Tiểu luận tâm lý giáo dục đại học: Cuộc sống hiện nay dễ tạo áp lực cho con người, là giảng viên anh/chị cần đối diện với cuộc sống như thế nào để duy trì trạng thái tâm lý lành mạnh nhằm giúp cho sự thành công trong công việc và quan hệ con người?
lượt xem 195
download
Tiểu luận tâm lý giáo dục đại học: Cuộc sống hiện nay dễ tạo áp lực cho con người, là giảng viên anh/chị cần đối diện với cuộc sống như thế nào để duy trì trạng thái tâm lý lành mạnh nhằm giúp cho sự thành công trong công việc và quan hệ con người? trình bày về những áp lực với giảng viên hiện nay, thực trạng công việc và giải pháp cho những áp lực của giảng viên hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận tâm lý giáo dục đại học: Cuộc sống hiện nay dễ tạo áp lực cho con người, là giảng viên anh/chị cần đối diện với cuộc sống như thế nào để duy trì trạng thái tâm lý lành mạnh nhằm giúp cho sự thành công trong công việc và quan hệ con người?
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA GIÁO DỤC BÀI LUẬN CHUYÊN ĐỀ TÂM LÝ GIÁO DỤC HỌC ĐẠI HỌC Tên đề tài: Cuộc sống hiện nay dễ tạo áp lực cho con người, là giảng viên anh/chị cần đối diện với cuộc sống như thế nào để duy trì trạng thái tâm lý lành mạnh nhằm giúp cho sự thành công trong công việc và quan hệ con người? GVHD: Th.S Lê Tuyết Ánh Nhóm thực hiện: Nhóm 1 Khoá: 19 Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2013 1
- DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN THỰC HIỆN STT Họ và tên Số ĐT Ghi chú 1 Dương Văn An 01684062217 2 Nguyễn Thuý An 0902488935 3 Phạm Thị Hà An 01677733074 4 Bùi Diệp Xuân Anh 0979323230 5 Võ Tuấn Anh 01648586008 6 Nguyễn Thị Vân Anh 0935846077 7 Phạm Thu Hương 0909696363 8 Phan Thị Thanh Huyền 0973472410 9 Lê Thanh Huyền Thơ 0975963975 Nhóm trưởng 10 Nguyễn Xuân Quỳnh 01687806146 11 Doãn Thị Thanh Thuỷ 0905275582 12 Nguyễn Thị Bích Trâm 0982579007 13 Lê Thị Ngọc Tú 01686779968 14 Nguyễn Trần Kiều Vân 0988664426
- MỤC LỤC DẪN NHẬP ..............................................................................................................................................1 NỘI DUNG ...............................................................................................................................................2 1. Những vấn đề chung .........................................................................................................................2 1.1. Áp lực là gì? ...................................................................................................................................2 1.2. Những dạng áp lực: ........................................................................................................................2 1.4. Những hậu quả do áp lực gây ra: ...................................................................................................4 1.5. Cách khắc phục các áp lực: ............................................................................................................5 2. Những áp lực đối với người giảng viên hiện nay:.............................................................................7 2.1. Áp lực từ những yêu cầu về phẩm chất nghề nghiệp và nhân cách của người cán bộ giảng dạy: .7 2.2. Áp lực từ những vấn đề phát sinh trong quá trình giao tiếp sư phạm trong trường đại học: .........8 2.3. Áp lực từ việc đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống:..................................................................8 3. Thực trạng công việc và giải pháp cho những áp lực của giảng viên hiện nay:................................. 10 3.1. Thu nhập thấp: ............................................................................................................................ 10 3.1.1. Thực trạng: .......................................................................................................................... 10 3.1.2. Giải pháp: ............................................................................................................................ 12 3.2. Yêu cầu công việc quá nặng: ...................................................................................................... 13 3.2.1. Thực trạng: .......................................................................................................................... 