intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận:TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRUNG QUỐC ĐẾN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI MỸ

Chia sẻ: Nguyen Lan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:30

117
lượt xem
21
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trung Quốc là một nước có nền kinh tế mới nổi, tốc độ tăng trưởng GDP rất cao và ngày càng chiếm một vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Bất kì một động thái nào của Trung Quốc cũng có ảnh hưởng đến kinh tế thế giới. Việc định giá thấp đồng nhân dân tệ đã trở thành một vấn đề căng thẳng với nhiều đối tác thương mại, đặc biệt là Hoa Kỳ. Một số nhà phân tích cho rằng Trung Quốc đã cố tình thao túng tiền tệ để đạt được lợi thế thương mại...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận:TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRUNG QUỐC ĐẾN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI MỸ

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP  ĐỀ TÀI: TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TRUNG QUỐC ĐẾN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI MỸ GVHD: NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO Thành viên nhóm: 1. Lê Thị Mỹ Trang – TC01 2. Ngô Thảo My – TC01 3. Ngô Bảo Toàn – TC01 4. Trần Ngọc Ánh – TC01 5. Trần Thị Nguyệt Ánh – TC01 6. Phan Đặng Bảo Anh – TC01 7. Nguyễn Thị Kim Oanh – TC01 8. Nguyễn Lê Thanh Tùng – CK02 Tp.HCM, ngày 26 tháng 2 năm 2012 1
  2. MỤC LỤC Tổng quan đề tài…….…………………………………………………………….3 1.Mối quan hệ của chính sách tỷ giá hối đoái với cán cân thương mại………..5 2. Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc từ năm 2005 tới nay…………...7 3.Tác động từ việc định giá thấp đồng nhân dân tệ lên nền kinh tế Trung Quốc…………………………………………………………………………………8 3.1. Tác động tích cực…….……………………………………………….......9 3.1.1. Trung Quốc trở thành chủ nợ của thế giới…………………….9 3.1.2. GDP tăng trưởng………………………………………………..10 3.1.3. Xuất khẩu gia tăng……………………………………………...11 3.1.4. Thặng dư cán cân thương mại………………………………….12 3.1.5 Một số lợi ích khác……………………………………………….12 3.2. Tác động tiêu cực……………………………………………………......13 4. Tác động của chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc lên cán cân thương mại của Mỹ………………………………………………………………………..14 Ảnh hưởng của NDT lên thâm hụt ngoại thương của Mỹ………………….17 4.1.Đo lường trực tiếp qua REER Mỹ………………………………………17 4,2. Đo lường gián tiếp qua PT1…………………………………………….18 4.3. Đo lường trực tiếp qua REER Trung Quốc…………………………….20 4. 4. Đo lường trực tiếp qua REER song phương Mỹ - Trung……………….20 5. Phản ứng của Mỹ đối với chính sách tỷ giá của Trung Quốc……………....24 Kết luận…………………………………………………………………………...25 Phụ lục…………………………………………………………………………….26 2
  3. TỔNG QUAN ĐỀ TÀI Trung Quốc là một nước có nền kinh tế mới nổi, tốc độ tăng trưởng GDP rất cao và ngày càng chiếm một vị thế quan trọng trên trường quốc tế. Bất kì một động thái nào của Trung Quốc cũng có ảnh hưởng đến kinh tế thế giới. Việc định giá thấp đồng nhân dân tệ đã trở thành một vấn đề căng thẳng với nhiều đối tác thương mại, đặc biệt là Hoa Kỳ. Một số nhà phân tích cho rằng Trung Quốc đã cố tình thao túng tiền tệ để đạt được lợi thế thương mại một cách không công bằng với các đối tác thương mại khác. Họ cũng tranh luận rằng việc phá giá đồng tiền của Trung Quốc là nhân tố chính gây nên thâm hụt thương mại lớn của Mỹ với Trung Quốc và làm mất hàng ngàn công ăn việc làm trên toàn nước Mỹ, đặc biệt là trong sản xuất. Vào tháng 2/2010 Tổng thống Obama tuyên bố rằng sự phá giá đồng tiền Trung Quốc đã đặt các công ty của Mỹ vào “ bất lợi cạnh tranh lớn”, và ông ta đã cam kết sẽ đặt vấn đề chính sách tiền tệ Trung Quốc lên ưu tiên hàng đầu. Tại một cuộc họp báo vào tháng 10/2011, tổng thống Obama phát biểu rằng Trung Quốc cần thay đổi chính sách tiền tệ của mình theo hệ thống thị trường, với nước Mỹ và các nước khác như vậy là quá đủ rồi. Nhiều dự luật về chính sách tiền tệ Trung Quốc đã được giới thiệu trong Quốc hộ 112, có dự luật 1619 được Thượng viện thông qua vào 11/10/2011. Dự luật sẽ áp dụng một số các biện pháp đối với các nước có tiền tệ được coi là “sai lệch cơ bản”. Đồng NDT đã được nâng giá lên 30.4% so với đồng đôla vào khoảng thời gian từ 7/2005 (khi cuộc chuyển đổi