Hình thức này là sự  thoả  thuận giữa 2  nước, hạn chế hay giới hạn lại dựa vào khối lượng hoặc giá trị hàng hoá nào   đó xuất khẩu vào nước bên kia.  Ví dụ  2: Dù là một nền kinh tế mạnh nhất thế giới, nhưng Hoa Kỳ vẫn áp   dụng các biện pháp bảo hộ  sản xuất trong nước, dù chỉ  là một ngành sản   xuất nhỏ  như  cá da trơn. Bởi vì  ở  tất cả  các quốc gia tăng trưởng cao về  xuất khẩu, cho dù đã gần đạt được xu hướng tự do hóa hoàn toàn thì họ vẫn  sẽ thực hiện các biện pháp để bảo vệ thị trường trong nước và ở đây nói tới   đó chính là biện pháp phi thuế quan. Nhóm 1  10
  11. GVHD: Bùi Ngọc Tuyền  Ví dụ  3:  Tình trạng xuất nhập khẩu của Việt Nam từ  năm 2010 đến năm  2014. Hàng rào phi thuế  quan là những biện pháp phi thuế  do chính phủ  một số  quốc gia đặt ra để bảo vệ hàng hóa nhập khẩu/xuất khẩu không vượt quá số lượng  đã ấn định, giới hạn hàng nhập khẩu để bảo vệ doanh nghiệp (DN) trong nước. Biện pháp hạn chế định lượng là một trong những hàng rào phi thuế mà hàng  hoá và DN Việt Nam sẽ  gặp phải khi thâm nhập vào thị  trường quốc tế. Ðây là   biện pháp nhằm trực tiếp giới hạn khối lượng hoặc giá trị  hàng hóa nhập khẩu vào  một quốc gia, do đó có tính chất bảo hộ rất cao. Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật là một trong những hàng rào   kỹ thuật thường được các nước áp dụng. Một mặt các tiêu chuẩn này tạo điều kiện   thuận lợi cho thương mại quốc tế bằng cách giúp người mua nước ngoài đánh giá  được quy cách, chất lượng của sản phẩm nhưng mặt khác chúng cũng có thể  trở  thành rào cản thương mại nếu quá khác biệt giữa các nước. Một trong những rào cản lớn khác với hàng hóa và DN Việt Nam là biện   pháp bảo vệ thương mại tạm thời (bao gồm biện pháp tự vệ, chống bán phá giá, trợ  cấp và đối kháng). Trong đó, quan trọng nhất phải kể đến biện pháp chống bán phá  giá. Một sản phẩm bị  coi là bán phá giá nếu giá xuất khẩu thấp hơn mức giá của  sản phẩm tương tự tại nước xuất khẩu. Các nước được phép đánh thuế  chống bán  phá giá với các sản phẩm bán phá giá khi điều tra được hàng nhập khẩu đã được  bán phá giá vào thị trường nước mình đồng thời chứng minh được việc bán phá giá  này gây thiệt hại cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự ở trong nước. Nhóm 1  11
  12. GVHD: Bùi Ngọc Tuyền Có thể nói, không một nước nào trên thế giới lại từ bỏ việc áp dụng các biện  pháp phi thuế ­ một công cụ để bảo hộ sản xuất trong nước hay để đạt được một  số mục tiêu kinh tế ­ xã hội nhất định. Theo quy định của WTO, các nước sẽ phải  dần dần xóa bỏ  một số hàng rào phi thuế, đặc biệt là các biện pháp hạn chế  định   lượng. Tuy nhiên, cùng với tiến trình đó, việc tạo ra và sử  dụng các công cụ  phi  thuế  mới, tinh vi hơn là điều không thể  tránh khỏi. Trong quá trình mở  cửa, hội  nhập Việt Nam càng cần phải hiểu rõ các hàng rào phi thuế quan để vừa đẩy mạnh   được xuất khẩu, vừa bảo hộ hiệu quả các ngành sản xuất non trẻ trong nước. V. SO SÁNH THUẾ QUAN VÀ PHI THUẾ QUAN: 1. Giống nhau:Đều