13 3.2.2. Giải pháp: ............................................................................................................................ 13 3.3. Phong trào của các ban ngành đoàn thể quá nhiều:..................................................................... 14 3.3.1. Thực trạng: .......................................................................................................................... 14 3.3.2. Giải pháp: ............................................................................................................................ 16 3.4. Thanh kiểm tra quá nhiều: .......................................................................................................... 17 3.4.1. Thực trạng ............................................................................................................................ 17 3.4.2. Giải pháp: ............................................................................................................................ 18 3.5. Thái độ xã hội đối với công việc giảng viên: .............................................................................. 19
- 3.5.1. Thực trạng: .......................................................................................................................... 19 3.5.2. Giải pháp: ............................................................................................................................ 21 3.6. Các mối quan hệ giao tiếp của giảng viên: ................................................................................. 22 KẾT LUẬN ............................................................................................................................................ 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................................... 25
- DẪN NHẬP Karl Marx từng nói: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Thật vậy, con người không thể tồn tại đơn lẻ mà phải dựa vào xã hội của mình. Chính trong xã hội ấy con người lại bị ràng buộc bởi nhiều vấn đề như công việc, trách nhiệm, các mối quan hệ… tất cả những điều ấy khiến cho con người có khi cảm thấy nặng nề, nhất là trong cuộc sống ngày càng hiện đại, luôn có nhiều đổi thay. Áp lực từ cuộc sống xung quanh ngày càng tăng cùng với một xã hội có nhiều chuyển biến. Không riêng ai và không riêng một ngành nghề, công việc nào mà tất cả chúng ta hiện đều đang chịu những áp lực nhất định từ cuộc sống xung quanh. Và nhất là đối với công việc giảng dạy của một giảng viên thì việc đương đầu với các áp lực là điều không thể tránh khỏi. Vậy nên việc duy trì một trạng thái tâm lý lành mạnh là điều rất cấn thiết để đạt được thành công trong công việc và quan hệ con người đối với công việc giảng viên là điều vô cùng quan trọng. Đó là lý do mà nhóm đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi “Cuộc sống hiện nay dễ tạo áp lực cho con người, là giảng viên anh/chị cần đối diện với cuộc sống như thế nào để duy trì trạng thái tâm lý lành mạnh nhằm giúp cho sự thành công trong công việc và quan hệ con người?” Bài tiểu luận nhằm phục vụ cho chuyên đề “Tâm lý giáo dục học Đại học” nên góc nhìn vấn đề chủ yếu ở đây là của công việc giảng dạy. Bài viết không đặt nặng các vấn đề lý thuyết mà nghiêng về so sánh, trình bày các vấn đề từ thực tiễn. Vậy nên nguồn thông tin được sử dụng chủ yếu là các bài viết có liên quan đến đề tài được nói đến trong bài cũng như kinh nghiệm thực tế từ công việc giảng dạy. 1
- NỘI DUNG 1. Những vấn đề chung 1.1. Áp lực là gì? Hầu như rất khó có thể tìm ra một định nghĩa chính xác cho câu hỏi: “Áp lực là gì?”. Nhưng chắc chắn mọi người đều có thể hình dung một cách chung nhất rằng áp lực là những khó khăn, trở ngại gặp phải trong công việc và cuộc sống. Đó có thể là do những đối tượng bên ngoài tác động đến ta hoặc do chính ta tự đặt ra cho bản thân. Ở một số phương diện áp lực cũng có mặt tốt, giúp ta kiểm soát bản thân tốt hơn, luôn cố gắng ở mức cao hơn để đạt được mục tiêu đề ra. Tuy nhiên trong hầu hết các trường hợp hiện nay khi nói đến áp lực ta thường hình dung ý nghĩa tiêu cực của nó là khiến cho con người thấy nặng nề, giảm hiệu suất lao động, và có những tác động xấu đến cuộc sống của chúng ta. Áp lực có nguồn gốc từ sự căng thẳng trong chính công việc, các mối quan hệ và cuộc sống quanh ta. Áp lực từ nghề nghiệp là một trong những vần đề phổ biến mà chúng ta đã và đang chấp nhận như một thực tế. Nhưng sự thật, áp lực công việc lấy đi không ít niềm vui, thậm chí có thể gây nên những hậu quả sức khỏe nghiêm trọng. 