tỷ giá hối đoái Trung Quốc bắt đầu) đến 30/10/2011, mặc dù việc này diễn ra với tốc độ khá chậm nhưng trong một số thời kì tỷ giá đồng NDT được tổ chức chống lại đồng đôla. Tốc độ tăng giá NDT đã bị chỉ trích bởi nhiều đối tác thương mại của Trung Quốc, trong đó có Mỹ. Bởi họ cho rằng như vậy là quá chậm và đồng NDT vẫn còn bị đánh giá quá thấp. Mặc dù các nhà kinh tế có những phân tích khác nhau về tác động của sự phá giá NDT đến kinh tế Mỹ, nhưng hầu hết lại đồng ý rằng sự linh hoạt tiền tệ sẽ là một yếu tố quan trọng giúp giảm bớt sự mất cân bằng toàn cầu- được cho là yếu tố chính gây nên khủng hoảng tài chính và suy thoái nền kinh tế thế giới. Họ cũng cho rằng sự chuyển đổi tiền tệ này mang lại lợi ích lâu dài cho Trung Quốc. Trung Quốc cam kết sẽ tiếp tục thực hiện chính sách linh hoạt hơn, nhưng lại bày tỏ lo ngại rằng tăng giá nhân dân 3
  4. tệ quá nhanh sẽ gây ra mất việc làm đáng kể (đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu), có thể phá vỡ nền kinh tế. Một số nhà kinh tế đặt câu hỏi liệu NDT được nâng giá cao có tạo ra lợi ích ròng đáng kể cho nền kinh tế Mỹ không. Họ cho rằng giá hàng hóa Trung Quốc tăng, sẽ làm tổn thương người tiêu dùng Mỹ và các công ty Mỹ sử dụng các thành phần nhập khẩu từ Trung Quốc trong sản xuất. Họ cũng lập luận rằng NDT tăng giá có thể thúc đẩy một số ngành xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc, nhưng tác động của mức giá thấp hơn của hàng Mỹ ở Trung Quốc có thể bị phủ nhận bởi các hạn chế thương mại của Trung Quốc và các rào cản đầu tư. Các nhà phân tích như vậy xem cải cách tiền tệ như là một phần của tập hợp các mục tiêu mà chính sách thương mại của Mỹ nên theo đuổi. Các mục tiêu này bao gồm việc thuyết phục Trung Quốc để: tái cân bằng nền kinh tế bằng đáp ứng nhu cầu khách hàng chứ không phải là cố định đầu tư và xuất khẩu - nguyên nhân chính của sự tăng trưởng kinh tế Trung Quốc, loại bỏ các chính sách công nghiệp cố tìm cách thúc đẩy và bảo vệ công ty Trung Quốc (đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước); giảm các rào cản thương mại và đầu tư; cải thiện việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Bài nghiên cứu này cung cấp một cái nhìn tổng quan về các vấn đề kinh tế xung quanh cuộc tranh luận hiện nay về chính sách tiền tệ của Trung Quốc. Nó xác định chi phí và lợi ích kinh tế mà chính sách này đem lại cho cả Trung Quốc và Hoa Kỳ, và những tác động có thể nếu Trung Quốc cho phép đồng tiền của mình nâng giá cao hoặc thả nổi tự do. 4
  5. 1. Mối quan hệ của chính sách tỷ giá hối đoái với cán cân thương mại Tỷ giá hối đoái là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên đắt hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên rẻ hơn. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho nhập khẩu và thuận lợi cho xuất khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng tăng. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, nhập khẩu sẽ có lợi thế trong khi xuất khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng giảm xuống. Giả thiết cơ bản cho mô hình là một nước sẽ sản xuất một hàng hoá được tiêu dùng trong nước và xuất khẩu đồng thời nhập khẩu hàng hoá khác từ phần còn lại của thế giới, khi đó cân bằng thương mại (xuất khẩu ròng) NX được xác định như sau: Trong đó:  NX : cán cân thương mại  EX: xuất khẩu hàng hoá  IM: nhập khẩu hàng hoá  giá cả tương đối hàng hoá nhập khẩu so với hàng hoá sản xuất trong nước (tỷ giá thực REER)  y : thu nhập quốc dân (GDP) Hàm cầu xuất khẩu phụ thuộc vào tỷ giá thực REER. Khi phá giá tiền tệ, đồng nội tệ mất giá, hàng hoá xuất khẩu trở nên rẻ hơn trên góc độ người tiêu dùng nước ngoài. Do đó tạo nên lợi thế cạnh tranh về giá cả, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước tăng cường xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài. Tương tự như vậy, hàm cầu nhập khẩu cũng chịu tác động của tỷ giá thực. Khi đồng tiền trong nước mất giá, hàng hoá nước ngoài trở nên đắt đỏ hơn, nên người tiêu dùng trong nước có xu hướng chuyển sang tiêu dùng các mặt hàng thay thế mang lại những lợi ích tương tự có giá cả rẻ hơn. Ngoài ra, cầu nhập khẩu có thể 5