là những "hàng rào" của quốc gia dựng lên để bảo hộ sản  xuất trong nước. 2. Khác nhau: 2.1. Thuế quan: ­  Sử  dụng công cụ  thuế  thông qua thuế  suất, thuế  biểu để  điều chỉnh việc  nhập khẩu. ­  Tồn tại có tính chất lâu dài và là một nguồn thu ngân sách chủ  yếu của 1  Quốc Gia. ­  Chịu sự  giám sát chặt chẽ  của các tổ  chức thương mại song phương và đa  phương, các nước tham gia phải cam kết cắt giảm theo thỏa thuận. .2. Phi thuế quan: ­ Sử dụng nguyên tắc điều chỉnh về số lượng để điều chỉnh việc nhập khẩu. ­ Không tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước. ­ Ít bị chi phối trong các thỏa thuận về thương mại quốc tế. Nó còn được xem   như một "biện pháp tự vệ" trong thương mại quốc tế. Nhóm 1  12
  13. GVHD: Bùi Ngọc Tuyền VI. MỘT SỐ GIẢI PHÁP: Về thuế nhập khẩu, thuế nhập khẩu tác động đến năng lực cạnh tranh của   doanh nghiệp  thông qua sự  tác động vào giá cả  của hàng hóa nhập khẩu trên thị  trường. Thuế nhập khẩu có tác dụng như một công cụ cản trở hàng hóa nước ngoài   tiếp cận thị  trường nội địa, đồng thời tạo điều kiện cho   doanh nghiệp  nhà nước  được hưởng lợi về giá và lượng. Tác động này của thuế nhập khẩu chỉ có ý nghĩa   khi các doanh nghiệp nội địa có khả năng cung ứng sản phẩm với chất lượng và giá   cả tương đương doanh nghiệp nước ngoài. Sự  bảo hộ  của Nhà nước trong điều kiện hội nhập chỉ có thể  tồn tại trong   ngắn hạn. Còn xét về dài hạn, dưới sức ép của các cam kết hội nhập và sức ép của   chính người tiêu dùng trong nước,  Nhà  nước  buộc  phải từng bước mở  cửa thị  trường và giảm thuế suất. Nếu doanh nghiệp không tích cực sử dụng năng lực cạnh  tranh ngắn hạn để  tạo lợi thế, khẳng định năng lực cạnh tranh dài hạn thông qua  giảm chi phí sản xuất, tăng chất lượng thì trong dài hạn  doanh nghiệp sẽ mất năng  lực cạnh tranh khi thị trường mở cửa. Các   doanh   nghiệp  có   mặt  hàng   khi  tham   gia   thị   trường   nước   ngoài   phải  nghiên cứu kỹ thị trường và luật pháp của các nước đó, đặc biệt là phải nắm được   các rào cản phi thuế và phải có sự phối kết hợp với Nhà nước. Ngoài ra, khi xuất   hiện tranh chấp, Hiệp hội  doanh nghiệp  Việt Nam phải thay mặt  doanh nghiệp  đứng ra bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp cũng như mặt hàng xuất khẩu. Nhóm 1  13
  14. GVHD: Bùi Ngọc Tuyền TÀI LIỆU THAM KHẢO 1­ Bách khoa toàn thư mở,[pdf] https://vi.wikipedia.org/wiki/Thu%E1%BA %BF_quan, 08/02/2018. 2­ Nguyễn Xuân Thiện, Giáo trình thương mại quốc tế , Hà Nội: Nhà xuất bản   Đại học Quốc gia Hà Nội. 3­ Surya P.Subedi. GIÁO TRÌNH LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ. Dịch từ  tiếng Anh. Nguyễn Thanh Tâm và các cộng sự, 2012. Hà Nội : Nhà xuất bản   Công an Nhân dân. 4­  https://baomoi.com/hang­rao­phi­thue­quan­doi­voi­hoat­dong­xuat­nhap­khau­  thuc­trang­va­khuyen­nghi/c/14225804.epi 5­ Phòng Hội nhập kinh tế  quốc tế  trong nước, Cẩm nang hội nhập kinh tế  quốc tế. Nhóm 1  14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2