1.2. Những dạng áp lực: Ta vẫn thường nghe nói là cuộc sống càng hiện đại thì con người càng dễ chịu áp lực và mức độ áp lực cũng nặng hơn. Điều này hoàn toàn đúng bởi cuộc sống phát triển càng cao kéo theo công việc, những mối quan hệ cũng được nâng lên mức độ cao hơn và điều này gây ra áp lực cho con người, đây là áp lực bên ngoài, không chỉ vậy, chúng ta cũng tự tạo cho mình những áp lực bản thân, đều này là áp lực bản thân. Vậy nhìn chung, con người ta luôn phải chịu hai loại áp lực là từ bên ngoài và bên trong chính chúng ta. 2
- 1.3. Những nguyên nhân gây ra áp lực: Trong bài viết “Áp lực công việc” đăng trên trang careerbuilder.vn tác giả bài viết có đoạn ghi lại như sau: Giáo sư Michael Marmot, người đã theo dõi sức khỏe của hơn 10.000 sĩ quan Anh nhận xét: "Không khó khăn gì để tìm ra nguyên nhân vì sao lại có tình trạng tự tử này. Do đòi hỏi khắt khe của lãnh đạo, các nhân viên phải vắt kiện sức mình để đáp ứng cường độ làm việc. Tình trạng làm việc quá giờ, làm việc trong những điều kiện kém an toàn... xảy ra rất phổ biến. Họ còn phải đối mặt với một chế độ sử dụng nhân sự hiện đại rất ghê gớm, đó là sự thay thế. Ở những vị trí có sự năng động, nhiệt huyết và sức trẻ, tất cả các nhân viên đều phải gồng lên để chứng tỏ mình, tránh bị so sánh với các nhân viên mới về chế độ, tiền lương cũng như sức làm việc, sức sáng tạo... Ngoài ra, những áp lực cạnh tranh không lành mạnh từ các đồng nghiệp, áp lực về cuộc sống bấp bênh nếu bị thất nghiệp cũng tạo ra những căng thẳng triền miên đối với các nhân viên. Người lao động vì những điều này mà luôn có nguy cơ rơi vào tình trạng thái trầm uất…” Nhìn chung ta có thể thấy áp lực cuộc sống từ phía ngoài có thể kể đến chính là từ công việc với những đòi hỏi, thách thức ngày càng lớn, cường độ làm việc cao, môi trường làm việc không lành mạnh (do tính cạnh tranh gay gắt, mối quan hệ của con người trong môi trường không tốt…), hoặc cũng có thể là do vấn đề kinh tế do tiền lương công việc không đáp ứng được nhu cầu cùa bản thân, trình độ bản thân không đap ứng được với yêu cầu công việc đòi hỏi sự nỗ lực lớn của con người cũng gây ra áp lực lớn, bên cạnh đó còn là những mối quan hệ trong cuộc sống, từ những mối quan hệ tưởng chừng như đơn giản chẳng hạn như quan hệ gia đình cũng có đôi khi khiến ta bị áp lực đến các mối quan hệ với đồng nghiệp, lãnh đạo… 3
- Một khi những áp lực bên ngoài được hình thành, quay trở lại chính bản thân chúng ta cũng sẽ tự tạo cho mình những áp lực bên trong nếu không có những giải pháp và cách thức chuẩn bị để đương đầu với các áp lực. 1.4. Những hậu quả do áp lực gây ra: Căng thẳng do áp lực gây ra đã được chứng minh là có liên quan đến nhiều vấn đề sức khỏe tiêu cực, như việc ngủ không ngon, trầm cảm, tăng cân và có nguy cơ phát triển một số bệnh nguy hiểm, điển hình như bệnh tiểu đường, đặc biệt đối với nữ. Áp lực công việc khiến chúng ta lão hóa nhanh. Những nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng căng thẳng trong công việc có thể là nguyên nhân chính của lão hóa nhanh. Thậm chí căng thẳng ở mức độ cao có thể dẫn đến tuổi thọ thấp bất thường. Áp lực công việc khiến chúng ta giảm những cảm xúc hạnh phúc. Một nghiên cứu năm 2002 được đăng tải trên Tạp chí Military Medicine với 500 đối tượng là lính không quân, 15% trong số này tiết lộ rằng căng thẳng là nguyên nhân đáng kể của những cảm xúc tồi tệ, 8% cho rằng những trải nghiệm căng thẳng công việc làm tổn hại đến khả năng thẩm thấu xúc cảm của họ. Áp lực khiến bạn nhanh kiệt sức. Kiệt sức là dấu hiệu bộ não bạn cần phải được nghỉ ngơi, và đó là kết quả của những căng thẳng tích lũy thường xuyên. Theo thời gian, căng thẳng trong công việc có thể khiển bạn cảm thấy kiệt sức, thiếu sức sống và mất tự tin. Áp lực công việc ảnh hưởng đến mọi mặt của cuộc sống. Theo Hiệp hội tâm lý Mỹ, 3 trong 4 nhân viên mà họ phỏng vấn nói rằng căng thẳng ngoài công việc gây trở ngại cho nghề nghiệp của họ cũng như việc căng thẳng trong công việc sẽ ảnh hưởng đển cuộc sống của họ. 4