  6. thay đổi khi thu nhập quốc dân thay đổi. Cùng với đà tăng trưởng và phát triển kinh tế, thu nhập người tiêu dùng ngày càng được cải thiện. Khi thu nhập tăng lên, người tiêu dùng có khuynh hướng thích sử dụng hàng ngoại hơn vì vậy sẽ làm tăng nhập khẩu. Khi tỷ giá thực tăng lên (đồng nội tệ mất giá), hàng hoá xuất khẩu trở nên rẻ hơn so với người tiêu dùng nước ngoài. Tuy nhiên, xuất khẩu không tăng lên ngay được vì hoạt động xuất khẩu thường được thực hiện theo hợp đồng kỳ hạn. Còn kim ngạch nhập khẩu thì tăng lên do giá cả hàng hoá và dịch vụ tăng. Do vậy cán cân thương mại và dịch vụ có xu hướng giảm xuống cho đến khi tỷ giá thực sự tác động đến xuất khẩu làm cải thiện cán cân thương mại. Điều này phù hợp với “đường cong J” Sự giảm giá hay sự mất giá của đồng nội tệ có hiệu quả tức thì là làm tăng giá nhập khẩu và làm giảm giá xuất khẩu. Vì vậy, trong một thời gian ngắn, cán cân thương mại có thể thâm hụt trước khi những hiệu quả của sự thay đổi trong giá cân đối của xuất khẩu so với nhập khẩu, đem lại sự bành trướng trong dài hạn của xuất khẩu và một sự cắt giảm nhập khẩu, sẽ cải thiện được cán cân thương mại. Đường cong J chỉ rõ thâm hụt ban đầu trong cán cân thanh toán, sau đó là một sự phục hồi. Nó biểu diễn khả năng chi trả, lúc đầu đi xuống đột ngột, sau đó tăng lên có hình 6
  7. chữ J. Hiện tượng nói trên được gọi là hiện tượng đường cong J và hiệu quả của việc phá giá được gọi là hiệu ứng đường cong J. 2. Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc từ năm 2005 tới nay Năm 1994, chính phủ Trung Quốc thống nhất hai hệ thống tỷ giá hối đoái với tỷ lệ ban đầu là 8,70 RMB/$, cuối cùng được phép tăng lên 8,28 vào năm 1997 và sau đó đã được giữ tương đối ổn định cho đến tháng 7/2005. Từ năm 1994 đến tháng 7/2005, Trung Quốc duy trì một chính sách neo giá nhân dân tệ với đồng đô la Mỹ tại một tỷ giá khoảng 8,28 RMB/$. Sự neo giá xuất hiện chủ yếu nhằm thúc đẩy một môi trường tương đối ổn định cho thương mại và đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc (như một chính sách ngăn ngừa những biến động lớn trong tỷ giá hối đoái) - một chính sách đã được nhiều quốc gia phát triển sử dụng trong giai đoạn đầu phát triển. 2005: Trung Quốc cải cách việc neo tỷ giá Chính phủ Trung Quốc thay đổi chính sách tiền tệ vào 21/7/2005, thông báo rằng tỷ giá NDT sẽ được điều chỉnh, dựa trên cung và cầu thị trường và các tham khảo để đặt sự dịch chuyển tỷ giá NDT trong một khung cố định, và tỷ giá hối đoái của Mỹ đối với NDT sẽ được điều chỉnh nâng giá 2.1% từ 8.28 xuống còn 8.11. Không giống tỷ giá hối đoái thả nổi thực sự, đồng NDT được phép dao động tăng 0,3% (sau đó là 0,5%). Sau tháng 7/2005, Trung Quốc cho phép NDT tăng giá ổn định nhưng vẫn rất chậm. Từ 21/7/2005 đến 21/7/2008, tỷ giá từ 8.11 xuống còn 6.83, NDT được nâng giá 18,7%. Tình hình tại thời điểm này có thể dược mô tả như là “sự thả nổi có quản lí” – sự điều tiết thị trường quyết định sự thay đổi tỷ giá NDT, nhưng chính phủ lại chậm nâng giá NDT thông quá sự can thiệp của thị trường. 7
  8. Hình 1: Tỷ giá danh nghĩa RMB / Dollar: Ttừ 5/2008 đến 5/2010 Nguồn: Global Insight. Lưu ý: Biểu đồ đảo ngược cho các mục đích minh họa. Đường tăng cho thấy sự nâng giá nhân dân tệ với đồng đô la và đường đi xuống chỉ ra rằng đồng NDT bị giảm giá trị. 2008: Ngưng nâng giá NDT Trung Quốc đã ngưng chính sách nâng giá nội tệ vào khoảng giữa tháng 7/2008 (xem hình 1), chủ yếu vì sự giảm nhu cầu hàng Trung Quốc trên toàn cầu do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Năm 2009, xuất khẩu giảm 15.9% và nhập khẩu tăng 11.3% so với năm 2008. Chính phủ Trung Quốc thông báo rằng hàng ngàn nhà máy định hướng xuất khẩu đã bị đóng cửa và hơn 20 triệu lao động bị mất việc trong năm 2009 do tác động trực tiếp của suy thoái kinh tế toàn cầu. Tỷ giá RMB/$ được giữ ổn định ở mức 6.83 vào khoảng giữa tháng 6/2010. 2010: Tiếp tục nâng giá nội tệ Vào 19/6/2010, ngân hàng Trung ương, ngân hàng Nhân dân Trung Quốc nói rằng dựa trên điều kiện kinh tế hiện nay, Trung Quốc quyết định “tiếp tục tiến hành 8