- Áp lực công việc tạo nên những mâu thuẫn trong các mối quan hệ cá nhân, đặc biệt là ở nam giới. 79% nam giới và 61% phụ nữ tiết lộ rằng căng thẳng trong công việc khiến các mối quan hệ cá nhân của họ bị ảnh hưởng rất nhiều. Áp lực công việc dễ gây trầm cảm. Theo nghiên cứu năm 2011 được đăng tải trên tạp chí PLOS ONE, những ai làm việc 11 giờ hàng ngày dễ bị trầm cảm. Trầm cảm có liên quan mật thiết đến các vấn đề tiêu cực về sức khỏe, bao gồm tăng nguy cơ đột quỵ, đau tim, thiếu ngủ... Áp lực công việc tăng nguy cơ đau tim. Đây là một trong những tác động nguy hiểm nhất của áp lực công việc đến sức khỏe. Một nghiên cứu năm 2012 của Trường Đại học London đã chỉ ra rằng 23% những người phải chịu áp lực công việc thường xuyên có thể tăng nguy cơ đau tim 23% so với những người có tinh thần thoải mái trong công việc. Nguy cơ tử vong cao do áp lực công việc ở mức độ cao. Rất nhiều người trong số chúng ta phàn nàn rằng công việc đang dần giết chết họ. Nghiên cứu mới đây đã chỉ ra rằng những người hay ngồi lâu mỗi ngày sẽ không tốt cho sức khỏe. Dù bạn có tập thể dục thường xuyên nhưng nếu ngồi lâu một chỗ trong thời gian dài cũng sẽ mang lại những hậu quả khôn lường. Bạn có thể mắc chứng bệnh béo phì, tim mạch và thậm chí tử vong chỉ vì ngồi lâu. 1.5. Cách khắc phục các áp lực: Trong cuộc sống có thể nói không ai là không gặp phải áp lực vậy nên cần có những cách chuẩn bị về phía bản thân để tránh những hậu quả tiêu cực do áp lực gây ra, phổ biến trong số những cách thường được áp dụng gồm có: Thứ nhất, sắp xếp công việc một cách hợp lý. Những công việc khó và quan trọng nên dành ưu tiên hoàn thành trước để có nhiều thời gian giải quyết chúng. Trước 5
- khi xong việc, dành thời gian để dọn dẹp nơi làm việc cho gọn gàng và tạo ra một danh sách các công việc phải làm cho ngày hôm sau. Thứ hai, làm việc theo kế hoạch đã định ra. Cần phải tạo ra những kế hoạch ngắn hạn và dài hạn trong mục tiêu. Và cần phải chú ý đến việc ấn định thời gian hoàn thành kế hoạch. Thứ ba, biết quan tâm đến sức khoẻ bản thân. Dành thời gian để ngủ đủ giấc, uống nước, bổ sung vitamin, khoáng chất và tập thể dục sẽ giúp tinh thần thoải mái và làm việc rất có hiệu quả. Thứ tư, biết rõ nguyên nhân gây ra áp lực cho bản thân. Bằng cách trả lời các câu hỏi như “Đâu là nguyên nhân gây ra stress trong cuộc sống của bạn? Đó có phải là do dự án đã đến thời hạn cuối? Hay là do bạn không cân bằng được công việc của công ty và việc nhà?” Xác định nguyên nhân của stress là bước đầu tiên để bạn khắc phục nó. Thứ năm, biết đặt mục tiêu vừa phải để hoàn thành tốt nhất. Cần nắm rõ giới hạn của bản thân, không nên cố gắng thực hiện ước mơ thiếu tính khả thi. Thiết lập một mục tiêu không thực tế sẽ gây ra thêm thất bại và càng thêm phần căng thẳng. Vì vậy, khi đặt ra mục tiêu làm việc, hãy tính đến tính khả thi của nó. Thứ sáu, luôn biết dành thời gian thư giãn. Lập một bảng biểu cho các hoạt động cá nhân để giúp bạn thoải mái về mặt tinh thần. Khi tỉnh dậy, hãy vận động nhẹ và thường dành thời gian cho các hoạt động yêu thích của bản thân để tìm thấy niềm vui và cân bằng bản thân trong cuộc sống. Thứ bảy, cố gắng tránh xa các tác động từ bên ngoài bằng cách tập trung vào công việc hết mức có thể. Bằng cách này, bạn có thể tập trung làm việc và hoàn thành công việc đúng thời hạn. 6
- 2. Những áp lực đối với người giảng viên hiện nay: Vì nội dung tiểu luận phục vụ cho chuyên đề “Tâm lý giáo dục học Đại học” nên phần tiếp theo nhóm xin trình bày các áp lực và đề xuất giải pháp cho mỗi trường hợp mà nhóm cho rằng có thể khả thi đối với công việc giảng viên. 2.1. Áp lực từ những yêu cầu về phẩm chất nghề nghiệp và nhân cách của người cán bộ giảng dạy: Giảng viên đại học thường xuyên phải đối mặt với những yêu cầu nặng nề về mặt chuyên môn và nhân cách. Đóng vai trò là một cán bộ khoa học và được kỳ vọng là người tiên tiến của xã hội, người giảng viên phải thường xuyên rèn luyện để nâng cao trình độ nghiệp vụ và tham gia tích cực vào công tác nghiên cứu khoa học. Trên thực tế, để có thể hình thành tay nghề sư phạm, người cán bộ giảng dạy bên cạnh việc phải xây dựng nền tảng tri thức sâu sắc trong lĩnh vực chuyên môn còn phải rèn luyện một hệ thống các kỹ năng, kỹ xảo nhất định, quan trọng là phải nắm vững phương pháp khoa học về giảng dạy và giáo dục cũng như sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật trong giảng dạy. Người giảng