  9. cải cách chế độ tỷ giá nội tệ và tăng cường tỷ giá hối đoái linh hoạt”. Như trong hình 2, tỷ giá hối đoái đồng NDT với đồng đôla tăng giảm không ổn định từ năm 2010, nhưng nhìn tổng thể nội tệ được nâng giá. Từ 19/6/2010 đến 30/10/2011, tỷ giá RMB/$ thay đổi từ 6.83 đến 6.35, nghĩa là đã được nâng giá 7.6%. Hình 2. Tỷ giá RMB-$ trung bình hàng tháng: tháng 6 năm 2010 - tháng 11 năm 2011 Nguồn: China Money và Global Insight. 3. Tác động từ việc định giá thấp đồng nhân dân tệ đến nền kinh tế Trung Quốc. 3.1 Tác động tích cực 3.1.1. Trung Quốc trở thành chủ nợ của thế giới Điểm đặc biệt khiến cho Trung Quốc khác hẳn các nước khác trong giai đoạn phát triển, là Trung Quốc phát triển mà không cần vay nợ, không những thế lại còn thành chủ nợ của cả thế giới. Đó là do nước này tiêu dùng ít so với tiết kiệm, và luôn xuất siêu. Khả năng xuất siêu của họ dựa trên nhân công rẻ mạt (khiến giá thành rẻ), tiêu dùng ít (kéo theo nhập khẩu hàng tiêu dùng ít, chủ yếu nhập đồ thô để chế biết 9
  10. rồi xuất lại), và các thủ đoạn chiếm lĩnh thị trường (hứa cho vay, chào giá rẻ hơn đối thủ, mua chuộc những người có quyền quyết định ở nước ngoài, v.v). Trong những năm gần đây, thặng dư thương mại của Trung Quốc nằm ở mức 200-300 tỷ USD/năm. Cộng các khoản tiền thặng dư này lại qua nhiều năm, Trung Quốc đã có được dự trữ ngoại tệ ở mức khổng lồ 2,4 nghìn tỷ USD vào đầu năm 2010 (gấp 24 lần GDP của Việt Nam), chủ yếu dưới dạng tiền cho các nước khác vay, trong đó khoảng 70% (khoảng 1,7 nghìn tỷ USD) là cho Mỹ vay, trong đó chính phủ liên bang của Mỹ vay gần 800 tỷ. Với “khoản tiền thừa” khổng lồ này, Trung Quốc ở vào vị thế mạnh, “rủng rỉnh” săn lùng các cơ hội đầu tư ở các nơi, và mua chuộc các nước bằng các lời hứa cho vay để đổi lấy các hợp đồng lớn và các nhượng bộ về thương mại khác, ví dụ như quyền khai thác các khoáng sản. Đặc biệt, khi mà khủng hoảng tài chính xảy ra năm 2008, lại là cơ hội để Trung Quốc mua được nhiều tài sản lớn trên thế giới với giá rẻ, và nhiều chính phủ gặp khó khăn về tài chính đã phải “ngửa tay” nhận “giúp đỡ” của Trung Quốc, với cái giá phải trả là để cho Trung Quốc xâm chiếm thị trường hoặc khai thác tài nguyên của họ. 3.1.2. GDP tăng trưởng -GDP đạt 31,4 nghìn tỷ nhân dân tệ, tương đương với khoảng 4,52 tỷ USD .Tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc năm 2009 đạt 9,6%. -Quý 4/2009, GDP của Trung Quốc tăng 10,7% so với cùng kỳ năm ngoái, cao hơn mức dự báo 10,5% theo khảo sát của Bloomberg. Tính trong cả năm 2009, GDP nước này tăng 8,7%, cao hơn mục tiêu tăng trưởng 8% của chính phủ ông Ôn Gia Bảo. -Quý 4/2010, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 9,8%, nhanh hơn dự đoán của các chuyên gia. Quý 3/2010, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 9,6%.Tính cả năm 2010, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 10,3% lên mức 39,8 nghìn tỷ nhân dân tệ tương đương 6,04 nghìn tỷ USD. Năm 2011, Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc tăng trưởng 9,2% so với năm 2010, cao hơn mục tiêu ban đầu Chính phủ Trung Quốc đặt ra hồi 10
  11. đầu năm 2011 là tăng trưởng 8%. Theo số liệu do Cục Thống kê quốc gia (NBS) Trung Quốc công bố ngày 17/1, GDP của nước này trong cả năm 2011 đạt 47.160 tỷ nhân dân tệ (tương đương 7.260 tỷ USD). Tăng trưởng GDP trong quý 4/2011 đạt 8,9%, mức tăng trưởng thấp nhất trong 10 quý gần đây. Table 1: GDP and merchandise trade by region, 2007-10 Annual % change a Includes the Caribbean. b Hong Kong, China; Republic of Korea; Singapore and Chinese Taipei. Nguồn: WTO Secretariat. 3.1.3. Xuất khẩu gia tăng Xuất khẩu của Trung Quốc đạt 162 triệu USD trong tháng 6 và 874 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm nay, cả hai con số này đều tăng gần 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng cục Hải quan Trung Quốc công bố số liệu cho thấy trong tháng 7-2011, xuất khẩu của nước này tăng 20,4% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 175,13 tỉ đô la Mỹ. Từ tháng 8/2011 tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc chậm dần đều hàng tháng. Tháng 10/2011, tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc đạt 157,5 tỷ USD, mức thấp nhất trong 5 tháng và ghi nhận mức tăng trưởng cùng kỳ thấp nhất từ tháng 12/2009. 11