viên cũng phải đối mặt với những đánh giá khắt khe của xã hội về mặt nhân cách bởi họ được kỳ vọng sở hữu nhân cách của người tri thức hoạt động trong lĩnh vực giáo dục đại học. Nhân cách của người cán bộ giảng dạy bao gồm rất nhiều những phẩm chất tư tưởng chính trị, đạo đức, năng lực và các phẩm chất tâm lý khác, trong đó quan trọng nhất là xu hướng nghề nghiệp sư phạm và năng lực sư phạm. Theo đó, người giảng viên phải có hứng thú với nghề và có khuynh hướng chiếm lĩnh nó; sở hữu các phẩm chất trí tuệ như tính quan sát và sự sáng tạo, các phẩm chất ngôn ngữ như tính thuyết phục, tính nghiêm túc, tính logic của ngôn ngữ, các phẩm chất tưởng tượng như khả năng đặt mình vào vị trí sinh viên và hiểu họ. Những yêu cầu này tạo áp lực nặng nề cho người giảng viên trong việc phải thường xuyên rèn luyện những nét nhân cách, phẩm chất đặc trưng cho ngành sư phạm. 7
- 2.2. Áp lực từ những vấn đề phát sinh trong quá trình giao tiếp sư phạm trong trường đại học: Giao tiếp sư phạm là những nguyên tắc, những biện pháp và kĩ xảo tác động lẫn nhau giữa nhà giáo dục với tập thể sinh viên mà nội dung của nó là trao đổi thông tin, chỉ ra các tác động giáo dục – học tập, tổ chức mối quan hệ lẫn nhau và cũng là truyền lại nhân cách nhà giáo dục cho người học. Giao tiếp sư phạm là hoạt động thường ngày của người giảng viên, tuy nhiên quá trình giao tiếp thành công đòi hỏi người giảng viên phải rèn luyện được những kỹ năng nhất định. Theo nhà giáo dục nổi tiếng V.A. Xukholinxki: “Giảng dạy không phải là sự truyền đạt máy móc các tri thức. Đó là những mối quan hệ phức tạp của con người.” Theo đó, trong quá trình giao tiếp, người cán bộ giảng dạy phải biết định hướng đúng các hoàn cảnh giao tiếp, biết lập chương trình và thực hiện hệ thống giao tiếp, biết sử dụng ngôn ngữ và các cử chỉ giao tiếp chuẩn mực, phù hợp với phẩm chất, nhân cách và phong cách sư phạm, phù hợp với từng đối tượng sinh viên. Giảng viên cũng phải biết thường xuyên lắng nghe và giữ được mối liên hệ ở giảng đường. 2.3. Áp lực từ việc đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống: Giảng viên cũng như những thành viên khác trong xã hội đều phải gánh chịu những áp lực nặng nề từ cuộc sống, xuất phát từ việc họ phải lao động để thoả mãn những nhu cầu phát sinh. Theo học thuyết về tháp nhu cầu của Maslow, nhu cầu của con người bao gồm năm cấp bậc, bao gồm nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu được công nhận, nhu cầu được tôn trọng, nhu cầu tự thể hiện, trong đó những nhu cầu ở cấp bậc cao hơn sẽ phát sinh nếu những nhu cầu căn bản cấp dưới đã được thoả mãn. Đối với đặc thù nghề nghiệp của người giảng viên, các nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu tự thể hiện luôn tồn tại trong khi họ luôn gặp khó khăn trong việc thoả mãn những nhu cầu ở cấp thấp 8
- hơn. Chính điều này đã tạo ra tâm lý áp lực nặng nề cho những người làm công tác giảng dạy. Tháp nhu cầu của Maslow 9
- 3. Thực trạng công việc và giải pháp cho những áp lực của giảng viên hiện nay: 3.1. Thu nhập thấp: 3.1.1. Thực trạng: Việc phát triển khoa học và giáo dục đại học ở Việt Nam gặp không ít khó khăn, và một trong những khó khăn đó chính là sự quá bất hợp lý trong hệ thống lương bổng cho giảng viên đại học. Để thấy thu nhập chính thức của các giảng viên đại học ở Việt Nam thấp đến mức nào, có thể so sánh: Giữa thu nhập của giảng viên đại học ở VN với giảng viên ở các nước đang phát triển khác. Giữa các giảng viên đại học ở VN và những người trình độ tương đương nhưng làm những ngành khác như kỹ sư, bác sĩ, tài chính kế toán, v.v. Theo cả hai so sánh đó, thì lương của giảng viên đại học công của Việt Nam đều đang ở mức cực thấp. Ví dụ như giáo sư ở Việt Nam (tạm coi là tầng lớp trí thức cao cấp nhất, có trình độ cao nhất của Việt Nam) được không quá 4-500 USD một tháng kể cả phụ cấp, trong khi ở Senegal (là nước đang phát triển còn nghèo hơn Việt Nam) có thể được trên 2000 USD một tháng, hay các cán bộ cao cấp ở các doanh nghiệp ở VN có thể đạt thu nhập chính thức vài nghìn USD một tháng dễ dàng. PGS. TS. Lê Trọng Thắng khẳng định: “Làm giảng viên lương khởi điểm chỉ từ 2 – 5 triệu/ tháng trong khi làm việc tại công ty hay doanh nghiệp được khoảng 10 triệu/tháng”. Lương thấp cho giảng viên đại học dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như: - Các tệ nạn tham nhũng, tiêu cực, thoái hóa. Đấy là hậu quả tất yếu của hệ thống “lương ít lậu nhiều”. Khi lương quá thấp và xã hội thiếu công bằng và kỷ cương, thì người ta dễ bị cám dỗ bởi các cách kiếm tiền dễ dàng lợi dụng quyền lực trách nhiệm trái với đạo lý nghề nghiệp, ví dụ như bán điểm cho sinh viên. Rất khó hình 10