  12. Theo thống kê của hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2011 của Trung Quốc đạt hơn 3642 tỷ USD, tăng trên 22% so với năm trước; trong đó xuất khẩu tăng 20,3%, nhập khẩu tăng 24,9%. Xuất siêu thương mại 155,14 tỷ USD, giảm liên tục ba năm, đã từ chiếm 3,1% GDP năm 2010 giảm xuống còn 2%. 3.1.4. Thặng dư cán cân thương mại - Năm 2011, thặng dư thương mại Trung Quốc đạt 155,14 tỷ USD, giảm 14,5% so với năm 2010. -Tính chung cả năm 2010, Trung Quốc đạt mức thặng dư thương mại 183,1 tỷ USD, giảm 7% so với mức 196,1 tỷ USD trong năm 2009. - Trong năm 2009, mức xuất siêu của Trung Quốc đã giảm 34% so với mức đỉnh gần 300 tỷ USD đạt được vào năm 2008.Đây là mức thấp nhất trong 3 năm, giảm mạnh so với mức thặng dư đỉnh 298,1 tỷ USD đạt được năm 2008. 3.1.5 Một số lợi ích khác - Thúc đẩy hợp đồng thương mại của Trung Quốc bằng cách tăng mức độ nhập khẩu có thể được mua bởi chính hoạt động xuất khẩu của nó. - Tăng hiệu quả kinh tế (và do đó tăng trưởng kinh tế), phân phối lại các nguồn lực từ lĩnh vực không hiệu quả (và thường được trợ cấp) của nền kinh tế sang lĩnh vực hiệu quả hơn và cạnh tranh. - Mức giá thấp hơn đối với hàng hoá và các dịch vụ nhập khẩu và nền kinh tế trong nước gần hơn với canh tranh toàn cầu, do đó làm giảm giá cho người tiêu dùng và cải thiện mức sống của Trung Quốc. - Giúp làm giảm bớt sự chênh lệch lớn của phát triển kinh tế giữa các khu vực ven biển của Trung Quốc (cũng như sự chênh lệch thu nhập ngày càng tăng trên khắp Trung Quốc) đã được thúc đẩy một phần của chiến lược tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc và được xem bởi nhiều nhà phân tích đặt ra rủi ro tiềm tàng cho sự ổn định. 12
  13. 3.2. Các tác động tiêu cực - Quá phụ thuộc vào xuất khẩu (và cố định đầu tư liên quan đến xuất khẩu) và dòng vốn FDI khiến cho Trung Quốc đặc biệt dễ bị tổn thương với các tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu. Phân tích của IMF ước tính cố định đầu tư liên quan đến hàng hóa có thể giao dịch cộng với xuất khẩu ròng cùng nhau chiếm hơn 60% tăng trưởng GDP của Trung Quốc từ năm 2001 - 2008 (từ 40% từ năm 1990 để 2000), cao hơn đáng kể so với các nước G-7(16%), khu vực đồng euro (30%) và phần còn lại của châu Á (35%). - Một đồng tiền bị định giá thấp làm cho hàng nhập khẩu đắt hơn, làm tổn thương các công ty Trung Quốc nhập khẩu các bộ phận, máy móc và nguyên vật liệu. Một chính sách như vậy, với mục đích, mang lại lợi ích cho các công ty xuất khẩu Trung Quốc (nhiều trong số đó được sở hữu bởi tập đoàn nước ngoài đa quốci gia) tại các chi phí của các công ty Trung Quốc không xuất khẩu. Điều này có thể cản trở việc phân bổ hiệu quả nhất các nguồn lực trong nền kinh tế Trung Quốc. Tài nguyên có thể đi đến các lĩnh vực khác, chẳng hạn như lĩnh vực dịch vụ, được chuyển hướng đến khu vực xuất khẩu. - Những công dân Trung Quốc phải trả nhiều hơn cho hàng hóa thương mại, không những vì hàng hóa nhập khẩu đắt tiền hơn bởi thuế thực tế trên đồng tiền định giá thấp, mà còn bởi vì cạnh tranh trong nước bị hạn chế. - Việc sử dụng một hệ thống tỷ giá cố định làm hạn chế đáng kể khả năng của chính quyền trung ương sử dụng chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm phát, nó đã trở thành một vấn đề ngày càng lớn ở Trung Quốc trong 2011. Nếu các ngân hàng Trung Quốc tăng lãi suất trong nỗ lực kiểm soát lạm phát, nhà đầu tư nước ngoài có thể chuyển tiền sang Trung Quốc (thông qua các phương tiện bất hợp pháp) để tận dụng lợi thế của tỷ suất sinh lợi cao hơn của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc gặp khó khăn trong việc ngăn chặn sự chảy vào của “tiền nóng”. Dòng tiền này buộc chính phủ phải đẩy mạnh việc cung cấp tiền để mua ngoại tệ cần thiết để duy trì tỷ giá mục tiêu. Mở rộng cung tiền góp phần vào chính sách nợ bởi các ngân hàng, đã góp phần làm thừa công suất trong một số lĩnh vực, chẳng hạn như thép, và bong bóng tài sản đầu cơ, chẳng hạn như trong bất động sản.Trong quá khứ, chính phủ Trung Quốc đã cố gắng sử dụng kiểm soát hành chính, với kết quả hạn chế, hạn 13
  14. chế vay vốn ngân hàng để lĩnh vực thừa công suất tồn tại. Trong thực tế, việc phân bổ tín dụng của Trung Quốc chủ yếu dựa trên chính sách tài chính phi thị trường chứ không phải do thị trường tự điều tiết nên không hiệu quả. 4. Tác động của chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc lên cán cân thương mại của Mỹ Hình 1 cho thấy thặng dư tài khoản vãng lai của Trung Quốc tính bằng %GDP (ca), sự chênh lệch giữa tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc so với tốc độ của thế giới (gc – gw), và (ở phía tay phải) chỉ số tỉ giá hiệu lực thực (REER) với mốc cơ bản (năm gốc) là 100 vào năm 20051. Biến tỷ giá hối đoái có độ trễ (REERL) và bằng mức trung bình của hai năm trước đó (ví dụ REERL năm 2010 là trung bình của hai năm 2008 và 2009). Độ trễ phản ánh thời gian mà tín hiệu tỷ giá hối đoái mất để được hiểu không phải chỉ là một biến động tạm thời, cũng như thời gian để tác động đến các quyết định sản xuất và dòng thương mại. Tháng 2 năm 2001 đồng NDT tương đối mạnh (chỉ số REER của IMF khoảng 111, NDT tăng giá) có liên quan đến thặng dư tài khoản vãng lai trung bình 2,8% GDP vào năm 2003. Sau đó một thời kỳ suy yếu của đồng NDT “cưỡi đồng đô la xuống” (rode the dollar down) vào tháng 5 năm 2002 và tháng 6 năm 2005 (chỉ số trung bình khoảng 101), làm cho thặng dư tăng vọt lên 11% GDP vào 2007. Sự sụt giảm sau đó trong thặng dư Trung Quốc còn 5,8% GDP trong năm 2009 và 2010 trùng với độ trễ của giai đoạn NDT mạnh (sự nâng giá NDT so với USD vào tháng 8 năm 2005 cùng với “cưỡi đồng đô la lên” (riding the dollar up) do hiệu ứng nơi trú ẩn an toàn đã nâng giá đô la từ năm 2008 đến năm 2009)2 . Sự tăng trưởng nhanh chóng của Trung Quốc đã làm tăng nhu cầu trong nước, và thành quả của sự tăng trưởng của các nước trên thế giới ảnh hưởng đến cầu xuất khẩu (của TQ), vì thế sự cân bằng bên ngoài của Trung Quốc cũng phản ánh sự khác nhau giữa tốc độ phát triển trong nước và nước ngoài. Như đã thấy trong hình, 1 Dữ liệu lấy từ IMF(2010a và 2010b) trừ những lưu ý bên dưới 2 Đối với năm 2010, dự toán thặng dư tài khoản vãng lai ở mức 5,3%GDP là mức trung bình của IMF (2010b), Ngân hàng thế giới Bắc Kinh (2010), và dự báo trong khu vực tư nhân (Blue Chip 2010). GDP Trung Quốc tính bằng đô la là 4,909 nghìn tỷ năm 2009 (IMF 2010a) và 5,64 nghìn tỷ năm 2010. Ước tính này dựa trên 9,5% tốc độ tăng trưởng thực, lạm phát giá tiêu dùng CPI 3,7% (Ngân hàng thế giới Bắc Kinh 2010), lạm phát DGDP 4% (tăng nhanh hơn CPI vào giai đoạn 2003-2008; IMF 2010a) và tỷ giá hối đoái trung bình 6,78 NDT đổi lấy một đô la. Lưu ý rằng chỉ số tăng trưởng năm 2009 đã được chính phủ Trung Quốc chỉnh sửa lại vào giữa năm 2010 từ 8,7% lên 9,1%. 14
  15. sự khác nhau này đạt đỉnh điểm vào năm 2009 khi Trung Quốc đạt tốc độ tăng trưởng 9,1% trong khi thế giới lại “đại suy thoái” -2%. Hình 1 thặng dư tài khoản vãng lai của Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng so với thế giới, và tỷ giá thực hiệu lực. Một kiểm định thống kê xác nhận rằng thặng dư tài khoản vãng lai Trung Quốc tương ứng với tỷ giá hối đoái thực và sự khác biệt tốc độ tăng trưởng. Sử dụng dữ liệu từ hình 1, mối quan hệ này có thể được tính như sau: (1) ca = 46.7 – 0.416 REERL – 0.155 (gc – gw) + 0.785 T; (5.9) (–6.1) (–0.6) (5.6) R2 hiệu chỉnh = 0.89 Trong đó ca là thặng dư tài khoản vãng lai tính bằng %GDP, REERL là tỷ giá thực hiệu lực có độ trễ, gc là tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc, gw là tốc độ 15
  16. tăng trưởng của thế giới, T là biến xu hướng thời gian (có giá trị từ 1 đến 11 tương ứng từ năm 2000 đến 2010), và trong ngoặc đơn là giá trị kiểm định t. Các hệ số về tỷ giá và thời gian rất có ý nghĩa về mặt thống kê. Hệ số của tỷ giá thực hiệu lực REER có nghĩa là khi NDT tăng giá 1% thì tài khoản vãng lai giảm 0,45% GDP tương đương 25 tỷ đô năm 2010 3. Sự ảnh hưởng này lớn hơn tính toán tương tự ra kết quả 0,3% (tương đương 17 tỷ đô) của Cline (2008) trong mô hình tỷ giá cân bằng đa phương.( multilateral equilibrium exchange rate model) Độ co giãn của giá xuất khẩu trong kết quả này là tương đối cao. Như lập luận của Cline (2005 và 2008), những thay đổi trong tài khoản vãng lai có quan hệ với GDP là kết quả của những thay đổi xuất khẩu dẫn đến điều chỉnh tiền tệ, bởi vì khối lượng nhập khẩu thay đổi có xu hướng được trung hòa bởi những thay đổi trong giá trị nội tệ của ngoại tệ 4. Tháng 8 năm 2006, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ Trung Quốc khoảng 35%GDP (IMF 2010a), hệ số -0,45%GDP trong tài khoản vãng lai với mỗi 1% tăng giá nội tệ có ý nghĩa rằng độ co giãn xuất khẩu theo giá là -1,29 (= -0,45/0.35) (1% tăng giá nội tệ làm giảm ca 0,45%GDP và giảm xuất khẩu 1,29%), cao hơn độ co giãn được Cline (2008) sử dụng trong việc tính toán tham số tác động của tài khoản vãng lai Trung Quốc. Một nghiên cứu thực nghiệm gần đây của cục dự trữ liên bang Mỹ cho ra một độ co giãn xuất khẩu theo giá còn cao hơn nữa5. Hệ số tốc độ tăng trưởng trong nước trừ tốc độ tăng trưởng nước ngoài (gc - gw) có dấu hiệu chính xác nhưng không có ý nghĩa thống kê. Nó cho thấy mỗi 1% mà tốc độ tăng trưởng trong nước cao hơn nước ngoài sẽ giảm thặng dư đi 0,155%GDP. Nếu sự co giãn thu nhập là 1 cho cả nhập khẩu và xuất khẩu thì xem 3 Chỉ số tỷ giá tính trung bình mẫu trong thời kỳ này là 107,7. Vì thế REERL tăng 1% tương đương 1,077 đơn vị, và 1,077 x (-0,416) = -0,45 4 Nếu độ co giãn nhập khẩu theo giá (nội tệ) là một, thì nâng giá tiền tệ dẫn đến tăng lượng nhập khẩu, bù trừ bằng việc cần ít đơn vị nội tệ hơn để đổi lấy một đơn vị ngoại tệ 5 Ahmed (2009) đã tìm ra độ co giãn xuất khẩu theo giá -1,9 cho hàng xuất khẩu chưa chế biến và -1,5 cho hàng xuất khẩu đã chế biến sử dụng nguyên liệu nhập khẩu (p.23). Mô phỏng của nghiên cứu cho thấy rằng nếu REER tăng tích lũy 18% so với quỹ đạo thực của nó từ tháng 3 năm 2005 đến tháng 2 năm 2009, thì xuất khẩu thực giữa năm 2009 sẽ giảm 30% (p.30), tức là độ co gian xuất khẩu theo giá là -1,67 (= 30/18). 16
  17. xét đóng góp của thương mại trong GDP, hệ số này kỳ vọng khoảng -0,33 thay vì - 0,155 , vì vậy hệ số (gc-gw) vẫn chưa đầy đủ6. Hệ số xu hướng thời gian có nghĩa là có một sự lôi kéo lên mạnh mẽ trong thặng dư tài khoản vãng lai của Trung Quốc theo thời gian, với một tốc độ khoảng 0,8% GDP mỗi năm. Nhìn chung kết hợp tỷ giá và hệ số xu hướng thời gian có ngụ ý rằng cần có một sự nâng giá với tốc độ khoảng 1,7% mỗi năm để giữ cho thặng dư tài khoản vãng lai không tăng thêm7 (giữ nguyên tỉ lệ so với GDP ). Phát hiện này phù hợp với những gì Goldstein và Lardy (2009,pp. 12,24) quan sát được là có một sự chênh lệch tốc độ tăng trưởng sản lượng mỗi năm khoảng 3% giữa Trung Quốc và các bạn hàng thương mại; và phù hợp với phát hiện của Mussa (2008,p.285) “quỹ đạo cân bằng dài hạn của tỷ giá hối đoái thực Trung Quốc có một độ nghiêng hướng lên trung bình khoảng 2% mỗi năm”. Sự nới rộng điều kiện nổi bật chẳng hạn như quan điểm của Balassa-Samuelson, theo đó có một sự tăng trường kỳ trong tỷ giá thực hiệu lực REER của nền kinh tế tăng trưởng nhanh, đó chủ yếu là hệ quả của tăng trưởng sản lượng nhanh trong hàng hóa ngoại thương hơn là những hàng hóa phi ngoại thương. Bằng chứng ở đây hỗ trợ cho quan điểm tỷ giá thực hiệu lực REER ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai trong dự kiến. Những câu chuyện đặc biệt trong sách vở không áp dụng được với Trung Quốc (ví dụ vì sự phụ thuộc xuất khẩu lên đầu vào nhập khẩu làm vô hiệu tác động của tỷ giá, hoặc bởi vì các công ty đa quốc gia bỏ qua tỷ giá hối đoái trong quyết định tìm nguồn cung ứng) bị bác bỏ bởi các kết quả ở đây (và những nghiên cứu khác gần đây như Ahmed 2009) Ảnh hưởng của NDT lên thâm hụt ngoại thương của Mỹ 1. Đo lường trực tiếp qua REER Mỹ 6 Năm 2008, xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là 36,6%GDP và nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ là 28,4% (IMF 2010a). Với độ co giãn thu nhập là 1 cho cả xuất và nhập khẩu thì khi tốc độ tăng trưởng nước ngoài giảm 0,5% và tăng trưởng trong nước tăng 0,5% (tức là tăng chênh lệch thêm 1%) sẽ giảm xuất khẩu 0,183%GDP và tăng nhập khẩu 0,142%GDP, tổng sụt giảm trong thặng dư thương mại là 0,325%GDP. 7 Đó là: 0,785/0,45 = 1,74 17
  18. Còn về ảnh hưởng lên các tài khoản đối ngoại của Mỹ thì sao ? cách đơn giản nhất để tính ảnh hưởng của nâng giá NDT lên sự thâm hụt ngoại thương của Mỹ là xem xét đến trọng số của Trung Quốc trong thương mại Mỹ, tính sự sụt giảm trong cán cân thương mại Mỹ có trọng số REER khi NDT tăng giá, và áp dụng vào mối quan hệ thông thường giữa REER Mỹ và cán cân tài khoản vãng lai của Mỹ. Cline (2008) đã xác định hệ số -0,16 cho thay đổi trong cán cân tài khoản vãng lai Mỹ tính bằng %GDP khi có một 1% thay đổi trong REER Mỹ (hệ số REER là - 0,16). Trung Quốc chiếm tỷ trọng 9,1% trong REER Mỹ (p.24)8. Vì vậy cứ nâng giá 10% NDT thì tương đương giảm giá 0,91% đô la Mỹ. Từ đó dẫn đến cải thiện 0,91 x 0,16 = 0,14% GDP trong cán cân tài khoản vãng lai, hay tương đương với giảm bớt 22 tỷ đô la thâm hụt tài khoản vãng lai khi áp dụng cho GDP hiện tại. Như được thảo luận ở phần dưới, hiệu quả sẽ lớn hơn nếu những quốc gia khác cũng làm như Trung Quốc nâng giá đồng tiền của họ so với đô la Mỹ. 2. Đo lường gián tiếp qua PT1 Một cách khác để tính gián tiếp ảnh hưởng lên các tài khoản ngoại thương Mỹ là xem xét đến tỷ trọng kỳ vọng của Mỹ trong các phần tương tự trong sự thay đổi của cán cân ngoại thương Trung Quốc sau khi nâng giá NDT. Mỹ chiếm khoảng 15% thương mại Trung Quốc (Cline,2008,p.25). Nếu sự tính toán trong phương trình (1) được áp dụng làm nền cho việc tính sự thay đổi tài khoản vãng lai Trung Quốc thì NDT tăng 10% sẽ dẫn đến sự sụt giảm 4,5%GDP trong thặng dư tài khoản vãng lai Trung Quốc. So với GDP năm 2010 là 5600 tỷ đô la (của Trung Quốc) thì kết quả này làm tăng cán cân thương mại Mỹ 38 tỷ đô la ( = 4,5% x 5600 tỷ x 0,15) trong 250 tỷ đô mà Trung Quốc bị giảm trong thặng dư tài khoản vãng lai. Cách tính gián tiếp này cho kết quả cao hơn cách tính trực tiếp bởi vì sự ảnh hưởng của các kết quả trong phương trình (1) lớn hơn tính toán tương ứng trong mô hình của Cline (2008). Những người hoài nghi sẽ lập luận rằng các bằng chứng không hỗ trợ cho mô hình tính toán như thế vì sự mất cân bằng song phương Mỹ - Trung Quốc đã không cải thiện từ 2005 đến 2008 dù đồng NDT tăng giá. Đúng là sự mất cân bằng song phương đã lớn hơn chứ không thu hẹp lại trong khoảng thời gian này, từ thâm hụt 8 Tỷ lệ của xuất và nhập khẩu song phương Mỹ-Trung chia cho tổng xuất và nhập khẩu của Mỹ năm 2006. 18
  19. 203 tỷ đô la năm 2005 tăng lên 268 tỷ đô là năm 2008 (BEA 2010). Tuy nhiên, giải thích như thế sẽ bỏ qua hai yếu tố quan trọng : độ trễ thời gian để tín hiệu tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến kết quả, và bất cứ xu hướng bất lợi nào theo thời gian trong cán cân song phương cũng có thể xảy ra nếu không có sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái (tức là chưa có tăng giá 1,74% NDT mỗi năm nào để bù cho 0,785%GDP thặng dư của Trung Quốc mỗi năm). Hình 02 cán cân thương mại Mỹ - Trung tính bằng %GDP Mỹ và tỷ giá thực hiệu lực có độ trễ của đồng NDT Hình 2 cho thấy quỹ đạo của cán cân thương mại song phương của Mỹ với Trung Quốc (tính bằng %GDP Mỹ) so với tỷ giá thực hiệu lực có độ trễ của đồng NDT (đa phương) gọi là REERL9. REER có độ trễ là trung bình của hai năm trước đó. Thêm nữa, hình còn chỉ ra tỷ giá thực hiệu lực có độ trễ REERL tương ứng của NDT so với đô la Mỹ (RB*L), giảm phát giá tiêu dùng ở cả hai nước. Có sự sụt 9 Dữ liệu thương mại Mỹ-Trung lấy từ BEA (2010) 19
  20. giảm mạnh tỷ giá thực song phương NDT so với đô la Mỹ từ 1999 trong hình (trung bình của 1997 và 1998) đến 2004 (trung bình của 2002 và 2003) mặc dù tỷ giá hối đoái danh nghĩa là cố định 8,28 NDT đổi lấy 1 đô la , do ở Trung Quốc lúc này là lạm phát thấp (trung bình 0,27% hàng năm) và lạm phát trung bình ở Mỹ (2,3%). Một lần nữa mẫu hình này cho thấy mối quan hệ khá chặt chẽ (lần này là cùng chiều) giữa cán cân song phương và tỷ giá hối đoái thực của NDT, dù là đa phương hay song phương , với xu hướng giảm sút theo thời gian khá mạnh.(hệ số T âm) 3. Đo lường trực tiếp qua REER Trung Quốc Một lần nữa kiểm định hồi quy xác nhận sự tồn tại của mối quan hệ tỷ giá hối đoái thực. Đầu tiên, sử dụng REERL đa phương: (2) B = –4.55 + 0.0343REERL + 0.0446GDIF – 0.129T; (–8.2) (6.9) (2.4) (–8.9) R2 hiệu chỉnh = 0.986 Trong đó B là cán cân thương mại song phương của Mỹ với Trung Quốc tính bằng %GDP, REERL như đã nói là tỷ giá thực hiệu lực đa phương có độ trễ của Trung Quốc (trung bình của 2 năm trước đó).GDIF là tốc độ tăng trưởng Trung Quốc trừ tốc độ tăng trưởng Mỹ, và T là xu hướng theo thời gian. Mô hình này có một lời giải thích rất tốt, tất cả các hệ số đều có ý nghĩa thống kê và có những dấu hiệu chính xác. Hệ số REERL của Trung Quốc trong cán cân thương mại song phương Mỹ-Trung cho thấy NDT tăng giá thực 10% thì thâm hụt song phương của Mỹ giảm đi 0,37% GDP Mỹ, tương đương 54 tỷ đô la thời điểm 201010. Hệ số sự khác nhau của tốc độ tăng trưởng cho thấy rằng cứ tốc độ tăng trưởng Trung Quốc cao hơn Mỹ 1% thì sẽ cải thiện cán cân thương mại song phương của Mỹ 0,045% GDP tương đương 6,6 tỷ đô la. 4. Đo lường trực tiếp qua REER song phương Mỹ - Trung 10 Tương tự như ở trên, chỉ số tỷ giá trung bình giai đoạn 1998-2007 là 107,7, 1% REER tăng lên tương đương 1,077 đơn vị, và vì thế cải thiện cán cân thương mại của Mỹ 1,077 x 0,0343 = 0,037. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1