- dung một giảng viên ở một đại học tiên tiến trên thế giới lại đi bán điểm cho sinh viên (ai làm như vậy mà bị phát hiện thì sẽ không còn mặt mũi nào nhìn đồng nghiệp), nhưng ở Việt Nam hiện tượng này không phải là hiếm. Đây là vấn đề hệ trọng, không chỉ riêng với các giảng viên đại học, mà với tất cả các cán bộ có quyền lực trách nhiệm (bất kể to nhỏ ra sao) ở Việt Nam. - Chất lượng đào tạo và nghiên cứu kém, và lãng phí chất xám. Kể cả các giảng viên hay nghiên cứu viên có năng lực và nhiệt huyết, cũng tốn quá nhiều thời gian cho việc “kiếm kế sinh nhai” (vì lương chính thức không đủ sống), còn rất ít thời gian dành cho khoa học và cho sinh viên, và hệ quả tất yếu là kết quả nghiên cứu khoa học ở Việt Nam rất thấp (thể hiện qua việc có rất ít công trình khoa học “nghiêm chỉnh” so với số lượng giảng viên đại học và nghiên cứu viên), và chất lượng giảng dạy cũng thấp (dạy xô bồ, chương trình và giáo án lạc hậu chậm thay đổi, v;v.). Đây chính là sự lãng phí chất xám ghê gớm trong đại học: so với sự “chảy máu chất xám” (tức là những người Việt có trình độ bỏ ra nước ngoài làm việc), thì sự lãng phí chất xám trong nước có thể lớn hơn nhiều lần. - Rất khó thu hút các tài năng trẻ đi theo con đường nghiên cứu khoa học và giảng dạy đại học. Nếu hai công việc đòi hỏi khả năng và cố gắng tương đương, nhưng môt việc có thu nhập 2000 USD một tháng còn việc khác có thu nhập 200 USD một tháng, thử hỏi bạn sẽ chọn việc nào ?. Kể cả khi hệ thống đại học hiện tại đang rất thiếu giảng viên, nhưng rất khó kiểm đủ người có trình độ để tuyển làm giảng viên ở các trường đại học. Nếu không có một nền đại học và khoa học tử tế, thì mãi mãi Việt Nam sẽ là nước lạc hậu. Những hậu quả nghiêm trọng trên, phần lớn những người trong ngành, và cả giới lãnh đạo, đều biết. Muốn phát triển hệ thống đại học và nền khoa học Việt Nam một cách đàng hoàng, không thể không giải quyết vấn đề thu nhập và điều kiện sống 11
- của giảng viên đại học và cán bộ khoa học. Đặc biệt là với các cán bộ khoa học trẻ không có dự trữ về kinh tế, nếu không đảm bảo được điều kiện sống cho họ, thì khó có thể hy vọng họ phát triển về sự nghiệp giảng dạy và khoa học. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam có vẻ chưa nhận thức được hoặc chưa có hướng nào để giải quyết vấn đề này. 3.1.2. Giải pháp: Đối với giảng viên: Sau khi hoàn tất các nhiệm vụ được giao nơi công tác, giảng viên có thể chủ động tìm kiếm các cơ hội giảng dạy và làm việc bên ngoài để cải thiện thu nhập, nâng cao kỹ năng giảng dạy và tiếp thu thêm những kiến thức, kinh nghiệm mới. Về phía nhà trường: - Tích cực tìm kiếm các cơ hội cho giảng viên tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học để tăng thêm thu nhập. - Chăm lo đời sống của giảng viên và có những sự giúp đỡ kịp thời khi họ gặp khó khăn về kinh tế. - Chủ động gia tăng các chương trình đào tạo để giúp giảng viên có thêm cơ hội giảng dạy. Giảng dạy chất lượng cao, đồng thời thu học phí cao tương xứng. Để làm được việc này, các trường (đại học công) cần có quyền tự chủ cao về tài chính, và có quyền trả thù lao cao cho các bài giảng. Hiện tại mức thu lao này do nhà nước qui định, và quá thấp. - Liên kết với doanh nghiệp, làm các nghiên cứu có ứng dụng hiệu quả thực tế vào các mảng khác nhau của nền kinh tế, tạo nguồn thu nhập từ các ứng dụng đó. 12
- Về phía Nhà nước: nên có những chính sách hỗ trợ nhằm động viên và khích lệ đội ngũ giáo viên – giảng viên như: tăng mặt bằng lương chung, nâng cao phúc lợi và chính sách bảo hiểm… 3.2. Yêu cầu công việc quá nặng: 3.2.1. Thực trạng: Khi bắt đầu sự nghiệp, giảng viên đại học cần phải mất một năm tập sự và áp lực liên tục để nâng cao trình độ. Nếu chỉ phải đứng lớp giảng dạy, công việc của giảng viên không đến nỗi quá vất vả nhưng thường họ đều phải kiêm thêm công tác, số giáo viên chỉ đứng lớp giảng dạy rất ít. Các công tác mà giảng viên phải kiêm nhiệm ngoài công việc giảng dạy: công tác chủ nhiệm, hướng dẫn học tập, coi thi, hội nghị, hội thảo, công tác nghiên cứu khoa học, các khoá học ngắn hạn…. 3.2.2. Giải pháp: Giảng viên đại học phải duy trì vốn hiểu biết về nội dung giảng dạy ở tầm mức cao và bảo đảm nội dung khoá học luôn được cập nhật, chính xác, tiêu biểu, và phù hợp với vị trí của khoá học xét trong toàn bộ chương trình học của sinh viên. Để đạt được năng lực về nội dung giảng dạy, giảng viên phải chủ động cập nhật các lĩnh vực nội dung liên quan đến những khoá học mà mình giảng dạy; nắm được nội dung của các khoá học mà sinh viên phải học trước khi theo học khoá này cũng như các khoá học sử dụng khoá học hiện tại như là yêu cầu tiên quyết; và phải cung cấp một lượng phù hợp những kiến thức tiêu biểu về các chủ đề và quan điểm quan trọng. Thêm vào đó, để trở thành một giảng viên giỏi bên cạnh kiến thức chuyên môn, người giảng viên còn được yêu cầu để có năng lực sư phạm. Giảng viên phải tích cực 13
- cập nhật các chiến lược giảng dạy nhằm giúp sinh viên học các kiến thức và kỹ năng phù hợp và tạo ra các cơ hội giáo dục bình đẳng cho các nhóm sinh viên khác nhau. Điều này đòi hỏi giảng viên phải đọc nhiều tài liệu giáo dục tổng quan hay chuyên ngành, tham dự hội thảo, hội nghị, và thử nghiệm các phương pháp giảng dạy khác nhau trong một khoá học nhất định hay với một nhóm sinh viên nhất định. Khi đứng lớp giảng viên còn phải xử lý một cách khéo léo các tình huống phát sinh và các mối quan hệ với từ phía sinh viên để tránh những nguy cơ xung đột có thể xảy ra. 3.3. Phong trào của các ban ngành đoàn thể quá nhiều: 3.3.1. Thực trạng: Một trong những áp lực không đến từ công việc chuyên môn hay cuộc sống thường ngày mà đến từ những vấn đề tưởng như rất nhỏ trong nhà trường, đó là việc phát sinh quá nhiều các phong trào của các ban ngành đoàn thể. Mục tiêu của nhà trường khi tổ chức các hoạt động này rõ ràng là tốt và hợp lý. Đó là nhằm tạo môi trường sinh hoạt lành mạnh, bồi dưỡng về tinh thần và sức khỏe cho đội ngũ giảng viên, tạo cơ hội cho các cán bộ, giảng viên giao lưu trao đổi kinh nghiệm giảng dạy cũng như để tăng cường hiểu biết, tình đoàn kết, gắn bó với nhau và với nhà trường. Tuy vậy, ngoài thời gian giảng dạy trên lớp, soạn bài, chấm bài ở nhà và thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học để hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, người giảng viên phải dành thêm một khoảng thời gian không nhỏ để tham gia các hoạt động phong trào như có thể liệt kê sơ lược dưới đây: - Các hoạt động thi đua về mặt chuyên môn như: thi giảng viên giỏi, bài giảng điện tử, giáo án hay … Những cuộc thi này chiếm không ít thời gian của các giảng viên để chuẩn bị về nội dung, hình thức và tham dự các vòng thi. 14
- - Tham gia các câu lạc bộ nghiên cứu khoa học cùng với em sinh viên trong vai trò định hướng, hướng dẫn sinh viên, đây là nhiệm vụ thường được giao cho các giảng viên trẻ và các giảng viên có nhiều kinh nghiệm nghiên cứu khoa học. - Các buổi họp của đoàn thanh niên hoặc đảng bộ tại trường: ít nhất là một buổi họp mỗi quý, chưa kể các buổi sinh hoạt chủ đề chính trị - xã hội. - Các phong trào thể thao, văn nghệ, công tác xã hội mà trường phát động cho giảng viên, đặc biệt là các giảng viên trẻ. Mỗi năm thường tổ chức khoảng hai đợt hội thao, hội diễn văn nghệ nhân ngày Nhà giáo Việt Nam và ngày truyền thống thành lập trường, một kỳ công tác xã hội tổ chức tại các vùng khó khăn kéo dài từ 1 tuần đến 1 tháng và các hoạt động công tác xã hội thường xuyên khác (thăm trại trẻ mồ côi, người khuyết tật, người già, người nghèo, …). Đây mới chỉ là những hoạt động do trường tổ chức, chưa kể các hoạt động do Thành Đoàn hay Ngành giáo dục tổ chức. Nếu giảng viên tham gia đầy đủ các hoạt động trên thì sẽ không còn thời gian để nghiên cứu bài giảng trước khi lên lớp hoặc tập trung suy nghĩ cho những ý tưởng khoa học, càng không đủ thời gian dành cho gia đình. Mặc dù đây không phải những hoạt động bắt buộc đối với giảng viên, nhưng nếu giảng viên không tham gia bất kỳ hoạt động nào mà chỉ tập trung vào công việc chuyên môn vốn đã nặng thì sẽ bị đánh giá là thiếu nhiệt tình, không tích cực với các hoạt động sinh hoạt chung của trường, không hòa đồng với đồng nghiệp. Do vậy, sẽ không được đánh giá cao trong xếp loại thi đua hàng năm, ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của giảng viên. Hơn nữa còn bất lợi trong gây sự chú ý của Ban lãnh đạo trường so với những giảng viên tham gia nhiều vào hoạt động đoàn thể, do vậy mà ít tiếp cận được với các cơ hội học tập và thăng tiến nghề nghiệp của trường. Tình thế lưỡng nan này gây cho giảng viên một áp lực không nhỏ bên cạnh những áp lực thường nhật từ lớp học. 15
- 3.3.2. Giải pháp: Vì vậy, các giảng viên cần cố gắng sắp xếp thời gian thật khoa học, chọn lọc các phong trào cần tham gia để không vắng mặt trong mọi hoạt động đoàn thể của trường nhưng vẫn đảm bảo được thời gian dành cho công việc chuyên môn và nghỉ ngơi. Chẳng hạn, giảng viên không nhất thiết phải tham gia đầy đủ tất cả cuộc thi đua chuyên môn, nếu đã tham gia thi giáo án hay thì có thể không dự thi bài giảng điện tử trong cùng năm đó. Các hội thao, hội diễn có thể chỉ tham gia một lần mỗi năm hoặc tham gia cách năm (năm trước đã tham gia thì năm nay có thể xin vắng mặt). Các buổi họp đoàn, hội cũng vậy, giảng viên có thể tham gia đóng góp ý kiến tích cực trong một số buổi họp quan trọng, còn những buổi họp mang tính hình thức hay nội dung không quan trọng thì có thể xin phép vắng. Việc tham gia ít về lượng nhưng đảm bảo tốt về chất lượng của mỗi hoạt động đoàn thể sẽ hiệu quả hơn là sự xuất hiện nhạt nhòa, chỉ mang tính điểm danh trong mỗi hoạt động phong trào đoàn thể do trường tổ chức. Ngoài ra, điều này còn giúp giảng viên xây dựng được mối quan hệ tốt với các đồng nghiệp, tạo được ấn tượng tốt hơn trong mắt đồng nghiệp và Ban Lãnh đạo trường. Với những kết quả tích cực này, các phong trào đoàn thể sẽ trở thành một hình thức giải trí tốt, giúp tạo tinh thần thoải mái, vui tươi hơn cho người giảng viên để sau đó có thể thực hiện các công việc chuyên môn hiệu quả hơn. Về phía nhà trường, để các hoạt động phong trào đoàn thể đạt được mục đích tốt như đã nêu ở phần đầu của mục này, trường không nên chỉ chú trọng đến tổ chức thật nhiều hoạt động, cố gắng lôi kéo thật nhiều giảng viên tham gia bằng mọi hình thức động viên, thưởng phạt. Ngược lại, mỗi năm chỉ nên tổ chức khoảng hai hoạt động lớn để giảng viên có thể sắp xếp tham gia một cách tốt nhất. Ban Lãnh đạo trường cũng như Ban chấp hành Công đoàn, Đoàn thanh niên cần chọn lọc các chương trình hoạt động có nội dung chất lượng, phát huy được hiệu quả trong nâng cao kỹ năng giảng 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo trình Giáo dục học đại cương
48 p | 3660 | 884
-
Tâm lý học lứa tuổi - Phần 2
0 p | 1030 | 311
-
Giáo trình Tâm lý học Tiểu học: Phần 1 - GS.TS Bùi Văn Huệ
125 p | 1497 | 221
-
Lý luận dạy học đại học
76 p | 601 | 188
-
Tiểu luận: Kỹ năng sống và vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên
11 p | 1331 | 152
-
Đề cương chi tiết học phần: Tâm lý học sư phạm giáo dục tiểu học
5 p | 619 | 37
-
Bài tiểu luận: Hãy trình bày nội dung chủ yếu thu hoạch được sau khi học nội dung nhà trường và quản lý nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nêu 1-2 điều tâm đắc nhất liên quan đến nhà trường của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam và quản lý nhà trường của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam khi học chuyên đê này.
5 p | 178 | 23
-
luân lý giáo khoa thư (tái bản lần thứ tư): phần 2
102 p | 119 | 22
-
Cơ sở lý luận về phát triển năng lực tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho sinh viên ngành Giáo dục Tiểu học
8 p | 82 | 12
-
Giáo dục chuyên nghiệp và một số vấn đề lý luận đổi mới phương pháp dạy - học: Phần 1
187 p | 115 | 8
-
Một số quan điểm về giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh
5 p | 62 | 5
-
Bài thu hoạch: Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên tiểu học
6 p | 38 | 3
-
Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở các trường tiểu học trong bối cảnh hiện nay
9 p | 88 | 2
-
Quản lý giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh tại các trường tiểu học quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
3 p | 10 | 2
-
Đặc điểm giá trị tâm lý – xã hội trong quá trình định hướng nhân cách của sinh viên Việt Nam đang học tập tại Liên bang Nga
11 p | 5 | 2
-
Giáo dục giá trị văn hóa truyền thống cho học sinh trong dạy học môn lịch sử và địa lí ở trường tiểu học
6 p | 3 | 1
-
Những yếu tố tâm lý ảnh hưởng trực tiếp đến động cơ học tập của sinh viên
8 p | 3 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn